Tải bản đầy đủ (.pdf) (59 trang)

Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã – Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (709.88 KB, 59 trang )

Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 1 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
LỜI NÓI ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chế độ, chính sách đối với cán bộ nói chung, cán bộ cấp xã nói riêng luôn là vấn
đề mang tính chiến lược của sự nghiệp cách mạng. Nó chi phối khả năng thành công hay
thất bại của các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước bởi xét đến cùng thì mọi
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đều phải được triển khai thực
hiện ở cơ sở và thông qua hoạt động tác nghiệp của đội ngũ cán bộ cơ sở. Tại Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa IX, Đảng ta thấy rõ hệ thống chính
trị và đội ngũ cán bộ xã còn nhiều hạn chế. Trong đó có một nguyên nhân quan trọng như
ý kiến của Trung ương, Bộ Chính trị đã nhấn mạnh: Nguyên nhân chưa nhận thức đúng
vai trò, vị trí cơ sở, quan liêu, để một thời gian quá dài không có chính sách đồng bộ đối
với cán bộ, thiếu chăm lo, bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ cán bộ cho cơ sở, không kịp thời
bàn và đưa ra những chính sách để củng cố và tăng cường đội ngũ cán bộ cơ sở. Chính vì
thế, Đảng ta chủ trương tiến tới xây dựng hệ thống chính sách chế độ đối với cán bộ một
cách đồng bộ và nhất quán, công bằng, thống nhất phù hợp với từng loại đối tượng cán
bộ, khuyến khích những cán bộ có tài, có đức ra công sức đóng góp cho sự nghiệp xây
dựng đất nước đồng thời xử lý nghiêm minh và kịp thời những người có sai phạm.
Được biết, những người giúp việc cho hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay được
chia làm: Chuyên trách và không chuyên trách. So với thời gian trước, trong những năm
gần đây, Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm và chú trọng hơn đến công tác ban
hành và thực hiện các chế độ, chính sách cho đối tượng những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã. Tỉnh Bạc Liêu, cụ thể ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu
cũng rất quan tâm về việc ban hành, thực hiện chế độ, chính sách đối với đội ngũ này.
Các văn bản có thể kể đến như: Nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định về chức danh, số
lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị định số 29/2013/NĐ-CP sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009


của Chính phủ quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán
bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp
xã; Nghị quyết số 05/2010/NQ-HĐND ngày 15 tháng 7 năm 2010 Nghị quyết của Hội
đồng nhân dân tỉnh Bạc Liêu về việc quy định chức danh, số lượng, mức phụ cấp, mức
phụ cấp kiêm nhiệm, mức khoán kinh phí chi trả phụ cấp và một số chế độ, chính sách
đối với những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và khóm, ấp
trên địa bàn tỉnh Bạc liêu; Quyết định số 05/QĐ-UBND ngày 24 tháng 8 năm 2010 của
Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu về việc thực hiện quy định chức danh, số lượng, mức phụ
cấp, mức phụ cấp kiêm nhiệm, mức khoán kinh phí chi trả phụ cấp và một số chế độ,
chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và
khóm, ấp trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu; Nghị quyết số 26/2013/NQ-HĐND ngày 06 tháng
12 năm 2013 Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Bạc Liêu quy định chức danh, số
lượng, mức phụ cấp, mức phụ cấp kiêm nhiệm, mức khoán kinh phí chi trả phụ cấp và
một số chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở xã,
phường, thị trấn và khóm, ấp trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu; Quyết định số 32/QĐ-UBND
ngày 14 tháng 7 năm 2014 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu về việc quy định chức
danh, số lượng, mức phụ cấp, mức phụ cấp kiêm nhiệm, mức khoán kinh phí và chế độ,
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 2 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và
khóm, ấp trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu. Đây là các cơ sở pháp lý quan trọng để làm tốt công
tác quản lý những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói chung và ở xã Hiệp
Thành nói riêng.
Việc triển khai thực hiện các văn bản trên đã đạt được một số kết quả quan trọng:
Đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã và ở xã Hiệp Thành đã
từng bước phát triển về số lượng lẫn chất lượng. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt
được thì việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với đội ngũ này ở xã Hiệp Thành thuộc
thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu nói riêng hiện nay còn phát sinh nhiều vướng mắc, bất
cập, không phù hợp với tình hình thực tế như: Việc ban hành và thực hiện các văn bản,

quy định về các chính sách, chế độ đối với những người hoạt động không chuyên trách
cấp xã của Đảng và Nhà nước hầu hết vẫn mang tính giải pháp tình thế, chưa cơ bản,
chưa đồng bộ. Chế độ, chính sách đãi ngộ những năm qua thường xuyên thay đổi không
ổn định. Việc giải quyết các chế độ, chính sách mới chỉ chạy theo những vấn đề phát sinh
chưa cơ bản và toàn diện. Ngoài ra các chế độ, chính sách đối với họ vẫn còn thiếu sự
công bằng và nó được thể hiện qua tiêu chí ba không: Không được hưởng lương theo
biên chế; không có chính sách nâng lương theo thâm niên công tác; không thuộc diện bảo
hiểm xã hội bắt buộc.
Chính vì các lẻ đó, nhận thấy hiện nay đòi hỏi cần phải có một sự nghiên cứu toàn
diện về chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
để có giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách chế độ đối với những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã. Từ những phân tích trên, người viết chọn đề tài : “Chế độ, chính
sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã - Thực tiễn ở xã
Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu” làm luận văn tốt nghiệp. Đây là
một vấn đề cấp bách, phù hợp với yêu cầu thực tiễn của địa phương.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận văn là thông qua việc phân tích cơ sở lý luận – thực tiễn và xác
định các chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Để từ đó, đề xuất các giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới và kiến nghị nhằm hoàn thiện
chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói
chung và ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu nói riêng để họ yên
tâm công tác, phát huy hết năng lực, tạo động lực để họ có hướng phấn đấu, rèn luyện.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong thực tiễn, các chế độ, chính sách đối với cán bộ nói chung khá phức tạp và
đa dạng nên chế độ, chính sách đối với cán bộ cấp xã cũng không ngoại lệ. Vừa qua,
Chính phủ đã ban hành hai Nghị Định quy định về các chế độ, chính sách đối với những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cụ thể là: Nghị Định số 92/2009/NĐ-CP
quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở
xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; Nghị Định
29/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị Định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22

tháng 10 năm 2009 của Chính phủ quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính
sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 3 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
Để đi sâu và nghiên cứu rõ hơn về các chế độ, chính sách đối với những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, người viết giới hạn phạm vi nghiên cứu đề tài ở
đối tượng được ghi nhận trong hai Nghị định vừa nêu trên đó là:
Những người hoạt động không chuyên trách ở xã –Thực tiễn ở xã Hiệp Thành
thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu;
Người viết tập trung nghiên cứu đề tài ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu,
tỉnh Bạc Liêu trong giai đoạn từ năm (2012- 2014).
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm,
chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước về chế độ, chính sách đối với
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói chung và những người hoạt
động không chuyên trách ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bac Liêu, tỉnh Bạc Liêu nói
riêng.
Ngoài việc sử dụng các phương pháp lý luận phổ biến như: phương pháp phân
tích, tổng hợp, phân tích luật viết và nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách vở. Người viết
còn tiếp cận nghiên cứu luận văn thông qua một số phương pháp thực tế chẳng hạn:
Phương pháp sưu tầm số liệu thực tế, phân tích tổng hợp và thống kê số liệu thực tế, kết
hợp các phương pháp lịch sử - thực tiễn và phương pháp phân tích đánh giá số liệu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được chia gồm 03 chương. Người viết trình bày theo trình tự bắt đầu từ việc nêu lên cơ
sở lý luận đến các quy định của pháp luật có liên quan sau cùng là thực tiễn, một số giải
pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện, cụ thể:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận chung về các chế độ, chính sách đối với những ngƣời

hoạt động không chuyên trách ở cấp xã – Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành
phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
Chương này giới thiệu về các cơ sở lý luận chung nhất từ các khái niệm cơ bản
đến quá trình phát triển của chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không
chuyên trách trong những năm qua. Sau cùng, người viết nêu lên sự cần thiết của các chế
độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Từ đó, tạo
tiền đề cho người viết thực hiện chương 2.
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật về chế độ, chính sách đối với những ngƣời
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã – Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành
phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
Ở chương này, người viết tập trung phân tích các quy định về phụ cấp, chế độ đào
tạo bồi dưỡng, bảo hiểm y tế và khen thưởng, kỷ luật đối với những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã - thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh
Bạc Liêu dựa trên các quy định của pháp luật. Thông qua việc phân tích một vài quy định
của các tỉnh thành khác về chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, người viết sẽ so sánh và đưa ra những đánh gia chung về tình hình
thực hiện quy định về chế độ, chính sách ở tỉnh Bạc Liêu.

Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 4 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
Chƣơng 3: Thực tiễn, giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ, chính
sách đối với những ngƣời hoạt động không chuyên trách ở cấp xã – Thực tiễn ở xã
Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
Trên cơ sở chương 2, trọng tâm của chương này người viết phân tích thực tiễn
thực hiện các chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở xã
Hiệp Thành. Sau đó, nêu lên một số nhận xét về công tác thực hiện chế độ, chính sách đối
với những người hoạt động không chuyên trách ở xã Hiệp Thành. Cuối cùng người viết,
đưa ra những giải pháp cũng như một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ, chính sách
đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói chung và ở xã Hiệp

Thành nói riêng.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 5 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NHŨNG
NGƢỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ
Cùng với sự phát triển nhanh của đất nước hiện nay, vấn đề chế độ, chính sách đối
với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã và đang được Đảng và Nhà
nước ta đặc biệt quan tâm thực hiện nhằm đảm bảo đời sống cũng như bù đắp lại những
công hiến của đội ngũ này đối với sự phát triển ở địa phương và cả sự phát triển chung
của nước nhà. Song vấn đề đặt ra ở đây là các chế độ, chính sách đó có thực sự là “phần
thưởng xứng đáng” đối với công sức của họ chưa? Đây thật sự đang là một vấn đề cấp
thiết gây ra nhiều bức xúc cho nhóm người được coi là “ăn cơm nhà vác tù và hàng
tổng”. Ở chương này, người viết tập trung làm rõ những vấn đề chủ yếu mang tính lý
luận chung đối với nhóm người không chuyên trách và chế độ, chính sách đối với họ
như: (i) Những khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò cơ bản liên quan đến (hệ thống chính
trị cấp xã, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã); (ii) Cùng với việc làm
rõ những khái niệm của nội dung chế độ, chính sách (phụ cấp, phụ cấp kiêm nhiệm, đào
tạo, bồi dưỡng, bảo hiểm y tế), và đề cập sơ lược về lịch sử phát triển các chế độ, chính
sách; (iii) Cuối cùng, người viết tìm hiểu về sự cần thiết của các chế độ, chính sách đó
đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
1.1. Khái quát chung về hệ thống chính trị cấp xã và những ngƣời hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của hệ thống chính trị cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm chung về hệ thống chính trị cấp xã
Hệ thống chính trị
1
ở nước ta hiện nay gồm có: Đảng Cộng sản Việt Nam (giữ vai
trò lãnh đạo), Nhà nước (giữ vị trí trung tâm), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức

thành viên và đoàn thể nhân dân (giữ vai trò phát huy dân chủ). Đây là các tổ chức hợp
pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, được Nhà nước bảo trợ, hoạt động công
khai, nhằm thực hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là đơn vị hành chính cấp cơ sở. Đây là
cấp cuối cùng trong hệ thống quản lý hành chính, là cấp gần và sát dân nhất, nơi thể hiện
trực tiếp và cụ thể các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, thực
hiện chung mục tiêu phát triển kinh tế, văn hóa – xã hội, đảm bảo an ninh trật tự xã hội,
tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
Hệ thống chính trị cấp xã ở nước ta hiện nay gồm có: Đảng bộ hay Chi bộ cấp xã,
Chính quyền cấp xã (Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã), Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và các tổ chức thành viên và đoàn thể nhân dân ở cấp xã. Hệ thống chính trị ở xã
Hiệp Thành cũng là một bộ phần trong hệ thống chính trị cấp xã nói chung. Theo đó thì
hệ thống chính trị xã Hiệp Thành cũng bao gồm các bộ phận sau: Tổ chức Đảng ở xã
(Đảng bộ, Chi bộ xã), Chính quyền xã (Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân xã), Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên và đoàn thể nhân dân. Mỗi bộ phận hợp thành hệ
thống chính trị cấp xã đều có vị trí, vai trò và chức năng khác nhau nhưng tất cả các bộ


1
Hệ thống chính trị theo nghĩa rộng là khái niệm dùng để chỉ toàn bộ lĩnh vực chính trị của đời sống xã hội với tư
cách là một hệ thống bao gồm các tổ chức, các chủ thể chính trị, các quan điểm, quan hệ chính trị, hệ tư tưởng và
các chuẩn mực chính trị, pháp luật (Xem Tài liệu bồi dưỡng về quản lý Hành chính Nhà nước chương trình chuyên
viên – phần I: Nhà nước và pháp luật – Học viện Hành chính Quốc gia – 2001, tr 13).
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 6 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
phận này đều có mối quan hệ mật thiết với nhau, hỗ trợ cùng nhau phát triển mọi mặt đời
sống ở địa phương.
Tóm lại, hệ thống chính trị cấp xã nói chung và xã Hiệp Thành nói riêng là hệ
thống chỉnh thể các tổ chức Đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ

chức thành viên và đoàn thể nhân dân ở xã, phường, thị trấn được tổ chức hoạt động
theo khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng nhằm thực
hiện và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong phát triển mọi mặt đời sống kinh tế,
văn hóa, xã hội và ổn định chính trị trên địa bàn.
1.1.1.2. Đặc điểm của hệ thống chính trị cấp xã
Là một bộ phận của hệ thống chính trị cấp xã nói chung, do đó hệ thống chính trị
xã Hiệp Thành vừa mang những đặc điểm chung của hệ thống chính trị cấp xã, vừa mang
những đặc điểm riêng biệt, đặc thù so với hệ thống chính trị cấp trên. Cụ thể:
Thứ nhất, hệ thống chính trị cấp xã là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị ở Nhà
nước ta, song lại là cấp quan trọng, gần và sát dân nhất.
Theo phân cấp quản lý thì cơ quan nhà nước được phân chia thành cơ quan nhà
nước cấp trung ương và cơ quan nhà nước cấp địa phương trong đó cấp địa phương được
chia thành cấp tỉnh, huyện và xã. Còn theo phân cấp đơn vị hành chính thì chia thành cấp
tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Và nếu phân cấp quản lý theo địa giới hành chính thì được
chia thành 4 cấp: cấp trung ương (cấp nhà nước); cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; xã, phường, thị trấn. Như vậy, cấp xã nói
chung và xã Hiệp Thành nói riêng là cấp thấp nhất và gần dân nhất.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cấp xã là gần dân nhất, là nền tảng của
hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”
2
. Cấp xã là một bộ phận
nòng cốt của hệ thống chính trị ở cơ sở, trực tiếp thực hiện việc tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Là cầu nối trực
tiếp giữa hệ thống chính quyền cấp trên với nhân dân, hằng ngày tiếp xúc, nắm bắt và
phản ánh tâm tư nguyện vọng của nhân dân, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế- xã hội.
Thực tiễn cho thấy, có hệ thống đường lối, chính sách pháp luật đúng đắn nhưng ở
đó chính quyền cấp xã hoạt động yếu kém thì đường lối chính sách pháp luật cũng sẽ
chưa thực sự đi vào đời sống của nhân dân, chưa phát huy được sức mạnh của mình;
ngược lại ở đâu chính quyền cấp xã hoạt động có hiệu quả thì ở đó đường lối, chính sách

pháp luật của Đảng và Nhà nước được thực thi nghiêm minh, chính trị ổn định, đời sống
nhân dân được nâng cao.
Thứ hai, hệ thống chính trị cấp xã khác với hệ thống chính trị cấp tỉnh, cấp huyện
ở chỗ: cơ quan Nhà nước ở cơ sở không có các cơ quan tư pháp (Tòa án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân). Uỷ ban nhân dân quản lý trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội, an ninh- quốc phòng ở địa phương và trong nhiều trường hợp Uỷ ban
nhân dân cấp xã phải kiêm nhiệm luôn cả chức năng tư pháp (xét xử, hòa giải). Vì thế,
chính quyền cấp xã cũng là nơi phát huy được tính tự quản của cộng đồng dân cư.
Thứ ba, hệ thống chính trị xã Hiệp Thành có bộ máy đơn giản nhất hiện nay.


2
Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 371-372.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 7 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
Vì là cấp cuối cùng trong phân cấp đơn vị hành chính ở nước ta, nên bộ máy của
hệ thống chính trị ở xã Hiệp Thành nhìn chung tương đối đơn giản hơn so với các cơ
quan cấp trên. Theo Khoản 1, Điều 9 Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 2003
(Hội đồng nhân dân cấp xã tối đa không quá 35 đại biểu và không có các phòng, ban như
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện). Uỷ ban nhân dân cấp xã cũng chỉ có từ 03 đến 05
thành viên
3
. Theo quy định xã Hiệp Thành có tổng số: Cán bộ chuyên trách và công chức
không quá 25 người; những người hoạt động không chuyên trách bố trí không quá 22
người
4
.
Thứ tư, đơn vị hành chính cấp xã, được hình thành trên nền tảng địa điểm quần cư,
nó liên kết các điểm dân cư lại với nhau trong một khối thống nhất. Mọi vấn đề của địa

phương đều liên quan chặt chẽ với nhau và cần phải giải quyết trên cơ sở kết hợp hài hòa
các lợi ích: Nhà nước - dân cư và giữa dân cư với nhau. Chính quyền ở đây không chỉ là
cơ quan cai trị - quản lý mà còn là cơ quan thể hiện lợi ích chung của dân cư, là nơi vận
động và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò của đội ngũ những ngƣời hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
 Khái niệm những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Nước ta khi bước vào thời kỳ mới vừa đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
vừa xây dựng và hoàn chỉnh Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tiến hành xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đặc biệt là việc thực hiện “Chương trình
mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới” đầu từ năm 2010 đến nay. Trong thời kỳ
này, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt dành sự quan tâm đến chính quyền cấp xã. Cùng với
việc chăm lo xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ cấp xã, Đảng và Nhà nước ta
luôn cân nhắc việc ban hành thực hiện, sửa đổi, bổ sung các chế độ, chính sách đối với
cán bộ nói chung - những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng ngày
càng hoàn thiện hơn.
Để làm rõ được đều đó, trước hết ta phải nắm được các khái niệm cơ bản về đối
tượng được áp dụng các chế độ, chính sách đó. Cụ thể là: Những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã.
Theo Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày 18 tháng 3 năm 2002 của Hội nghị lần thứ
5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa IX
5
, hệ thống chính trị ở cơ sở có cán bộ:
chuyên trách và không chuyên trách. Trên tinh thần của Nghị quyết, cán bộ ở cấp xã
được chia làm (cán bộ chuyên trách và cán bộ không chuyên trách). Tuy nhiên, kể từ khi
Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ quy định về
chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường,
thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được ban hành và có hiệu



