MỤC LỤC
TÓM LƯỢC
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một loại hình hợp đồng chính được sử dụng trong hoạt
động của công ty. Mặc dù đã phát triển từ rất lâu, là hợp đồng phổ biến nhưng việc đôi
khi cá công ty thường coi nhẹ việc giao kết và thực hiện hợp đồng này. Việc nghiên cứu
về hoạt động mua bán hàng hóa là thật sự cần thiết bởi đây là một vấn đề quan trọng
không chỉ đối với bản thân công ty, mà còn đối với sự phát triển của luật quốc gia bởi
hiện nay việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa không còn giới hạn ở trong nội địa
của một quốc gia nữa mà nó đã vươn ra tầm quốc tế.
Trong bài khóa luận này, phạm vi đề tài em chọn Công ty cổ phần thương mại và dịch
vụ Phúc Minh làm địa điểm thực tế. Bằng những kiến thức đã học tại trường Đại học
Thương mại và những gì thu nhặt được em hy vọng sẽ đóng góp một số giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa, đặc biệt đẩy mạnh tính hiệu quả của
vấn đề này tại Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Phúc Minh.
Qua quá trình nghiên cứu, đề tài đã đạt được một số kết quả sau:
1. Xác định rõ những vấn đề cần nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật đối với hợp
đồng mua bán hàng hóa, cũng như những vấn đề liên quan đến giao kết và thực hiện hợp
đồng mua bán hàng hóa.
2. Làm rõ những lý luận cơ bản liên quan đến pháp luật điều chỉnh hoạt động giao
kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, cơ sở ban hành pháp luật, những nguyên tắc,
nội dung pháp luật điều chỉnh đến hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung.
3. Tìm hiểu nhân tố ảnh hưởng, phân tích thực trạng thực hiện vấn đề này tại công ty
cổ phần thương mại và dịch vụ Phúc Minh.
4. Đưa ra định hướng nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng, đồng
thời đề xuất những kiến nghị để góp phần hoàn thiện vấn đề này.
Kết quả nghiên cứu mang yếu tố thực tiễn, có thể áp dụng tham khảo cho vấn đề xây
dựng pháp luật liên quan đến giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa của Nhà
nước và hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa không chỉ ở công ty cổ
phần thương mại và dịch vụ Phúc Minh mà còn ở các công ty cổ phần tương tự.
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập tại trường Đại học Thương mại, được sự chỉ bảo tận tình của
các Thầy Cô, em đã có được những kiến thức, bài học quý báu. Đó thật sự là một món
quà vô giá. Em xin chân thành cảm ơn quý Thầy Cô, đặc biệt là các Thầy giáo, Cô giáo
trong khoa Kinh tế-Luật trường Đại học Thương mại đã dạy dỗ, tạo điều kiện thuận lợi
cho em thực hiện Khóa luận trong suốt thời gian qua.
Em xin cảm ơn TS.Trần Thành Thọ đã tận tâm, nhiệt tình giúp đỡ trong quá trình thực
hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này.
Đồng thời, tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các anh, các chị cán bộ công nhân viên
công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Phúc Minh đã tạo điều kiện cho em có khoảng
thời gian quý báu học tập và nghiên cứu tại quý công ty.
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề pháp lý liên quan, nhưng do
trình độ lý luận, kiến thức bản thân còn có phần hạn chế nên bài khóa luận không tránh
khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận được sự phản hồi, góp ý của Thầy, Cô giáo để
khóa luận được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên thực hiện
Phạm Minh Hoàng
DANH MỤC BẢNG BIỂU – SƠ ĐỒ
SƠ ĐỒ 1 Sơ đồ bộ máy tổ chức
BIỂU ĐỒ
1
Doanh thu các năm của công ty cổ phần thương mại và
dịch vụ Phúc Minh
DANH MỤC VIẾT TẮT
BLDS Bộ Luật Dân Sự
LTM Luật Thương Mại
Cty CPTM&DVPM Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Phúc Minh
Cty TNHH Công ty trách nhiệm hữu hạn
HĐMBHH Hợp đồng mua bán hàng hóa
HĐMBTS Hợp đồng mua bán tài sản
WTO
Tổ chức thương mại thế giới (World Trade
Organization)
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập vào tổ chức thương mại thế
giới WTO sau 8 năm đàm phán. Để chuẩn bị tham gia và chấp nhận những luật lệ chung
cho hầu hết các nước trên thế giới, luật pháp Việt Nam đã có những thay đổi căn bản
nhằm làm thu hẹp khoảng cách giữa luật Việt Nam và luật quốc tế, tạo sân chơi bình
đẳng cho tất cả các bên tham gia vào hoạt động thương mại tại Việt Nam. Đáp ứng các
yêu cầu đó, năm 2005, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nhiều đạo luật mới trong đó có
bao gồm Bộ luật Dân sự 2005 và Luật Thương mại 2005 thay thế cho Bộ luật Dân sự và
Luật Thương mại cũ đồng thời chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Đây là
một thay đổi lớn đối với toàn bộ hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về hợp đồng
nói riêng.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là quan hệ trao đổi hợp pháp mà hầu hết các cá nhân tổ
chức kinh doanh đều phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát triển. Việc kí kết, thực
hiện hợp đồng phải tuân theo đúng các quy định của pháp luật mới có thể giúp gắn chặt
mối quan hệ hợp tác, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, đồng thời góp phần
tăng cường hiệu quả quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế.
Với sự ra đời của các đạo luật nêu trên, quy định về pháp luật hợp đồng hiện nay đã
khá đầy đủ và có hệ thống. Tuy nhiên việc áp dụng các chính sách mới trong việc kí kết
và thực hiện hợp đồng vẫn đang có nhiều vấn đề cần bàn luận. Chính vì thế ta có thể thấy
được vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa đối với doanh nghiệp là vô cùng quan
trọng. Nếu như việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa không diễn ra một
cách thuận lợi thì làm sao doanh nghiệp có thể kí kết được những đơn hàng lớn, để đem
lại nguồn lợi nhuận cho công ty, đồng thời tránh được những tổn thất không đáng có
trong quá trình kinh doanh.
Khi 2 bên thường được gọi là bên bán và bên mua tiến hành mua bán hàng hóa với
nhau thì nảy sinh một hình thức được hai bên ký kết có thể bằng miệng, bằng văn bản,
bằng email, fax. Đó chính là hợp đồng mua bán hàng hóa.
