Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (880.98 KB, 131 trang )

Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
CHƯƠNG I:
MỞ ĐẦU
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hoá đất nước, cùng với sự phát
triển kinh tế-xã hội, các ngành sản xuất đang được mở rộng và phát triển nhanh
chóng, quá trình phát triển kinh tế và xã hội sẽ phát sinh nhiều loại chất thải, gia
tăng về khối lượng, đa dạng về thành phần, bao gồm các nguồn Chất thải rắn từ
hoạt động sinh hoạt, sản xuất, y tế, nông nghiệp
Tổng lượng rác thải sinh hoạt (RTSH) tại các đô thò ở Việt Nam vào
khoảng 18.879 tấn/ngày (năm 1999_ nguồn: Số liệu quan trắc CEETIA) nhưng chỉ
mới thu gom được khoảng 65% - 80%. Khối lượng này ngày càng tăng lên do tác
động của sự gia tăng dân số, phát triển kinh tế-xã hội và sự phát triển về trình độ
và tính chất tiêu dùng của người dân. Tại Việt Nam, RTSH hằng ngày chưa được
phân loại tại nguồn trước khi đưa đi xử lý. Ở đây RTSH được thu gom đổ vào các
bãi rác tạm bợ, đại khái mà không được xử lý, chôn lấp theo quy hoạch và hợp vệ
sinh gây ảnh hưởng xấu đến môi trường, nguồn nước mặt và nước ngầm trong khu
vực. Thiết bò thu gom và vận chuyển rác còn lạc hậu, ít ỏi, không đáp ứng được
nhu cầu thu gom hiện tại.
Tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu là một trong những tỉnh có mức độ tăng trưởng kinh
tế cao nhất nước ta. Trong những năm qua, kinh tế - xã hội của tỉnh Bà Ròa - Vũng
Tàu đã không ngừng phát triển, đặc biệt là tiềm năng phát triển của các ngành:
khai thác dầu khí, công nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng hải sản, du lòch dòch vụ,
các dòch vụ cảng Những lợi ích kinh tế đem lại do quá trình phát triển kinh tế
trên đòa bàn đã góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân
trong tỉnh, một vấn đề thách thức đang đặt ra cho tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu, đó là
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 1
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu


vấn đề ô nhiễm môi trường đã, đang và sẽ là vấn đề bức xúc và lôi cuốn sự quan
tâm của các cơ quan quản lý và cộng đồng dân cư.
Trong những năm gần đây, quá trình phát triển kinh tế-xã hội và gia tăng
dân số tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu đang phải đối mặt với tình trạng phát sinh chất
thải. Trong đó chất thải rắn (CTR) trên đòa bàn tỉnh phát sinh từ nhiều nguồn khác
nhau, nhưng tập trung nhiều nhất là rác sinh hoạt và công nghiệp. Để giải quyết
vấn đề này, từ những năm 1995 tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu là đòa phương thứ hai
(sau Hà Nội) đã mạnh dạn đầu tư nhà máy xử lý rác sinh hoạt bằng công nghệ
sinh học do Việt Nam thiết kế dựa trên công nghệ của New Zeland. Tuy nhiên,
kết quả đạt được còn thấp vì công xuất xử lý của nhà máy không đủ đáp ứng
lượng rác thải ra hằng này trên đòa bàn thành phố Vũng Tàu.
Việc quản lý RTSH của thành phố Vũng Tàu (TPVT) hiện nay còn nhiều
bất cập. RTSH trên đòa bàn thải ra chưa được phân loại, thu gom và xử lý có khoa
học. Lượng RTSH chưa được thu gom đang là một trong những nguyên nhân gây
ô nhiễm môi trường đô thò. Vì vậy, cần phải có những giải pháp đồng bộ nhằm
quản lý có hiệu quả RTSH, hạn chế những tác động lên môi trường. Xuất phát từ
những yêu cầu thực thế trên chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt tại
thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu”.
1.2 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu hiện trạng RTSH của thành phố Vũng Tàu và đánh giá
những tác động có thể xảy ra do RTSH gây ra.
- Xây dựng các giải pháp nhằm quản lý RTSH của thành phố Vũng Tàu,
hạn chế ô nhiễm môi trường và tăng cường tiết kiệm nguyên liệu thông
qua việc phân loại rác tại nguồn và tái chế.
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 2
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
CHƯƠNG II:

TỔNG QUAN RÁC THẢI SINH HOẠT VÀ Ô NHIỄM
MÔI TRƯỜNG DO RÁC THẢI SINH HOẠT
2.1 TỔNG QUAN VỀ RÁC THẢI SINH HOẠT
2.1.1 Đònh nghóa chất thải rắn (CTR) và rác thải sinh hoạt (RTSH):
Đònh nghóa CTR:
Chất thải rắn (Solid waste) là thuật ngữ chung dùng để chỉ tất cả các loại rác
được thải bỏ do không còn giá trò sử dụng. Tuy nhiên trên thực tế chúng cũng có
thể được tận dụng hoặc tái chế một phần hoặc toàn bộ. Ngoài ra trong thành phần
của chúng cũng có thể có cả các chất thải nguy hại (CTNH).
CTR là toàn bộ các loại vật liệu ở trạng thái rắn hoặc gần như rắn được loại
bỏ từ những hoạt động kinh tế và xã hội của con người hoặc do những vận động
của thiên nhiên tạo ra.
Đònh nghóa RTSH:
RTSH là chất thải rắn phát sinh từ sinh hoạt của con người: thực phẩm thừa,
vỏ hoa quả, bánh kẹo, các vật dụng trong gia đình… mà con người không dùng
nửa, vứt bỏ ra ngoài môi trường.
2.1.2 Nguồn gốc phát sinh RTSH:
Nguồn gốc phát sinh của RTSH rất đa dạng, chủ yếu từ quá trình sinh hoạt ở
các hộ gia đình, các chợ, các cơ quan, trường học, nhà hàng, khách sạn, các khu
thương mại, khu vui chơi giải trí, nơi công cộng, các cửa hàng… Nguồn gốc phát
sinh, thành phần và tốc độ phát sinh RTSH là cơ sở quan trọng để thiết kế, lực
chọn công nghệ và đề xuất các giải pháp quản lý RTSH phù hợp. Có nhiều cách
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 3
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
phân loại RTSH khác nhau, nhưng phân loại thông thường nhất, RTSH gồm: rác
hữu cơ và rác vô cơ.
Bảng 1. Nguồn gốc phát sinh và tác động của rác thải sinh hoạt lên
môi trường xung quanh

