Website: Email : Tel : 0918.775.368
A . LỜI MỞ ĐẦU
Thực tập là một giai đoạn quan trọng trong quá trình đào tạo sinh viên. Nó giúp
sinh viên tiếp cận với thực tiễn, học tập, đối chiếu và so sánh giữa thực tiễn và lý
thuyết. Đối với sinh viên chuyên ngành luật kinh tế, giai đoạn thực tập giúp bổ sung
các kiến thức mà trên giảng đường không thể khái quát hết, thấy được các vấn đề
pháp lý trong thực tiễn từ đó thấy được các ưu điểm và hạn chế của các văn bản pháp
quy trong lĩnh vực này.
Trong quá trình thực tập tại công ty Cổ phần thương mại và vận tải quốc tế
Châu Giang tôi đã được tiếp cận với thực tiễn nhiều vấn đề pháp lý như các vấn đề về
lao động, thủ tục thành lập doanh nghiệp, thuế, hợp đồng ….Trong đó vấn đề mà tôi
đặc biệt quan tâm đó là về hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu. Do đặc điểm ngành
nghề kinh doanh của công ty lên số lượng hợp đồng thương mại chiếm một phần lớn
trong số lượng hợp đồng mà công ty ký kết và vấn đề pháp lý về hợp đồng cũng
chiếm một phần lớn trong các vấn đề pháp lý của công ty. Tuy số lượng hợp đồng ủy
thác xuất nhập khẩu tại cơ sở không chiếm một số lượng lớn nhưng xét thấy đây là
một vấn đề tuy không phải là mới nhưng trong thực tiễn các văn bản pháp quy quy
định về các vấn đề này không nhiều trong khi đó các doanh nghiệp kinh doanh trong
lĩnh vực này ngày càng ra tăng và nhu cầu xuất nhập khẩu của nền kinh tế ngày càng
mở rộng, tính chuyên môn hóa ngày càng sâu do vậy tôi quyết định chọn đề tài: Hợp
đồng ủy thác xuất nhập khẩu các vấn đề pháp quy và thực tiễn tại công ty Cổ phần
thương mại và vận tải quốc tế Châu Giang. Đề án này tập trung vào các vấn đề chính
sau:
. Các chế định pháp quy về vấn đề xuất nhập khẩu ủy thác
. Tình hình thực thi các vấn đề pháp quy trong hợp đồng ủy thác xuất
nhập khẩu
. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi các quy định của pháp luật
trong loại hợp đồng này tại cơ sở
Và đề tài này được kết cấu gồm ba phần chính
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Phần I: Cơ sở ý uận về hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu
Phần II: Hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu tại cơ sở
Phần III: Những đánh giá và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả việc thực
hiện các vấn đề pháp quy trong oại hợp đồng này
Trong phần một trình bày về cơ sở lý luận và cơ sở pháp lý của hợp đồng xuất
nhập khẩu ủy thác. Tuy nhiên đề tài này chỉ đề cập đến các hợp đồng kinh tế.
Trong phần hai của đề tài tập trung vào nêu khái quát tình hình thực hiện hợp
đồng xuất nhập khẩu ủy thác tại cơ sở, phân tích những thuận lợi và vướng mắc trong
quá trình thực hiện loại hợp đồng này. Phần ba của đề tài nêu lên một số giải pháp và
kiến nghị nhằm nâng tính thực thi các vấn đề pháp quy trong loại hợp đồng này và
nâng cao tính hiệu quả của nghiệp vụ xuất nhập khẩu ủy thác tại cơ sở
Qua đây về phía nhà trường tôi xin chân thành gửi lời cảm ơn tới thầy Nguyễn
Hợp Toàn –Trưởng khoa Luật kinh tế, thầy Nguyễn Vũ Hoàng – Giảng viên khoa
Luật kinh tế trường Đại học kinh tế quốc dân Hà Nội. Về phía cơ sở thực tập tôi xin
chân thành gửi lời cảm ơn tới Ông Nguyễn Châu Thành – Giám đốc công ty, Ông Vũ
Đình Lân – Phó giám đốc công ty cùng toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty
Cổ phần thương mại và vận tải quốc tế Châu Giang đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành
giai đoạn thực tập này.
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG XUẤT NHẬP KHẨU UỶ THÁC
I. Cơ sở lý luận
1.Vai trò của xuất nhập khẩu trong nền kinh tế quốc dân
Xuất nhập khẩu là một khâu không thể thiếu đối với một nền kinh tế quốc dân
bởi những yếu tố:
Sự phát triển không đồng đều của các quốc gia trên các lĩnh vực công nghệ,
nhân lực …do vậy xuất nhập khẩu được coi là giải pháp tốt nhất cho bài toán di tắt
đón đầu rút ngắn thời gian theo kịp các quốc gia khác. Nước ta là một thí dụ điển
hình, nếu bỏ thời gian và chi phí để nghiên cứu có được công nghệ sản xuất máy bay
thì cần một khoảng thời gian rất dài và chi phí lớn trong khi đó ta có thể nhập khẩu
công nghệ hoặc máy bay nguyên chiếc với giá cả phải chăng. Do vậy đây được coi là
lời giải cho các bài toán mà khi sản phẩm sản xuất trong nước giá thành còn cao.