Trong đời sống xã hội, sự xuất hiện , tồn tại và phát triển của hợp đồng nói chung và
hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng đã chứng minh đó là một hình thức pháp lý thích
hợp và hiệu quả trong việc đảm bảo sự vận động của hàng hóa và tiền tệ. Khi nền kinh tế
5
phát triển, xã hội văn minh thì việc điều chỉnh bằng pháp luật quan hệ hợp đồng ngày
càng cần thiết, càng được coi trọng và hoàn thiện. Việc áp dụng hợp đồng vào trong mua
bán hàng hóa, dù ít hay nhiều thì nó cũng đóng vai trò quan trọng, không còn quan niệm
trao đổi đơn thuần thông qua miệng hoặc văn bản đơn giản, mà thay vào đó là những hợp
đồng phức tạp và mang tính ràng buộc hơn, tăng thêm tính trách nhiệm giữa các chủ thê
của hợp đồng
Trong các loại hợp đồng thì hợp đồng mua bán hàng hóa có vai trò quan trọng đối với
mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh. Đó là quan hệ trao đổi hợp pháp mà tất cả các tổ chức
sản xuất kinh doanh đều phải thực hiện trong quá trình tồn tại và phát triển của chúng. Nó
đóng vai trò quan trọng bởi, phần lớn lợi nhuận của công ty đến từ hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Trong quá trình thực tập tại công ty cổ phần Thương Mại và Dịch Vụ Phúc Minh em
thấy được số lượng hợp đồng mua bán hàng hóa chiếm phần tổng số các loại hợp đồng
tại công ty. Mặc dù nhiều như vậy nhưng trong quá trình thực hiện, thiết lập hợp đồng
vẫn còn nhiều bất cập và mang nặng tính hình thức. Bên cạnh đó việc không có 1 ban
pháp chế riêng cũng đã khiến phần nào công việc soạn thảo hợp đồng cũng như việc xây
dựng những điều khoản cho hợp đồng còn tồn tại nhiều bất hợp lí, chưa hoàn thiện
2. Tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là bộ phận pháp luật có vai trò quan trọng
trong pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Chế định về hợp đồng đã được đề cập trong
pháp luật Việt Nam ngay từ sự ra đời của Bộ Quốc triều hình luật năm 1483 và Bộ luật
Gia Long năm 1815 Tuy nhiên, pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa thực sự được
định hình với các quy định của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 và đặc biệt sau đó
là Bộ luật Dân sự năm 1995, Luật Thương mại năm 2005 và Bộ luật Dân sự năm
2005.Vấn đề pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa đã được nhiều
nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu nhằm phân tích, luận giải và đưa
ra kiến nghị.
Có khá nhiều các công trình nghiên cứu cũng như bài viết liên quan đến vấn đề này
như luận văn của Phạm Thị Hải Ninh về “Giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế tại Công ty TNHH Vật tư khoa học kỹ thuật Đông Dương- Indochina, luận
văn của Phạm Thị Lan Phương về “ Hợp đồng mua bán hàng hóa từ lý thuyết đến thực
6
tiễn áp dụng tại công ty TNHH IPC”, luận văn của Thái Tăng Bang về “Giải quyết tranh
chấp phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế “, … Những công trình này đã
tiếp cận ở những góc độ khác nhau của vấn đề mua bán hàng hóa như vấn đề giao kết
hợp động, thực hiện hợp đồng, xử lý vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa… Tuy nhiên
nhiều nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa chưa được các công trình nêu trên khai
thác hoặc khai thác chưa đẩy đủ như quan hệ hợp đồng, vấn đề lựa chọn luật áp dụng và
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng…
Như vậy có thể nói, liên quan đến vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa , hiện nay có
khá nhiều các công trình nghiên cứu có giá trị được tiến hành. Tuy nhiên, các lĩnh vực
nghiên cứu của các công trình hầu như chỉ là một mặt của hợp đồng mua bán hàng hóa,
chứ chưa có cái nhìn tổng quát về hợp đồng mua bán hàng hóa.Hay nói một cách khác,
lĩnh vực nghiên cứu này vẫn còn tồn tại một số vấn đề đang còn tranh luận cần tiếp tục
làm rõ trong điều kiện hiện hành ở Việt Nam.
3. Xác lập và tuyên bố vấn đề nghiên cứu của đề tài
Từ những phân tích ở trên, em đã chọn đề tài “ Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa áp dụng thực tiễn tại công ty cổ phần thương mại và dịch Phúc Minh“ để làm khóa
luận tốt nghiệp. Quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa không chỉ là quan hệ giữa các
thương nhân trong nước với nhau mà còn là quan hệ giữa các thương nhân trong nước
với các thương nhân nước ngoài. Song để tập trung vào nội dung cần bàn bạc, bài luận
văn sẽ chỉ đề cập đến những vấn đề pháp lý và thực tiễn liên quan đến hợp đồng mua bán
hàng hóa trong nước.
4. Đối tượng, mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với đề tài trên, thì đối tượng của đề tài chính là pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa và thực trạng áp dụng vấn đề đó.
Mục đích của đề tài là luận giải những vấn để lý luận của pháp luật Việt Nam về hợp
đồng mua bán hàng hóa; tiến hành phân tích, đánh giá việc thực hiện những quy định đó
tại công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Phúc Minh; qua đó đề xuất những giải pháp
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa nhằm đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn khách quan trong điều kiện kinh tế thị trường và xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế của nước ta hiện nay.
7
Với mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài được xác định cụ thể
gồm:
Luận giải những vấn đề lý luận của pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa.
Phân tích một cách có hệ thống về thực trạng và thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam
điều chính vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần thương mại và dịch
vụ Phúc Minh
Đề xuất các giải pháp cũng như kiến nghị hoàn thiện cho pháp luật Việt Nam về hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Từ những điều nói trên, ta có thể thấy một điều rõ ràng rằng phạm vi nghiên cứu của
đề tài là “ pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa và áp dụng thực tiễn tại Công ty cổ
phần thương mại và dịch vụ Phúc Minh”
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm đường lối của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới, đề tài tập trung sử
dụng một số phương pháp chủ yếu: phương pháp phân tích, tổng hợp,.
Ngoài ra, để có thể đánh giá một cách chính xác xem công ty có thực hiện đùng các
quy định của pháp luật hay không thì trước tiên chúng ta phải xem xét tình hình hoạt
động của công ty đó hiện tại như thế nào đã. Để làm được điều đó trước tiên chúng ta cần
phải biết thu thập và xử lý những số liệu của công ty.Qua đó chúng ta có thể thấy được
những phương pháp được sử dụng đến là phương pháp định tính và phương pháp định
lượng nhằm giúp cho chúng ta thu thập được những số liệu cần thiết.
