Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Điều tra, đánh giá hiện trạng và đề xuất một số biện pháp quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt tại thành phố cao bằng, tỉnh cao bằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.03 MB, 78 trang )

PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước ta hiện nay đang trong quá trình đô thị hóa phát triển không
ngừng cả về tốc độ lẫn qui mô, số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh những mặt
tích cực, những tiến bộ vượt bậc thì vẫn còn những mặt tiêu cực, những hạn
chế mà không một nước đang phát triển nào không phải đối mặt, đó là tình
trạng môi trường ngày càng bị ô nhiễm cụ thể đó là ô nhiễm về đất, nước,
không khí và tình trạng tài nguyên thiên nhiên ngày càng trở nên cạn kiệt, và
hàng loạt các vấn đề về môi trường khác cần được quan tâm sâu sắc và kịp
thời giải quyết một cách nghiêm túc, triệt để.
Cùng với sự phát triển vượt bậc của đất nước, tốc độ tăng trưởng kinh
tế ngày càng cao nên đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, do vậy nhu
cầu tiêu dùng, trong sinh hoạt cũng tăng lên một cách đáng kể, kết quả dẫn
đến là khối lượng rác thải sinh hoạt tăng lên liên tục tạo áp lực rất lớn cho
công ty thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt. Hiện nay, việc thu gom và
xử lý rác thải sinh hoạt chưa đáp ứng yêu cầu, đây là nguyên nhân quan trọng
gây ô nhiễm môi trường nước, không khí, đất, vệ sinh đô thị và ảnh hưởng
xấu đến cảnh quan đô thị cũng như sức khỏe cộng đồng.
Thành phố Cao Bằng bao gồm 11 đơn vị hành chính trực thuộc (8
phường: Hợp Giang, Sông Bằng, Tân Giang, Sông Hiến, Đề Thám, Ngọc
Xuân, Duyệt Trung, Hòa Chung và 3 xã: Chu Trinh, Hưng Đạo, Vĩnh Quang),
tháng 10 năm 2010 thành phố được công nhận là đô thị loại III. Thành phố
Cao Bằng nằm gần như giữa trung tâm địa lí của tỉnh, có mật độ dân số đông,
tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao từ đó cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề môi
trường. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong những năm
tới là gắn liền với mục tiêu bảo vệ môi trường. Địa phương đã có nhiều quan
tâm đầu tư cho hoạt động quản lý và bảo vệ môi trường, trong đó có quản lý
rác sinh hoạt. Tuy nhiên, tác động của rác sinh hoạt đến môi trường và sức
khỏe con người vẫn có chiều hướng gia tăng, do ý thức của người dân, công
tác quản lý rác sinh hoạt.


1
Xuất phát từ những vấn đề thực tế trên, được sự phân công của ban chủ
nhiệm Khoa Tài Nguyên - Môi Trường dưới sự hướng dẫn của cô giáo:
Th.S.Nguyễn Thị Huệ, tôi thực hiện đề tài: “Điều tra, đánh giá hiện trạng và
đề xuất một số biện pháp quản lý và xử lý rác thải sinh hoạt tại thành phố
Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng”.
1.2. Mục đích và yêu cầu của đề tài
1.2.1. Mục đích
Đánh giá hiện trạng quản lý rác thải sinh hoạt nhằm đề xuất biện pháp
quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại
thành phố Cao Bằng.
1.2.2. Yêu cầu
- Điều tra số lượng, thành phần rác thải sinh hoạt trên địa bàn thành phố
Cao Bằng
- Điều tra, đánh giá công tác quản lý, thu gom, vận chuyển, công tác
tuyên truyền vệ sinh môi trường và nhận thức của người dân về rác thải sinh
hoạt tại thành phố Cao Bằng.
- Đề xuất một số biện pháp quản lý, xử lý rác thải sinh hoạt góp phần
giảm thiểu ô nhiễm môi trường tại thành phố Cao Bằng.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Vận dụng kiến thức đã học làm quen với thực tế
- Tích luỹ được kinh nghiệm cho công việc khi đi làm
- Nâng cao kiến thức kỹ năng và rút ra kinh nghiệm thực tế phục vụ cho
công tác sau này.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Đánh giá được lượng rác thải phát sinh, tình hình thu gom, vận
chuyển và quản lý rác thải sinh hoạt, thực trạng quản lý rác thải sinh hoạt còn
có những hạn chế nào. Từ đó đưa ra các biện pháp quản lý, xử lý rác thải sinh
hoạt trên địa bàn thành phố Cao Bằng.

2
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Các khái niệm
- Chất thải
Theo luật BVMT Việt Nam “Chất thải là vật chất ở thể rắn, lỏng, khí
được thải ra từ sản xuất, kinh doanh, dịch vụ sinh hoạt hoặc hoạt động khác”
(Luật bảo vệ môi trường và các văn bản hướng dẫn thực hiện, 2006) [12].
- Rác thải
Rác thải là bất kì loại vật liệu nào ở dạng rắn mà con người loại bỏ mà
không được tiếp tục sử dụng như ban đầu. Rác thải là những vật chất ở dạng
rắn do các hoạt động của con người và động vật tạo ra. Những “sản phẩm”
này thường ít được sử dụng do đó nó là “sản phẩm” ngoài ý muốn của con
người. Rác thải có thể ở dạng thành phẩm, được tạo ra trong hầu hết các giai
đoạn sản xuất và trong tiêu dùng [7]. Dựa vào thành phần rác thải được chia
thành 2 loại: rác thải hữu cơ và rác thải vô cơ.
+ Rác thải hữu cơ tự nhiên như lá cây, rau cỏ, vỏ hoa quả, thức ăn dư
thừa, xác động vật… chúng là những chất dễ phân huỷ gây ô nhiễm môi
trường. Khi bị phân huỷ chúng bốc mùi khó chịu, phát sinh nhiều vi trùng gây
bệnh, thu hút côn trùng, ruồi nhặng, chuột bọ tạo điều kiện cho chúng phát
triển, gây ô nhiễm môi trường không khí, ô nhiễm nguồn nước và lây truyền
sang người, gia súc, mất vẻ đẹp cảnh quan…
+ Rác thải vô cơ như chai lọ thuỷ tinh, nhựa các loại (polyetylen,
polypropylene, túi nilon…), các loại vô cơ khó phân huỷ, phải sau rất nhiều
năm mới phân huỷ, một số loại sau khi phân huỷ tạo thành nhiều chất độc hại
làm ô nhiễm đất đai và nguồn nước.
- Rác thải sinh hoạt
Là chất thải có liên quan đến các hoạt động của con người, nguồn tạo
thành chủ yếu từ các khu dân cư, các cơ quan, trường học, các trung tâm dịch

vụ, thương mại. Rác thải sinh hoạt có thành phần bao gồm kim loại, sành sứ,
thủy tinh, gạch ngói vỡ, đất, đá, cao su, chất dẻo, thực phẩm dư thừa hoặc quá
hạn sử dụng, xương động vật, tre, gỗ, lông gà, lông vịt, vải, giấy, rơm, rạ, xác
động vật, vỏ rau quả v.v…
3
Vì vậy, rác thải sinh hoạt cần được phân loại và có biện pháp tái sử
dụng, tái chế, xử lí hợp lí để thu hồi năng lượng và BVMT (Nguyễn Thế
Chinh, 2003) [3].
- Chất thải rắn
Chất thải rắn là các loại vật chất ở thể rắn như các vật liệu, đồ vật bị
thải ra từ một quá trình cụ thể của hoạt động sản xuất, dịch vụ, sinh hoạt.
Chất thải rắn bao gồm các chất hữu cơ như thức ăn thừa, giấy, các tông,
nhựa, vải, cao su,da, lá rụng sân vườn, gỗ… và các chất vô cơ như thủy tinh,
lon, thiếc, nhôm, kim loại khác, đất cát… (Nguyễn Đình Hương, 2003) [6].
2.1.2. Nguồn gốc phát sinh
Khối lượng rác thải sinh hoạt ngày càng tăng do tác động của sự gia
tăng dân số, sự phát triển kinh tế - xã hội, sự thay đổi tính chất tiêu dùng trong
các đô thị và các vùng nông thôn. Trong đó các nguồn chủ yếu phát sinh chất
thải bao gồm (Hình 2.1):
+ Từ các khu dân cư (chất thải sinh hoạt).
+ Từ các trung tâm thương mại, các công sở, trường học, công trình
công cộng.
+ Từ các hoạt động công nghiệp, nông nghiệp, các hoạt động xây dựng.
+ Từ các làng nghề, v.v…
Hình 2.1. Nguồn phát sinh chất thải
(Nguồn: Huỳnh Tuyết Hằng,2005)[4]
4
Nhà dân, khu
dân cư
Cơ quan,