3
Xem Điều 5 và Điều 122, Khoản 3 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003.
4
Chương 2, Mục 1, Điều 4, Khoản 1, Điểm a và Chương 3, Điều 13, Khoản 1 Nghị định 92/2010/NĐ-CP.
5
“Nghị quyết đã đề cập một cách toàn diện các vấn đề liên quan đến đội ngũ cán bộ, công chức làm việc ở cơ sở.
Đây là một văn kiện quan trọng đánh giá thực trạng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở và xác định tính tất
yếu phải đặt đúng vị trí của đội ngũ cán bô, công chức cơ sở trong hệ thống chính trị Việt Nam”, trích dẫn một
phần nội dung trong bài viết của tác giả Trần Thị Thư Hương, Bài 4: Quản lý cán bộ, thư viện trực tuyến Violet, Thư
viện Giáo án điện tử, [truy cập 27/8/2014].
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 8 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
lực đến nay, Nghị định chính thức dùng thuật ngữ “những người hoạt động không chuyên
trách” thay cho thuật ngữ “cán bộ không chuyên trách”.
Hiện nay, Luật cán bộ, công chức năm 2008 và một số văn bản pháp luật hiện
hành khác điều chỉnh rất cụ thể và rõ ràng về đối tượng cán bộ cấp xã. Song, đối với đối
tượng “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã” các văn bản này lại không
quy định cụ thể thế nào là những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã.
Vì vậy, để nêu lên một khái niệm phù hợp, rõ ràng về những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã là một việc không hề dễ dàng. Tuy nhiên, trên quy định của
các cơ sở pháp lý liên quan đến đối tượng này cũng như căn cứ vào tình hình thực tế, có
thể khái quát lên được khái niệm “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”
như sau:
Những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là công dân Việt Nam được
bố trí làm công việc chuyên môn nhưng không thường xuyên, liên tục. Là trợ thủ đắc lực
giúp cấp ủy, chính quyền, các tổ chức đoàn thể giải quyết công việc ở cơ sở và trực tiếp
giải quyết các vấn đề của người dân, góp phần đảm bảo phát triển kinh tế - xã hội, ổn
định chính trị, an ninh trật tự trên địa bàn xã, phường, thị trấn. Nhóm người này không

được hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, không được hưởng chính sách tăng lương
theo thâm niên công tác, không thuộc diện đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, chỉ được
hưởng khoản trợ cấp hàng tháng, mức phụ cấp kiêm nhiệm cùng với mức khoán kinh phí
hoạt động từ Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật rót xuống địa phương.
Căn cứ vào Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh Ủy ban nhân dân cùng cấp sẽ ra
Quyết định quy định khung về số lượng, chức danh, mức phụ cấp cụ thể, mức phụ cấp
kiêm nhiệm, mức khoán kinh phí và chế độ, chính sách khác cho những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã trong hệ thống chính trị ở cấp cơ sở.
 Đặc điểm của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Đặc điểm của đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, tại xã
Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu gồm có:
Thứ nhất, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, tại xã Hiệp Thành
có một số lượng lớn là dân bản địa, cư trú, sinh sống tại địa phương, có quan hệ họ hàng,
gắn bó với các mặt đời sống của người dân như: kinh tế, văn hóa, tình cảm và trong sinh
hoạt hàng ngày.
Thứ hai, đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, tại xã Hiệp
Thành có trình độ chuyên môn còn thấp. Về trình độ chuyên môn vẫn còn hạn hẹp, ít
được đào tạo chính quy và hay có sự biến động – chủ yếu chỉ đạt đến trình độ Trung cấp,
trình độ chuyên môn của họ vẫn chưa được quan tâm, chú trọng nhiều như cán bộ chuyên
trách. Mặc dù các chức danh được quy định rõ ràng song một số trong họ cũng phải kiêm
nhiệm thêm chức danh khác. Bên cạnh đó, chế độ và lề lối làm việc của họ chưa chuyên
nghiệp, họ làm việc không theo quy định mà chỉ phụ thuộc vào tình hình cụ thể của xã để
bố trí giải quyết công việc.
Thứ ba, một đặc điểm hết sức quan trọng của đội ngũ những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã, tại xã Hiệp Thành. Đó là việc hỗ trực tiếp tham gia sản
xuất, kinh doanh. Họ vừa tham gia làm kinh tế nuôi sống bản thân và gia đình họ bằng
những tư liệu sản xuất của chính họ hay làm ăn trên chính đất đai ruộng vườn của mình,
vừa tham gia công tác tại xã Hiệp Thành.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu

GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 9 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
Thứ tư, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là những người trực
tiếp giải quyết những vấn đề liên quan đến người dân như: thắc mắc, tâm tư - nguyện
vọng của người dân, biết lắng nghe và tiếp thu ý kiến của người dân ở địa phương để từ
đó điều chỉnh cách thức làm việc phù hợp nhằm đảm bảo lợi ích chung cho người dân.
Thứ năm, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã không được:
Hưởng lương, phụ cấp theo loại xã và không được tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, dù
họ là nhóm người gần dân nhất, gắn bó và hiểu dân nhất so với cán bộ chuyên trách, họ
trực tiếp triển khai đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước cho dân hiểu
và dân thực hiện. Được nhân dân tính nhiệm bầu ra, đại diện ý chí của người dân ở cấp
xã.
Thứ sáu, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã mang tính ổn định
thấp so với cán bộ chuyên trách. Được thể hiện qua công việc mà họ làm không thường
xuyên, không liên tục như làm việc không theo biên chế, số lượng thì thường xuyên bị
biến động.
1.1.2.2. Vị trí, vai trò của đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã
Vốn quý nhất của Đảng ta, Nhà nước và nhân dân ta là cán bộ. Đảng ta nhận định:
“Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của Cách mạng gắn liền với vận mệnh của
Đảng, của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng”
6
.
Trong giai đoạn hiện nay, khi chúng ta đang từng bước tiến tới xây dựng Nhà
nước Pháp quyền, mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, tăng cường mối quan hệ gắn bó
giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Vì vậy, đội ngũ cán bộ cấp xã nói chung - những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng có một vị trí, vai trò rất quan
trọng trong công cuộc triển khai thực hiện các chính sách, đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước xuống địa phương góp phần giúp người dân hiểu và nắm bắt được các chủ
trương, chính sách đó. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là những
người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi

hành, đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, Chính phủ hiểu rõ để đặt
chính sách cho đúng”.
Mặc dù cán bộ cấp xã nói chung đóng một vai trò quan trọng trong hoạt động quản
lý đều hành ở cấp xã. Song, những người được xem là “cánh tay nối dài” của chính
quyền cơ sở cũng có những đóng góp không hề nhỏ trong công tác xây dựng chính quyền
ở cơ sở - một đội ngũ chiếm tỷ lệ không nhỏ so với cán bộ, công chức cấp xã và được
luật định là “những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã”. Tuy không được xem
là cán bộ nhưng nhóm người này hoạt động, công tác cũng như cán bộ. Vì vậy, những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã có vị trí, vai trò tương đương như cán bộ
chuyên trách cấp xã.
Có thể khẳng định một điều trong sự phát triển kinh tế, giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội ở địa phương có phần đóng góp không nhỏ của đội ngũ những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã.


6
Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.269.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 10 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
Người hoạt động không chuyên trách có vai trò quan trọng trong việc lãnh đạo,
chỉ đạo, tập hợp, tuyên truyền, tổ chức nhân dân trong cộng đồng thực hiện chủ trương
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, các phong trào, các cuộc vận động ở khu dân cư.
Thời gian qua, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã có nhiều
đóng góp, cống hiến thông qua các hoạt động, nhất là những công việc không tên, thầm
lặng như: Tự đi phát hành thư mời, xác minh hồ sơ hộ nghèo - cận nghèo, cho đến việc
phải đi khắp nơi để vận động quà, tiền, học bổng, xây dựng nhà tình thương nhằm giúp
các đối tượng là hộ nghèo - cận nghèo, người khuyết tật, nạn nhân chất độc da cam trên
địa bàn. Tuy là đội ngũ hoạt động không chuyên trách nhưng bất kỳ hoạt động nào của
Trung ương, địa phương triển khai xuống đều có sự tham gia của họ.

Đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là một trong những
nguồn nhân lực quan trọng cung cấp cán bộ cho cấp xã nói riêng và trên cấp xã nói chung
(huyện, tỉnh). Môi trường ở cấp xã là môi trường rất quan trọng giúp đội ngũ cán bộ
không ngừng phát triển và trưởng thành. Không thể phủ nhận một đều, hiện nay một
lượng cán bộ cấp cao, chủ chốt đều xuất thân từ đội ngũ ở cấp xã. Trong bài báo nói về
sự cần thiết phải giáo dục cán bộ và cốt cán ở cơ sở, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng cán
bộ cơ sở “Không những là cái khâu liên hệ, mà lại là cái kho dồi dào cho Đảng lấy ra lực
lượng mới. Nếu cốt cán được phát triển và củng cố, thì Đảng sẽ phát triển và củng cố.
Nếu không có cốt cán, thì Đảng sẽ khô héo”
7
.
 Đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở xã Hiệp Thành thuộc
thành phố Bạc Liêu – tỉnh Bạc Liêu cũng là một bộ phận trong đội ngũ cán bộ nói chung
và cán bộ cấp xã ở Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu – tỉnh Bạc Liêu nói riêng. Đội
ngũ này cũng có một vị trí, vai trò quan trọng không kém so với cán bộ, công chức cấp
xã. Họ luôn song hành cùng đội ngũ chuyên trách ở cấp xã trong việc làm cầu nối giữa
Đảng, Nhà nước với nhân dân để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, góp phần phát huy
vai trò của hệ thống chính trị, giúp ổn định chính trị, giữ gìn an ninh, trật tự và phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương. Họ chính là lực lượng tuyên truyền chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước đến dân nhanh chóng và hiệu quả nhất. Nếu được
xây dựng vững mạnh, họ sẽ là lực lượng quan trọng tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ và
vững chắc trên địa bàn xã Hiệp Thành trong thời gian tới.
Tuy nhiên, có một thực tế dù cả hai đội ngũ cán bộ chuyên trách và những người
hoạt động không chuyên trách đều được cấp trên ra quyết định công nhận chức danh,
nhiệm vụ rõ ràng song chế độ, chính sách đãi ngộ của Nhà nước đối với hai đội ngũ này
lại có sự khác biệt rất rõ ràng. Để rõ làm hơn về điều này ở Chương 2, người viết sẽ trình
bày cụ thể và chi tiết các quy định của Nhà nước về chế độ, chính sách đối với những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói chung và ở xã Hiệp Thành nói riêng.
Để từ đó, có thể thấy được những điều còn bất cập, vướng mắc trong các chế độ, chính
sách đối với họ, trong khi họ có vị trí, vai trò tương đối quan trọng đối với hệ thống chính

trị ở cơ sở.
1.2. Tổng quan về chế độ, chính sách đối với những ngƣời hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản


7
Hồ Chí Minh ( 1995), toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr 273-274.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 11 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
1.2.1.1. Chính sách, chế độ
Chế độ, chính sách cán bộ là một bộ phận quan trọng của công tác cán bộ, là công
cụ và biện pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ. Có hệ thống chính sách cán bộ đúng sẽ hỗ
trợ, thúc đẩy các mặt công tác cán bộ tạo động lực cho sự phát triển của đội ngũ cán bộ;
ngược lại, chính sách chế độ cán bộ không tốt sẽ gây khó khăn cho công tác cán bộ, gây
ra những hậu quả tiêu cực không lường hết. Đảng ta nhận thức: Thực hiện chính sách đối
với cán bộ là khâu quan trọng là điều kiện cần thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ.
Chính sách trước hết được hiểu là một thuật ngữ được sử dụng rất rộng rãi trong
đời sống xã hội, đặc biệt được sử dụng rất nhiều trong các vấn đề liên quan đến chính trị
và pháp quyền. Theo Từ điển Tiếng Việt: “Chính sách là sách lược, kế hoạch cụ thể
nhằm đạt được mục đích thống nhất, dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực
tế mà đề ra chính sách” (Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm từ điển học,
2003).
Trên quan điểm về chính sách nêu trên, có thể đưa ra quan niệm: Chính sách đối
với cán bộ nói chung là những sách lược và kế hoạch cụ thể của Nhà nước áp dụng đối
với cán bộ, công chức nhằm đạt được mục đích nhất định trên cơ sở thực hiện các quyền
lợi, lợi ích đối với cán bộ dựa vào đường lối chính trị chung và tình hình thực tế của đất
nước.
Chế độ là gì? Theo Đại từ điển tiếng Việt: “Chế độ là toàn bộ những quy định nói

chung cần tuân theo trong một việc nào đó”
8
.
Vậy, chế độ đối với cán bộ nói chung là những quy định cần tuân theo của Nhà
nước đối với họ dựa vào trình độ chuyên môn nghiệp vụ, điều kiện kinh tế- xã hội, nhằm
đạt được mục tiêu quản lý của Nhà nước.
Chính sách và chế độ là hai khái niệm gắn liền nhau, sự phân biệt giữa chúng chỉ
mang tính chất tương đối để thể hiện sự khuyến khích, sự quan tâm của Nhà nước đối với
cán bộ, công chức tạo động lực cho họ hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Từ những quan niệm chung về chế độ, chính sách cán bộ nêu trên, có thể khái quát
về chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã ở xã
Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu - tỉnh Bạc Liêu như sau: Là tổng thể những sách
lược kế hoạch của Đảng, Nhà nước thông qua các quan điểm, chủ trương, biện pháp quy
định đối với những người hoạt động không chuyên trách ở xã và công tác xây dựng đội
ngũ những người hoạt động không chuyên trách ở xã Hiệp Thành. Nội dung của các chế
độ, chính sách đối với họ phải căn cứ dựa trên tình hình, đặc điểm của đội ngũ những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Từ đó, sẽ có các chế độ, chính sách phù
hợp đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói chung –và ở xã
Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu - tỉnh Bạc Liêu nói riêng.
1.2.1.2. Mức phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Thay vì cán bộ, công chức được hưởng tiền lương (lượng tiền mà người lao động
nhận được từ người sử dụng lao động sau khi đã hoàn thành một công việc nhất định
hoặc sau một thời gian lao động nhất định – Sách kinh tế lao động). Những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã chỉ nhận được mức phụ cấp hàng tháng – là khoản trợ
cấp được trích ra từ nguồn quỹ của Ngân sách Trung ương rót xuống địa phương để


8
Nguyễn Như Ý, “Đại từ điển Tiếng Việt”, Nxb. Văn hóa thông tin, năm 1999, trang 341.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –

Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 12 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
khoán chi trả mức tiền cụ thể theo luật định nhằm phụ giúp đảm bảo đời sống của họ
cũng như bù đắp phần công sức họ tham gia công tác làm công việc tại địa phương. Tuy
nhiên, số tiền cụ thể đó không phải tiền lương theo biên chế như cán bộ, công chức được
hưởng. Việc quy định những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chỉ được
hưởng các mức phụ cấp như hiện nay cũng là một bất cập, so với mức công việc họ phải
đảm nhận không thua vì cán bộ, công chức cấp xã mà có khi khối công việc phải xử lý
còn nhiều hơn cán bộ, công chức cấp xã. Vậy mà mỗi tháng họ chỉ nhận được một khoản
trợ cấp khá ít.
Ngoài ra, nếu họ kiêm nhiệm thêm chức danh khác mà giảm được 01 người trong
số lượng được giao thì được hưởng mức phụ cấp kiêm nhiệm. Vậy kiêm nhiệm là gì?
Kiêm nhiệm “là việc ngoài một công việc chính sẽ kiêm thêm một công việc khác”, tùy
theo từng địa phương và tùy vào khả năng cũng như trình độ hiểu biết của từng người về
chức danh kiêm nhiệm thì sẽ được bố trí kiêm nhiệm công việc chức danh. Để biết những
quy định về những mức phụ cấp cụ thể mà mỗi tháng họ nhận được, người viết sẽ trình
bày rõ ràng hơn ở chương 2.
1.2.1.3. Đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Thông thường, đào tạo được hiểu là: “quá trình tác động đến con người làm cho
người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng kỹ xảo một cách có hệ thống
nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân
công lao động nhất định”
9
. Còn bồi dưỡng được xác định là quá trình làm cho người ta
“tăng thêm năng lực hoặc phẩm chất” đây là cách hiểu thông dụng nhất về khái niệm
đào tạo, bồi dưỡng.
Đào tạo, bồi dưỡng những người hoạt động không chuyên trách là việc tổ chức
những cơ hội cho họ học tập, nhằm giúp tổ chức, cơ quan đạt được mục tiêu của mình
bằng việc tăng cường năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ này, từ đó
làm gia tăng giá trị của nguồn nhân lực có đủ trình độ năng lực đảm nhận mọi công tác

được giao. Đào tạo, bồi dưỡng tác động đến họ làm cho họ có thể làm việc tốt hơn, cho
phép họ sử dụng tốt hơn các khả năng, tiềm năng vốn có của họ, phát huy hết năng lực
làm việc của họ.
Đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao hiểu biết về mọi mặt cho những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã là cần thiết trong thời điểm hiện nay. Họ là những
người trực tiếp gần gũi nhân dân, vì vậy trước hết họ phải nắm bắt và hiểu được những
chủ trương, chính sách, của Đảng và Nhà nước. Để giải thích cho dân hiểu dân làm,
gương mẫu đi đầu, thực hiện trong mọi công tác. Đặc biệt, họ là nguồn nhân lực cần thiết
để bổ sung vào lực lượng cán bộ, công chức sau này.
1.2.1.4. Bảo hiểm y tế đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp

Bảo hiểm xã hội (BHXH) và bảo hiểm y tế (BHYT) là hai chính sách xã hội quan
trọng, là trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, góp phần thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội, bảo đảm ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển hệ
thống BHXH, BHYT đồng bộ với phát triển các dịch vụ xã hội, đáp ứng ngày càng tốt