Đề tài cũng kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn trong việc nghiên cứu và giải
quyết những vấn đề mà đề tài đặt ra.
6. Kết cấu của khóa luận tốt nghiệp
Kết cấu của khóa luận bao gồm các phần phụ thêm như: Tóm lược, danh mục bảng
biểu, danh mục tóm tắt, lời cảm ơn, lời mở đầu… thì phần nội dung chính của khóa luận
tốt nghiệp gồm 3 chương:
Chương 1: Những lý luận cơ bản về pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng mua bán
hàng hóa.
8
Chương 2 : Thực trạng pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa tại
công ty cổ phần thương mại & dịch vụ Phúc Minh.
Chương 3: Một số giải pháp( kiến nghị) hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn tận tình và khoa học của TS. Trần
Thành Thọ cũng như sự giúp đỡ tận tình của các anh chị cán bộ công nhân viên Cty cổ
phần thương mại và dịch vụ Phúc Minh. Em xin chân thành cảm ơn.
Do kiến thức cũng như kinh nghiệm còn hạn chế với thời gian khảo sát thực tế chưa
nhiều nên những thiếu sót trong khóa luận này là không thể tránh khỏi. Em rất mong
nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn có quan tâm đến vấn đề này để đề
tài được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
9
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VẤN
ĐỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1. Khái niệm về hoạt động thương mại
Theo Khoản 1, Điều 3, Luật Thương mại (LTM) đã định nghĩa: “Hoạt động thương
mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của thương nhân, bao gồm việc
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ thương mại và các hoạt động xúc tiến thương mại
nhằm mục đích lợi nhuận hoặc thực hiện chính sách kinh tế - xã hội”
1
. Như vậy hành vi
thương mại đã cấu thành nên hoạt động thương mại và hoạt động thương mại cũng gắn
liền với chủ thể là thương nhân. Có thể nói rằng hoạt động thương mại là một khái niệm
giản đơn, song phạm vi các hoạt động là rất rộng, nó bao gồm bốn loại: Hoạt động mua
bán hàng hóa ở thị trường trong nước (của thương nhân Việt Nam và thương nhân nước
ngoài); cung ứng dịch vụ cho khách hàng; các hoạt động xúc tiến thương mại như: quảng
cáo, trưng bày giới thiệu hàng hóa, hội chợ, triển làm hàng hóa; các hoạt động trung gian
thương mại.
1.1.2. Khái niệm về hợp đồng
Theo Điều 388 – Bộ luật Dân sự “Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về
việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”
2
. Nguyên tắc giao kết hợp
đồng dân sự là tự do, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
Như vậy hợp đồng được hiểu là sự thể hiện ý chí của các bên bằng việc thoả thuận với
nhau về quyền và nghĩa vụ của các bên, xác định khi nào và trong điều kiện nào thì các
quyền và nghĩa vụ này được xác lập, được thay đổi và chấm dứt. Các chủ thể tham gia
hợp đồng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân hoặc các loại chủ thể khác. Khách thể của
hợp đồng chính là đối tượng của hợp đồng, có thể là tài sản, hàng hoá hoặc dịch vụ.
Nguyên tắc quan trọng và được pháp luật bảo vệ là nguyên tắc tự do thoả thuận, bình
đẳng và thiện chí trong việc giao kết, thực hiện hợp đồng, không phân biệt mục đích của
hợp đồng là kinh doanh thu lợi nhuận hay nhằm phục vụ cho tiêu dùng.
1 Xem điều 3 – Bộ luật Dân sự 2005
2 Xem điều 388 – Bộ luật Dân sự 2005
10
1.1.3. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.3.1. Mua bán hàng hóa
“Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng,
chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; còn bên mua có nghĩa
vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”
1
(Điều
3, Khoản 8, LTM 2005)
1.1.3.2. Hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa (HĐMBHH) có bản chất chung của hợp đồng và mang
đầy đủ các đặc điểm mà hợp đồng có, nó là sự thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể trong quan hệ mua bán hàng
hóa. LTM không đưa ra định nghĩa về HĐMBHH trong thương mại nhưng chúng ta có
thể dựa vào khái niệm của hợp đồng mua bán tài sản trong Bộ luật Dân Sự (BLDS) để
xác định bản chất của HĐMBHH.
Theo Điều 428, BLDS có quy định “hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa
các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên
mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho bên bán”
2
. Hàng hóa thuộc tài sản và có
phạm vi hẹp hơn tài sản. Từ đó cho thấy, HĐMBHH trong kinh doanh – thương mại là
một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản.
1.1.4. Phân loại hợp đồng mua bán hàng hóa
Căn cứ vào yếu tố chủ thể, đối tượng, nơi xác lập và thực hiện hợp đồng thì
HĐMBHH bao gồm:
-Hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước.
-Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế áp dụng cho các phương thức:
• Xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa
• Tạm nhập, tái xuất hàng hóa.
• Tạm xuất tái nhập hàng hóa.
• Chuyển khẩu hàng hóa.
1 Xem Điều 3, Khoản 8, Luật Thương mại 2005
2 Xem Điều 428, Bộ luật Dân sự 2005
11
1.1.5. Đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.5.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa có đầy đủ những đặc điểm chung của hợp
đồng mua bán tài sản trong dân sự
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức pháp lí là
hợp đồng mua bán hàng hoá (HĐMBHH). HĐMBHH có bản chất chung của hợp đồng,
là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan
hệ mua bán. Dù LTM 2005 không đưa ra định nghĩa về HĐMBHH song có thể các định
bản chất pháp lí của HĐMBHH trong thương mại trên cơ sở Điều 428, BLDS về hợp
đồng mua bán tài sản (HĐMBTS). Do đó, HĐMBHH trong thương mại là một dạng cụ
thể của HĐMBTS, dù vẫn mang những nét đặc thù riêng về chủ thể, đối tượng, hình
thức…, thoả thuận về việc MBHH ở hiện tại hoặc MBHH sẽ có ở một thời điểm nào đó
trong tương lai đều có thể là một HĐMB. Quan hệ HĐMBHH sẽ hình thành bất cứ khi
nào nếu một chủ thể mua hàng hoá bằng tiền hoặc phương thức thanh toán khác và nhận
quyền sở hữu hàng hoá.