trường học
Nơi vui chơi
giải trí
Chợ, bến xe
Rác Thải
Bệnh viện, cơ
sở y tế
Giao thông
xây dựng
Chính quyền
địa phương
Khu công
nghiệp, nhà
máy
2.1.3. Thành phần rác thải
Thành phần chất thải rắn biểu hiện sự đóng góp và phân phối của các
phần riêng biệt mà từ đó tạo nên dòng chất thải, thông thường được tính bằng
phần trăm khối lượng. Thông tin về thành phần chất thải rắn đóng vai trò rất
quan trọng trong việc đánh giá và lựa chọn những thiết bị thích hợp để xử lý,
các quá trình xử lý cũng như việc hoạch định các hệ thống, chương trình và
kế hoạch quản lý chất thải rắn.
Thông thường trong rác thải đô thị, rác thải từ các khu dân cư và
thương mại chiếm tỷ lệ cao nhất từ 50-75%. Phần trăm đóng góp của mỗi
thành phần chất thải rắn giá trị phân bố sẽ thay đổi tuỳ thuộc vào sự mở rộng
các hoạt động xây dựng, sửa chữa, sự mở rộng của các dịch vụ đô thị cũng
như công nghệ sử dụng trong xử lý nước. Thành phần riêng biệt của chất thải
rắn thay đổi theo vị trí địa lý, thời gian, mùa trong năm, điều kiện kinh tế và
tùy thuộc vào thu nhập của từng quốc gia…
Rác thải sinh hoạt chiếm một tỷ lệ lớn trong tổng lượng rác thải rắn của
các đô thị Việt Nam, khoảng 80%, có thành phần rất phức tạp. Thành phần lý

học, hóa học của chất thải khác nhau tùy thuộc vào từng địa phương, vào các
mùa khí hậu, điều kiện kinh tế và nhiều yếu tố khác. Thành phần rác thải sinh
hoạt đô thị ngày càng có xu hướng biến đổi tăng các chất khó phân hủy, độc hại.
Thành phần rác thải sinh hoạt tại các đô thị Việt Nam được thể hiện ở Bảng 2.1.
Bảng 2.1. Thành phần rác thải sinh hoạt tại các đô thị Việt Nam
Thành phần
% trọng lượng
Khoảng giá trị Trung bình
Rác thải thực phẩm 6 - 25 15
Giấy 24 - 45 40
Carton 3 - 15 4
Chất dẻo 2 - 8 3
Vải vụn 0 - 4 2
Cao su, da vụn 0 - 4 1
Sản phẩm vườn 0 - 20 12
Gỗ 1 - 4 2
Thủy tinh 4 -16 8
Can hộp 2 - 8 6
Kim loại không thép 0 - 1 1
Kim loại thép 1 - 4 2
Bụi, tro, gạch 0 -10 4
Tổng hợp 100
(Nguồn: Trần Hiếu Nhuệ, 2001)[9]
5
2.1.4. Tính chất chất thải rắn đô thị
2.1.4.1. Tính chất vật lý
Những tính chất vật lý quan trọng nhất của chất thải rắn đô thị là khối
lượng riêng, độ ẩm, kích thước, sự cấp phối hạt, khả năng giữ ẩm thực tế và
độ xốp của CTR
+ Khối lượng riêng

Khối lượng riêng của chất thải rắn được định nghĩa là trọng lượng của
một đơn vị vật chất tính trên 1 đơn vị thể tích chất thải (kg/m
3
). Bởi vì Khối
lượng riêng của chất thải rắn thay đổi tuỳ thuộc vào những trạng thái của
chúng như: xốp, chứa trong các thùng chứa container, không nén, nén… nên
khi báo cáo dữ liệu về khối lượng hay thể tích chất thải rắn, giá trị khối lượng
riêng phải chú thích trạng thái (khối lượng riêng) của các mẫu rác một cách rõ
ràng vì dữ liệu khối lượng riêng rất cần thiết được sử dụng để ước lượng tổng
khối lượng và thể tích rác cần phải quản lý. Khối lượng riêng thay đổi phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: vị trí địa lý, mùa trong năm, thời gian lưu giữ
chất thải. Do đó cần phải thận trọng khi lựa chọn giá trị thiết kế. Khối lượng
riêng của chất thải đô thị dao động trong khoảng 180 - 400 kg/m
3
, điển hình
khoảng 300 kg/m
3
.
+ Phương pháp xác định khối lượng riêng của chất thải rắn
Mẫu chất thải rắn được sử dụng để xác định khối lượng riêng có thể
tích khoảng 500 lít sau khi xáo trộn đều bằng kỹ thuật “một phần tư”. Các
bước tiến hành như sau:
1) Đổ nhẹ mẫu chất thải rắn vào thùng thí nghiệm có thể tích đã biết (tốt
nhất là thùng có thể tích 100 lít) cho đến khi chất thải đầy đến miệng thùng.
2) Nâng thùng lên cách mặt sàn khoảng 30 cm và thả rơi tự do xuống 4 lần.
3) Đổ nhẹ mẫu chất thải rắn vào thùng thí nghiệm để bù vào chất thải
đã nén xuống.
4) Cân và ghi khối lượng của cả vỏ thùng thí nghiệm và chất thải rắn.
5) Trừ khối lượng cân được ở trên cho khối lượng của vỏ thùng thí
nghiệm thu được khối lượng của chất thải rắn thí nghiệm.

6) Chia khối lượng CTR cho thể tích của thùng thí nghiệm thu được
khối lượng riêng của chất thải rắn.
6
7) Lập lại thí nghiệm ít nhất 2 lần và lấy giá trị khối lượng riêng trung bình
+ Độ ẩm:
Độ ẩm của chất thải rắn được biểu diễn bằng một trong 2 phương pháp
sau (phương pháp khối lượng ướt và phương pháp khối lượng khô):
- Theo phương pháp khối lượng ướt: độ tính theo khối lượng ướt của
vật liệu là phần trăm khối lượng ướt của vật liệu.
- Theo phương pháp khối lượng khô: độ ẩm tính theo khối lượng khô
của vật liệu là phần trăm khối lượng khô vật liệu.
Phương pháp khối lượng ướt được sử dụng phổ biến trong lĩnh vực quản
lý chất thải rắn. Độ ẩm theo phương pháp khối lượng ướt được tính như sau:
a= {(w - d)/ w} x 100
Trong đó: a: độ ẩm, % khối lượng
W: khối lượng mẫu ban đầu, kg
d: khối lượng mẫu sau khi sấy khô ở 105
o
C, kg
Đối với các thành phần chất thải rắn sinh hoạt, chất thải hữu cơ như thực
phẩm thừa hay chất thải trong vườn là loại có độ ẩm cao nhất chiếm 60-70%.
+Khả năng giữ nước thực tế
Khả năng giữ nước thực tế của chất thải rắn là toàn bộ lượng nước mà
nó có thể giữ lại trong mẫu chất thải dưới tác dụng của trọng lực. Khả năng
giữ nước của chất thải rắn là một chỉ tiêu quan trọng trong việc tính toán xác
định lượng nước rò rỉ từ bãi rác. Nước đi vào mẫu chất thải rắn vượt quá khả
năng giữ nước sẽ thoát ra tạo thành nước rò rỉ. Khả năng giữ nước thực tế
thay đổi phụ thuộc vào áp lực nén và trạng thái phân huỷ của chất thải. Khả
năng giữ nước của hỗn hợp chất thải rắn (không nén) từ các khu dân cư và
thương mại dao động trong khoảng 50-60%.