9
Viện Từ điển học và Bách khoa toàn thư Việt Nam, Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam, Tập 1, Nxb Từ điển
Bách khoa.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 13 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
hơn nhu cầu của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người tham gia và hưởng thụ
các chế độ BHXH và BHYT
10
.
Theo quy định hiện hành, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã chỉ
được hưởng chế độ bảo hiểm y tế. “Bảo hiểm y tế là hình thức bảo hiểm được áp dụng
trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe không vì mục đích lợi nhuận do Nhà nước tổ chức thực

hiện và các đối tượng có trách nhiệm tham gia theo quy định của luật này” (Điều 2,
Khoản 1 Luật bảo hiểm y tế năm 2008). Theo quy định của Luật bảo hiểm y tế sửa đổi
năm 2014
11
: Luật đã quy định cụ thể đối tượng những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã là đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm y tế, với mức đóng hàng tháng
của đối tượng theo Luật này tối đa bằng 6% mức lương cơ sở, trong đó người sử dụng lao
động đóng 2/3 và người lao động đóng 1/3. Đây là loại hình bảo hiểm góp phần giúp cho
họ khắc phục khó khăn về kinh tế, nâng cao chất lượng cũng như giữ vững công bằng xã
hội trong khám và chữa bệnh. Mục đích của chế độ này là cung cấp dịch vụ chăm sóc y tế
để duy trì, khôi phục cải thiện sức khỏe và khả năng làm việc cũng như nhu cầu cá nhân
của họ hoặc thanh toán các chi phí chữa bệnh.
1.2.1.5. Khen thưởng, kỷ luật đối với những người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã
Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích
bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc
12
.
“Sự công nhận và khen thưởng kịp thời là một yếu tố rất quan trọng trong việc tạo
động lực làm việc cho người lao động. Tâm lý con người nói chung và người lao động
nói riêng đều thích được khen thưởng khi thực hiện tốt công việc được giao”
13
. Đối với
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã cũng vậy, nếu như làm việc tốt mà
không ai công nhận sẽ làm cho họ không còn động lực phấn đấu hết mình vì công việc.
Chính vì thế, khen thưởng kịp thời đối với những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã là không thể thiếu. Những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được
khen thưởng chủ yếu là danh hiệu thi đua – đây là hình thức ghi nhận, biểu dương, tôn
vinh cá nhân, tập thể có thành tích trong phong trào thi đua

14
.
Bên cạnh, việc xem xét kỷ luật đối với những người hoạt động không chuyên trách
ở cấp xã cũng là một vấn đề không thể thiếu. Kỷ luật lao động là một trong những chế
định pháp luật để bảo đảm duy trì các điều kiện lành mạnh trong quá trình hoạt động
của cơ quan nhà nước, các tổ chức và doanh nghiệp, chế định này là bộ phận cấu thành
quan trọng trong hệ thống pháp luật lao động và cán bộ, công chức hiện hành của Nhà
nước ta
15
.


10
Đặng Huế, Triển khai Nghị quyết 21 – NQ/TW: Cần sự quyết tâm và cuộc của cả hệ thống chính trị,Trang thông
tin điện tử Bảo hiểm xã hội Việt Nam,
[truy cập ngày 27/09/2014].
11
Luật này chưa có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2015.
12
Điều 3, Khoản 2 Luật thi đua, khen thưởng năm 2003.
13
Xem thêm Chế độ chính sách trả lương khen thưởng, báo điện tử hslaw.vn, />sach quy-che-tra-luong khen-thuong bhyt bhxh/khen-thuong ky-luat.html, [truy cập 25/09/2014].
14
Điều 3, Khoản 3 Luật thi đua khen thưởng năm 2003.
15
Ts. Lê Minh Nghĩa, quy định pháp luật về xử lý kỷ luật, trách nhiệm vật chất của cán bộ, công chức và người lao
động, Nxb Chính trị quốc gia, năm 2008, tr 5.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 14 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng

Tóm lại, khen thưởng, kỷ luật là những công vụ và biện pháp quản lý trong quá
trình xây dựng, phát triển và sử dụng những người hoạt động không chuyên trách. Thông
qua đó, nhằm tôn vinh, động viên kịp thời các thành tích cống hiến và xử lý kịp thời các
vi phạm kỷ luật tạo ra sự công bằng trong đối xử. Qua đó, động viên, khuyến khích họ
phát huy trí tuệ, tài năng, sức lao động phục vụ cho sự phát triển của chính quyền cấp xã.
1.2.2. Lịch sử về quá trình phát triển các chế độ, chính sách đối với những ngƣời
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã dựa trên các văn bản pháp luật phù hợp với từng giai đoạn, từng
thời kỳ của đất nước. Một vài văn bản điều chỉnh về chế độ, chính sách đối với những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, người viết chia thành 2 giai đoạn như sau:
1.2.2.1. Giai đoạn năm 2003 đến năm 2010
Lần đầu tiên Chính phủ ban hành Nghị định quy định về số lượng, chức danh và
các chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
(Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 quy định về chế độ, chính
sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn). Đây là Nghị định đầu tiên quy
định cụ thể về chức danh những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Số lượng
những người hoạt động không chuyên trách căn cứ vào quy mô dân số. Tuy nhiên vì đây
là Nghị định đầu tiên điều chỉnh về đối tượng này nên các chế độ, chính sách đối với họ
còn rất khái quát không rõ ràng cụ thể như các Nghị định sau.
1.2.2.2. Giai đoạn từ năm 2010 đến nay
Từ 1/1/2010, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP về chức danh, số lượng, một số chế
độ, chính sách đối với cán bộ công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã có hiệu lực thi hành, kèm theo với Thông tư liên tịch số
03/2010/TTLT-BNV-BTC-BLĐTB&XH ngày 27 tháng 05 năm 2010 của Bộ Nội vụ, Bộ
Tài chính, Bộ Lao động Thương binh – Xã hội hướng dẫn thực hiện Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ quy định về chức danh, số
lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã (thay thế Nghị định số
121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 quy định về chế độ, chính sách đối với cán

bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn). Nghị định số 92/2009/NĐ-CP, có một số điểm mới
so với Nghị định trước như sau:
Thứ nhất, số lượng những người hoạt động không chuyên trách căn cứ theo 03 tiêu
chí (dân số, diện tích và các yếu tố đặc thù) so với Nghị định cũ chỉ dựa trên quy mô dân
số.
Thứ hai, Nghị định số 121/ 2003/NĐ-CP quy định cụ thể các chức danh, trong khi
đó Điều 14 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội
đồng nhân dân cùng cấp quy định chức danh những người hoạt động không chuyên trách.
Thứ ba, Nghị định cũng quy định rõ những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định nhưng không
vượt quá hệ số 1,0 mức lương tối thiểu và không thuộc đối tượng tham gia Bảo hiểm xã
hội bắt buộc.
Thứ tư, đổi tên gọi “cán bộ không chuyên trách” thành “những người hoạt động
không chuyên trách”, quy định số lượng những người hoạt động không chuyên trách cụ
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 15 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
thể như sau: Cấp xã loại 1 không quá 22 người; Cấp xã loại 2 không quá 20 người; Cấp
xã loại 3 không quá 19 người. Mỗi thôn, tổ dân phố không quá 3 người
16
.
Tuy nhiên, một số quy định của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP đã không còn phù
hợp với tình hình hiện tại. Nắm bắt được tình hình, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị
định số 29/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị Định số 92/2009/NĐ-CP
ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ quy định về chức danh, số lượng, một số chế
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã. Là Nghị định quy định tương đối hợp lý với tình hình
của những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã hiện nay. Nghị định số
29/2013/NĐ-CP có một số ưu điểm, một số nội dung mới, có tính chất đi sâu hơn, đảm
bảo công tác quản lý về số lượng, chức danh và các chế độ, chính sách đối với những

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tốt hơn mang lại hiệu quả cao hơn.
Theo Nghị định số 29/2013/NĐ-CP những người hoạt động không chuyên trách ở
cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp và chế độ Bảo hiểm y tế. Theo đó, ngân sách Trung
ương thực hiện khoán quỹ phụ cấp, bao gồm cả 3% Bảo hiểm y tế để chi trả hàng tháng
đối với họ. Điều này, đã phần nào thể hiện được sự quan tâm sâu sắc, thấy được sự cống
hiến của họ đối với tiến trình chung của sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương nói
riêng của đất nước nói chung.
Tóm lại, Nghị định này được xem là một “phần thưởng – chính đáng” cho những
người hoạt động không chuyên trách nói chung: Không chỉ những cán bộ không chuyên
trách mà cả những cán bộ hoạt động chuyên trách đều cho rằng đây là một chính sách hết
sức ý nghĩa, thiết thực động viên những cán bộ không chuyên trách cao tuổi sức yếu tiếp
tục cống hiến. Còn đối với những cán bộ không chuyên trách còn trẻ, có trình độ sẽ
không né tránh sao nhãn công tác hay có ý định tìm việc khác khi được giao nhiệm vụ
hoặc phân công. Đồng thời, chính sách đãi ngộ đội ngũ cán bộ không chuyên trách này
cũng nhằm thu hút các tài năng trẻ tạo điều kiện cho họ gắn bó lâu dài với công tác ở địa
phương
17
.
1.3. Sự cần thiết của các chế độ, chính sách đối với những ngƣời hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã
Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã là
một nội dung, một khâu quan trọng không thể thiếu trong công tác quản lý, có tác dụng
kìm hãm các mặt của công tác quản lý những người hoạt động không chuyên trách.
Thứ nhất, chế độ chính sách có tác động rất lớn đối với những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã.
Một mặt, nó giúp họ ý thức được trách nhiệm cũng như công việc mình đảm
nhiệm. Họ thấy được tầm quan trọng của nhiệm vụ mà bản thân họ đang công tác đối với
sự phát triển chung của nước nhà và của cấp xã. Từ đó, hiệu quả công việc sẽ được đảm
bảo. Mặt khác, các chế độ chính sách góp phần khuyến khích tính năng động và tính chủ