1.1.5.2. Hợp đồng mua bán hàng hóa có những đặc điểm riêng xuất phát từ bản
chất thương mại của hành vi mua bán hàng hóa
- Đặc điểm về chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa
HĐMBHH được thiết lập giữa các chủ thể trong đó ít nhất một trong các bên chủ thể
của HĐMBHH là thương nhân. Theo LTM 2005 quy định thương nhân bao gồm tổ chức
kinh tế được thành lập hợp pháp; cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập,
thường xuyên và có đăng ký kinh doanh.Thương nhân có thể mang quốc tích của Việt
Nam hoặc mang quốc tịch nước ngoài. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân không phải là
thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của HĐMBHH. Theo khoản 3 Điều 1 LTM
2005 quy định hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục
đích lợi nhuận trong quan hệ mua bán hàng hóa phải tuân theo LTM khi chủ thể này lựa
chọn áp dụng LTM.
- Đặc điểm về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Về hình thức của HĐMBHH có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói, bằng văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong một số trường hợp nhất định, pháp
luật bắt buộc các bên phải giao kết hợp đồng dưới hình thức văn bản, ví dụ như
HĐMBHH quốc tế- phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc bằng hình thức khác
có giá trị pháp lý tương đương như điện báo, TELEX, FAX hay thông điệp dữ liệu.
12
- Đặc điểm về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa
Về đối tượng của HĐMBHH có đối tượng là hàng hóa. Theo nghĩa thông thường có
thể hiểu hàng hóa là sản phẩm lao động của con người, được tạo ra nhằm mục đích thỏa
mãn nhu cầu của con người. Càng ngày cùng với sự phát triển của xã hội, hàng hóa càng
trở nên phong phú. Khái niệm hàng hóa được quy định trong luật pháp các nước hiện nay
dù có những khác biệt nhất định song đều có xu hướng mở rộng các đối tượng là hàng
hóa được phép lưu thông. Theo LTM 2005, hàng hóa là đối tượng của quan hệ mua bán
có thể là hàng hóa hiện đang tồn tại hoặc hàng hóa sẽ có trong tương lai; hàng hóa có thể
là động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại.
1.2. Cơ sở ban hành và nội dung pháp luật điều chỉnh vấn đề về hợp đồng mua bán
hàng hóa
1.2.1. Cơ sở ban hành các văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng mua
bán hàng hóa
Kinh tế thị trường là trình độ phát triển cao của kinh tế hàng hóa, trong đó các yếu tố “
đầu ra “ và “ đầu vào “ của sản xuất đều thông qua thị trường. Kinh tế hàng hóa là một
kiểu tổ chức kinh tế - xã hội trong đó sản phẩm sản xuất ra để bán, để trao đổi trên thị
trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hóa không phải để thỏa mãn nhu cầu
trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức để thỏa mãn nhu cầu của
người mua, đáp ứng nhu cầu của xã hội.Có thể nói kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa
có cùng nguồn gốc và bản chất tuy nhiên chúng khác nhau về trình độ phát triển.
Một trong những đặc điểm cơ bản của nền kinh tế thị trường là tự do trao đổi các sản
phẩm hàng hóa giữa người mua và người bán. Người bán bao giờ cũng muốn bán giá cao
còn người mua bao giờ cũng muốn mua với giá thấp do đó cần có sự thống nhất ý chí , có
sự thỏa thuận giữa người bán và người mua thể hiện qua hợp đồng. Nền kinh tế thị
trường là nền kinh tế của hệ thống các quan hệ hợp đồng, nếu thiếu hợp đồng thì nền kinh
tế không thể vận hành được.
Năm 1986, chúng ta bắt đầu đi vào đổi mới, các quan hệ kinh tế bắt đầu thay đổi, mọi
sự trao đổi thỏa thuận giữa người mua và nười bán, giữa các chủ thể của nền kinh tế đều
được thể hiện qua hợp đồng. Đây là tiền đề cơ bản để Pháp lệnh hợp đồng 1989 ra đời
nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn trong việc điều chỉnh các quan hệ trong việc giao kết và
thực hiện hợp đồng kinh tế. Sau đó, ngày 28/10/1995 đánh dấu sự ra đời cảu Bộ luật Dân
13
sự; Luật Thương mại thông qua ngày 10/5/1997 cũng có những quy định về hợp đồng
trong một số hành vi thương mại, nhưng Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 vẫn là căn cứ
áp dụng chủ yếu cho các quan hệ hợp đồng trong kinh doanh thương mại. Sau 16 năm áp
dụng và thực hiện, song hành với nó là sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường
sang nền kinh tế hội nhập. Nhận thấy rõ sự bất cập và lạc hậu của Pháp lệnh hợp đồng
1989, Luật Thương mại 1997, Bộ luật Dân sự 1995 trước đó, việc cho ra đời những luật
mới để phù hợp với xu thế phát triển, định hướng của nhà nước trong tương lai là rất cần
thiết. Và phải tận đến ngày 14/6/2005 thì Bộ luật Dân sự 2005 mới chính thứ được ra đời,
tiếp sau đó là Luật Thương mại 2005, chấm dứt thời hạn sử dụng của Pháp lệnh hợp đồng
1989 trong một thời gian dài, mở ra 1 chương mới về pháp luật hợp đồng, và nó đã và
đang tồn tại đến ngày nay.
Pháp luật hợp đồng của Việt hiện nay, tuy có một số hạn chế nhất định nhưng nhìn
chung được coi là khá tiến bộ và phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội trong
thời kỳ đổi mới. Pháp luật về hợp đồng của Việt Nam hiện nay đang được quy định trong
nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật kinh
doanh bảo hiểm…, tuy nhiên, Bộ luật dân sự được coi là luật gốc quy định các vấn đề
chung về hợp đồng, là nền tảng cho pháp luật về hợp đồng, điều chỉnh các quan hệ hợp
đồng được xác lập trên nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện, tự thoả thuận và tự chịu trách
nhiệm. Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được áp dụng chung cho tất cả
các loại hợp đồng, không phân biệt hợp đồng dân sự hay hợp đồng kinh tế, hợp đồng có
mục đích kinh doanh hay hợp đồng nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Trên
cơ sở các quy định chung về hợp đồng của Bộ luật Dân sự, tuỳ vào tính chất đặc thù của
các mối quan hệ hoặc các giao dịch, các luật chuyên ngành có thể có những quy định
riêng về hợp đồng để điều chỉnh các mối quan hệ trong lĩnh vưc đó, ví dụ như các quy
định về hợp đồng mua bán hàng hoá trong Luật Thương mại, hợp đồng bảo hiểm trong
Luật kinh doanh bảo hiểm Các quy định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự được coi là
các quy định chung còn các quy định về hợp đồng trong các luật chuyên ngành được coi
là các quy định chuyên ngành và các quy định này được ưu tiên áp dụng.