2.1.4.2. Tính chất hóa học
Tính chất hóa học của rác thải sinh hoạt đóng vai trò quan trọng trong
việc lựa chọn phương án xử lý và thu hồi nguyên liệu. Phương pháp xác định
tính chất hóa học của rác thải sinh hoạt như sau:
- Chất hữu cơ: Lấy mẫu, nung ở 950
o
C. Phần bay hơi đi là chất hữu cơ
hay còn gọi là tổn thất khi nung, thông thường chất hữu cơ dao động trong
khoảng 40 - 60%. Trong tính toán, lấy trung bình 53% chất hữu cơ.
7
- Chất tro: Phần còn lại sau khi nung - tức là các chất trơ dư hay chất
vô cơ.
- Hàm lượng cacbon cố định: Là lượng cacbon còn lại sau khi đã loại
các chất vô cơ khác không phải là cacbon trong tro, hàm lượng này thường
chiếm khoảng 5 - 12%, trung bình là 7%. Các chất vô cơ khác trong tro bao
gồm thủy tinh, kim loại… Đối với chất thải rắn đô thị, các chất này có trong
khoảng 15 - 30%, trung bình là 20%.
- Nhiệt trị: Giá trị nhiệt tạo thành khi đốt chất thải rắn. Giá trị này
được xác định theo công thức Dulông:
Đơn vị nhiệt trị








Kg
KJ

= 2,326 [145,4C + 620






OH
8
1
+ 41.S ]
Trong đó:
C: Lượng cacbon tính theo %
H: Hydro tính theo %
O: Oxi tính theo %
S: Sunfua tính theo %
2.1.4.3. Tính chất sinh học
Đặc tính sinh học quan trọng nhất của thành phần chất hữu cơ có trong
chất thải rắn sinh hoạt là hầu hết các thành phần này đều có khả năng chuyển
hoá sinh học tạo thành các khí, chất rắn hữu cơ trơ, và các chất vô cơ. Mùi và
ruồi nhặng sinh ra trong quá trình chất hữu cơ bị thối rữa (rác thực phẩm) có
trong chất thải rắn sinh học.
+ Khả năng phân hủy sinh học của các thành phần hữu cơ:
Rác thải sinh hoạt chưa hàm lượng lớn thành phần hữu cơ, nhất là các
thành phần dễ phân hủy sinh học dưới tác dụng của các loài vi sinh vật như
thực phẩm, rác từ vườn
+Sự hình thành mùi:
Mùi sinh ra khi tồn trữ rác thải trong thời gian dài giữa các khâu thu
gom, vận chuyển và thải ra bãi rác nhất là những vùng có khí hậu nóng do quá
trình phân hủy kị khí của các chất hữu cơ dễ phân hủy trong rác thải sinh

hoạt. Ví dụ: trong điều kiện khí sunfua có thể bị khử về dạng sulfide (S
2-
), sau
đó sulfide (S
2-
) lại kết hợp với hydro tạo thành H
2
S gây mùi khó chịu.
8
2.1.5. Ảnh hưởng của rác thải sinh hoạt tới kinh tế xã hội, môi trường và
sức khỏe con người
Có thể nảy sinh những vấn đề khác nhau về kinh tế xã hội và môi
trường liên quan tới rác thải như sau [2]
2.1.5.1. Những vấn đề kinh tế xã hội:
- Rác thải sinh hoạt còn tồn đọng ở các khu vực là nguyên nhân dẫn
đến phát sinh các ổ dịch bệnh, là nguy cơ đe dọa đến sức khoẻ con người. Các
đối tượng có khả năng nhiễm bệnh cao từ các khu vực tồn đọng là dân cư
sống trong các đường, ngõ hẻm nhỏ, xe thu gom rác không vào được, ở vùng
nông thôn và những người đi nhặt rác bán phế liệu…
- Thu gom không hết, vận chuyển vãi dọc đường, tồn tại các bãi rác
nhỏ lộ thiên chờ vận chuyển,… đều là những hình ảnh gây mất vệ sinh môi
trường và làm ảnh hưởng đến mỹ quan đường phố, thôn xóm
- Khi rác rơi vãi hoặc số lượng chỗ đổ rác,vụn rác tăng sẽ làm tăng mức
độ xảy ra tai nạn giao thông trên đường phố, cản trở hoặc ách tắc giao thông.
- Công tác thu gom, vận chuyển và xử lý rác nếu không đồng bộ, thống
nhất cũng có khả năng làm mất trật tự an ninh xã hội.
- Tại các bãi rác, nếu không áp dụng các kỹ thuật chôn lấp và xử lý
thích hợp, cứ đổ dồn rồi san ủi, chôn lấp thông thường, không có lớp lót, lớp
phủ, thì bãi rác trở thành nơi phát sinh ruồi, muỗi, là mầm mống lan truyền
dịch bệnh, chưa kể đến các chất thải độc hại tại các bãi rác thải có nguy cơ

gây ra các bệnh hiểm nghèo đối với cơ thể người tiếp xúc, đe doạ đến sức
khỏe cộng đồng xung quanh.
- Nếu công tác quản lý thu gom, xử lý rác sinh hoạt không hợp lý sẽ
gây trì trệ khả năng phát triển kinh tế xã hội.
2.1.5.2. Những vấn đề môi trường:
Môi trường đất
- Rác thải sinh hoạt nằm rải rác khắp nơi không được thu gom đều được
lưu giữ lại trong đất một số loại chất thải khó phân hủy như túi nilon, vỏ lon,
hydrocacbon… nằm lại trong đất làm ảnh hưởng tới môi trường đất: thay đổi
cơ cấu đất, đất trở nên khô cằn, các vi sinh vật trong đất có thể bị chết. Nhiều
9
loại chất thải như xỉ than, vôi vữa… đổ xuống đất làm cho đất bị đóng cứng,
khả năng thấm nước, hút nước kém, đất bị thoái hóa
Môi trường nước
- Lượng rác thải rơi vãi nhiều, ứ đọng lâu ngày, khi gặp mưa rác rơi vãi
sẽ theo dòng nước chảy, các chất độc hòa tan trong nước, qua cống rãnh, ra ao
hồ, sông ngòi, gây ô nhiễm nguồn nước mặt tiếp nhận.
- Rác thải không thu gom hết ứ đọng trong các ao, hồ là nguyên nhân
gây mất vệ sinh và ô nhiễm các thủy vực. Khi các thủy vực bị ô nhiễm hoặc
chứa nhiều rác thì có nguy cơ ảnh hưởng đến các loài thủy sinh vật, do hàm
lượng oxy hòa tan trong nước giảm, khả năng nhận ánh sáng của các tầng
nước cũng giảm, dẫn đến ảnh hưởng tới khả năng quang hợp của thực vật
thủy sinh và làm giảm sinh khối của các thủy vực.
- Ở các bãi chôn lấp rác chất ô nhiễm trong nước rác là tác nhân gây ô
nhiễm nguồn nước ngầm trong khu vực và các nguồn nước ao hồ, sông suối
lân cận. Tại các bãi rác, nếu không tạo được lớp phủ bảo đảm hạn chế tối đa
nước mưa thấm qua thì cũng có thể gây ô nhiễm nguồn nước mặt
Môi trường không khí
- Tại các trạm, bãi trung chuyển rác xen kẽ khu vực dân cư là nguồn gây ô
nhiễm môi trường không khí do mùi hôi từ rác, bụi cuốn lên khi xúc rác, bụi