16
Nguyễn Thế Vịnh, Bảy điểm mới chủ yếu về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cấp cơ sở, Trang điện
tử: Tạp chí Công sản, />yeu-ve-che-do-chinh-sach-doi-voi.aspx, [truy cập 06/11/2014].
17
Xem thêm tạo diều kiện để cán bộ không chuyên trách công tác lâu dài, Báo Bảo hiểm xã hội tỉnh Phú Yên,
[truy cập 28/9/2014].
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 16 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
đạo của họ, nó tác động đến tâm lý của họ. Giúp họ cảm thấy yên tâm hơn, cảm thấy
công sức mình bỏ ra được bù đắp xứng đáng.
Cấp xã là cách gần dân nhất, nơi thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp
luật của Đảng và Nhà nước. Trong đó đội ngũ những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã là những người trực tiếp gần gũi, gắn bó với nhân dân, sống làm việc và có
mối quan hệ chặt chẽ với người dân. Các chế độ, chính sách không chỉ có tác dụng lớn
đối với việc xây dựng đội ngũ những người hoạt động không chuyên trách mà còn ảnh
hưởng đến việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của xã. Thế nhưng, hoạt động công tác
nhiều như vậy song các chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã nói chung và những người hoạt động không chuyên trách ở xã Hiệp Thành
thuộc thành phố Bạc Liêu – tỉnh Bạc Liêu nói riêng còn nhiều hạn chế, nan giải.
Thực tế, Hiệp Thành là một xã còn nghèo mức sống cũng như trình độ học vấn,
trình độ chuyên môn, lý luận chính trị của đội ngũ những người hoạt động không chuyên
trách ở đây còn rất thấp. Công việc thì nhiều mà số lượng những người hoạt động không
chuyên trách còn ít, phần đông họ chưa được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ đúng
chuyên ngành đảm nhiệm. Hàng năm trên cơ sở đề nghị của xã, thành phố Bạc Liêu sẽ
thông báo số biên chế giao cho xã quản lý, sử dụng. Đến nay, xã Hiệp Thành có 18 người
hoạt động không chuyên trách ở xã. Trong đó, có tổng 12 người đã qua đào tạo và có
trình độ chiếm tỷ lệ khoảng 66,67%, cụ thể:
+ Về trình độ chuyên môn: không ai có trình độ Đại học; Cao đẳng có 01 người

chiếm tỷ lệ 8,33%; Trung cấp có 07 người chiếm khoảng 58,33%. Sơ cấp có 01 người
chiếm tỷ lệ 8,33%.
+ Về trình độ chính trị: 03 người có trình độ lý luận chính trị chiếm tỷ lệ 25%.
Số lượng người có trình độ tuy đã được tăng lên, song vẫn còn một số lượng chưa
qua đào tạo chiếm tỷ lệ (khoảng 33,33%), dẫn đến việc khi tham gia công tác giải quyết
tình hình thực tiễn họ còn nhiều lúng túng, không giải quyết được nhiều vấn đề chuyên
môn, không xây dựng được các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn xã Hiệp Thành.
Thế nên, việc thực hiện các chế độ, chính sách như: Đào tạo, bồi dưỡng, quản lý,
sử dụng, đãi ngộ là rất cần thiết tại thời điểm hiện nay khi nước ta đang trong thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa nước nhà.
Thứ hai, đặc biệt nếu việc thực hiện các chế độ, chính sách sử dụng và đãi ngộ
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã tốt sẽ thu hút được những người trẻ,
sinh viên Đại học có trình độ chuyên môn cao, năng lực làm việc tốt về công tác ở cơ sở
Tình trạng, cán bộ trẻ có trình độ cao không muốn công tác tại xã nói chung và
đảm nhận vị trí không chuyên trách nói riêng xuất phát từ nguyên nhân là sự bất cập của
các chế độ, chính sách. Nếu không thực hiện các chế độ, chính sách phù hợp với tình
hình thực tế thì khó có thể hạn chế được tình trạng những người tài giỏi sẽ không có lòng
công tác tại vị trí đó nữa. Họ sẽ tìm kiếm những nơi tốt hơn như: Những cơ quan cấp trên
hay khu vực kinh doanh trong và ngoài nước có chế độ, chính sách đãi ngộ phù hợp, hợp
lý với khả năng của họ hơn. Nếu thực hiện các chế độ, chính sách đãi ngộ tốt thì sẽ thu
hút được nhiều người có năng lực về cơ sở nói chung – xã Hiệp Thành nói riêng, họ sẽ an
tâm tích cực công tác hơn, hoàn thành tốt mọi công việc được giao.

Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 17 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
Thứ ba, đối với mức độ thực hiện nhiệm vụ chính trị của xã
Việc thực hiện các chế độ, chính sách hợp lý sẽ góp phần làm cho đội ngũ những
người hoạt động không chuyên trách hăng hái, chủ động hơn trong mọi công tác từ tổ

chức đến thực hiện, vận động, tuyên truyền đường lối chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước. Qua đó, hoàn thành tốt việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị của
xã giao phó. Nhìn nhận hiện nay, ở xã Hiệp Thành nguyên nhân khiến cho những người
hoạt động không chuyên trách ở đó thiếu sự hăng say, phấn khởi, lòng nhiệt huyết trong
công tác cũng như sự mất đoàn kết nội bộ, một phần là do việc thực hiện các chế độ,
chính sách đối với họ còn bất hợp lý, không phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ mà họ đang
đảm nhận và không đảm bảo được lợi ích chính đáng cho họ.
Thứ tư, đối với công tác quản lý Nhà nước
Khi các chế độ, chính sách ban hành và thực hiện có tính khả thi phù hợp với tình
hình thực tế. Vai trò quản lý của Nhà nước trong việc quản lý của mình, được người dân
tin tưởng và tín nhiệm. Qua đó, thể hiện năng lực quản lý của mình với các tổ chức, cá
nhân trong và ngoài nước.
 Xuất phát từ những phân tích vừa nêu trên, nắm bắt được sự cần thiết của các
chế độ, chính sách: Nhà nước ta đã và đang ban hành và thực hiện các chế độ, chính sách
đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói chung và những người
hoạt động không chuyên trách ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
nói riêng ngày càng phù hợp với tình hình thực tế, cũng như đáp ứng được tâm tư nguyện
vọng của họ hơn. Thông qua việc thực hiện các chế độ, chính sách đối với đội ngũ những
người hoạt động không chuyên trách hợp lý sẽ từng bước góp phần ngày càng hoàn thiện
bộ máy của hệ thống chính quyền ở cấp xã hơn.




Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 18 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
CHƢƠNG 2
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỘ, CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
NHỮNG NGƢỜI HOẠT ĐỘNG KHÔNG CHUYÊN TRÁCH Ở CẤP XÃ – THỰC

TIỄN Ở XÃ HIỆP THÀNH THUỘC THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU
Người viết tập trung làm rõ các quy định của pháp luật điều chỉnh về chế độ, chính
sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã nói chung và xã Hiệp
Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu nói riêng. Người viết sẽ trình bày song
song và có sự so sánh khái quát về các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành và trước
đây quy định về chế độ, chính sách đối với nhóm người này trong giai đoạn (2012-2014).
2.1. Các chế độ, chính sách quy định chung
Trong những năm vừa qua, Đảng và Nhà nước ta nhận thấy được đội ngũ những
người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã có nhiều đóng góp, cống hiến cho chính
quyền cấp xã. Vì vậy, Chính phủ đã ban hành một số văn bản quy định về chế độ, chính
sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Điển hình có: Nghị
định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10 năm 2003 của Chính phủ quy định về chế độ,
chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn đây được xem là Nghị định
đầu tiên quy định về số lượng, chức danh đối với nhóm người hoạt động không chuyên
trách một cách cụ thể và rõ ràng nhất. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại thì Nghị
định số 121/2003/NĐ-CP (đã hết hiệu lực thi hành) và được thay thế bởi Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ quy định về chức danh, số
lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và
những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; cùng với Nghị định số
29/2013/NĐ-CP ngày 08 tháng 04 năm 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị Định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ quy định
về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã,
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Căn cứ vào nhu
cầu, tính chất công việc cũng như là khả năng ngân sách của địa phương – từng địa
phương sẽ quy định cụ thể số lượng, mức phụ cấp đối với những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã.
Trên tinh thần thực hiện các Nghị định của Chính phủ ban hành và nắm bắt tình
hình thực tế ở địa phương. Tỉnh Bạc Liêu trong thời gian qua đã ban hành các văn bản
pháp luật đề cập đến chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã như: Nghị quyết số 05/2010/NQ-HĐND ngày 15 tháng 7 năm 2010 Nghị

quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Bạc Liêu về việc quy định chức danh, số lượng, mức
phụ cấp, mức phụ cấp kiêm nhiệm, mức khoán kinh phí chi trả phụ cấp và một số chế độ,
chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn và
khóm, ấp trên địa bàn tỉnh Bạc liêu; Quyết định số 05/QĐ-UBND ngày 24 tháng 8 năm
2010 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu về việc thực hiện quy định chức danh, số lượng,
mức phụ cấp, mức phụ cấp kiêm nhiệm, mức khoán kinh phí chi trả phụ cấp và một số
chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị
trấn và khóm, ấp trên địa bàn tỉnh Bạc liêu; Nghị quyết số 26/2013/NQ-HĐND ngày 06
tháng 12 năm 2013 Nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh Bạc Liêu quy định chức
danh, số lượng, mức phụ cấp, mức phụ cấp kiêm nhiệm, mức khoán kinh phí chi trả phụ
cấp và một số chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở
xã, phường, thị trấn và khóm, ấp trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu; Quyết định số 32/2014QĐ-
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 19 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
UBND ngày 14 tháng 7 năm 2014 của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu về việc quy định
chức danh, số lượng, mức phụ cấp, mức phụ cấp kiêm nhiệm, mức khoán kinh phí và chế
độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở xã. phường, thị trấn
và khóm, ấp trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.
Việc ban hành các Nghị định quy định về chế độ, chính sách đối với những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đã một phần nào giải quyết được nhiều vấn đề bất
cập mà nhóm người này đang chịu như: Không lương, không bao hiểm xã hội. Góp phần
khích lệ tinh thần hoạt động của đội ngũ này.
2.2. Số lƣợng, chức danh những ngƣời hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Năm 2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21 tháng 10
năm 2003 quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị
trấn. Đây là Nghị định đầu tiên quy định cụ thể về chức danh những người hoạt động
không chuyên trách ở cấp xã, cụ thể quy định 19 chức danh
18
:

 Trưởng ban Tổ chức Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng, Trưởng ban
Tuyên giáo và một cán bộ văn phòng Đảng ủy;
 Phó trưởng công an ( nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
 Phó chỉ huy trưởng quân sự;
 Cán bộ Kế hoạch – Giao thông – Thủy lợi – Nông, Lâm, Ngư nghiệp;
 Cán bộ Lao động - Thương binh - Xã hội;
 Cán bộ Dân số - Gia đình và Trẻ em;
 Thủ quỹ - Văn thư – Lưu trữ;
 Cán bộ phụ trách đài phát thanh;
 Cán bộ quản lý Nhà văn hóa;
 Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc; Phó các đoàn thể cấp xã: Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh;
 Chủ tịch Hội Người cao tuổi, Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Việt Nam;
Trong khi đó Nghị định số 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính
phủ quy định về chức danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công
chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã đang
có hiệu lực thi hành lại không quy định cụ thể chức danh mà chỉ quy định như sau:
Điều 14 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định: “UBND cấp tỉnh trình HĐND
cùng cấp quy định chức danh những người hoạt động không chuyên trách; mức phụ cấp
của cụ thể từng chức danh; mức phụ cấp kiêm nhiệm chức danh ”. Về số lượng các chức
danh hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, tùy điều kiện cụ thể của mỗi địa phương sẽ
có sự lựa chọn bố trí khác nhau, Điều 13 Nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định bố trí:
Không quá 22 người đối với cấp xã loại 1, không quá 20 người đối với cấp xã loại 2, và
không quá 19 người đối với cấp xã loại 3.
Theo quy định cũ, chức danh những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã
Chính phủ quy định cụ thể, mỗi địa phương căn cứ vào Nghị định 121/2003/NĐ-CP mà


18
Nghị định này giờ đã hết hiệu lực thi hành, được thay thế bằng Nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định về chức

danh, số lượng, một số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phuồng, thị trấn và những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 20 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
triển khai thực hiện. Song, Nghị định 92/2009/NĐ-CP hiện hành lại quy định khác so với
trước như vừa nêu.
Có ý kiến cho rằng, Nghị định mới quy định như vậy là không phù hợp. “Theo ý
kiến của Đại biểu nhân dân 14/2: So với Nghị định số 121/2003/NĐ-CP trước đây thì
Nghị định 92/2009/NĐ-CP hiện hành quy định còn vướng cụ thể ở Điều 13 và Điều 14
của Nghị định này. Thực tế các địa phương đã gặp không ít vướng mắc khi triển khai
thực hiện quy định này, dẫn đến mỗi địa phương thực hiện một kiểu, có tỉnh chỉ quy định
12 hoặc 13 chức danh, nhưng cũng có những tỉnh quy định đến 28 chức danh. Sau cùng,
Đại biểu cho rằng: Để bảo đảm sự thống nhất giữa các địa phương và sự công bằng về lợi
ích của những người hoạt động không chuyên trách ở xã, thôn, tổ dân phố, trước hết cần
quy định và áp dụng thống nhất công tác Đảng ở cơ sở”
19
.
Theo quan điểm của người viết, Nghị định số 92/2009/NĐ-CP của Chính phủ ban
hành quy định như trên là hợp lý. Mỗi địa phương đều có những đặc điểm về kinh tế -xã
hội khác nhau, không thể quy định cụ thể mà áp dụng cho từng địa phương được, giả vụ:
Địa phương kinh tế phát triển – cơ sở vật chất kỹ thuật đầy đủ cộng thêm an ninh trật tự
ổn định thì đâu cần bố trí quá nhiều chức danh người đảm nhận hoạt động không chuyên
trách như luật định; cũng có địa phương kinh tế chậm phát triển thiếu thốn cơ sở vật chất
kỹ thuật, an ninh – trật tự xã hội không ổn định lẻ dĩ nhiên phải bố trí số lượng chức danh
nhiều để đảm bảo họ có thể giúp đỡ hỗ trợ lẫn nhau trong công việc và góp phần phát
triển địa phương mình. Chính vì thế, theo người viết việc áp dụng Nghị định số
92/2009/NĐ-CP quy định về số lượng chức danh dựa theo (dân số, diện tích và các yếu tố
đặc thù) của từng địa phương như thế là rất phù hợp không có gì vướng mắc.
Trong năm (2012 – 2014), tỉnh Bạc Liêu có 02 Quyết định quy định cụ thể về số

lượng, chức danh cũng như các chế độ, chính sách đối tượng những người không chuyên
trách ở cấp xã gồm: Quyết định số 05/2010QĐ-UBND; Quyết định số 32/2014QĐ-
UBND. Theo hai Quyết định chức danh, số lượng của đối tượng không chuyên trách ở xã
được quy định cụ thể áp dụng chung cho toàn tỉnh Bạc Liêu như sau:
 Đối với Quyết định số 05/2014/QĐ-UBND
Chức danh: 17 chức danh
- Khối Đảng: Phó Trưởng Ban Tuyên giáo; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra; Phó
Trưởng Ban Dân vận.
- Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể: 01 Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam phụ trách công tác mặt trận; 01 Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam phụ trách Chủ tịch Hội Người cao tuổi; Phó Chủ tịch Hội Nông dân; Phó
Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ nữ; Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh;
Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ và Hội Đông y.
- Chính quyền: Phó Công an (Nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy); Phó
Chỉ huy trưởng Quân sự; Công an viên (Nơi chưa bố trí lực lượng công an chính quy);
Lực lượng quân sự; Thủ quỹ, văn thư - lưu trữ; Gia đình và trẻ em (áp dụng đối với


19
Xem thêm, thực hiện chế độ cho cán bộ không chuyên trách cấp xã: Còn vướng, tác giả Đại biểu nhân dân 14/2,
trang Học viện Hành chính,
/>99choc%C3%A1nb%E1%BB%99kh%C3%B4ngchuy%C3%AAntr%C3%A1chc%E1%BA%A5px%C3%A3C%C3
%B2nv%C6%B0%E1%BB%9Bng!.aspx, [truy cập 25/09/2014]
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 21 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
phường); Quản lý thiết chế văn hóa (Áp dụng đối với những xã, thị trấn có nhà thiết chế
văn hóa).
Với số lượng như sau
Cấp xã loại 1: Bố trí không quá 22 người (Kể cả cán bộ, công chức tăng cường).

Trong đó: Chức danh Phó Công an bố trí không quá 02 người; công an viên bố trí không
quá 04 người;
Cấp xã loại 2: Bố trí không quá 20 người (Kể cả cán bộ, công chức tăng cường).
Trong đó: Chức danh Phó Công an bố trí không quá 02 người; công an viên bố trí không
quá 04 người;
Cấp xã loại 3: Bố trí không quá 19 người (Kể cả cán bộ, công chức tăng cường).
Trong đó: Chức danh Phó Công an bố trí 01 người; công an viên bố trí không quá 03
người;
Xã trọng điểm, phức tạp về an ninh, trật tự, chức danh Phó Công an bố trí không
quá 02 người.
 Theo Quyết định số 32/2014/QĐ-UBND: Số lƣợng, chức danh của đối tƣợng
những ngƣời không chuyên trách ở cấp xã trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu đƣợc triển
khai bố trí nhƣ sau:
- Chức danh: 17 chức danh
- Khối Đảng: Phó Trưởng ban Tuyên giáo; Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra; Phó
Trưởng ban Dân vận.
- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội: Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam; Phó Chủ tịch Hội Nông dân; Phó Chủ tịch Hội Liên hiệp Phụ
nữ; Phó Bí thư Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh; Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến
binh.
- Các tổ chức xã hội: Chủ tịch Hội Người cao tuổi; Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ;
Chủ tịch Hội Đông y.
- Chính quyền: Phó Công an (nơi chưa bố trí lực lượng Công an chính quy); Phó
Chỉ huy trưởng Quân sự; Công an viên (nơi chưa bố trí lực lượng Công an chính quy);
Lực lượng Quân sự; Thủ quỹ, văn thư - lưu trữ; Quản lý thiết chế văn hóa (áp dụng đối
với những xã, thị trấn có nhà văn hóa).
- Số lượng:
- Cấp xã loại 1: Bố trí không quá 22 người (kể cả cán bộ, công chức tăng cường).
Trong đó các chức danh: Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bố trí 02
người (01 chuyên trách và 01 kiêm nhiệm Chủ tịch Hội Người cao tuổi); Phó Công an bố