Pháp luật hợp đồng của Việt hiện nay, tuy có một số hạn chế nhất định nhưng nhìn
chung được coi là khá tiến bộ và phù hợp với xu hướng phát triển kinh tế - xã hội trong
thời kỳ đổi mới. Sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung các chế định về hợp đồng đã phần nào
quán triệt, thể chế hoá các chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế - xã hội của nhà
14
nước, cụ thể hoá các quyền về kinh tế, dân sự của công dân được ghi nhận trong Hiến
pháp 1992 và đáp ứng được các yêu cầu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Các quy
định về giao kết, thực hiện hợp đồng đã thể hiện quan điểm tăng cường quyền tự do hợp
đồng thông qua việc các bên được toàn quyền quyết định về đối tác tham gia ký kết hợp
đồng, hình thức hợp đồng, nội dung của hợp đồng và trách nhiệm của các bên khi có vi
phạm.
Bộ luật Dân sự quy định những vấn đề chung về hợp đồng như khái niệm hợp đồng,
giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng, chấm dứt hợp đồng… còn các luật chuyên ngành
thì chỉ quy định các vấn đề mang tính đặc thù của hợp đồng trong các lĩnh vực khác nhau.
Do đó, phần này chủ yếu đề cập đến một số quy định chung về hợp đồng trong BLDS
1.2.2. Hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa
HĐMBHH là một loại hợp đồng trong thương mại nên trước hết HĐMBHH chịu sự
điều chỉnh của LTM. Nhưng để xác định bản chất pháp lý về HĐMBHH trong thương
mại cần dựa trên cơ sở quy định của BLDS về hợp đồng mua bán tài sản nên HĐMBHH
còn chịu sự điều chỉnh của BLDS. Như vậy, với HĐMBHH, LTM đóng vai trò là luật
riêng áp dụng, BLDS là luật chung áp dụng. Trình tự áp dụng luật được tuân theo quy
định chung, áp dụng luật riêng trước, nếu không có những quy định có liên quan thì sẽ áp
dụng đến Luật chung tức là áp dụng LTM trước BLDS.
LTM không coi đất đai – quyền sử dụng đất là hàng hóa trong thương mại nhưng nhà
và các công trình xây dựng luôn gắn liền với đất đai – quyền sử dụng đất nên quyền sử
dụng đất cũng được chuyển nhượng mua bán. Giao dịch này do Luật đất đai điều chỉnh.
Do đó, HĐMBHH là nhà, công trình gắn liền với đất đai không những chịu sự điều chỉnh
của BLDS, LTM mà còn chịu sự điều chỉnh của Luật Kinh Doanh Bất Động Sản 2006 và
Luật Đất Đai 2003.
Bên cạnh các luật kể trên thì HĐMBHH còn chịu sự điều chỉnh của nhiều Nghị định,
Thông tư như là:
Nghị định số 43/2009/NĐ-CP ngày 7/5/2009 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung danh mục hàng
hoá, dịch vụ cấm kinh doanh của Nghị định 59/2006/NĐ-CP
Nghị định số 54/2009/NĐ-CP ngày 05/06/2009 của Chính phủ Quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hoá.
15
Nghị định 187/2013/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật Thương mại mua bán hàng hóa quốc
tế và các hoạt động đại lý mua, bán gia công và quá cảnh hàng hóa với nước ngoài.
…
Bên cạnh luật quốc gia, HĐMBHH quốc tế còn phải chịu sự điều chỉnh của các điều
ước quốc tế mà điển hình là Công ước Viên 1980 về HĐMBHH quốc tế, các tập quán
quốc tế khác về thương mại và hàng hải.
1.2.3. Một số nội dung cơ bản của pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.3.1. Nội dung cơ bản về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.3.1.1. Chủ thể giao kết
Theo quy định của LTM 2005: “Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa phải là
- Thương nhân hoạt động thương mại
- Tổ chức, cá nhân khác hoạt động có liên quan đến thương mại”
1
.
Có thể phân chủ thể tham gia HĐMBHH thành các loại sau:
Chủ thể là thương nhân
Để xác định một thỏa thuận có phải là HĐMBHH hay không thì việc trước tiên là phải
xác định một bên trong quan hệ hợp đồng đó có phải là thương nhân hay không, sau đó
mới xem xét đến đối tượng của hợp đồng.
- Đối với thương nhân là cá nhân: để được công nhận là một thương nhân thì cá nhân
đó phải có đầy đủ năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật và hoạt động
thương mại một cách độc lập, thường xuyên như một nghề nghiệp. Cá nhân cũng có thể
trở thành thương nhân ngay cả khi hoạt động thương mại một cách độc lập thường xuyên
như một nghề mà chưa đăng ký kinh doanh.
Trong lĩnh vực hoạt động thương mại do thương nhân phải chịu trách nhiệm đầy đủ
về hành vi thương mại của mình vì vậy những người sau đây không được công nhận là
thương nhân :
Người không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự, người bị mất năng lực hành vi dân sự.
1 Xem Khoản 1, 2 Điều 2, Luật Thương mại 2005
16
Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, người đang phải chấp hành hình phạt
tù.
Người đang trong thời gian bị tòa án cướp quyền hành nghề vì các tội buôn lậu,
đầu cơ, buôn bán hàng cấm, làm hàng giả, buôn bán hàng hóa, kinh doanh trái
phép, trốn thuế và các tội khác theo quy định của pháp luật.
- Đối với thương nhân là tổ chức: Đây là chủ thể chủ yếu của HĐMBHH trong thực
tiễn hoạt động thương mại. Tổ chức kinh tế muốn là thương nhân thì trước hết phải là
một tổ chức có tư cách pháp nhân trong quá trình hoạt động thương mại và hoạt động
một cách độc lập. Theo Điều 84, BLDS đã có quy định về các điều kiện để một tổ chức
được công nhân là pháp nhân.
Chủ thể không phải là thương nhân.
Nếu căn cứ vào mục đích sinh lời thì trong rất nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân
không phải là thương nhân cũng được coi là chủ thể của HĐMBHH khi họ giao kết hợp
đồng với thương nhân. Nghĩa là, một bên của hợp đồng là cá nhân, tổ chức hoạt động
thương mại độc lập và thường xuyên còn bên kia là chủ thể không cần các điều kiện trên.