Mỗi quốc gia đều có đặc điểm về tự nhiên, dân cư khác nhau, có các thế mạnh
và điểm yếu riêng, nếu phát triển tất cả các lĩnh vực ngành nghề bao gồm cả các
ngành mà chi phí sản xuất sản phẩm còn cao thì hiệu quả kinh tế không cao trong khi
tập trung vào các ngành mà quốc gia mình có thế mạnh để giảm giá thành nâng cao
chất lượng sản phẩm cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại trên thị trường và nhập
khẩu các sản phẩm mà nếu sản xuất trong nước giá thành còn cao. Trở lại thí dụ ở
phần trên, nước ta do đặc điểm về tự nhiên và dân cư nên có thế mạnh trong ngành
nông nghiệp, công nghiệp may mặc, thủy hải sản, do đó tập trung vào các ngành nghề
này giúp giảm giá thành nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm cạnh tranh với hàng
hóa cùng loại của các quốc gia khác trên các thị trường xuất khẩu và nhập về các sản
phẩm mà nước ta chưa đủ năng lực sản xuất hoặc sản xuất với giá thành còn quá cao.
Tuy nhiên không phải chỉ có tập trung vào các ngành nghề mà quốc gia mình có thế
mạnh, bên cạnh chiến lược trên ta cũng phải gấp rút đầu tư vào nghiên cứu chế tạo
các sản phẩm mà giá thành sản phẩm trong nước còn cao từ đó mở rộng phạm vi các
ngành nghề có thế mạnh. Vậy xuất nhập khẩu còn được coi là giải pháp tiết kiệm chi
phí, nâng cao chất lượng sản phẩm.
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Sự chuyên môn hóa ngày càng cao, sự phân công và hiệp tác lao động ngày
càng mở rộng và chuyên sâu, có những sản phẩm được hoàn thành sau nhiều công
đoạn và mỗi công đoạn đó được thực hiện ở nhiều quốc gia khác nhau do vậy xuất
nhập đóng vai trò là một khâu trong quá trình hoàn thiện sản phẩm.
2. Tổng quan về tình hình xuất nhập khẩu của nước ta từ năm 1990 tới nay
Trong thời kỳ kinh tế kế hoạch hóa, nhà nước độc quyền việc xuất nhập khẩu,
do không đủ năng động nắm bắt được nhu cầu của nền kinh tế đã dẫn đến tình trạng
tắc nghẽn nền kinh tế cung và cầu mất cân bằng như một số mặt hàng sản xuất ra
không tiêu thụ được do thiếu đối tác, thiếu máy móc, công nghệ phục vụ cho sản
xuất. Ngày nay với xu thế hội nhập kinh tế thế giới đảng và nhà nước ta đã có những
chính sách cụ thể và thiết thực nhằm thúc đẩy và khai thác các lợi thế do hoạt động
xuất nhập khẩu đem lại. Tổng kim ngạch xuất khẩu 10 năm(1990-2000) kim ngạch
xuất nhập khẩu đạt 67,3 tỷ USD vượt mục tiêu nêu trong chiến lược 10 năm (37 - 45
tỷ USD), bình quân hàng năm tăng 18,2%, trong đó, thời kỳ 1991-1995 là17,2 tỷ
USD, tăng 17,8%, thời kỳ 1996-2000 là là 50,1 tỷ USD, tăng 18,6%.
Kim ngạch xuất khẩu năm 2000 gấp khoảng 5,3 lần so với năm 1990, cao hơn
mục tiêu nêu trong Chiến lược là 5 lần, nhưng xuất khẩu đầu người chỉ tăng từ 36,3
USD năm 1990 lên 166 USD năm 2000, thấp hơn mục tiêu nêu trong Nghị quyết Đại
hội VIII là 200 USD.
Thị trường được củng cố và mở rộng. Cuối thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990,
ngoại thương Việt Nam chỉ có những bạn hàng chủ yếu là các nước thuộc Liên Xô và
Đông Âu cũ với những mặt hàng xuất khẩu manh múi, đơn điệu, chủ yếu là nông sản
nguyên liệu và hàng thủ công mỹ nghệ, hàng gia công bán thành phẩm. Tuy nhiên khi
thị trường khu vực này bị đột ngột thu hẹp, chúng ta đã nhanh chóng tìm kiếm, tiếp
cận và mở rộng thị trường ở các khu vực khác để tránh sự hẫng hụt, tháo gỡ khó
khăn.