khói, tiếng ồn và các khí thải độc hại từ các xe thu gom, vận chuyển rác.
- Tại các bãi chôn lấp chất thải rắn vấn đề ảnh hưởng đến môi trường
khí là mùi hôi thối, mùi khí metan, các khí độc hại từ các chất thải nguy hại.
2.1.5.3. Rác thải ảnh hưởng tới sức khỏe con người
Bất kỳ sinh vật sống nào đều trao đổi vật chất và năng lượng với môi
trường bên ngoài. Con người cũng vậy, nhưng khi các môi trường sống như
đất, nước, không khí đều bị làm xấu đi thì ắt hẳn sức khỏe của cộng đồng sẽ bị
tác động theo chiều hướng không tốt. Ví dụ: các hợp chất hữu cơ bền (viết tắt
là POPs) - một trong các chất thải nguy hại được xem là ảnh hưởng lớn đến sức
khỏe con người và môi trường - những hợp chất hữu cơ này vô cùng bền vững,
tồn tại lâu trong môi trường. có khả năng tích lũy sinh học trong nông sản, thực
phẩm và trong các nguồn nước, mô mỡ của động vật gây ra hàng loạt các bệnh
nguy hiểm đối với con người, phổ biến nhất là bệnh ung thư. Thế nhưng các
10
hợp chất hữu cơ trên lại được sử dụng rất nhiều trong đời sống hàng ngày của
con người ở các dạng dầu thải trong các thiết bị điện gia dụng trong gia đình,
các thiết bị trong ngành điện như máy biến thế, tụ điện, đèn huỳnh quang, dầu
chịu nhiệt, dầu biến thế, chất làm mát trong truyền nhiệt, trong các dung môi
chế tạo mực in… Do vậy, rác thải ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe cộng đồng,
nghiêm trọng nhất là đối với khu dân cư làng nghề, gần khu công nghiệp, bãi
chôn lấp chất thải và vùng nông thôn ô nhiễm chất thải.
Hiện kết quả các mẫu đất, nước, không khí đều tìm thấy sự tồn tại của
các loại hợp chất trên. Tác hại nghiêm trọng của chúng cũng để thể hiện khá
rõ nét thông qua hình ảnh thực tế các em bé dị dạng, số bệnh nhân mắc các
bệnh về tim mạch, rối loạn thần kinh, bệnh đau mắt, bệnh đường hô hấp, bệnh
ngoài da, bệnh tiêu chảy, dịch tả, thương hàn do rác thải gây ra và đặc biệt là
những căn bệnh ung thư ngày càng gia tăng mà việc chẩn đoán cũng như xác
định phương pháp điều trị gặp rất nhiều khó khăn.
Điều đáng lo ngại là hầu hết rác thải có tính chất nguy hại đều cực kì
khó phân hủy. Nếu nhiệt độ lò đốt không đạt 800

0
C trở lên thì các chất này
không phân hủy hết. Ngoài ra sau khi đốt, chất thải cần được làm lạnh nhanh,
nếu không các chất lại tiếp tục liên kết với nhau tạo ra chất hữu cơ bền, thậm
chí còn sinh ra khí dioxin cực độc thoát vào môi trường (Hội BVTN &
MTVN, 2004) [5].
2.2. Cơ sở pháp lý của đề tài
- Luật Bảo vệ Môi trường 2005 ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2005
có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2006.
- Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ
môi trường trong thời kì đẩy mạnh Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước.
- Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg ngày 22/02/2005 của Thủ tướng
chính phủ ban hành chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ chính trị về bảo vệ môi trường
trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
- Nghị định số 59/2007/NĐ-CP ngày 09/04/2007 của Chính phủ về
quản lý chất thải rắn.
- Nghị định 21/2011/NĐ-CP ngày 29/3/2011 của Chính phủ quy định
chi tiết và biện pháp thi hành Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
11
- Thông tư số 26/2011/TT-BTNMT ngày 18/7/2011 của Bộ Tài nguyên
& Môi trường Quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 29/2011/NĐ-
CP ngày 18/4/2011 của Chính phủ quy định về đánh giá môi trường chiến
lược, đánh giá tác động môi trường, cam kết bảo vệ môi trường và có hiệu lực
thi hành kể từ ngày 05 tháng 6 năm 2011
- Chỉ thị số 23/2005/CT-TTg ngày 21/06/2005 của Thủ tướng Chính phủ
về việc đẩy mạnh công tác quản lý chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp.
- Quyết định số 17/2001/QĐ-BXD ngày 07/08/2001 của Bộ trường Bộ
Xây dựng ban hành định mức dự toán chuyên ngành vệ sinh môi trường- công
tác thu gom, vận chuyển, xử lý rác.

- Thông tư số 13/2007/TT-BXD ngày 31 tháng 12 năm 2007 của Bộ
xây dựng về hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị định số 59/2007/NĐ-
CP ngày 09/4/2007 của Chính phủ qui định về Quản lý chất thải rắn.
- Nghị định số 117/2009/NĐ-CP của chính phủ ngày 31/12/2009 về xử
lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
- Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ quy
định về Phí bảo vệ môi trường đối với chất thải rắn (CTR).
- Thông tư số 39/2008/TT-BTC ngày 19/5/2008 của Bộ tài chính hướng
dẫn thực hiện nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính phủ
về Phí bảo vệ môi trường với chất thải rắn (CTR).
- Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/01/2009 của Chính phủ về ưu
đãi, hỗ trợ hoạt động bảo vệ môi trường (BVMT).
- Thông tư số 121/2008/TT-BTC ngày 12/12/2008 của Bộ tài chính
hướng dẫn cơ chế ưu đãi và hỗ trợ tài chính đối với hoạt động đầu tư cho
quản lý CTR.
- Nghị định số 2149/QĐ-TTg ngày 17/02/2009 của Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt chiến lược quốc gia về quản lý tổng thể CTR đến năm 2025 và
tầm nhìn đến năm 2050.
- Quyết định số 798/QĐ-TTg ngày 25/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ
về phê duyệt Chương trình đầu tư xử lý chất thải rắn giai đoạn 2011/2020 do
Thủ tướng Chính phủ ban hành.

12
* Theo điều 66 Luật bảo vệ môi trường Việt Nam 2005 về trách
nhiệm quản lý CTR sinh hoạt quy định:
- Tổ chức, cá nhân có hoạt động làm phát sinh chất thải có trách nhiệm
giảm thiểu, tái chế, tái sử dụng để hạn chế mức thấp nhất lượng chất thải phải
tiêu huỷ, thải bỏ.
- Chất thải phải được xác định nguồn thải, khối lượng, tính chất để có
phương pháp và quy trình xử lý thích hợp với từng loại chất thải.

- Tố chức cá nhân kinh doanh, sản xuất, dịch vụ thực hiện tốt việc quản
lý chất thải được cấp giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn môi trường
* Theo điều 69 Luật bảo vệ môi trường Việt Nam 2005 về trách
nhiệm của Uỷ ban nhân dân các cấp trong quản lý chất thải rắn sinh hoạt:
- Lập quy hoạch, bố trí mặt bằng cho việc tập kết CTR sinh hoạt, xây
dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung, khu chôn lấp chất thải.
- Đầu tư, xây dựng, vận hành các công trình công cộng phục vụ quản lý
chất thải thuộc phạm vi quản lý của mình.
- Kiểm tra, giám định các công trình quản lý chất thải của tổ chức cá
nhân trước khi đưa vào sử dụng.
- Ban hành và thực hiện chính sách ưu đãi, hỗ trợ cho hoạt động quản
lý chất thải theo quy định của pháp luật
2.3. Tình hình quản lý rác thải trên thế giới và Việt Nam
2.3.1. Tình hình quản lý rác thải trên thế giới
Lượng CTR sinh hoạt phát sinh phụ thuộc vào nhiều yếu tố kinh tế - xã
hội, điều kiện sống, thói quen và nhận thức của cộng đồng dân cư ở các quốc
gia khác nhau. Nếu tính trung bình mỗi ngày một người thải ra môi trường 0,5
kg rác thải thì trên toàn thế giới sẽ có trên 3 triệu tấn rác thải mỗi ngày, một
năm xấp xỉ khoảng 6 tỷ tấn rác.
Đô thị hoá và phát triển kinh tế thường đi đôi với mức tiêu thụ tài
nguyên và tỷ lệ phát sinh CTR tăng lên theo đầu người. Dân thành thị ở các
nước phát triển phát sinh CTR nhiều hơn các nước đang phát triển 6 lần.
+ Các nước đang phát triển: trung bình 0,5kg/người/ngày.
+ Các nước phát triển: trung bình 2,8 kg/người/ngày. (Nguyễn Đình
Hương, 2003) [6].
13
Vấn đề quản lý, xử lý rác thải ở các nước trên thế giới đang ngày càng
được quan tâm hơn. Đặc biệt tại các nước phát triển, công việc này được tiến
hành một cách rất chặt chẽ, từ ý thức thải bỏ rác thải của người dân, quá trình
phân loại tại nguồn, thu gom, tập kết rác thải cho tới các trang thiết bị thu