1.2.3.1.2. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa
Theo quy định tại Điều 24, LTM thì: “HĐMBHH có thể giao kết bằng lời nói, văn bản
hoặc bằng hành vi cụ thể”
(1)
. Hình thức của hợp đồng do các bên giao kết hợp đồng lựa
chọn trừ trường hợp pháp luật có quy định hình thức bắt buộc là văn bản thì phải tuân
theo quy định đó.
Theo Khoản 15, Điều 3, LTM quy định “hình thức có giá trị tương đương văn bản
bao gồm điện báo , telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của
pháp luật”
(2)
Như vậy, đối với những hợp đồng mà quy định bắt buộc phải giao kết bằng hình thức
văn bản thì các bên phải tuân thủ theo quy định đó. Các bên có thể lựa chọn một trong
những hình thức sau để giao kết:
- Hình thức giao kết bằng hành vi cụ thể
- Hình thức miệng
- Hình thức bằng văn bản
1 Xem Điều 24, Luật Thương mại 2005
2 Xem Khoản 15, Điều 3, Luật Thương mại 2005
17
1.2.3.1.3. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
Luật Thương mại 2005 không quy định về nội dung của HĐMBHH tuy nhiên, chúng
ta có thể dựa vào các quy định của BLDS 2005 để có thể xem xét vấn đề nội dung của
HĐMBHH. Theo đó, trong HĐMBHH các bên có thể thỏa thuận về các nội dung sau :
Đối tượng của hợp đồng
Số lượng, chất lượng, giá cả, phương
thức thanh toán
Địa điểm và thời hạn giao hàng
Quyền, nghĩa vụ của các bên
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
Phạt vi phạm hợp đồng
Các nội dung khác
Nội dung chủ yếu của hợp đồng là những nội dung mà khi các bên giao kết với nhau
đều phải thỏa thuận, nếu chưa thỏa thuận thì có thể coi như chưa giao kết hợp đồng. Khi
đã thỏa thuận được nội dung chủ yếu thì HĐMBHH coi như đã có hiệu lực pháp lý. Nội
dung của hợp đồng có thể chia ra thành ba loại điều khoản với những ý nghĩa khác nhau:
- Điều khoản chủ yếu hay còn gọi là điều khoản cơ bản đây là những điều khoản quan
trọng nhất của hợp đồng. Khi giao kết các bên phải thỏa thuận được các điều khoản chủ
yếu của hợp đồng thì mới được giao kết.
- Điều khoản thông thường là những điều khoản đã được pháp luật quy định, nếu các
bên mà không thỏa thuận được thì coi như mặc nhiên đã công nhận và cả hai bên đều
phải thực hiện theo các quy định của pháp luật.
- Điều khoản tùy nghi là những điều khoản do các bên tự lựa chọn và thỏa thuận với
nhau khi pháp luật không có quy định.
Tùy thuộc vào từng loại hàng hóa, quy mô của quan hệ mua bán cũng như các điều
kiện khác mà các bên thỏa thuận chi tiết những quyền và nghĩa vụ của mình trong hợp
đồng cụ thể. Các quy định của pháp luật thương mại liên quan đến hợp đồng mua bán
hàng hóa chỉ có chức năng xác định những chuẩn mực chung nhất trong quan hệ giữa
người mua, người bán và các bên liên quan, dựa vào đó các bên cụ thể hóa quyền và
nghĩa vụ của mình. Trong trường hợp không có thỏa thuận, cơ quan tài phán có thể dựa
vào BLDS 2005 và LTM 2005 mà xác định quyền và nghĩa vụ cho các bên.
1.2.3.1.4. Hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu
Trong Luật Thương mại không đề cập đến HĐMBHH vô hiệu nhưng BLDS lại có
những quy định điều chỉnh khá đầy đủ về vấn đề này. Một hợp đồng vô hiệu khác với
một hợp đồng mất hiệu lực vì việc mất hiệu lực có thể xảy ra ở bất cứ thời điểm nào khi
18
có xuất hiện các điều kiện cần thiết và không mang tính hiệu lực hồi tố. Còn hợp đồng bị
vô hiệu trong các trường hợp sau :
Nội dung, mục đích của hợp đồng vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã
hội.
Trong giao dịch hợp đồng có sự giả tạo
Hợp đồng do người chưa thành niên , người mất năng lực hành vi dân sự, người bị
hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện
Trong quá trình giao dịch có sự nhầm lẫn
Giao dịch không tuân thủ về hình thức trong một số trường hợp pháp luật quy định
Hợp đồng vô hiệu có hai loại là hợp đồng vô hiệu từng phần và hợp đồng vô hiệu toàn
bộ. Sau khi hợp đồng được tuyên bố vô hiệu thì hợp đồng đó không có hiệu lực kể từ thời
điểm ký kết , không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối với các bên. Nếu các bên chưa
tiến hành thì không được phép thực hiện hợp đồng, nếu đã thực hiện hợp đồng thì các bên
phải khôi phục lại trạng thái ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận.
1.2.3.2. Nội dung cơ bản về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa.
1.2.3.2.1. Thanh toán
Theo Điều 50, LTM thì bên mua có nghĩa vụ thanh toán tiền mua hàng theo thỏa thuận
nếu không có thỏa thuận gì thì thanh toán khi giao hàng. Giá thanh toán phải do thỏa
thuận nếu không có thỏa thuận nào về giá thì theo chỉ dẫn của Nhà nước về giá hoặc
được xác định trong điều kiện tương tự về phương thức giao hàng, thời điểm mua bán
hàng hóa, thị trường địa lý, phương thức thanh toán và các điều kiện có ảnh hưởng đến
giá. Địa điểm thanh toán có thể do các bên thỏa thuận hoặc nơi kinh doanh , cư trú của
bên bán hoặc là nơi giao hàng , chứng từ.
1.2.3.2.2. Chuyển quyền sở hữu, Chuyển rủi ro
“Trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận khác, quyền
sở hữu được chuyển từ bên bán sang bên mua kể từ thời điểm hàng hóa được chuyển
giao”
1
. (Điều 62, LTM)
Về nguyên tắc, địa điểm và thời gian quyền sở hữu hàng hóa được chuyển từ người
bán sang người mua do các bên tự do thỏa thuận. Bên bán thường ràng buộc việc chuyển
giao quyền sở hữu với điều kiện bên mua đã thanh toán đầy đủ tiền hàng. Trong trường
1 Xem Điều 62, Luật Thương mại 2005
19
hợp này thời điểm chuyển quyền sở hữu có thể không đồng nhất với thời điểm giao hàng.