Nhờ có chính sách đổi mới đa phương hoá quan hệ kinh tế của Đảng và Nhà
nước, đến cuối năm 1997 và đầu năm 1998 hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có
mặt trên thị trường của trên 150 nước ở khắp các châu lục với những chủng loại mặt
hàng đa dạng và phong phú hơn. Có một số mặt hàng đã có vị trí trên thị trường như
dầu thô, gạo, hàng thuỷ hải sản chế biến, cà phê, cao su, quần áo may sẵn...
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Thị trường xuất - nhập khẩu của nước ta được mở rộng về phạm vi và dung
lượng. Hiện nay, khu vực Châu Á vẫn đang là thị trường xuất và nhập khẩu lớn nhất
của nước ta, đã chiếm gần 63% tổng kim ngạch xuất khẩu và gần 74% tổng kim
ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Nhật Bản, Trung Quốc, ASEAN là những đối tác
chiếm thị phần buôn bán lớn nhất trong số các đối tác châu á.
Riêng các nước ASEAN chiếm 24,3% tổng kim ngạch xuất khẩu và 32,4% kim
ngạch nhập khẩu của nước ta trong năm 1998. Triển vọng trong những năm cuối của
thập kỷ này các nước Châu Á vẫn là những bạn hàng lớn nhất trong quan hệ buôn
bán với nước ta.
Hàng hoá của Việt Nam đã tiếp cận vào thị trường Châu Âu, Châu Mỹ, đặc biệt
là thị trường các nước EU, Hoa Kỳ và Canađa.
Thị trường các nước Trung Đông cũng đã và đang được khai thác triệt để, bước
đầu là các mặt hàng trả nợ như gạo, chè, cà phê, cá hộp, quần áo may sẵn và một số
mặt hàng tiêu dùng khác..., đến nay một số mặt hàng của Việt Nam như cà phê, gạo,
chè đã có sức cạnh tranh trên thị trường này.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đã tìm kiếm các giải pháp khôi phục lại thị trường
các nước thuộc Liên Xô cũ và Đông Âu sau một thời gian gián đoạn, sẽ mở ra những
khả năng mới trong quan hệ kinh tế và trao đổi hàng hoá khu vực này.
Dung lượng hàng hoá tham gia thị trường quốc tế của Việt Nam ngày càng phát
triển về cả khối lượng và chất lượng. Tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu trong
những năm 1991 - 1997 tăng bình quân 25%. Tuy nhiên, năm 1998 do bị ảnh hưởng
của cuộc khủng hoảng tiền tệ Châu á, kim ngạch xuất khẩu năm 1998 đã chững lại,
chỉ tăng khoảng1,9%. Năm 1999, tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu đã tăng trở
lại 23,1%. Kế hoạch năm 2000, dự kiến có thể tăng trên 11%.
Cơ cấu hàng xuất khẩu đã thay đổi theo hướng phát huy lợi thế so sánh trong
mối quan hệ kinh tế quốc tế. Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông lâm
thuỷ sản tuy vẫn ở vị trí đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu nhưng cũng có xu hướng
giảm dần, từ bình quân là 48,0% thời kỳ 1991 - 1995 giảm còn 38,5% trong thời kỳ
1996 - 2000, trong khi tỷ trọng của nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công
nghiệp vẫn tăng tương ứng từ 21,7% lên 35,9%. Về nhập khẩu tỷ trọng hàng tiêu
dùng trong tổng kim ngạch nhập khẩu giảm đáng kể từ 16,4% bình quân thời kỳ 1991
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- 1995 xuống còn 8,1% vào thời kỳ 1996 - 2000, trong đó riêng năm 1999 chỉ còn
5,9%, năm 2000 dự kiến giảm còn 4,7%.
Nhập khẩu trong những năm qua tuy có tăng, nhưng tốc độ chậm dần. Chúng ta
tập trung chủ yếu vào nhập nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, trong khi đã cố
gắng giảm dần tỷ trọng kim ngạch nhập khẩu hàng tiêu dùng. Một số mặt hàng trước
đây vẫn phải nhập khẩu nay đã được thay thế bằng sản xuất trong nước, nhờ vậy
giảm tương đối thâm hụt cán cân thương mại. Kim ngạch nhập khẩu trong những
năm qua cũng đã có thay đổi về cơ cấu. Tỷ trọng hàng tiêu dùng trong tổng kim
ngạch nhập khẩu giảm đáng kể, trong khi tỷ trọng nhóm nguyên nhiên vật liệu tăng
lên nhanh. Thay đổi này phản ảnh chính sách khuyến khích sản xuất trong nước và
giảm nhập khẩu những mặt hàng đã sản xuất trong nước có thể thay thế nhập khẩu
được.
Giữ được tốc độ tăng trưởng cao về kim ngạch xuất khẩu, trước hết là do chính
sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia xuất khẩu và sản xuất hàng xuất
khẩu. Việc từng bước hoàn chỉnh khuôn khổ pháp luật theo kinh tế thị trường và đổi
mới chính sách xuất nhập khẩu đã thực sự thúc đẩy các hoạt động xuất nhập khẩu.