gom, vận chuyển theo từng loại rác. Các quy định đối với việc thu gom, vận
chuyển, xử lý từng loại rác thải được quy định rất chặt chẽ và rõ ràng với đầy
đủ các trang thiết bị phù hợp và hiện đại. Một khác biệt trong công tác quản
lý, xử lý rác thải của các nước phát triển là sự tham gia của cộng đồng [14].
+ Ngành tái chế rác ở Đức đang dẫn đầu trên thế giới hiện nay. Việc phân
loại rác đã được thực hiện nghiêm túc ở Đức từ năm 1991. Rác bao bì gồm hộp
đựng thức ăn, nước hoa quả, máy móc bằng nhựa, kim loại hay carton được gom
vào thùng màu vàng. Bên cạnh thùng vàng, còn có thùng xanh dương cho giấy,
thùng xanh lá cây cho rác sinh học, thùng đen cho thủy tinh.
Những lò đốt rác hiện đại của nước Đức hầu như không thải khí độc ra
môi trường. Das Duele System Deutschland (DSD) - “Hệ thống hai chiều của
nước Đức” - được các nhà máy tái chế sử dụng để xử lý các loại rác thải và
năm vừa rồi, các nhà máy này đã chi khoản phí gần 1,2 tỷ USD để sử dụng
công nghệ trên. Tại các dây chuyền phân loại, các camera hồng ngoại hoạt
động với tốc độ 300.000km/s để phân loại 10 tấn vật liệu mỗi giờ. Những ống
hơi nén được điều khiển bằng máy tính đặt ở các băng chuyền có nhiệm vụ
tách riêng từng loại vật liệu. Sau đó rác thải sẽ được rửa sạch, nghiền nhỏ và
nấu chảy. Quá trình trên sẽ cho ra granulat, một nguyên liệu thay thế dầu thô
trong công nghiệp hoặc làm chất phụ gia.
Giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho trẻ nhỏ bắt đầu từ việc phân
loại rác là một trong những phương pháp mà những nhà quản lý tại Đức đã áp
dụng. Rác được phân loại triệt để là điều kiện để quá trình xử lý và tái chế rác
trở nên thuận lợi và dễ dàng hơn rất nhiều. Từ đó, khái niệm về rác thải dần
được thay thế bằng nguồn tài sản tiềm năng, mang lại lợi nhuận đáng kể với
những ai biết đầu tư vào việc cải tiến công nghệ [16].
Tỷ lệ CTR sinh hoạt trong dòng CTR đô thị rất khác nhau giữa các
nước rất khác. Theo đánh giá của ngân hàng thế giới các nước có thu nhập
cao chỉ có khoảng 25 - 35 % chất thải sinh hoạt trong dòng chất thải rắn đô
14
thị. Các số liệu thống kê gần đây về tổng lượng chất thải ở Anh cho thấy hàng

năm liên hiệp Anh tạo ra 307 triệu tấn chất thải, trong đó có 46,6 triệu tấn
chất thải sinh hoạt và chất thải tương tự tự phát sinh ở Anh, 60% số này được
chôn lấp, 24% được tái chế với 6% được thiêu đốt. Chỉ tính riêng rác thải thực
phẩm, theo khảo sát dự án được thực hiện vào tháng 10/2006 - 3/2008 chất
thải được tạo ra từ hộ gia đình nhiều hơn tới hàng tấn so với chất thải bao bì,
chiếm 19% chất thải đô thị (Nguyễn Văn Thái, 2005) [12].
Tại Hà Lan: người dân Hà Lan phân loại rác thải và những gì có thể
tái chế được ra riêng. Những thùng rác với kiểu dáng và màu sắc khác nhau
được sử dụng trong thành phố. Thùng rác màu vàng ở gần siêu thị để chứa các
đồ kính, thủy tinh, thùng màu xanh nhạt dùng để chứa giấy. Tại các nơi đông
dân cư sinh sống thường đặt 2 thùng rác màu khác nhau, một loại chứa rác có
thể phân hủy, một chứa rác không thể phân hủy.
Tại Mỹ: hàng năm toàn nước Mỹ phát sinh một khối lượng rác khổng
lồ lên tới 10 tỷ tấn. Trong đó, rác thải từ quá trình khai thác dầu mỏ và khí
chiếm 75%; rác thải từ quá trình sản xuất nông nghiệp chiếm 13%; rác thải từ
hoạt động công nghiệp chiếm 9,5%; rác thải từ cặn cống thoát nước chiếm
1%; rác thải sinh hoạt chiếm 1,5% (Lê Văn Nhương, 2001) [8].
Tại Singapo: có thể nói Singapo là một quốc gia có môi trường xanh -
sạch - đẹp của thế giới. Chính phủ rất coi trọng việc bảo vệ môi trường, cụ thể
pháp luật về môi trường được thực hiện một cách toàn diện, là công cụ hữu
hiệu nhất để đảm bảo cho môi trường sạch đẹp của Singapo. Cơ chế thu gom
rác rất hiệu quả, việc thu gom được tổ chức đấu thầu cho các nhà thầu. Rác
thải tái chế được thu gom và xử lý theo chương trình tái chế của quốc gia. Ở
Singapo, hút thuốc, vứt rác không đúng nơi quy định bị phạt 500 đô la trở lên.
(Hoàng Quang, 2010) [10].
Đặc biệt, tại các nước phát triển công việc quản lý, xử lý rác thải được
tiến hành rất chặt chẽ, từ ý thức thải bỏ của người dân, quá trình phân loại rác
tại nguồn, thu gom tập kết rác thải cho tới các trang thiết bị thu gom, vận
chuyển cho từng loại rác. Các quy định đối với việc thu gom, vận chuyển và
xử lý từng loại rác được quy định rất chặt chẽ và trang bị đầy đủ các trang

15
Cơ quan trường
học
thiết bị hiện đại. Một khác biệt trong công tác quản lý, xử lý rác thải là có sự
tham gia của cộng đồng.
Tại các nước đang phát triển thì công tác thu gom rác thải còn nhiều
vấn đề bất cập. Việc bố trí mạng lưới thu gom, vận chuyển rác thải chưa hợp
lý, trang thiết bị còn thiếu và thô sơ dẫn đến chi phí thu gom tăng mà hiệu quả
lại thấp. Sự tham gia của các đơn vị tư nhân còn ít và hạn chế. So với các
nước phát triển thì tỷ lệ thu gom rác ở các nước đang phát triển như Việt Nam
và khu vực Nam Mỹ còn thấp hơn nhiều.
Tỷ lệ các phương pháp xử lý rác thải ở một số nước Châu Á được tổng
hợp ở Bảng 2.2.
Bảng 2.2. Các phương pháp xử lý rác thải của một số nước ở Châu Á
(Đơn vị %)
Nước
Bãi rác lộ
thiên, chôn lấp
Thiêu đốt
Chế biến phân
compost
Phương pháp
khác
Việt Nam 96 - 4 -
Bangladet 95 - - 5
Hongkong 92 8 - -
Ấn Độ 70 - 20 10
Indonexia 80 5 10 5
Nhật Bản 22 74 0,1 3,9
Hàn Quốc 90 - - 10