Nguồn
phát sinh
Thành phần rác thải sinh hoạt Tác động đến môi
trường
Khu dân cư Thực phẩm dư thừa, giấy, can
nhựa, thủy tinh, can thiếc,
nhôm…
Gây ô nhiễm mùi trong khu
vực dân cư, ảnh hưởng đến
môi trường nước và chất
lượng nước ngầm
Khu thương
mại
Giấy, nhựa, thực phẩm thừa,
thủy tinh, kim loại, chất thải
nguy hại
Tác động đến trữc tiếp sức
khỏa của con người trong khu
vực
Cơ quan công
sở
Giấy, nhựa, thực phẩm thừa,
thủy tinh, kim loại, chất thải
nguy hại
Gây mùi khó chòu
Công trình
xây dựng
Gỗ, bêttông, thép, gạch, thạch
cao, bụi…
Gây mất vẻ đẹp cảnh quan

đô thò và tác động đến môi
trường không khí…
Dòch vụ
công cộng
đô thò
Rác, cành cây cắt tỉa, chất
thải chung tại các khu vui chơi,
giải trí
Mất vẻ đẹp cảnh quan, gây
ắt tắt giao thông, gây ô
nhiễm môi trường nước mặt…
Nhà hàng,
khách sạn,
chợ…
Các thực phẩm dư thừa, khăn,
hộp xốp, túi nylon, giấy của các
hộp bao bì…
Gây mùi hôi khó chòu, ảnh
hưởng đến sức khỏe của
nhân viên làm việc…
Nông nghiệp
Thực phẩm bò thối rữa, sản
phẩm nông nghiệp thừa, rác,
chất độc hại
nh hưởng đến sức khỏe
của người dân, gây ô nhiễm
môi trường không khí và
nước ngầm…
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 4
MSSV: 02ĐHMT279

Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
(Nguồn: Trần Hiếu Nhuệ_ 1996)
2.1.3 Thành phần RTSH:
Rác từ các hộ gia đình chứa chủ yếu thành phần rác thực phẩm, giấy, nylon
và nhựa. Các thành phần khác chỉ thỉnh thoảng mới xuất hiện với tỷ lệ phần trăm
giao động không lớn.
Đối với RTSH, thành phần của chúng phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau
như: mức sống, cung cách sống, trình độ sản xuất, các nguồn tài nguyên quốc gia,
mùa vụ trong năm, khả năng thu hồi lại các phế liệu thải…
Bảng 2. Tỷ lệ các thành phần rác thải sinh hoạt
(Nguồn: Marfred Schreier_Quản lý Môi trường “Con đường kinh tế dẫn đến kinh
tế sinh thái”)
2.1.4 Tính chất của RTSH:
2.1.4.1 Các tính chất vật lý:
Trọng lượng riêng:
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 5
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
Trọng lượng riêng của rác là trọng lượng của rác trên một đơn vò thể tích,
thường được biểu thò bằng kg/m
3
hoặc tấn/m
3
. Do rác thải thường tồn tại ở các
trạng thái khác nhau (xốp, chứa trong container, không nén, nén…) nên khi xác
đònh trọng lượng riêng của bất kỳ một mẫu rác nào cũng đều phải chú thích rõ
trạng thái của nó lúc lấy mẫu. Số liệu về trọng lượng riêng thường được sử dụng
để tính toán khối lượng hay thể tích rác thải phải quản lý.

Trọng lượng riêng thay đổi phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: vò trí đòa lí, mùa
trong năm, thời gian lưu giữ chất thải do đó cần phải thận trọng khi chọn giá trò
thiết kế. Trọng lượng riêng của một chất thải đô thò điển hình là khoảng 500lb/yd
3
(300 kg/m
3
) (1lb =0,4536kg, 1yd
3
= 0,7646 m
3
).
Độ ẩm:
Độ ẩm của CTR được biểu diễn bằng 2 phương pháp đó là phương pháp
trọng lượng ướt và phương pháp trọng lượng khô. Phương pháp trọng lượng ướt độ
ẩm trong một mẫu được thể hiện như là phần trăm trọng lượng ướt của vật liệu.
Phương pháp trọng lượng khô độ ẩm trong một mẫu được thể hiện như là phần
trăm trọng lượng khô của vật liệu.
Độ ẩm của RTSH thường được biểu diễn bằng % trọng lượng ướt của vật
liệu. Phương pháp trọng lượng ướt được sử dụng phổ biến trong lónh vực quản lí
RTSH, bởi vì phương pháp này có thể lấy mẫu trực tiếp ngoài thực đòa. Độ ẩm
theo phương pháp trọng lượng ướt được tính như sau:
M = (w-d)/ w * 100
Trong đó:
M: là độ ẩm (%)
w: là trọng lượng mẫu lúc lấy tại hiện trường (kg, g)
d: là trọng lượng mẫu sao khi sấy khô ở 105
0
C (kg, g)
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 6
MSSV: 02ĐHMT279

Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
Kích thước hạt và cấp phối hạt:
Kích thước hạt và cấp phối hạt của rác thải là một trong những thông số
quan trọng đối với việc tái sinh vật liệu, đặc biệt là khi sử dụng các thiết bò cơ khí
như sàng quay và thiết bò phân loại bằng từ tính.
Cấp phối hạt của chất thải rắn thường được đặc trưng bằng kích thước dài
nhất và khả năng lọt qua sàng của nó. Thông qua các kết quả thí nghiệm, người
ta có thể biểu diễn đồ thò cấp phối hạt theo các cách khác nhau.
Kích thước hạt của các thành phần chất thải rắn có thể được gán bằng một
hoặc nhiều tiêu chuẩn đánh giá sau đây:
3
)(
)(
3
2
HBLD
BLD
HBL
D
BL
D
LD





××=
×=

++
=
+
=
=
Trong đó:
D

– Kích thước danh nghóa của hạt (mm)
L – Chiều dài của hạt (mm)
B – Chiều rộng của hạt (mm)
H – Chiều cao của hạt (mm)
Khả năng giữ nước hiện tại:
Khả năng giữ nước tại hiện trường của rác thải là toàn bộ lượng nước mà nó
có thể giữ lại trong mẫu rác thải dưới tác dụng của trọng lực. Khả năng giữ nước
của rác thải là một trong những tiêu chuẩn quan trọng để xác đònh sự hình thành
nước dò rỉ từ bãi rác. Nước đi vào mẫu rác thải vượt quá khả năng giữ nước của
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 7
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
nó sẽ được giải phóng ra tạo thành nước rò rỉ. Khả năng giữ nước của rác thải
thay đổi phụ thuộc vào mức độ nén và trạng thái phân hủy của rác thải. Khả năng
giữ nước 30% theo thể tích tương đương với 30mm/100mm. Khả năng giữ nước
của chất thải không nén từ khu dân cư và thương mại thường dao động trong
khoảng 50 – 60% (Trần Hiếu Nhuệ, 1996)
Độ thấm của RTSH đã nén:
Tính dẫn nước của rác thải đã nén là một tính chất vật lý quan trọng, ở
phạm vi lớn nó sẽ chi phối sự dòch chuyển của các chất lỏng và chất khí trong bãi
rác. Hệ số thấm thường được biểu thò bằng công thức:

µ
γ
=
µ
γ
=
0
2
KCdK
Trong đó:
K – Hệ số thấm
C – Hệ số hình dạng, nó là đại lượng không thứ nguyên
d – Kích thước trung bình của các lỗ rỗng
γ – Trọng lượng riêng của nước
µ – Độ nhớt động học của nước
K
0
– Độ thấm riêng
Tích số Cd
2
trong công thức trên đặc trưng cho độ thấm riêng của rác thải đã
nén. Độ thấm riêng K
0
phụ thuộc chủ yếu vào những tính chất của rác thải, bao
gồm: sự phân bố kích thước các lỗ rỗng, diện tích bề mặt riêng, độ rỗng và tính
góc cạnh. Giá trò đặc trưng của độ thấm riêng đối với rác thải đã nén ở bãi rác
nằm trong khoảng 10
-11
÷ 10
-12

m
2
theo phương đứng và khoảng 10
-10
m
2
theo
phương ngang.
4.1.4.2 Các tính chất hóa học:
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 8
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
Các dữ liệu về thành phần hóa học của rác thải có ý nghóa hết sức quan
trọng trong việc lựa chọn phương pháp xử lý và tái sinh chất thải. Nếu rác thải
được xử lý bằng phương pháp thiêu đốt thì 4 tính chất hóa học quan trọng nhất là:
• Phân tích sơ bộ;
• Điểm nóng chảy của tro;
• Phân tích thành tố (chính xác);
• Nhiệt trò.
Trong trường hợp các thành phần hữu cơ trong rác sinh hoạt được sử dụng
làm phân ủ (compost) hay được sử dụng như là nguyên liệu để sản xuất các chế
phẩm sinh học khác thì các dữ liệu phân tích cuối cùng không chỉ bao gồm các
nguyên tố chính mà còn đòi hỏi phải phân tích hàm lượng các nguyên tố vi lượng
trong rác thải.
Phân tích sơ bộ:
Phân tích sơ bộ đối với các thành phần có thể cháy được trong chất thải rắn
đô thò bao gồm các thí nghiệm xác đònh các chỉ tiêu sau:
 Độ ẩm (lượng nước mất đi sau khi sấy ở 105
0

C trong 1 giờ);
 Thành phần vật liệu dễ cháy bay hơi (trọng lượng mất đi thêm khi
đem mẫu rác đã sấy ở 105
0
C trong một giờ đưa đi đốt cháy ở nhiệt độ
950
0
C trong nồi kín);
 Hàm lượng cacbon cố đònh (phần vật liệu dễ cháy còn lại sau khi loại
bỏ các vật liệu bay hơi);
 Hàm lượng tro (trọng lượng còn lại sau khi đốt trong lò hở).
Điểm nóng của tro:
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 9
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
Điểm nóng chảy của tro được đònh nghóa là nhiệt độ mà ở đó tro có được từ
sự đốt cháy chất thải sẽ hình thành một khối rắn (gọi là clinker) do sự nấu chảy
và kết tụ. Nhiệt độ nóng chảy điển hình để hình thành clinker từ rác thải trong
khoảng 2000 – 2200
0
F (1100 – 1200
0
C).
Phân tích cuối cùng các thành phần của rác:
Phân tích các thành phần RTSH điển hình là xác đònh các tỷ lệ % của các
nguyên tố C, H, O, N, S và tro. Do có sự sinh ra các hợp chất chlorine trong suốt
quá trình đốt cháy nên thành phần phân tích cuối cùng bao gồm cả việc xác đònh
các halogen. Kết quả phân tích cuối cùng được sử dụng để mô tả các thành phần
hóa học của chất hữu cơ trong rác. Kết quả này cũng được sử dụng để quyết đònh

hỗn hợp vật liệu thải có tỷ số C/N thích hợp cho quá trình chuyển hóa sinh học.
Nhiệt trò
Hàm lượng năng lượng của các thành phần hữu cơ trong RTSH có thể được
xác đònh theo một trong các cách sau:
• Sử dụng nồi hay lò chưng cất qui mô lớn như là một calorimeter;
• Sử dụng bình đo nhiệt trò qui mô phòng thí nghiệm;
• Bằng cách tính toán nếu như biết được các nguyên tố cấu thành (công thức
hóa học hình thức).
Do khó khăn trong việc trang bò một lò chưng cất qui mô lớn nên hầu hết các
số liệu về hàm lượng năng lượng của các thành phần hữu cơ trong rác đô thò đều
dựa trên kết quả thí nghiệm của bình đo nhiệt trò trong phòng thí nghiệm.
4.1.4.3 Các tính chất sinh học của RTSH:
Ngoại trừ các thành phần plastic, cao su và da, về phương diện sinh học,
thành phần hữu cơ của hầu hết rác thải đều có thể được phân loại như sau:
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 10
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
• Các phân tử có thể hòa tan trong nước như: đường, tinh bột, axit amin và
nhiều axit hữu cơ khác;
• Bán cellulose, các sản phẩm ngưng tụ của đường 5 và 6 cacbon;
• Cellulose, sản phẩm ngưng tụ của đường glucose 6 cacbon;
• Dầu, mở và sáp – là những ester của các loại rượu và axit béo mạch dài;
• Lignin, một polymer có chứa vòng thơm với nhóm methoxyl (–OCH
3
) mà
tính chất hóa học của nó cho đến nay vẫn chưa biết được một cách chính xác;
• Lignocelluloza: hợp chất do lignin và celluloza kết hợp lại với nhau;
• Protein, chất tạo thành các amino axit mạch thẳng.
Có lẽ tính chất sinh học quan trọng nhất của thành phần hữu cơ trong RTSH