Trong 10 năm qua, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách tháo gỡ khó khăn, giảm
các thủ tục hành chính, trở ngại về thuế má, hỗ trợ tài chính cho xuất khẩu, như hỗ
trợ lãi suất vay vốn sản xuất và hoạt động xuất khẩu, trợ giá cho những mặt hàng xuất
khẩu mới vào thị trường mới, chính sách khen thưởng, khuyến khích các doanh
nghiệp tìm được mặt hàng xuất khẩu mới, thị trường mới. Ban hành chính sách về
quản lý ngoại hối, điều chỉnh tỷ giá của đồng USD so với đồng Việt Nam để khuyến
khích xuất khẩu, chính sách đầu tư nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu..
Tuy nhiên, lĩnh vực xuất nhập khẩu đang đứng trước những khó khăn mới.
Những hạn chế trong các khâu tạo nguồn hàng, chế biến nâng cao chất lượng đã làm
cho các sản phẩm xuất khẩu của ta không đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Cơ cấu
sản phẩm xuất khẩu vẫn chưa có những chuyển dịch tích cực, xuất khẩu hàng nông
sản thô, nguyên liệu thô... còn chiếm tỷ trọng lớn, nên giá trị thấp. Hơn nữa, do khả
năng tiếp cận thị trường kém, nhiều mặt hàng của ta còn phải xuất khẩu qua trung
gian nên hạn chế kim ngạch thu được.
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Trong quý I năm 2007 kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta đạt 10,5 tỷ USD
dự kiến con số này sẽ đạt 100 tỷ USD vào năm 2010.Nhưng hiện tại , khối lượng
nhiều mặt hàng nông sản xuất khẩu đã được khai thác tới mức tối đa trong sản lượng
sản xuất như gạo, cà phê, cao su,... do vậy, muốn tăng giá trị xuất khẩu cần phải đầu
tư phát triển thâm canh, tăng năng suất và đặc biệt đầu tư vào khâu công nghiệp chế
biến sâu, tăng nhanh chất lượng để đủ sức cạnh tranh và tìm kiếm thêm thị trường
xuất khẩu.
3. Hoạt động xuất nhập khẩu ủy thác
Xuất nhập khẩu ủy thác là một nghiệp vụ thương mại phát sinh trong nền kinh
tế thị trường khi sự chuyên môn hóa về ngành nghề ngày càng cao, ngoài nguyên
nhân trên, còn một số nguyên nhân chính làm phát sinh nghiệp vụ này đó là:
- Thiếu năng lực xuất nhập khẩu
Ngày nay, số lượng các doanh nghiệp chưa có năng lực xuất nhập khẩu chiếm
một tỷ lệ không nhỏ do chưa đăng ký mã số xuất nhập khẩu với cục hải quan tỉnh,
thành phố hoặc các tổ chức cá nhân không phải là thương nhân, để phục vụ hoạt động
sản xuất kinh doanh của đơn vị mình khi làm ăn với các đối tác mang quốc tịch nước
ngoài thì phải thiết lập một hợp đồng ủy thác xuất hoặc nhập khẩu với một doanh
nghiệp có năng lực pháp lý về xuất nhập khẩu. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp có
tư cách xuất nhập khẩu thì hoặc do đội ngũ nhân lực hoạt động trong lĩnh vực này
còn hạn chế về quân số hoặc năng lực nên để giảm thiểu thời gian, chi phí và rủi ro
thì họ cũng chọn phương án là xác lập một hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu cho một
doanh nghiệp làm nghiệp vụ này. Mặt khác, do các thiếu cập nhật về thông tin hải
quan, thị trường, và thiếu kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp xảy ra đối với các
đối tác nước ngoài nên các tổ chức kinh tế và các cá nhân có nhu cầu xuất nhập khẩu
thường chọn phương án ủy thác cho một đơn vị có uy tín và kinh nghiệm trong lĩnh
vực này xuất hoặc nhập khẩu.
- Chiếm dụng vốn
Việc thực hiện một hợp đồng ủy thác xuất nhập khẩu mất một khoảng thời gian
thường là dài, và bên được ủy quyền xuất hoặc nhập khẩu là người đại diện cho bên
ủy quyền thanh toán cho đối tác của bên ủy quyền bằng tài khoản của mình và bên
được ủy thác xuất nhập khẩu sẽ được bên ủy thác cho mình thanh toán chi phí suất
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhập khẩu, tiền hàng (nếu là nhập khẩu ủy thác) trong khoảng thời gian thực hiện hợp
đồng, bên ủy thác sẽ không phải bỏ một khoản tiền mua hàng (nếu là nhập khẩu và có
thỏa thuận điều này trong hợp đồng) và nhập hàng mà chỉ phải mất một khoản phí
nhất định thường là rất nhỏ so với khoản tiền phải bỏ ra ngay khi mình trực tiếp là
người xuất nhập khẩu
- Thiếu thị trường
Đối với nghiệp vụ xuất nhập khẩu ủy thác, ngoài chức năng thương mại thông
thường là mang lại khoản thu từ phí ủy thác, nó còn có chức năng là một kênh tìm
kiếm đối tác của các đơn vị ủy thác. Đối với những người mua nhỏ lẻ hoặc các nhà
sản suất nhỏ lẻ do không có nhiều thông tin về thị trường nhập cũng như xuất hàng,
họ thường tìm đến các doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực này để tìm kiếm đối tác và
ủy thác cho những đơn vị này xuất hoặc nhập khẩu.