Malayxia 70 5 10 15
Philipin 85 - 10 5
Srilanka 90 - - 10
Thái Lan 80 5 10 5
(Nguồn: Viện khoa học thủy lợi, 2006)
2.3.2. Tình hình quản lý rác thải ở Việt Nam
Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam đang diễn ra rất mạnh mẽ, rất nhiều đô
thị được chuyển từ đô thị loại thấp lên đô thị loại cao và nhiều đô thị mới được
hình thành. Nếu năm 2000, nước ta có 649 đô thị thì năm 2005, con số này là
715 đô thị và đã tăng lên thành 755 đô thị lớn nhỏ vào giữa năm 2011 (Bộ Xây
dựng, 2011). Đô thị phát triển kéo theo vấn đề di dân từ nông thôn ra thành thị.
Năm 2009, dân số đô thị là 25,59 triệu người (chiếm 29,74% tổng dân số cả
nước), đến năm 2010, dân số đô thị đã lên đến 26,22 triệu người (chiếm 30,17%
16
tổng số dân cả nước) (TCTK, 2011). Dự báo, đến năm 2015 dân số đô thị là 35
triệu người chiếm 38% dân số cả nước, năm 2020 là 44 triệu người chiếm 45%
dân số cả nước và năm 2025 là 52 triệu người chiếm 50% dân số cả nước[1]
Tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng đã trở thành nhân tố tích cực
trong phát triển KT-XH của đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những lợi ích về
KT-XH. Đô thị hóa nhanh đã tạo ra sức ép về nhiều mặt, dẫn đến suy giảm
chất lượng môi trường và phát triển không bền vững. Các hoạt động sản xuất,
sinh hoạt tăng theo. Tính bình quân người dân đô thị tiêu dung năng lượng, đồ
tiêu dùng, thực phẩm cao gấp 2-3 lần người dân nông thôn kéo theo lượng rác
thải người dân đô thị cũng gấp 2-3 lần người dân nông thôn.
Dân số đô thị nước ta phân bố không đồng đều và có sự khác biệt lớn theo
vùng. Tính đến năm 2010, dân số đô thị khu vực Đông Nam Bộ cao nhất cả nước
với 8,35 triệu người, tiếp theo đó là vùng Đồng bằng sông Hồng với 5,86 triệu
người, khu vực có số dân đô thị ít nhất là Tây Nguyên với 1,5 triệu người. Mật độ
dân số theo đó cũng cao chủ yếu ở 3 vùng kinh tế lớn là Đồng bằng sông Hồng
(939 người/km

2
), Đông Nam Bộ (617 người/km
2
) và Đồng bằng sông Cửu Long
(426 người/km
2
) (mật độ dân số trung bình toàn quốc vào khoảng 263
người/km
2
). Những con số trên cho thấy, phát sinh CTR đô thị sẽ tập trung phần
lớn ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng (Biểu đồ 2.1).
Hình 2.2. Biểu đồ dân số đô thị nước ta theo các vùng kinh tế
giai đoạn 2006 - 2010
(Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia, 2011)[1]
17
2.3.2.1. Lượng phát sinh chất thải rắn tại Việt Nam
+ Lượng phát sinh rác thải rắn tại Việt Nam: Tổng lượng CTR sinh
hoạt ở các đô thị phát sinh trên toàn quốc tăng trung bình 10 ÷ 16 % mỗi năm.
Tại hầu hết các đô thị, khối lượng CTR sinh hoạt chiếm khoảng 60 - 70%
tổng lượng CTR đô thị (một số đô thị tỷ lệ này lên đến 90%)[2].
Phát sinh CTR ở đô thị chủ yếu là CTR sinh hoạt chiếm khoảng 60
-70% lượng CTR phát sinh, tiếp theo là CTR xây dựng, CTR công nghiệp,
CTR y tế,…
CTR ở đô thị bao gồm:
- CTR sinh hoạt: phát sinh chủ yếu từ các hộ gia đình, các khu tập thể,
chất thải đường phố, chợ, các trung tâm thương mại, văn phòng, các cơ sở
nghiên cứu, trường học,…
Bảng 2.3. Các loại CTR đô thị của Hà Nội năm 2011
TT
Loại

chất thải
Khối
lượng
phát sinh
Thành phần chính Biện pháp xử lý
1 CTR sinh
hoạt
~ 6.500 Chất vô cơ: gạch đá
vụn, tro xỉ than tổ ong,
sành sứ
Chất hữu cơ: rau củ
quả, rác nhà bếp
Các chất còn lại
Sản xuất phân hữu cơ
vi sinh: 60 tấn/ngày.
Tái chế: 10%, tự phát
tại các làng nghề.
2 CTR
công
nghiệp
~1.950 Cặn sơn, dung môi, bùn
thải công nghiệp, giẻ
dính dầu mỡ thải
Một phần được xử lý
tại Khu xử lý chất
thải công nghiệp
3 Chất thải
y tế
~15 Bông băng, dụng cụ y
tế nhiễm khuẩn

Xử lý bằng công
nghệ Italia: 100%
(Nguồn: URENCO Hà Nội, 2011) [13]
Kết quả điều tra tổng thể năm 2006 -2007 đã cho thấy, lượng CTR đô
thị phát sinh chủ yếu tập trung ở hai đô thị đặc biệt là Hà Nội và Tp. Hồ Chí
Minh, chiếm tới 45,24% tổng lượng CTR sinh hoạt phát sinh từ tất cả các đô
thị tương ứng khoảng 8.000 tấn/ngày (2,92 triệu tấn/năm) (Biểu đồ 2.2). Tuy
nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, tổng lượng và chỉ số phát sinh CTR đô thị
của đô thị đặc biệt và đô thị loại 1 hiện nay đã tăng lên rất nhiều. Nguyên
nhân của sự gia tăng này là do Thủ đô Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới
18
hành chính thì lượng CTR đô thị phát sinh đã lên đến 6.500 tấn/ngày (con số
của năm 2007 là 2.600 tấn/ngày).
Hình 2.3. Biểu đồ tỷ lệ phát sinh CTR sinh hoạt tại các đô thị Việt Nam
năm 2007
Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2006, 2007 và Báo cáo của các Sở TN&MT
Chỉ số phát sinh CTR đô thị bình quân đầu người tăng theo mức sống.
Năm 2007, chỉ số CTR sinh hoạt phát sinh bình quân đầu người tính trung bình
cho các đô thị trên phạm vi toàn quốc vào khoảng 0,75 kg/người /ngày (Bảng
2.4). Năm 2008, theo Bộ Xây dựng thì chỉ số này là 1,45 kg/người/ngày, lớn
hơn nhiều so với ở nông thôn là 0,4 kg/người/ngày. Tuy nhiên, theo Báo cáo
của các địa phương năm 2010 thì chỉ số phát sinh CTR sinh hoạt đô thị trung
bình trên đầu người năm 2009 của hầu hết các địa phương đều chưa tới 1,0
kg/người/ngày. Các con số thống kê về lượng phát sinh CTR sinh hoạt đô thị
không thống nhất là một trong những thách thức cho việc tính toán và dự báo
lượng phát thải CTR đô thị ở nước ta.
Bảng 2.4. Chất thải rắn đô thị phát sinh năm 2007 - 2010
Nội dung 2007 2008 2009 2010
Dân số đô thị (triệu người) 23,8 27,7 25,5 26,22
% dân số đô thị so với cả nước 28,20 28,99 29,74 30,20

Chỉ sô phát sinh CTR đô thị (kg/người/ngày) ~0,75 ~1,45 ~0,95 ~1,00
Tổng lượng CTR đô thị phát sinh (tấn/ngày) 17,682 20,849 24,225 26,224
(Nguồn: Báo cáo môi trường quốc gia, 2011)[1]
19
2.3.2.2. Thành phần chất thải rắn đô thị
Thành phần CTR sinh hoạt phụ thuộc vào mức sống ở một số đô thị.
Mức sống, thu nhập khác nhau giữa các đô thị đóng vai trò quyết định trong
thành phần CTR sinh hoạt (Bảng 2.5).
Trong thành phần rác thải đưa đến các bãi chôn lấp, thành phần rác có
thể sử dụng làm nguyên liệu sản xuất phân hữu cơ rất cao từ 54 - 77,1%; tiếp
theo là thành phần nhựa: 8 - 16%; thành phần kim loại đến 2%; CTNH bị thải
lẫn vào chất thải sinh hoạt nhỏ hơn 1%.
Bảng 2.5. Thành phần CTR sinh hoạt tại đầu vào của các bãi chôn lấp
của một số địa phương: Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Tp.
HCM (1) và Bắc Ninh (2) năm 2009 - 2010
(Tính theo %)
TT Loại chất thải
Hà Nội
(Nam
Sơn)
Hà Nội
(Xuân
Sơn)
Hải
Phòng
(Tràng
Cát)
Hải
Phòng
(Đình