Chỉ khi các bên không thỏa thuận và pháp luật không quy định thì quy định của Điều 62,
LTM mới được áp dụng. Khi đó thời điểm chuyển quyền sở hữu là thời điểm giao hàng.
Gắn liền với thời điểm chuyển quyền sở hữu là trách nhiệm gánh chịu rủi ro đối với
hàng hóa (ví dụ hàng thất thoát, hư hỏng, tiêu hao trên đường vận chuyển hoặc lưu kho).
Vấn đề chuyển rủi r2o được quy định từ Điều 57 đến Điều 61 LTM.
1.2.3.2.3 Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa
Trách nhiệm pháp lý thường được hiểu là sự áp dụng chế tài cho một chủ thể không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng một nghĩa vụ nhất định. Trong quan hệ hợp đồng,
nếu vi phạm nghĩa vụ, bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi mang tính vật
chất, chính vì vậy thuật ngữ trách nhiệm vật chất khi vi phạm hợp đồng được sử dụng
rộng rãi. Điều kiện để xuất hiện trách nhiệm vật chất trước hết là sự vi phạm hợp đồng,
được hiểu là không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ nghĩa vụ hợp
đồng. Theo Điều 302, BLDS quy định chỉ chịu trách nhiệm vật chất khi có lỗi do đó “bên
nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa vụ không thực
hiện được là hoàn toàn do lỗi của bên có quyền”
1
.
Theo Điều 292, LTM các bên có thể thỏa thuận hoặc bên vi phạm có thể lựa chọn các
loại chế tài sau
2
:
Buộc thực hiện đúng hợp đồng
Phạt vi phạm
Buộc bồi thường thiệt hại
Tạm ngừng thực hiện hợp đồng
Đình chỉ thực hiện hợp đồng
Hủy bỏ hợp đồng
Các biện pháp khác do các bên
thỏa thuận không trái với
nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam, điều ước quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên và tập quán
thương mại quốc tế
Theo Điều 307, LTM trong trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị
vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại. Còn
trong trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên vi phạm chỉ có quyền
yêu cầu bồi thường thiệt hại.
1 Xem Khoản 3, Điều 302, Bộ Luật Dân sự 2005
2 Xem Điều 292, Luật Thương mại 2005
20
Theo Điều 294, LTM thì bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm bồi thường
vật chất trong các trường hợp sau
(1)
:
Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm
mà các bên đã thỏa thuận.
Xảy ra sự kiện bất khả kháng.
Hành vi vi phạm của một bên hoàn
toàn do lỗi của bên kia.
Hành vi vi phạm của một bên do thực
hiện quyết định của cơ quan quản lý
nhà nước có thẩm quyền mà các bên
không thể biết được vào thời điểm
giao kết hợp đồng.
Đối với những quan hệ mua bán hàng hóa có thời hạn cố định về giao hàng, nếu xảy ra
trường hợp bất khả kháng các bên đều có quyền từ chối thực hiện hợp đồng và không bên
nào có quyền đòi bên kia bồi thường.
1.2.3.3. Giải quyết tranh chấp
Một nguyên tắc giải quyết chung khi xảy ra tranh chấp thương mại là ưu tiên hàng đầu
cho việc hòa giải giữa các bên, chỉ khi các bên không thương lượng được do mẫu thuẫn
về lợi ích thì lúc đó các bên mới lựa chon con đường giải quyết khác do pháp luật Việt
Nam hiện hành quy định. Nếu trong HĐMBHH không quy định hình thức bắt buộc phải
áp dụng khi có tranh chấp xảy ra trong thực hiện hợp đồng thì các bên có thể lựa chọn
con đường giải quyết sau được quy định tại Điều 317, LTM
2
Thương lượng trực tiếp, là việc các bên đương sự cùng nhau trao đổi, đấu tranh, nhân
nhượng và thỏa thuận giải quyết tranh chấp. Thương lượng trực tiếp có thể tiến hành
bằng cách 2 bên gặp nhau để thỏa thuận, thương lượng hoặc một bên gửi đơn khiếu nại
cho bên kia và bên kia trả lời đơn khiếu nại.
Hòa giải, là phương pháp giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự thông qua người
thứ ba gọi là hòa giải viên. Hòa giải viên đóng vai trò là người trung gian, tiến hành họp
kín với riêng từng bên hoặc họp chung với cả hai bên để hiểu kỹ nội dung tranh chấp, lý
giải phân tích cho các bên thấy rõ lợi ích của mình và lợi ích của bên kia nhằm giúp các
bên tìm ra một giải pháp tốt nhất giải quyết tranh chấp một cách hợp lý, hợp tình.
Trọng tài, là một cơ chế giải quyết tranh chấp ngoài khuôn khổ tòa án, theo đó các bên
lựa chọn đưa vụ tranh chấp cho người thứ ba trung lập giải quyết. Trọng tài chỉ có thẩm
quyền giải quyết tranh chấp khi chính bản thân các bên có liên quan tôn trọng và thừa
1 Xem Khoản 3, Điều 294, Luật Thương mại 2005
2 Xem Điều 317, Luật Thương mại 2005
21
nhận quyền phán quyết của nó. Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc
sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài.Quyết định của trọng tài là
chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ trường hợp tòa án hủy quyết định của trọng tài
theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp vụ tranh chấp đã có thỏa thuận trọng tài,
nếu một bên khởi kiện tại tòa án thì tòa án phải từ chối thụ lý, trừ trường hợp thỏa thuận
trọng tài vô hiệu. Thỏa thuận trọng tài phải được lập bằng văn bản
Tòa án, việc giải quyết các tranh chấp còn được tiến hành bằng cách đi kiện ra tòa án,
người có quyền lợi bị vi phạm sau khi thương lượng không thành công hoặc bỏ qua bước
thương lượng, có thể đi kiện ra tòa để nhờ tòa án xét xử tranh chấp nhằm bảo vệ quyền
lợi cho mình. Từ đó có thể gọi đi kiện là phương pháp giải quyết tranh chấp bằng xét xử
tại tòa án. Thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp thương mại là hai năm kể từ thời
điểm quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm pham theo Điều 319, LTM.