II. Hợp đồng và vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường
1. Khái niệm và đặc diểm của hợp đồng kinh tế
1.1 Khái niệm
Hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận bằng văn bản, tài liệu giao dịch giữa các bên
ký kết về việc thực hiện công việc sản xuất, trao đổi hàng hoá, dịch vụ, nghiên cứu,
ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và các thoả thuận khác có mục đích kinh doanh
với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên để xây dựng và thực hiện kế
hoạch của mình.
1.2 Đặc điểm
Việc giao kết hợp đồng phải dựa trên nguyên tắc tự do giao kết nhưng không
được trái pháp luật và trái với đạo đức xã hội, tự nguyện bình đẳng, thiện chí hợp tác,
trung thực và ngay thẳng
Hợp đồng có giá trị pháp lý là biên bản xác nhận quyền và nghĩa vụ của các bên,
các bên phải tuân thủ những gì đã được ký kết trên hợp đồng không được làm khác đi
nếu không được sự cho phép của bên còn lại hoặc đại diện hợp pháp của họ. Nếu có
tranh chấp xảy ra thì hợp đồng được coi là chứng cứ quan trọng nhất để xác định
quyền và nghĩa vụ của các bên. Một hợp đồng kinh tế có những đặc điểm:
- Về chủ thể của hợp đồng
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hợp đồng kinh tế được ký kết giữa pháp nhân với pháp nhân hoặc ít nhất một
trong hai bên là pháp nhân còn bên kia có thể hộ gia đình kinh doanh cá thể, các cá
nhân không phải là thương nhân, hoặc các tổ chức không phải là thương nhân ...theo
quy định tại điều khoản 2 Điều 2 của Luật thương mại.
+ Pháp nhân theo quy định tại Điều 84 của Bộ luật dân sự năm 2005 (Bộ luật
dân sự) là các tổ chức thỏa mãn bốn điều kiện dưới đây:
- Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng
ký hoặc công nhận;
- Có cơ cấu tổ chức chặt chẽ;
- Có tài sản độc lập với tài sản của cá nhân, tổ chức khác và chịu trách nhiệm
bằng tài sản đó;
- Nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Pháp nhân có thể là công ty, một tổ chức, một hiệp hội...thỏa mãn các điều kiện
trên.
+ Các cá nhân, tổ chức không phải là thương nhân là các cá nhân và tổ chức
có hoạt động liên quan đến thương mại mặc dù không phải với mục đích sinh lời
(khoản 3 Điều 1 Luật thương mại năm 2005)
- Về nội dung của hợp đồng kinh tế
Một hợp đồng kinh tế bao gồm các điều khoản chính như:
. Ngày, tháng, năm ký hợp đồng kinh tế; tên, địa chỉ, số tài khoản và ngân
hàng giao dịch của các bên, họ, tên người đại diện, người đứng tên đăng ký kinh
doanh;
. Đối tượng của hợp đồng kinh tế tính bằng số lượng, khối lượng hoặc giá
trị quy ước đã thoả thuận;
. Chất lượng, chủng loại, quy sách, tính đồng bộ của sản phẩm, hàng hoá
hoặc yêu cầu kỹ thuật của công việc;
. Giá cả;
. Bảo hành;
. Điều kiện nghiệm thu, giao nhận;
. Phương thức thanh toán;
. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng kinh tế;
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
. Thời hạn có hiệu lực của hợp đồng kinh tế;
. Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế;
. Các thoả thuận khác.
Do hợp đồng ký kết nhằm phục vụ mục đích sản xuất kinh doanh vì vậy mục
đích kinh doanh luôn được thể hiện hàng đầu trong các hợp đồng kinh tế. Đây là
điểm khác biệt so với hợp đồng dân sự chủ yếu phục vụ mục đích sinh hoạt và tiêu
dùng.
2. Vai trò của hợp đồng kinh tế trong nền kinh tế thị trường
- Đối với sự quản lý kinh tế của nhà nước
Trong nền kinh tế quốc dân, sự quản lý của nhà nước là không thể thiếu, nhà
nước bằng các chính sách và công cụ vĩ mô điều tiết nền kinh tế đi theo đúng quỹ đạo
và khuynh hướng phát triển của đất nước. Công cụ quan trọng để nhà nước quản lý
nền kinh tế đó là pháp luật kinh tế. Khi một tranh chấp xảy ra để có cơ sở giải quyết
đúng đắn theo pháp luật kinh tế thì hợp đồng kinh tế được coi là một cơ sở quan
trọng cho phán quyết cuối cùng của các cơ quan giải quyết tranh chấp.