vìø hầu hết các thành phần hữu cơ đều có thể chuyển hóa sinh học thành khí và
các chất rắn vô cơ, hữu cơ trơ khác. Sự bốc mùi hôi và sinh ruồi cũng có liên quan
đến tính dễ phân hủy của các vật chất hữu cơ trong RTSH như rác thực phẩm.
Khả năng phân hủy sinh học của các thành phần hữu cơ trong RTSH:
Hàm lượng chất rắn bay hơi (VS) được xác đònh bằng cách đốt cháy rác thải
ở nhiệt độ 550
0
C thường được sử dụng để đánh giá khả năng phân hủy sinh học
của thành phần hữu cơ trong rác thải. Sử dụng chỉ tiêu VS để mô tả khả năng
phân hủy sinh học của thành phần hữu cơ trong chất thải rắn thì không đúng bởi
vì một vài phần tử hữu cơ của rác thải rất dễ bay hơi nhưng lại có khả năng phân
hủy sinh học kém, chẳng hạn như giấy in và các cành cây. Thay vào đó, hàm
lượng lignin của rác thải có thể được sử dụng để đánh giá tính toán phần có thể
phân hủy sinh học bằng cách sử dụng biểu thức sau:
BF = 0,83 – 0,028 LC
Trong đó:
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 11
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
BF – Tỷ lệ phần phân hủy sinh học biểu diễn trên cơ sở VS;
0,83 và 0,028 – Các hằng số thực nghiệm;
LC – Hàm lượng lignin, biểu diễn bằng % trọng lượng khô.
Khả năng phân hủy sinh học của một vài hợp chất hữu cơ tìm thấy trong rác
thải đô thò dựa trên cơ sở hàm lượng lignin. Các chất thải rắn với hàm lượng
lignin cao như giấy in có khả năng phân hủy sinh học kém hơn đáng kể so với các
chất thải rắn hữu cơ khác trong RTSH.
Sự phát mùi hôi:
Mùi hôi có thể sinh ra khi rác sinh hoạt được lưu trữ lâu trong nhà, tại trạm
trung chuyển và ở bãi đổ làm ảnh hưởng xấu đến mỹ quan đô thò và sức khỏe

cộng đồng. Trong điều kiện khí hậu nóng ẩm, mùi hôi phát sinh nhanh chóng ở
các nơi chứa rác gây khó chòu cho mọi người xung quanh. Mùi hôi tạo thành là do
sự phân hủy yếm khí các thành phần hữu cơ trong rác có khả năng phân rã nhanh.
Chẳng hạn như trong điều kiện yếm khí, sulfate có thể bò khử thành sulfide (S
2–
),
và sau đó nó kết hợp với hydro tạo thành hydrosulfua (H
2
S) có mùi trứng thối rất
khó chòu. Sự tạo thành H
2
S có thể được minh họa bởi các phản ứng sau:
2CH
3
CHOHCOOH + SO
4
2–
→ 2CH
3
COOH + S
2–
+ H
2
O + CO
2
(Lactic) (Sulfate) (Acetic) (Ion Sulfit)
4H
2
+ SO
4

2–
→ S
2–
+ 4H
2
O
S
2–
+ 2H
+
→ H
2
S
Ion sulfit có thể kết hợp với muối kim loại có mặt trong rác như sắt để hình
thành sulfit kim loại:
S
2–
+ 2Fe
2+
→ FeS
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 12
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
Màu đen của chất thải rắn đã trải qua quá trình phân hủy yếm khí là do sự
hình thành các sulfit kim loại trên.
Sự biến đổi sinh học của hợp chất hữu cơ chứa gốc sulfur có thể dẫn đến sự hình
thành các hợp chất có mùi hôi như methyl mercaptan và axit amino butyric. Sự
biến đổi của methioine và amino axit như sau:
CH

3
SCH
2
CH
2
CH(NH
2
)COOH → CH
3
SH + CH
3
CH
2
CH
2
(NH
2
)COOH
(Methioine) (Methyl mercaptan) (Aminobutyric axit)
Methyl mercaptan có thể bò thủy phân sinh hóa thành methyl alcohol và
hydro sulfua:
CH
3
SH + H
2
O → CH
4
OH + H
2
S

Mùi hôi từ rác phân hủy yếm khí có thể khắc phục bằng cách sử dụng các
thùng chứa có nắp đậy kín và duy trì số lần thu gom thích hợp. Các thùng chứa
phải được lau chùi và rửa đònh ký.
4.1.5 Tốc độ phát sinh RTSH:
Tốc độ phát thải (hay còn gọi là hệ số phát thải) RTSH là một trong những
thông số rất quan trọng đối với việc tính toán thiếp lập hệ thống quản lý RTSH
cũng như việc quy hoạch các lò đốt hay các bãi chôn lấp cho từng đòa phương.
Tùy thuộc vào cách thức phân loại RTSH mà có các hệ số phát thải khác nhau.
Hệ số phát thải RTSH tại các đô thò thường được biểu diễn bằng đơn vò
kg/người/ngày. Ở những đô thò khác nhau, hệ số phát thải rác đô thò có thể có sự
khác biệt tùy theo mức sống (giàu hay nghèo), lối sống (phung phí hay tiết kiệm),
phong tục tập quán và những điều kiện cụ thể của từng đô thò.
Theo thống kê mức sinh RTSH ở các nước đang phát triển trung bình là
0,35- 0,45 kg/người.ngày. Ở các nước phát triển là 2,8 kg/người.ngày. Mức sinh
RTSH tăng lên cùng với điều kiện kinh tế ở những thành phố giàu của các nước
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 13
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
đang phát triển lượng RTSH sinh ra tương đương với các nước phát triển. Theo tài
liệu cuả Trần Hiếu Nhuệ(1996) mức sinh RTSH của các thành phố ở nước ta như
sau:
Hà Nội : 0,88 kg/người.ngày.
Hải Phòng : 0,5 kg/người.ngày.
TP HCM : 0,66 kg/người.ngày.
Các đô thò còn lại : 0,24 - 0,45 kg/người.ngày.
2.2 Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG DO RTSH:
2.2.1 Ô nhiễm không khí:
Các sản phẩm khí chủ yếu sinh ra từ bãi chôn lấp rác (methane và cacbon
dioxyt) là kết quả của sự phân hủy bằng vi sinh vật. Ở những thời kỳ đầu của bãi

chôn lấp rác, chất khí chiếm ưu thế nhất là cacbon dioxyt. Khi bãi chôn lấp rác
hoàn thiện, khí sinh ra bao gồm chủ yếu là CO
2
và CH
4
với tỷ lệ ngang bằng
nhau. Bởi vì methane là chất khí có tính dễ nổ, nên sự chuyển động của nó cần
phải được kiểm soát.
Việc phóng thích các chất khí có hàm lượng rất thấp từ bãi rác cũng cần
được quan tâm do độc tính của chúng. Hơn 150 chất khí được phát hiện ở nhiều
bãi rác. Nhiều chất trong số đó được liệt vào các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
(VOC). Việc xảy ra các nồng độ VOC đáng kể thường liên quan với các bãi rác
cũ hơn mà trước đó chúng đã tiếp nhận các chất thải công nghiệp và thương mại
có chứa các hợp chất đó.
Trong hầu hết các trường hợp, trên 90% thể tích khí sinh ra do sự phân hủy
của RTSH là mêtan và cacbonic. Khi mêtan có mặt trong không khí với nồng độ 5
– 15% nó sẽ gây nổ. Tuy nhiên, trong bãi rác không có oxy và khi nồng độ
methane đạt đến giá trò nói trên nó vẫn không gây nổ. Mặc dù hầu hết khí
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 14
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
methane thoát vào trong khí quyển, nhưng vẫn có thể tìm thấy cacbon dioxyt và
methane với nồng độ lên đến 40% ở khoảng cách 120m bên cạnh bãi rác. Đối với
các bãi rác không có sự thông khí, phạm vi của sự di chuyển ngang này thay đổi
phụ thuộc vào đặc tính vật liệu bao phủ và đất đá xung quanh. Nếu không kiểm
soát sự thông khí vào bầu khí quyển thì nó có thể tập trung bên dưới các công
trình xây dựng, các khoảng trống xung quanh hoặc các đê chắn xung quanh bãi
rác.
Nếu có sự thông khí thích hợp thì methane không còn là vấn đề đáng quan