Vũ)
Huế
(Thủy
Phương)
Đà
Nẵng
(Hòa
Khánh)
HCM
(Đa
Phước)
HCM
(Phước
Hiệp)
Bắc
Ninh
(Thị
trấn
Hồ)
1 Rác hữu cơ 53,81 60,79 55,18 57,56 77,1 68,47 64,50 62,83 56,90
2 Giấy 6,53 5,38 4,54 5,42 1,92 5,07 8,17 6,05 3,73
3 Vải 5,82 1,76 4,57 5,12 2,89 1,55 3,88 2,09 1,07
4 Gỗ 2,51 6,63 4,93 3,70 0,59 2,79 4,59 4,18 -
5 Nhựa 13,57 8,35 14,34 11,28 12,47 11,36 12,42 15,96 9,65
6 Da và cao su 0,15 0,22 1,05 1,90 0,28 0,23 0,44 0,93 0,20
7 Kim loại 0,87 0,25 0,47 0,25 0,40 1,45 0,36 0,59 -
8 Thủy tinh 1,87 5,07 1,69 1,35 0,39 0,14 0,40 0,86 0,58
9 Sành sứ 0,39 1,26 1,27 0,44 0,79 0,79 0,24 1,27 -
10 Đất và cát 6,29 5,44 3,08 2,96 1,70 6,75 1,39 2,28 27,85
11 Xỉ than 3,10 2,34 5,70 6,06 - 0,00 0,44 0,39 -

12 Nguy hại 0,17 0,82 0,05 0,05 - 0,02 0,12 0,05 0,07
13 Bùn 4,34 1,63 2,29 2,75 1,46 1,35 2,92 1,89 -
14 Các loại khác 0,58 0,05 1,46 1,14 - 0,03 0,14 0,04 -
Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100
(Nguồn: (1) Báo cáo Nghiên cứu quản lý CTR tại Việt Nam, JICA, 3/2011
(2) Báo cáo Dự án Tổng hợp, xây dựng các mô hình thu gom, xử lý rác thải
cho các thị trấn, thị tứ, cấp huyện, cấp xã, 2006 - 2008)[7]
20
2.3.2.3. Một số biện pháp xử lý chất thải rắn ở Việt Nam
Cho đến nay trên thế giới có rất nhiều phương pháp xử lý rác thải sinh
hoạt như giảm thể tính cơ học (nén, ép), làm giảm thể tích bằng hoá học (đốt),
làm giảm kích thước bằng cơ học (băm, chặt), phân loại hợp phần rác (bằng
tay, bằng cơ học), làm mất nước… nhưng thông dụng nhất hiện nay có 3
phương pháp được sử dụng nhiều nhất đó là phương pháp chôn lấp, phương
pháp thiêu đốt và phương pháp sinh học. Trong đó phương pháp sinh học
được cho là tối ưu hiện nay.
- Phương pháp chôn lấp
Các biện pháp xử lý chất thải rắn ở Việt Nam hiện nay chủ yếu vẫn là
chôn lấp. Tỷ lệ CTR được chôn lấp hiện chiếm khoảng 76 - 82% lượng CTR
thu gom được (trong đó, khoảng 50% được chôn lấp hợp vệ sinh và 50% chôn
lấp không hợp vệ sinh). Thống kê trên toàn quốc có 98 bãi chôn lấp chất thải
tập trung ở các thành phố lớn đang vận hành nhưng chỉ có 16 bãi được coi là
hợp vệ sinh. Ở phần lớn các bãi chôn lấp, việc chôn lấp rác được thực hiện hết
sức sơ sài. Như vậy, cùng với lượng CTR được tái chế, hiện ước tính có
khoảng 60% CTR đô thị đã được xử lý bằng phương pháp chôn lấp hợp vệ
sinh và tái chế trong các nhà máy xử lý CTR để tạo ra phân compost, tái chế
nhựa[2],… Việc quản lý, vận hành các bãi chôn lấp rác hiện nay chưa tuân
thủ theo các quy định hiện hành. Các bãi chôn lấp không có lớp chống thấm ở
dưới đáy và không có hệ thống thu gom xử lý nước rác, không có hệ thống
thu gom khí, quy trình đổ rác không đúng kỹ thuật; do đó đã dẫn đến tình

trạng ô nhiễm môi trường không khí, rò rỉ, thẩm thấu nước rác gây ô nhiễm
môi trường đất, nước mặt và nước ngầm.
Việc chôn lấp được thực hiện bằng cách dùng xe chuyên dụng chở rác
tới các bãi đã xây dựng trước. Sau khi rác được đổ xuống, xe ủi san bằng,
đầm nén trên bề mặt và đổ lên một lớp đất, hàng ngày phun thuốc diệt ruồi
muỗi, rắc vôi bột… theo thời gian, sự phân hủy của vi sinh vật làm cho rác trở
nên tơi xốp và thể tích của bãi rác giảm xuống. Việc đổ rác lại được tiếp tục
cho đến khi bãi rác đầy thì chuyển sang bãi rác mới.
Các bãi chôn lấp rác phải cách xa khu dân cư, không gần nguồn nước
ngầm và nguồn nước mặt. Đáy của bãi rác nằm trên tầng đất sét hoặc được
21
phủ các lớp chống thấm bằng màn địa chất. Ở các bãi chôn lấp rác cần phải
thiết kế khu thu gom và xử lý nước rác trước khi thải vào môi trường. Việc
thu khí ga để biến đổi thành năng lượng là một cách để tận dụng từ rác thải rất
hữu ích.
- Ưu điểm của phương pháp:
+ Công nghệ đơn giản, rẻ tiền và phù hợp với nhiều loại rác thải.
+ Chi phí vận hành bãi rác thấp.
- Nhược điểm của phương pháp:
+ Chiếm diện tích đất tương đối lớn.
+ Không được sự đồng tình của người dân khu vực xung quanh.
+ Nguy cơ gây ô nhiễm môi trường (đất, nước, không khí) cao.
+ Tìm kiếm xây dựng bãi rác mới là việc làm khó khăn.
- Phương pháp thiêu đốt
Đốt chất thải sinh hoạt đô thị chủ yếu ở các bãi rác không hợp vệ sinh:
sau khi rác thu gom được đổ thải ra bãi rác phun chế phẩm EM để khử mùi và
định kỳ phun vôi bột để khử trùng, rác để khô rồi đổ dầu vào đốt. Tuy nhiên,
vào mùa mưa, rác bị ướt không đốt được hoặc bị đốt không triệt để. Ước tính
khoảng 40 ÷ 50% lượng rác đưa vào bãi chôn lấp không hợp vệ sinh được đốt
lộ thiên. Công nghệ đốt CTR sinh hoạt với hệ thống thiết bị đốt được thiết kế

bài bản mới được áp dụng tại Nhà máy đốt rác ở Sơn Tây (Hà Nội). Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh đang có kế hoạch nhập dây chuyền công nghệ đốt
chất thải có tận dụng nhiệt để phát điện trong thời gian tới [1].
Xử lý rác bằng phương pháp đốt là giảm tới mức tối thiểu chất thải cho
khâu xử lý cuối cùng. Nhờ thiêu đốt dung tích chất thải rắn được giảm nhiều
chỉ còn khoảng 10% so với dung tích ban đầu, trọng lượng giảm chỉ còn 25%
hoặc thấp hơn so với ban đầu. Như vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu
gom và giảm nhu cầu về dung tích chứa tại chỗ, ngay tại nguồn, đồng thời
cũng dễ dàng chuyên chở ra bãi chôn lấp tập trung nếu cần. Tuy nhiên,
phương pháp đốt rác sẽ gây ô nhiễm không khí cho khu vực dân cư xung
quanh, đồng thời làm mất mỹ quan đô thị, vì vậy phương pháp này chỉ dùng
tại các địa phương nhỏ, có mật độ dân số thấp.
22
Phương pháp này chi phí cao, so với phương pháp chôn lấp rác, chi phí
để đốt một tấn rác cao hơn gấp 10 lần. Công nghệ đốt rác thường sử dụng ở các
quốc gia phát triển vì phải có một nền kinh tế đủ mạnh để bao cấp cho việc thu
đốt rác sinh hoạt như là một dịch vụ phúc lợi xã hội toàn dân. Tuy nhiên, việc
đốt rác sinh hoạt bao gồm nhiều chất thải khác nhau sinh khói độc và dễ sinh
khí dioxin nếu không giải quyết tốt việc xử lý khói. Năng lượng phát sinh khi
đốt rác có thể tận dụng cho các lò hơi, lò sưởi hoặc cho ngành công nghệ nhiệt
và phát điện. Mỗi lò đốt phải được trang bị một hệ thống xử lý khí thải tốn kém
nhằm khống chế ô nhiễm không khí do quá trình đốt gây ra.
Hiện nay tại các nước Châu Âu có xu hướng giảm đốt rác thải vì hàng
loạt các vấn đề kinh tế cũng như môi trường cần phải giải quyết. Việc thu đốt
rác thải thường chỉ áp dụng cho việc xử lý rác thải độc hại, rác thải bệnh viện
hoặc rác thải công nghiệp và các phương pháp khác không xử lý triệt để được.
- Phương pháp thu hồi và tái sử dụng
Trong chất thải vẫn còn tồn tại những chất có thể tái sử dụng thậm chí
nhiều chất thải còn mang lại lợi ích kinh tế. Hiện nay ở nước ta vấn đề này
chưa được chú trọng vì hiện tại lực lượng đào bới rác và thu hồi phế liệu rất