- Đối với các tổ chức kinh tế
Hợp đồng kinh tế là văn bản thể hiện sự xác lập quan hệ kinh tế giữa các tổ
chức kinh tế, qua đó nó thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên theo đó, các bên
thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình như đã ký kết. Hợp đồng kinh tế có vai
trò như một cơ sở xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong một quan hệ kinh
tế.
3. Quy trình thực hiện một hợp đồng kinh tế và các vấn đề pháp quy.
3.1 Các vấn đề pháp quy về ký kết hợp đồng
- Nguyên tắc giao kết hợp đồng kinh tế
Tương tự như các nguyên tắc giao kết hợp đồng dân sự, việc giao kết hợp đồng
kinh tế theo quy định của Luật thương mại phải tuân thủ những nguyên tắc sau:
- Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội;
- Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng.
+ Nguyên tắc thứ nhất tự do giao kết hợp đồng kinh tế có nghĩa các bên xuất
phát từ nhu cầu mục đích của mình có thể tự do giao kết các hợp đồng, nhà nước
không can thiệp tuy nhiên phải trên cơ sở là không trái pháp luật và đạo đức xã hội
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Nguyên tắc tự nguyện bình đẳng loại bỏ các hợp đồng giao kết trên cơ sở ép
buộc hoặc cưỡng bức khi giao kết, khi giao kết các bên hoàn toàn bình quyền như
nhau, không bên nào ở trên bên nào.
+ Nguyên tắc thiện chí hợp tác có nghĩa các bên khi giao kết phải dựa trên cơ sở
tự nguyện thoả thuận, cùng nhau giải quyết các bất đồng để đi đến thống nhất ký kết
hợp đồng
+ Nguyên tắc trung thực và ngay thẳng đảm bảo cho việc giao kết hợp đồng
kinh tế một cách minh bạch không có sự gian lận trong việc giao kết hợp đồng gây
bất lợi cho bên kia.
Việc giao kết hợp đồng kinh tế phải tuân thủ các nguyên tắc trên, nếu vi phạm
một trong các nguyên tắc đó thì hợp đồng sẽ bị coi là vô hiệu và bên đối tác sẽ không
phải thực hiện bất cứ một điều khoản nào trong hợp đồng đã ký kết. Và bên có hành
vi sai phạm sẽ phải bồi thường cho bên đối tác các thiệt hại mà do thực hiện hợp
đồng đó gây ra nếu có (Điều 314 Luật thương mại năm 2005)
- Về chủ thể của hợp đồng kinh tế
Theo điều 2 của Luật thương mại năm 2005 (Luật thưong mại) thì chủ thể của
hợp đồng kinh tế có thể là thương nhân, tổ chức cá nhân khác hoạt động có liên quan
đến thương mại.
Như vậy khi hợp đồng được xác lập giũa các thương nhân với nhau thì đương
nhiên hợp đồng đó do Luật thương mại điều chỉnh còn đối với loại hợp đồng được
lập giữa thương nhân và các cá nhân tổ chức không phải là thương nhân thì cũng
đương nhiên do luật này điều chỉnh nếu như bên không phải là thương nhân chọn áp
dụng luật này (theo khoản 3 Điều 1 Luật thương mại). Điểm quan trọng ở đây khi xác
định chủ thể của hợp đồng kinh tế là phải xác định hoạt động đó có nhằm mục đích
thương mại hay không, vậy hoạt động thương mại là gỉ? Theo khoản 1 điều 3 của
Luật thương mại thì hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao
gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi khác. Do đó chủ thể của hợp đồng kinh tế có thể là thương nhân, các
tổ chức cá nhân không phải là thương nhân.
Khi muốn ký kết một hợp đồng kinh tế nói riêng và hợp đồng nói chung, các
bên phải thương lượng đàm phán với nhau về quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trên
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cơ sở bình đẳng, trung thực và tự nguyện. Đàm phán là quá trình trao đổi kiến của
các chủ thể nhằm đi tới một sự thống nhất các vấn đề như về tên hàng hóa, giá cả,
chủng loại, bảo hành, khiếu nại … Đàm phán thường có các hình thức đàm phán
chính :
- Đàm phán qua thư tín
- Đàm phán qua các phương tiện thông tin như điện thoại, internet
- Đàm phán trực tiếp
Sau khi đàm phán thương lượng các vấn đề về hợp đồng các bên bắt đầu soạn
thảo một hợp đồng kinh tế dựa trên nguyên tắc bình đẳng tự nguyện không trái với
các quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Nguyên tắc tự do cho phép các bên
được tự do thỏa thuận thương lượng về các điều khoản của hợp đồng quyền và nghĩa
vụ của các bên. Nguyên tắc này loại bỏ các hợp đồng ký kết trên cơ sở cưỡng bức,
gian lận, không trung thực do vậy đây là nguyên tắc cơ bản và bắt buộc khi thực hiện
việc giao kết một hợp đồng kinh tế nói riêng và hợp đồng nói chung.