tâm. Nhưng về phương diện khác, cacbon dioxyt gây ra một số vấn đề xấu do tỷ
trọng của chúng. Như đã biết, cacbon dioxyt nặng gấp 1,5 lần không khí và nặng
gấp 2,8 lần methane, vì vậy nó có khuynh hướng di chuyển xuống dưới đáy của
bãi rác. Kết quả là nồng độ cacbon dioxyt trong các tầng bên dưới của bãi rác có
thể đạt đến giá trò cao trong nhiều năm.
Mặt khác, do tỷ trọng của nó, cacbon dioxyt sẽ di chuyển xuyên qua các lớp
đất đá ở dưới đáy bãi rác cho tới khi nó tiếp xúc với nước ngầm. Cacbon dioxyt
lập tức hòa tan vào nước làm cho pH của nước ngầm hạ thấp xuống, tạo điều kiện
thuận lợi cho sự hòa tan các khoáng vật trong đất đá và do đó làm tăng độ cứng
và hàm lượng các muối khoáng trong nước ngầm, đặc biệt là sự hiện diện của sắt
trong nước ngầm ở những khoảng nồng độ cao, gây khó khăn lớn cho việc sử
dụng nước ngầm làm nguồn nước cấp cho sản xuất, sinh hoạt.
Ô nhiễm không khí do RTSH không chỉ có khí Mêtan và cacbon oxyt mà
còn có các khí khác: NH
3
, H
2
S, SO
2
… gây mùi hôi thối tại các khu vực chứa rác.
2.2.2 Ô nhiễm môi trường đất:
Khi chôn lấp RTSH nước rò rỉ thấm qua các lớp CTR của hốc chôn lấp kéo
thẽo các chất ô nhiễm từ RTSH đi vào tầng đất ở dưới bãi chôn lấp. Các chất hữu
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 15
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
cơ sẽ được vi sinh vật phân hủy trong môi trường đất ở trạng th hiếu khí và kò
khí. Khi có độ ẩm thích hợp sẽ tạo ra hàng loạt các sản phẩm trung gian.
Với một lượng CTR và nước rò rỉ từ bãi chôn lấp vừa phải thì khả năng làm

sạch của đất sẽ làm cho các chất trở nên ít ô nhiễm hơn. Nhưng với khối lượng
lớn thì khả năng tự làm sạch của môi trường đất sẽ trở nên quá tải và đất bò ô
nhiễm nặng, gây suy thoái và giảm độ phì nhiêu của đất.
Quá trình phân hủy các hợp chất trong RTSH làm thay đổi tính chất lý hóa
của đất, sẽ tác động đến hệ sinh vật trong môi trường đất. Hơn nửa, các chất ô
nhiễm thấm vào lớp nước đưới đất, dẫn đến ô nhiễm nước trong đất (nước ngầm),
ảnh hưởng đến sức khỏe của con nguồn khi khai thác sử dụng nguồn nước này.
2.2.3 Ô nhiễm môi trường nước:
Hiện tượng xả rác bừa bãi trên các con kênh, sông, biển… Vừa gây mất vẻ
thẩm mỹ cảnh quan, vừa gây ô nhiễm môi trường nước mặt. Nếu tình trạng kéo
dài, gây nên hượng tượng thối rửa, ảnh hưởng nghiêm trọng đến nguồn nước mặt
và tạo mùi hôi thối ảnh hưởng đến sức khỏe của người dân sống trong khu vực.
Thành phần nước rò rỉ từ các bãi rác
Thành phần Đơn vò Nồng độ
Bãi rác mới (dưới 2 năm) Bãi rác cũ (trên
10 năm)
Khoảng dao động Giá trò đặc trưng
pH - 4,5 – 7,5 6,0 6,6 – 7,5
BOD
5
mg/l 2.000 – 30.000 10.000 100 – 200
COD mg/l 3.000 – 60.000 18.000 100 – 500
TOC mg/l 1.500 – 20.000 6.000 80 – 160
TSS mg/l 200 – 2.000 500 100 – 400
Nitơ hữu cơ mg/l 10 – 800 200 80 – 120
N-NH
3
mg/l 10 – 800 200 20 – 40
N-NO
3

mg/l 5 – 40 25 5 – 10
Tổng phospho mg/l 5 – 100 30 5 – 10
P-PO
4
mg/l 4 – 80 20 4 – 8
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 16
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
Độ kiềm mgCaCO
3
/l 1.000 – 10.000 3.000 200 – 1.000
Độ cứng tổng mgCaCO
3
/l 300 – 10.000 3.500 200 – 500
Ca
2+
mg/l 200 – 3.000 1.000 100 – 400
Mg
2+
mg/l 50 – 1.500 250 50 – 200
K
+
mg/l 200 – 1.000 300 50 – 400
Na
+
mg/l 200 – 2.500 500 100 – 200
Cl

mg/l 200 – 3.000 500 100 – 400

SO
4
2–
mg/l 100 – 1.000 300 20 – 50
Sắt tổng cộng mg/l 50 – 1.200 60 20 – 200
(Nguồn: Introduction to Environmental Engineering, 1998)
Đối với nguồn nước ngầm, cũng bò ô nhiễm nghiêm trọng do tác động của
rác thải sinh hoạt. Nước rò rỉ tại các bãi chôn lấp thấm vào đất gây ô nhiễm trực
tiếp đến nguồn nước ngầm.
Nước dò rỉ có thể được đònh nghóa là lượng chất lỏng tách ra từ bãi rác đi
vào môi trường xung quanh mang theo nhiều thành phần ô nhiễm. Trong hầu hết
các bãi rác đô thò, một phần nước rò rỉ là do chất lỏng sinh từ sự phân hủy các vật
chất hữu cơ và phần còn lại là do chất lỏng đi từ ngoài vào bãi rác như: hệ thống
thoát nước bề mặt, nước mưa và nước ngầm.
Khi nước rò rỉ thấm xuyên qua chất thải rắn đang bò phân hủy yếm khí ở các
tầng bên dưới của bãi rác sẽ mang theo các thành phần ô nhiễm hóa học và sinh
học. Nước rò rỉ có chứa nhiều chất hòa tan và có thể có cả các vi khuẩn gây bênh
di chuyển thâm nhập vào nguồn nước ngầm, kết quả là nguồn nước ngầm bò ô
nhiễm nặng.
2.2.4 Tác hại của RTSH lên cảnh quan và sức khoẻ công đồng:
Các sinh vật lây truyền bệnh (vectors), ô nhiễm nước và không khí không
phải là vấn đề lớn tại một bãi chôn lấp rác được vận hành và bảo dưỡng đúng qui
cách. Việc nén chặt tốt chất thải, tạo lớp phủ mỗi ngày cho chất thải rắn với việc
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 17
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
nén chặt lớp phủ, và quản lý nội tại tốt là những công việc cần phải làm để kiểm
soát ruồi, các loài gặm nhấm và sự cháy.
Việc đốt cháy, mà nó có thể gây ra ô nhiễm không khí, không bao giờ cho