đông đảo. Tuy nhiên, việc quản lý sức khỏe cho họ là một mối quan tâm lớn.
Thời gian tới, công nghệ xử lý CTR tại Việt Nam sẽ được phát triển
theo hướng giảm thiểu tối đa lượng rác thải chôn lấp và tăng cường tỷ lệ tái
chế, tái sử dụng. Gần đây, có nhiều nhà đầu tư tư nhân đến Việt Nam đem
theo các công nghệ đa dạng, tuy nhiên, một số công nghệ không đáp ứng yêu
cầu. Bộ Xây dựng đã cấp giấy phép cho một số công nghệ nội địa trong lĩnh
vực xử lý CTR sinh hoạt để thúc đẩy các công nghệ phù hợp [2].
- Phương pháp sinh học
Rác thải được thu gom về nhà máy, chúng được đưa lên dây chuyền
phân loại cơ học loại các chất vô cơ như nilon, nhựa, sắt, thép, gạch, đá… sau
phân loại gạch đá được loại ra đem chôn lấp. nilon, nhựa đem đốt, sắt thép,
thuỷ tinh được thu hồi, sản phẩm cuối cùng là rác hữu cơ. Sử dụng các vi sinh
vật để phân giải các chất hữu cơ có trong rác thải kết hợp với các chất phụ gia
23
tạo ra mùn, có thể trộn bổ xung N,P,K và vi lượng vào mùn tạo phân vi sinh
để bón cho lúa, hoa màu…
Ưu điểm của phương pháp này là hạn chế gây ô nhiễm môi trường, tiết
kiệm đất đai, tạo ra lượng phân bón, Nhược điểm của phương pháp này là ủ
tạo mùi gây ô nhiễm môi trường không khí xung quanh và công nhân vận
hành. Nếu phân loại không triệt để trong mùn còn lẫn nhiều tạp chất, phân và
mùn từ các nhà máy chế biến rác không được người dân chấp nhận, hạn chế
đầu tư gây ra ách tắc cho quá trình sản xuất, đầu tư ban đầu tương đối lớn,
phải đủ số lượng rác, không phù hợp với các thị trấn, thị tứ và nông thôn.
Tình hình quản lý rác thải tại một số tỉnh thành trong nước:
Tại Hà Nội: Dự án 3R-HN do JICA tài trợ đã triển khai thực hiện phân
loại chất thải tại nguồn trên địa bàn thành phố tại phường Phan Chu Trinh,
quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (kể từ tháng 7/2007); phường Thành Công và
phường Láng Hạ (năm 2008). Rác hữu cơ được chuyển đến nhà máy phân
Cầu Diễn để sản xuất phân compost, rác vô cơ được chuyển đến chôn lấp tại
bãi rác Nam Sơn. Tổng cộng có khoảng 18.000 hộ gia đình đã tham gia vào

dự án 3R tại các phường thí điểm nêu trên. Tại địa bàn thí điểm, lượng rác
thải sinh hoạt từ các hộ gia đình đã giảm bình quân từ 31,2 - 45,1% tùy từng
phường, đạt mục tiêu giảm thiểu 30% lượng chất thải phải mang đi chôn lấp
mà dự án đã đặt ra. Dự án đã thu được khoảng 25.000 tấn rác thải hữu cơ và
đã chế biến được khoảng 10.000 tấn phân hữu cơ từ số rác này [1]. Hiện nay
mỗi ngày Hà Nội thải hơn 200 tấn rác thải, khối lượng rác khổng lồ này đều
được đưa đến bãi chứa rác Nam Sơn để chôn lấp, từ nhiều năm nay, bãi rác
này đã hoạt động hết công suất và đứng trước nguy cơ quá tải. Rác thải đều
chưa được phân loại và xử lý triệt để, cách xử lý chủ yếu vẫn là chôn lấp tự
nhiên. UBND thành phó Hà Nội đã ban hành chương trình hành động về công
tác bảo vệ môi trường Thủ đô trong thời kì đẩy mạnh CNH-HĐH.
Tại Tp Hồ Chí Minh: Từ năm 2004 thành phố đã thực hiện thí điểm
chương trình phân loại CTR tại nguồn ở 10 quận là 1, 3, 5, 6, 7, 8, 9, 10, quận
Bình Thạnh, quận Phú Nhuận và huyện Củ Chi, chợ đầu mối Bình Điền Sau
khi phân loại, rác được thu gom vận chuyển đến Khu Liên hợp xử lý rác Đa
24
Phước, huyện Bình Chánh. Rác hữu cơ để sản xuất phân compost, rác vô cơ
được xử lý bằng phương pháp chôn lấp [2]. Với 3 nguồn phát thải chính là đô
thị, công nghiệp và y tế thì mỗi ngày Tp Hồ Chí Minh thải khoảng 5800-6200
tấn chất thải rắn, 500-700 tấn chất thải rắn công nghiệp, 100-200 tấn chất thải
nguy hại, 9-12 tấn chất thải y tế. Bên cạnh chất thải rắn trên địa bàn, thành
phố còn tiếp nhận khoảng 200-300 tán chất thải rắn sinh hoạt và chất thải rắn
công nghiệp từ các tỉnh khác về. Để quản lý toàn bộ các nguồn thải nói trên,
từ nhiều năm nay thành phố đã hình thành mạng lưới quản lý rộng khắp 24
quận/ huyện với sự tham gia của rất nhiều công ty nhà nước, tư nhân, hợp tác
xã, tổ nhóm với sự tham gia của 21000 lao động từ kỹ thuật cao đến lao động
đơn giản.
2.3.3. Tình hình quản lý rác thải ở Cao Bằng
Chịu trách nhiệm quản lý chất thải rắn trên địa bàn thành phố là Công
ty đầu tư phát triển và môi trường. Công ty hiện có 238 người, được trang bị

khoảng 200 xe đẩy tay, 5 xe chuyên dụng chở rác, hàng ngày thu gom được
55-60m
3
rác (chiếm 70% lượng rác phát sinh). Khối lượng chất thải rắn thu
gom được đưa về bãi chôn lấp chất thải răn Khuổi Kép của thành phố có diện
tích 4ha. Về chất thải rắn bệnh viện, hiện nay bệnh viện đa khoa tỉnh có lò đốt
rác thủ công nhưng không sử dụng, hầu hết các loại chất thải rắn y tế đều
được tập trung trong khu vực bệnh viện gần bờ sông Bằng gây ô nhiễm cho
môi trường xung quanh và nguồn nước sông Bằng. Sau đây là hiện trạng chất
thải rắn sinh hoạt:
a) Khối lượng thải
Theo số liệu các tài liệu kỹ thuật cho thấy định mức chất thải rắn
sinh hoạt bình quân khoảng 0.9-1.2 kg/ người/ ngày ở các thành phố lớn và
0.5-0.65 kg/người/ ngày ở các đô thị nhỏ. Sở Tài nguyên và Môi trường
tỉnh Cao Bằng đã tiến hành thống kê chất thải sinh hoạt, qua quá trình
thống kê cho thấy khối lượng chất thải rắn sinh hoạt có xu hướng tăng dần
theo các năm. Khối lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh trong những
năm gần đây như sau:
25

×