- Về phương thức ký kết một hợp đồng
Sau khi đã thống nhất về các điều khoản được soạn thảo trong hợp đồng kinh tế
thì các bên đi đến ký kết hợp đồng theo một trong các hình thức dưới đây:
+ Ký kết trực tiếp, đây là hình thức mà hai bên gặp gỡ trực tiếp đàm phán về
các điều khoản của hợp đồng. Có thể là đàm phán không trực tiếp tuy nhiên đối với
hình thức ký kết này, hai bên phải cùng trực tiếp ký vào hợp đồng
+ Ký kết gián tiếp, hình thức này có thể thông qua bởi các cách:
Gửi bản chào hàng hay đơn đặt hàng và bên đối tác gửi lại một bản trả lời
chấp nhận chào hàng hay đặt hàng. Trong trường hợp này coi như hai bên đã ký với
nhau một hợp đồng hình thức và đã có sự ràng buộc pháp lý đối với mỗi bên. Hợp
đồng loại này được thông qua hai bước:
- Gửi bản chào hàng hoặc đơn đặt hàng, trong đó có các điều khoản mô tả về
hàng hóa, giá cả, chủng loại, xuất xứ và các đặc tính khác của hàng hóa.
- Chấp nhận đề nghị và ký kết hợp đồng, trong trường hợp bên nhận được
chào hàng và chấp nhận chào hàng bằng cách gửi cho bên chào hàng một thông báo
chấp nhận chào hàng trong khoảng thời gian ghi trong chào hàng thì coi như hợp
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đồng thương mại đã được ký kết kể từ khi bên chào hàng nhận được chấp nhận của
bên được chào hàng.
3.2 Chế độ pháp lý về thực hiện hợp đồng
Theo quy định của Bộ luật dân sự hay theo Luật thương mại đều có quy định
rằng hợp đồng kinh tế phải được chấp hành theo các nguyên tắc chính:
Chấp hành thực hiện
Chấp hành đúng
Chấp hành dựa trên tinh thần hợp tác hai bên cùng có lợi
Trên cơ sở đó việc tổ chức thực hiện hợp đồng kinh tế thông thường trải qua các
bước chính sau:
- Kiểm tra việc thực hiện hợp đồng đối với đối tác, tiếp nhận các vấn đề liên
quan đến quá trình thực hiện hợp đồng do phía đối tác cung cấp
- Chuyển giao hoặc tiếp nhận quyền sở hữu, việc này có thể ủy nhiệm cho cơ
quan hải quan hoặc do một đơn vị khác được ủy quyền
- Làm thủ tục thanh toán và thanh lý hợp đồng, phương thức thanh toán có thể
bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản, trong giai đoạn hiện nay, thanh toán bằng phương
thức chuyển khoản là khá phổ biến vì tính tiện lợi của phương thức này. Tuy nhiên
khi làm việc với các đối tác mang quốc tịch nước ngoài, thì điều kiện để thiết lập hợp
đồng là phải mở LC tại một ngân hàng để làm bảo đảm thanh toán. Hiện nay, hầu hết
các ngân hàng thương mại đều cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế, cụ thể là thanh
toán tín dụng chứng từ. Sau khi việc thanh toán hoàn thành cũng có nghĩa là hợp
đồng đó được thanh lý nếu như trong hợp đồng không có điều khoản nào quy định
thêm.
4. Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng
Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng là một hậu quả pháp lý bắt buộc bên vi phạm
phải thực hiện đối với bên bị vi phạm để bù đắp những tổn thất do vi phạm hợp đồng
gây ra cho bên bị vi phạm. Theo Điều 192 của Luật thương mại thì các chế tài này
bao gồm:
- Buộc thực hiện đúng hợp đồng.
- Phạt vi phạm.
- Buộc bồi thường thiệt hại.
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Tạm ngừng thực hiện hợp đồng.
- Đình chỉ thực hiện hợp đồng.
- Huỷ bỏ hợp đồng.
- Các biện pháp khác do các bên thoả thuận không trái với nguyên tắc cơ bản
của pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên và tập quán
thương mại quốc tế.
+ Buộc thực hiện đúng hợp đồng là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm
thực hiện đúng hợp đồng hoặc dùng các biện pháp khác để hợp đồng được thực hiện
và bên vi phạm phải chịu chi phí phát sinh.
+ Phạt vi phạm là việc bên bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả một khoản tiền
phạt do vi phạm hợp đồng nếu trong hợp đồng có thoả thuận, trừ các trường hợp
miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật thương mại. Mức phạt vi phạm do
hai bên thoả thuận mhưng mức cao nhất không quá 8 % giá trị phần hợp đồng bị vi
phạm (Điều 301 Luật thương mại).