phép ở một bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh. Nếu sự cháy xảy ra bất ngờ, chúng cần
phải được dập tắt ngay tức khắc bằng cách sử dụng đất, nước hoặc hóa chất. Mùi
hôi thối có thể được kiểm soát bằng cách tạo một lớp phủ lên chất thải một cách
nhanh chóng và cẩn thận, và bằng cách bít kín bất kỳ những chỗ rò ró nào có thể
phát triển trong lớp phủ.
Với khối lượng lớn RTSH hàng ngày ở các đô thò, nếu không được thu gom
và quản lý tốt sẽ gây ra các vấn đề ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng xấu đến sức
khỏe cộng đồng và làm mất vẽ mỹ quan của các đô thò. RTSH ở các đô thò thường
rất phức tạp gồm đủ mọi loại, trong đó chiếm đa số là các thành phần hữu cơ. Các
thành phần hữu cơ trong RTSH có đặc tính phân hủy sinh học nhanh trong điều
kiện khí hậu nóng ẩm, sản sinh ra mùi hôi thối khó chòu và trở nên cực kỳ hấp
dẫn với chuột, ruồi, bọ và các loại côn trùng khác. Trực khuẩn thương hàn, trực
khuẩn lỵ, trực khuẩn lao… tồn tại được từ 4 đến 42 ngày trong rác. Riêng trực
khuẩn phó thương hàn tồn tại lâu hơn từ 24 đến 107 ngày. Trong rác sinh hoạt của
các đô thò và thành phố lớn với thành phần chất hữu cơ chiếm 30 – 70%, trong
điều kiện khí hậu ẩm ướt của các vùng nhiệt đới như Việt Nam (độ ẩm 50 – 80%)
là môi trường thuận lợi cho các vi sinh vật gây bệnh phát triển như: vi trùng
thương hàn (Salmonnella typhi, Salmonnella paratyphi A&B; lỵ (Shtaalla spp);
tiêu chảy (Escherichia coli); lao (Mycobacterium tubecudis); bạch hầu (Coryner
bacterium doptheriac); giun sán (Ascaris lumbricosdis taciaasagi-nata);… Những
loại ký sinh trùng này tồn tại và phát triển nhanh chóng, gây nên những ảnh
hưởng xấu đối với sức khỏe cộng đồng.
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 18
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
Ngoài những thùng rác gia đình không đúng tiêu chuẩn, thiếu nắp đậy, rác
thải thường đổ bừa bãi ở gốc cây, đầu đường, ngõ hẻm, cống thoát nước, kênh
rạch hoặc thậm chí bất cứ nơi nào mà người ta muốn. Sau mỗi đợt tổng vệ sinh,
thực hiện chiến dòch làm sạch lòng lề đường, rác vẫn tiếp tục tồn tại.

Việc thu gom, xử lý bất hợp lý chất thải rắn cũng là nguyên nhân quan trọng
làm tăng sự xuống cấp nghiêm trọng của hệ thống thoát nước. Rác nhiều khi được
đổ bừa bãi trực tiếp vào hệ thống cống rãnh cũng như kênh rạch tiêu thoát nước,
làm tắc nghẽn các hệ thống cống thoát nước, cản trở dòng chảy, bồi lắng kênh
rạch… gây ô nhiễm nặng nề đến chất lượng các nguồn nước và ảnh hưởng xấu
đến các hệ sinh thái nước.
2.3 HIỆN TRẠNG QUẢN LÝ RTSH Ở VIỆT NAM
Ở nước ta do điều kiện kinh tế chưa phát triển nên hầu hết các đô thò chưa
được đầu tư thích đáng cho công tác xử lý rác. Những thành phố lớn như Hà Nội
và Thành phố Hồ Chí Minh đã đầu tư xây dựng nhà máy chế biến rác làm phân
hữu cơ. Một số đô thò khác đã và đang lập dự án bãi chôn lấp hợp vệ sinh và chế
biến rác làm phân hữu cơ.
2.3.1 Tình hình nghiên cứu trên thế giới:
Như chúng ta đã biết những thách thức và nguy cơ toàn cầu về nhòp độ cạn
kiệt, suy thoái các nguồn tài nguyên thiên nhiên và gia tăng lượng RTSH do dân
số ngày càng tăng và nhu cầu tiêu thụ của con người ngày càng nhiều. Ảnh hưởng
ngược lại của những dấu hiệu suy thoái và ô nhiễm đó tới tăng trưởng và phát
triển kinh tế – xã hội đang là mối quan tâm sâu sắc của nhiều quốc gia, nhiều tổ
chức quốc tế và các nhà khoa học ở khắp mọi nơi trên thế giới. Điều này đã thúc
đẩy việc hình thành và phát triển nhanh chóng một lónh vực khoa học công nghệ
mới có tính chất liên ngành trong khoảng hơn 100 năm qua ở lónh vực Khoa học
Công nghệ Môi trường, nhằm góp phần giải quyết các vấn đề liên quan đến việc
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 19
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
khai thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên và xử lý chất thải,
bảo vệ môi trường.
Những thành tựu của khoa học và công nghệ môi trường đã cung cấp nhiều
giải pháp khác nhau để xử lý chất thải rắn công nghiệp một khi chúng đã được