1.3. Nguyên tắc về pháp luật điều chỉnh vấn đề hợp đồng mua bán hàng hóa
1.3.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa
Khi xác lập một quan hệ HĐMBHH, các bên tham gia phải tuân theo những nguyên
tắc nhất định. (Điều 389 BLDS, Điều 10 đến Điều 15 LTM)
Thứ nhất, nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật:
- Bình đẳng trong việc tham gia vào quan hệ hợp đồng không phụ thuộc vào giới tính
và các địa vị xã hội khác;
- Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi hợp đồng được xác lập. Các bên phải thực hiện
nghĩa vụ đối với những người có quyền;
- Bình đẳng về trách nhiệm dân sự nếu bên có nghĩa vụ không thực hiện, thực hiện
không đúng nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm tài sản đối với bên có quyền.
Thứ hai, nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận: Các bên tham gia có quyền tự do
thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần phong mỹ tục và đạo đức xã
hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hoạt động thương mại; các bên
hoàn toàn tự nguyện, không bên nào được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe dọa,
ngăn cản bên nào. Mọi cam kết, thỏa thuận không có sự tự nguyện của các bên có thể bị
coi là vô hiệu.
22
1.3.2. Nguyên tắc về thực hiện hợp đồng
Sau khi được giao kết hợp pháp, HĐMBHH có hiệu lực bắt buộc đối với các bên
(Điều 4, BLDS). Hợp đồng khi đó trở thành “luật”, các bên phải tự nguyện thực hiện các
nghĩa vụ đã thỏa thuận, nếu không tự nguyện thực hiện thì có thể bị cưỡng chế thực hiện
theo quy định của pháp luật (Điều 7, BLDS).
Trong quá trình thực hiện HĐMBHH, các bên phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
Thực hiện hợp đồng một các trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho
các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau.
Thực hiện hợp đồng đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn,
phương thức và các thỏa thuận khác.
Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác (Điều 412, BLDS).
1.3.3. Nguyên tắc về thời gian giao hàng
Theo Điều 37, LTM có quy định:
Nếu có thỏa thuận về thời gian giao hàng thì bên bán phải giao hàng đúng như đã
thỏa thuận trong hợp đồng.
Nếu chỉ thỏa thuận về thời hạn giao hàng mà không xác định thởi điểm giao hàng
cụ thể thì bên bán có quyền giao hàng vào bất kỳ thời điểm nào trong thời hạn đó và
phải thông báo trước cho bên mua.
Trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao hàng
trong thời hạn hợp lý ( theo quy định, thói quen, tập quán thương mại).
23
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG MUA
BÁN HÀNG HÓA TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ DỊCH VỤ
PHÚC MINH
2.1. Tổng quan tình hình các nhân tố ảnh hưởng đến hợp đồng mua bán hàng hóa
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty cổ phần thương mại và
dịch vụ Phúc Minh
2.1.1.1. Giới thiệu chung
Tên chính thức bằng tiếng Việt: CÔNG TY CỔ PHẦN THƯƠNG MẠI VÀ
DỊCH VỤ PHÚC MINH
Tên công ty bằng tiếng nước ngoài: PHUC MINH TRADING AND
SERVICES JOINT STOCK COMPANY
Tên công ty viết tắt: PHUC MINH TAS.,JSC
Người đại diện: Lã Hoàng Hải (Tổng Giám Đốc)
Trụ sở công ty: Số 44TT4, Khu Đô Thị Mỹ Đình, Xã Mỹ Đình, Huyện Từ
Liêm, Thành Phố Hà Nội, Việt Nam
Số điện thoại: 04.3787434/36
Fax: 04.37876199
Số ĐKKD: 0103177305
Mã số thuế: 0103177305
Công ty cổ phần thương mại và dịch vụ Phúc Minh (Cty CPTM&DVPM) được thành
lập ngày 8/9/2009 dưới hình thức là công ty cổ phần với số vốn điều lệ là 3.000.000.000
đồng.
2.1.1.2. Hình thức sở hữu
Hiện nay tổng số vốn điều lệ của Công ty là 3.000.000.000đ (ba tỷ đồng). Vốn điều lệ
của Công ty được chia thành 300.000 cổ phần phổ thông do các cổ đông sáng lập nắm
giữ. Số cổ phần của từng thành viên sáng lập góp cụ thể như sau:
- Lã Hải Khánh góp 1.950.000.000 đồng, chiếm 195.000 cổ phần.
- Lã Hoàng Hải góp 600.000.000 đồng, chiếm 60.000 cổ phần.
- Nguyễn Chí Công góp 450.000.000 đồng, chiếm 45.000 cổ phần.
Việc tăng giảm vốn điều lệ do đại hội đồng cổ đông quyết định theo quy định của pháp
luật và được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp nhận.
24
2.1.1.3. Cơ cấu tổ chức
Cơ cấu bộ máy quản lý của Công ty bao gồm:
- Đại hội đồng cổ đông
- Hội đồng quản trị
- Ban tổng Giám đốc Công ty
- Các Phòng ban chức năng: Phòng kế toán, Phòng kinh doanh, Phòng nhân sự,
Phòng tổ chức (Sơ đồ bộ máy tổ chức – Phụ lục 1).
• ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
ĐHĐCĐ bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao
nhất của công ty cổ phần (K1.Điều 96 – Luật Doanh Nghiệp 2005). ĐHĐCĐ của Công ty
CP TM & DV Phúc Minh bao gồm 3 thành viên:
- Bà Nguyễn Diệu Linh
- Ông Lã Hoàng Hải
- Ông Lã Hải Khánh
• HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Là cơ quan quản lí công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định, thực hiện
các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của ĐHĐCĐ (Điều 108 –
Luật doanh nghiệp 2005)
Ban HĐQT của Công ty CP TM & DV Phúc Minh bao gồm 3 thành viên:
- Chủ tịch hội đồng quản trị: Ông Lã Hải Khánh
- Phó chủ tịch hội đồng quản trị:Ông Lã Hoàng Hải
- Thành viên: Bà Nguyễn Diệu Linh.
• BAN TỔNG GIÁM ĐỐC
Là những người điều hành công việc kinh doanh hàng ngày của công ty, chịu sự giám
sát của HĐQT và chịu trách nhiệm trước HĐQT và trước pháp luật trong việc thực hiện
quyền và nghĩa vụ được giao (K2. Điều 116 – Luật Doanh Nghiệp)
- Tổng Giám Đốc: Ông Lã Hoàng Hải
- Phó Tổng Giám Đốc: Nguyễn Diệu Linh
- Phó Tổng Giám Đốc: Đặng Xuân Đường
25