+ Bồi thường thiệt hại là việc bên vi phạm bồi thường những tổn thất do hành vi
vi phạm hợp đồng gây ra cho bên bị vi phạm. Giá trị bồi thường thiệt hại bao gồm giá trị
tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi
trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm.
+ Tạm ngừng thực hiện hợp đồng là việc một bên tạm thời không thực hiện nghĩa vụ
trong hợp đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để tạm ngừng
thực hiện hợp đồng;
- Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Đình chỉ thực hiện hợp đồng là việc một bên chấm dứt thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để đình chỉ hợp
đồng;
- Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
+ Huỷ bỏ hợp đồng bao gồm hủy bỏ toàn bộ hợp đồng và hủy bỏ một phần hợp
đồng.
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các
nghĩa vụ hợp đồng đối với toàn bộ hợp đồng.
- Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp
đồng, các phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật thương
mại, chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng trong các trường hợp sau đây:
. Xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện để hủy bỏ hợp
đồng;
. Một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
5. Các phương pháp giải quyết tranh chấp phát sinh trong hợp đồng kinh tế
Theo Điều 317 của Luật thương mại thì việc giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong hợp đồng thương mại bao gồm:
1. Thương lượng giữa các bên.
2. Hoà giải giữa các bên do một cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân được các bên
thỏa thuận chọn làm trung gian hoà giải.
3. Giải quyết tại Trọng tài hoặc Toà án.
* Thương lượng và hòa giải
+ Thương lượng là biện pháp phát sinh tranh chấp các bên gặp nhau cùng bàn
bạc tìm cách tháo gỡ vấn đề, đây là biện pháp mang tính bình đẳng tôn trọng lẫn
nhau, kết quả của việc thương lượng được các bên tự nguyện thực hiện và không có
ràng buộc về mặt pháp lý.
+ Hòa giải là biện pháp mang tính chất riêng tư, tuy nhiên có sự tham gia của
người thứ ba gọi là hòa giải viên. Bên thứ ba giúp các bên đạt được một thỏa thuận
thống nhất giải quyết vấn đề. Kết quả của hòa giải cũng được các bên tự giác chấp
hành. Khi hai bên không thể giải quyết bằng các con đường trên thì theo thỏa thuận
của hợp đồng hoặc hai bên tự thỏa thuận sẽ giải quyết bằng con đường Trọng tài hoặc
Tòa án
* Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và tòa án được tiến hành theo các thủ tục
tố tụng của Trọng tài, Tòa án do pháp luật quy định (Điều 317 Luật thương mại)
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Theo pháp lệnh trọng tài thương mại số 08/2003/PL-UBTVQH ngày 25 tháng
02 năm 2003 tại Điều 9 có quy định việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài phải
được lập thành văn bản và có thể nêu trong một điều khoản của hợp đồng thương mại
hoặc một thỏa thuận riêng.
Thỏa thuận giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài bị vô hiệu trong các trường hợp
được quy định trong Điều 10 của pháp lệnh này bao gồm:
- Tranh chấp phát sinh không thuộc hoạt động thương mại được quy định tại
khoản 3 Điều 2 của Pháp lệnh trọng tài thương mại;
- Người ký thoả thuận trọng tài không có thẩm quyền ký kết theo quy định của
pháp luật;
- Một bên ký kết thoả thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ;
- Thoả thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh
chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên
không có thoả thuận bổ sung;
- Thoả thuận trọng tài không được lập theo quy định tại Điều 9 của Pháp lệnh
này;
- Bên ký kết thoả thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe doạ và có yêu cầu tuyên bố
thoả thuận trọng tài vô hiệu; thời hiệu yêu cầu tuyên bố thoả thuận trọng tài vô hiệu
là sáu tháng, kể từ ngày ký kết thoả thuận trọng tài, nhưng phải trước ngày Hội đồng
Trọng tài mở phiên họp đầu tiên giải quyết vụ tranh chấp quy định tại Điều 30 của
Pháp lệnh này.
Thỏa thuận trọng tài trong trường hợp được thỏa thuận dưới hình thức như một
điều khoản của hợp đồng hoặc thành một thỏa thuận riêng biệt thì về nguyên tắc vẫn
phải tuân theo các nguyên tắc như soạn thảo một hợp đồng
* Giải quyết tranh chấp bằng tòa án
+ Đối với các hợp đồng kinh tế được ký kết giữa các bên mang quốc tịch Việt
Nam thì thủ tục giải quyết sẽ do tòa kinh tế của tòa án nhân dân giải quyết.
+ Đối với hợp đồng ngoại thương thì tòa kinh tế trong nước không có thẩm
quyền đương nhiên giải quyết một tranh chấp phát sinh. Tòa án kinh tế trong nước
chỉ có thẩm quyền giải quyết khi trong hợp đồng có điều khoản thỏa thuận và trong
16