sinh ra, tuy nhiên các giải pháp đó nhìn chung được tiến hành theo 2 phương thức
cơ bản:
- Chôn lấp hợp vệ sinh ở các bãi chôn lấp rác.
- Chế biến chất thải rắn công nghiệp thành tài nguyên tái tạo (vật liệu
và/hoặc năng lượng) cùng với việc chôn lấp những phần còn lại tiếp
sau đó.
Nhiều kỹ thuật và công nghệ mới cho việc chôn lấp và thiêu đốt CTR đã
được khám phá và ngày càng phát triển nhằm nâng cao hiệu quả xử lý và bảo vệ
môi trường.
Mặc dù các kỹ thuật và công nghệ chôn lấp RTSH đã được biết đến khá
sớm, chi phí xử lý cũng không quá cao nhưng hiện nay phương thức này không
còn được ưa chuộng ở nhiều quốc gia với lý do căn bản là tốn quá nhiều đất cho
việc chôn lấp và tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với môi trường (đặc biệt đối với nước
ngầm). Ở các quốc gia châu Âu, việc chôn lấp trực tiếp chất thải sẽ bò cấm trong
vòng 10 ÷ 15 năm tới bởi một luật lệ chung (hiện nay Thụy Sỹ đã cấm việc này).
Thay vào đó, phương thức chế biến RTSH thành tài nguyên tái tạo (dưới dạng vật
chất và/hoặc năng lượng), mặc dù có chi phí xử lý cao hơn nhưng chúng ngày
càng được ưa chuộng hơn vì một mặt là nhằm để khắc phục các nhược điểm của
phương thức chôn lấp truyền thống và mặt khác, cho phép bảo tồn tài các nguồn
nguyên thiên nhiên và thu lợi từ việc bán các sản phẩm tái sinh (vật liệu/năng
lượng) ngoài thò trường.
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 20
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
Phần lớn các lò đốt rác hiện đại được thiết kế nhằm mục đích thu hồi lại
năng lượng. Ý tưởng này đã có từ hơn 100 năm qua. Hệ thống chế biến rác đô thò
thành điện năng lần đầu tiên được xây dựng ở Hamburg (Đức) vào năm 1896.
Năm 1903, lần đầu tiên ở Mỹ, nhiều nhà máy đốt rác sản xuất ra điện năng được
mọc lên ở thành phố New York và Hiện nay ở Mỹ đã có trên 200 nhà máy chế

biến CTR thành năng lượng. Người ta đốt cháy chất thải rắn trong một lò đốt đặc
biệt được thiết kế theo kiểu lò đốt được bao bọc xung quanh bằng các ống chứa
đầy nước để thu hồi lại nhiệt ở dạng hơi nước. Hơi nước có thể được sử dụng trực
tiếp để gia nhiệt hoặc sản xuất ra điện. Theo số liệu nghiên cứu của Nhật, số
lượng lò đốt rác ở các nước công nghiệp phát triển vào năm 1994: Nhật – 1.892,
Mỹ – 148, Canada – 17, Đức – 53, Hà Lan – 11, Thụy Điển – 21 đã phản ảnh xu
thế rõ ràng của việc sử dụng phương pháp nhiệt để xử lý CTR. Nhiều quốc gia
cũng đã ban hành các chính sách nhằm khuyến khích và kêu gọi cộng đồng sử
dụng điện bằng cách mua điện được sản xuất từ các nhà máy đốt rác. Với hiệu
quả thu hồi nhiệt và sản xuất điện, các nhà máy chế biến rác thành năng lượng có
thể sản xuất ra khoảng 600 kWh điện năng trên mỗi tấn chất thải rắn sinh hoạt.
Mặc dù đã đạt được một số tiến bộ nhất đònh trong việc xử lý chất thải rắn
bằng phương pháp đốt, song người ta vẫn không khỏi lo ngại về việc phát sinh ra
các chất thải thứ cấp từ các lò đốt rác. Nhiều báo cáo cho thấy có một lượng lớn
dioxins phát thải từ lò đốt chất thải rắn.
Theo tài liệu “Nghiên cứu tổng thể các lò đốt chất thải” do Chính phủ Nhật
Bản thực hiện năm 1997, hệ số phát thải dioxins theo khí thải lò đốt trung bình là
4,5 µg TEQ/tấn chất thải; theo tro bay là 45 µg TEQ/tấn chất thải và tích tụ trong
tro đáy lò là 3,45 µg TEQ/tấn chất thải. Kết quả nghiên cứu này đã chỉ rõ rằng
hầu hết dioxins phát thải ra môi trường chủ yếu theo tro bay với tải lượng phát
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 21
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
thải lớn gấp 10 lần so với khí thải. Điều này đặt ra vấn đề là cần ưu tiên xử lý tro
trong kiểm soát ô nhiễm không khí từ các lò đốt.
Thành tựu mới nhất liên quan đến vấn đề này là phát triển công nghệ nung
chảy tro và hóa khí kết hợp trong hệ thống lò đốt CTR. Việc nung chảy tro và hóa
khí ngay trong hệ thống lò đốt không chỉ cho phép phân hủy toàn bộ dioxin mà
còn ổn đònh kim loại nặng trong tro. Nhật là một trong những quốc gia đi đầu về

lónh vực công nghệ này và phát triển rất nhanh (năm 2000 Nhật đã lắp đặt 29 hệ
thống lò đốt so với 7 hệ thống đã được lắp đặt vào năm 1999). Chính phủ Nhật
đang phấn đấu loại trừ hoàn toàn sự phát thải dioxin vào năm 2005 thông qua sự
phát triển công nghệ này.
Vượt lên trên tất cả vẫn là các nỗ lực nhằm giảm thiểu lượng chất thải rắn
công nghiệp đưa đi xử lý (bao gồm cả việc ngăn ngừa sự phát sinh ra chất thải
ngay tại nguồn và tối đa hóa việc tái sử dụng chất thải công nghiệp). Thực tế đã
chỉ cho thấy rằng, cách tiếp cận truyền thống trong việc quản lý chất thải rắn –
tức là tập trung vào việc xử lý chất thải một khi nó đã được sinh ra (được biết đến
với tên gọi khá quen thuộc “end of pipe approach”) ngày càng bộc lộ rõ nhiều
nhược điểm:
- Không khuyến khích giảm chất thải.
- Lãng phí trong việc sử dụng các nguồn tài nguyên – nguyên nhân chính
của sự cạn kiệt và suy thoái tài nguyên thiên nhiên ở qui mô toàn cầu.
- Tốn nhiều đất cho việc chôn cất chất thải rắn.
- Nhiều rủi ro về mặt môi trường.
- Không có cơ mai cho việc thu hồi vốn đầu tư xây dựng và vận hành các hệ
thống xử lý chất thải rắn nếu xét đơn thuần về mặt xử lý để thỏa mãn các yêu
cầu bảo vệ môi trường.
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 22
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
Chính vì vậy, xu hướng hiện nay trên thế giới đang thiên về cách tiếp cận
“phòng ngừa” hơn là xử lý ở cuối đường ống mà chúng ta đã được biết đến với
tên gọi là “Quản lý thống nhất và tổng hợp chất thải rắn” (Integrated Solid Waste
Management).
Chỉ trong vòng khoảng 10 – 15 năm qua, ở châu Âu và gần đây là ở Bắc
Mỹ, đã dấy lên phong trào mạnh mẽ từ bỏ cách tiếp cận “ở cuối đường ống”
trong quản lý chất thải công nghiệp, đồng thời hướng tới các chiến lược giảm

thiểu chất thải. Trong khoảng thời gian này, nhiều ý tưởng mới đã được nảy sinh
nhằm làm giảm các chất thải ngay tại nguồn.
Những chiến lược môi trường với nhiều tên gọi khác nhau, chẳng hạn như:
Ngăn ngừa ô nhiễm (Pollution Prevention – P2), Giảm thiểu chất thải (Waste
Minimization – WM), Sản xuất sạch hơn (Cleaner Production – CP)… dần dần
được tiếp cận như là một sự cần thiết để giảm các khoản chi phí khổng lồ cho
việc xử lý chất thải và các hành động làm sạch môi trường. Kết quả là hiện tại ở
nhiều nước trên thế giới, cách tiếp cận “ở cuối đường ống” đang được thay thế
dần bằng cách tiếp cận tích cực được ưa chuộng hơn – đó là giảm thiểu chất thải.
2.3.2 Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam:
Hiện nay nước ta đã xuất hiện nhiều điểm sáng trong cuộc vận động thu
gom phân loại RTSH góp phần sạch đẹp môi trường sống của các đô thò và khu
dân cư. Ở nhiều tỉnh đã thành lập các hợp tác xã, các công ty trách nhiệm hữu
hạn trách nhiệm dòch vụ việc thu gom rác dọn vệ sinh đường phố. Điển hình nhất
có thể nói là tỉnh Thái Bình. Tỉnh Thái Bình đã triển khai khá thành công chương
trình này trên toàn thò xã Thái Bình: vừa thu gom rác vừa vận động, giáo dục
người dân phân loại RTSH tại nguồn một cách có kết quả. Một số cá nhân đã làm
kinh tế thành công bằng thu gom phân loại và tái chế rác, trong đó có cả xử lý
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 23
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
RTSH hữu cơ thành phân bón vi sinh như ởø Hưng Yên, Hải Phòng, Thái Bình,
Bình Thuận…
Tại các thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng việc thu
gom RTSH do công ty môi trường đô thò đảm nhiệm cũng đã có nhiều đổi mới,
giải quyết môi trường sạch đẹp. Tuy nhiên do vấn đề phân loại RTSH tại các hộ
gia đình và những nơi công cộng chưa giải quyết được nên gây khó khăn cho nhà
máy sản xuất phân bón hữu cơ vi sinh từ RTSH cũng như vấn đề chuyên chở rác
và bãi chôn lấp rác.

Năm 2002, Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển nông nghiệp bền vững của
trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội đã triển khai một dự án nhỏ thử nghiệm thu
gom và phân loại rác thải sinh hoạt tại nguồn (PLRTSHTN). Kết quả nghiên cứu
thử nghiệm này cho thấy công tác tuyên truyền vận động cộng đồng có tác dụng
rất lớn để tăng sự hiểu biết và hưởng ứng của dân chúng, cộng đồng. Tuy nhiên,
để thay đổi thói quen từ chỗ cho rác hỗn hợp vào thùng rác đến phân loại từng
loại RTSH không dễ dàng thực hiện. Cần phải có sự hỗ trợ nhất đònh của các tổ
chức hoặc nhà nước như: cấp thùng/túi đựng rác để phân loại theo rác hữu cơ,
thành lập các độ cán bộ tình nguyện đi tuyên truyền, vận động và giám sát việc
phân loại rác; tổ chức xe, người thu gom chuyên chỏ RTSH đến nơi chế biến… Sự
hổ trợ này phải được thực hiện kiên trì, nhiều năm đến vài thế hệ mới trở thành
thói quen xã hội.
Báo cáo mới nhất công bố cuối tháng 11/2004, mang tên Diễn biến môi
trường Việt Nam năm 2004 là kết quả hợp tác giữa Bộ Tài Nguyên và Môi
Trường, WB và CIDA thông qua dự án Waste-Econ của Canada đã chỉ ra những
thử thách lớn nhất mà Việt Nam phải vượt qua trong lónh vực bảo vệ môi trường.
Theo đó, mỗi năm Việt Nam sản sinh trên 15 triệu tấn chất thải, trong đó
phần lớn không được thiêu đốt an toàn đang là một trong những nguy cơ gấy ô
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 24
MSSV: 02ĐHMT279
Nghiên cứu hiện trạng môi trường và xây dựng các giải pháp quản lý rác thải sinh hoạt
tại thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Ròa – Vũng Tàu
nhiễm môi trường và sức khoẻ cộng đồng. Theo báo cáo này, việc xử lý chất thải
đúng cách bao gồm tái sử dụng và tái chế, thu gom, xử lý và tiêu huỷ là thiết yếu
nhằm cung cấp một hệ thống quản lý chất thải có hiệu quả về mặt chi phí và có
khả năng hạn chế rủi ro với sức khoẻ cộng đồng và môi trường.
Việt Nam là một trong những nước có nền kinh tế khá tăng trưởng. Tuy
nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh chóng đồng thời làm nảy sinh các thách
thức không lường trước được với môi trường, đặc biệt là ở các khu đô thò mới và
các KCN, nơi RTSH trở thành vấn đề nổi cộm gấy ra các tác động đến sức khoẻ

cộng đồng và môi trường.
Việt Nam đã có những biện pháp đáp ứng với một khung pháp lý tốt, kế
hoạch đầu tư mạnh mẽ và tập trung vào mục tiêu nâng cao chất lượngdòch vụ ở
cấp đòa phương, đặc biệt là ở các thành phố lớn. Trong nhiều thập kỹ qua, Việt
Nam đã có nhiều tiến bộ trong việc cải thiện hệ thống quản lý RTSH, nhưng vẫn
còn nhiều hạn chế. Sau đây là một số hệ công nghệ xử lý RTSH tại các đô thò ở
Việt Nam:
Nhà máy xử lý rác Nam Thành – Ninh Thuận:
Nhà máy được khởi công xây dựng trong vòng 8 tháng và chính thức đi vào
hoạt động từ 01/01/2003 cho đến nay. Tổng số vốn đầu tư xây dựng của Công ty
ban đầu là 30 tỷ. Đây là nhà máy xử lý RTSH tư nhân tự bỏ vốn xây dựng. Nhà
máy chủ yếu thu gom và xử lý lượng RTSH tại Tp Phan Rang.
Thực tế hiện nay cho thấy các trang thiết bò hiện đại nhập từ nước ngoài rất
tốn kém nhưng khi đưa vào hoạt động thì không hiệu quả. Vì vậy công ty đã
nghiên cứu chế tạo và cải tiến tất cả các thiết bò để cho phù hợp với tích chất rác
thải của Việt Nam. Hiện nay công ty đang tiến hành các quy trình mới cho nhà
máy hiện đại hơn. Công ty đã có đăng ký độc quyền sáng chế xử lý.
SVTH: Trần Thò Tiên Trang 25
MSSV: 02ĐHMT279

×