trí 02 người; Phó Chỉ huy trưởng Quân sự bố trí 02 người; Công an viên bố trí 04 người.
Các chức danh còn lại bố trí 01 người. Riêng 02 chức danh (Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ
và Chủ tịch Hội Đông y) bố trí 01 người.
- Cấp xã loại 2: Bố trí không quá 20 người (kể cả cán bộ, công chức tăng cường).
Trong đó các chức danh: Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bố trí 02
người (01 chuyên trách và 01 kiêm nhiệm Chủ tịch Hội Người cao tuổi); Phó Công an bố
trí 02 người; Phó Chỉ huy trưởng Quân sự bố trí 02 người; Công an viên bố trí 04 người.
Các chức danh còn lại bố trí 01 người. Riêng 02 chức danh (Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ
và Chủ tịch Hội Đông y) bố trí 01 người.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 22 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
- Cấp xã loại 3: Bố trí không quá 19 người (kể cả cán bộ, công chức tăng cường).
Trong đó các chức danh: Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam bố trí 02
người (01 chuyên trách và 01 kiêm nhiệm Chủ tịch Hội Người cao tuổi); lực lượng quân
sự bố trí 02 người; Công an viên bố trí 03 người. Các chức danh còn lại bố trí 01 người.
Riêng 02 chức danh (Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ và Chủ tịch Hội Đông y) bố trí 01 người.
Nhìn chung, quy định về chức danh và số lượng bố trí đối với những người hoạt
động không chuyên trách ở xã tương đối vẫn được giữ nguyên không có sự thay đổi trong
hai Quyết định này. Chỉ có vài điểm Quyết định số 05/2010/QĐ-UBND quy định không
cụ thể và rõ ràng như Quyết định số 32/2014/QĐ-UBND. Tuy đối với nhóm người hoạt
động không chuyên trách ở xã không thay đổi, song đối tượng hoạt động ở ấp lại có sự
biến động. Từ 09 chức danh bố trí không quá 05 người (theo quy định Quyết định số
05/2010/QĐ-UBND), đến Quyết định số 32/2014/QĐ-UBND lại giảm bớt 04 chức danh
và chỉ được bố trí không quá 03 chốt
20
. Đặc biệt, bên cạnh đó quy định về mức phụ cấp
cho từng chức danh cũng có sự thay đổi hơn trước. Vấn đề này sẽ được trình bày ở phần
kế tiếp.
2.3. Nội dung của chế độ, chính sách đối với những ngƣời hoạt động không chuyên

trách ở cấp xã
2.3.1. Quy định về mức phụ cấp đối với những ngƣời hoạt động không chuyên
trách ở cấp xã
Phụ cấp là bộ phận quan trọng, chiếm phần lớn trong thu nhập đối với những
người hoạt động không chuyên trách khi họ đảm nhận chức danh không chuyên trách.
Theo quy định của pháp luật, đối tượng hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được quy
định hưởng các mức phụ cấp như sau:
Căn cứ theo quy định tại Điều 14 Nghị định 92/2009/NĐ-CP, những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng mức phụ cấp và khoán kinh phí đối với
hoạt động của chức danh đảm nhiệm, cụ thể:
Những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được hưởng chế độ phụ cấp.
Mức phụ cấp cụ thể của từng chức danh do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định với
mức không vượt quá hệ số 1,0 mức lương tối thiểu chung.
Ngân sách trung ương hỗ trợ các địa phương theo mức bình quân bằng 2/3 so với
mức lương tối thiểu chung cho mỗi người hoạt động không chuyên trách.
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quy định chức danh
những người hoạt động không chuyên trách; mức phụ cấp cụ thể của từng chức danh;
mức phụ cấp kiêm nhiệm chức danh; mức khoán kinh phí chi trả phụ cấp đối với những
người hoạt động không chuyên trách theo loại đơn vị hành chính cấp xã, loại thôn, tổ
dân phố phù hợp quy định tại Khoản 1, Khoản 2 Điều này; quy định mức khoán kinh phí
hoạt động của các đoàn thể ở cấp xã theo số lượng những người hoạt động không chuyên
trách quy định tại Điều 13 Nghị định này bảo đảm phù hợp với tình hình thực tế của địa
phương.
Theo quy định vừa nêu, những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã được
hưởng các chính sách, chế độ phụ cấp cụ thể gồm có:


20
Để biết rõ hơn xem thêm 02 Quyết định của Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu: Quyết định số 05/2010/QĐ-UBND
và Quyết định số 32/2014/QĐ-UBND.

Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 23 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
- Mức phụ cấp cụ thể của từng chức danh: Nhóm người hoạt động không chuyên
trách ở cả xã lẫn thôn, tổ dân phố đều có mức phụ cấp không vượt quá 1,0 lần mức lương
tối thiểu chung, Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ quy định cụ thể từng chức danh tại địa phương
của mình.
- Mức phụ cấp kiêm nhiệm chức danh; mức khoán kinh phí chi trả phụ cấp và
mức khoán kinh phí hoạt động của các tố chức đoàn thể ở cấp xã. 3 mức phụ cấp này
Nghị định 92/2009/NĐ-CP không quy định mức phụ cấp được hưởng cụ thể mà Uỷ ban
nhân dân tỉnh sẽ quyết định điều đó trên tinh thần triển khai thực hiện theo quy định của
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp ban hành.
So với khối công việc mà những người hoạt động không chuyên trách hiện đang
đảm nhiệm thì mức phụ cấp cho họ theo Nghị định số 92/2009/ NĐ-CP ngày 22 tháng 10
năm 2009 không được vượt quá 1,0 hệ số mức lương tối thiểu chung là quá thấp và mức
phụ cấp này không đáp ứng đủ nhu cầu đời sống thực tế hiện nay. Nắm bắt được tình
hình thực tế đối với những người hoạt động không chuyên trách hiện nay còn gặp nhiều
khó khăn và những vướng mắc của Nghị định số 92/2009/NĐ-CP. Vừa qua, Chính phủ
đã ban hành chính sách mới cụ thể là Nghị định số 29/2013/NĐ-CP ngày 08 tháng 04
năm 2013 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị Định số 92/2009/NĐ-CP
ngày 22 tháng 10 năm 2009 của Chính phủ quy định về chức danh, số lượng, một số chế
độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở xã, phường, thị trấn và những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã.
“Trích lời của Thứ trưởng Bộ Nội vụ Nguyễn Tiến Dĩnh từng phát biểu: Nghị định
số 29/2013/NĐ-CP ban hành thời điểm này là cần thiết. Đây là phần thưởng xứng đáng
đối với công sức của những người “ăn cơm nhà vác tù và hàng tổng”, khích lệ tinh thần
đối với đội ngũ này. Đồng thời Nghị định có tác dụng tích cực trong việc nâng cao chất
lượng, hiệu quả công việc ở cơ sở. Theo đó, hoạt động tuyên truyền sẽ được nâng lên
trong thời gian tới. Bởi hiệu quả của đội ngũ này mang lại ai cũng thấy rõ nhất là chức
năng tuyên truyền, vận động người dân thực hiện các chính sách, chủ trương, đường lối

của Đảng và Nhà nước. Điều này chứng tỏ những mong muốn của người dân được lắng
nghe, phân tích thảo luận rất trách nhiệm của các đại biểu trên diễn đàng”
21
.
Việc điều chỉnh chế độ phụ cấp là hết sức cần thiết đối với những người hoạt động
không chuyên trách – họ là đối tượng phải làm việc vất vả nhưng lại có chế độ phụ cấp
không tương xứng với công sức họ bỏ ra. Vì vậy, Chính phủ ban hành Nghị định số
29/2013/NĐ - CP trong thời điểm hiện nay là rất hợp lý và đã phần nào giải quyết được
các vấn đề còn bất cập. Đây là chính sách mới của Chính phủ về việc sữa đổi, bổ sung
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ở cấp xã nói chung và những người hoạt
động không chuyên trách ở cấp xã nói riêng. Theo đó Nghị định số 29/2013/NĐ-CP đã
đưa ra những quy định mới như sau:
Nếu như Nghị định số 92/2009/NĐ-CP quy định Ngân sách Trung ương hỗ trợ
cho các địa phương theo mức bình quân bằng 2/3 so với mức lương tối thiểu chung cho
mỗi người hoạt động không chuyên trách. Thì theo Nghị định số 29/2013/NĐ-CP vừa
được ban hành, lại quy định Ngân sách Trung ương sẽ thực hiện khoán quỹ phụ cấp bao


21
Xem thêm Tạo điều kiện để cán bộ không chuyên trách công tác lâu dài, báo bảo hiểm xã hội Phú Yên ,
[truy cập 7/9/2014]
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 24 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
gồm cả 3% bảo hiểm y tế chi trả hằng tháng đối với những người hoạt động không
chuyên trách ở cấp xã, cụ thể:
 Cấp xã loại 1 được khoán quỹ phụ cấp bằng 20,3 tháng lương tối thiểu chung;
 Cấp xã loại 2 được khoán quỹ phụ cấp bằng 18,6 tháng lương tối thiểu chung;
 Cấp xã loại 3 được khoán quỹ phụ cấp bằng 17,6 tháng lương tối thiểu chung.
Các quy định về mức phụ cấp đối với những người hoạt động không chuyên trách

ở xã Hiệp Thành đều được thực hiện theo quy định của Nhà nước và tỉnh Bạc Liêu. Tính
đến thời điểm hiện tại, với mức phụ cấp hiện hành đời sống của họ có phần khá hơn
trước.
Từ năm (2012 – 2013), các mức phụ cấp của những người động không chuyên
trách ở xã Hiệp Thành thực hiện theo QĐ số 05/2010/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân
tỉnh Bạc Liêu. Cụ thể như sau
22
:
Mức phụ cấp hàng tháng (được tính theo hệ số mức lương cơ sở):
 Các chức danh cấp Trưởng, cấp Phó của khối Đảng, mặt trận, đoàn thể và
công an, quân sự: Hệ số 1,0;
 Các chức danh còn lại: Hệ số 0,8.
Từ năm 2014, Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã ban hành QĐ số 32/2014/QĐ-
UBND. Đây được xem là Quyết định mang tính chiến lược cho sự chuyển biến của đội
ngũ những người hoạt động không chuyên trách. Được xem như là bước đầu cho sự cải
cách về sau này đối với họ, từng bước hoàn thiện hơn chế độ, chính sách đối với họ trong
tương lai. Kể từ khi thực hiện QĐ số 32/2014/QĐ-UBND, mức phụ cấp hàng tháng của
họ tăng cao hơn trước thay vì trước đây quy định mức phụ cấp không được vượt quá hệ
số 1,0 mức lương tối thiểu chung, hiện tại mức phụ cấp của họ lại phụ thuộc vào trình độ
đào tạo. Mức phụ cấp hàng tháng (được tính theo hệ số mức lương cơ sở), quy định cụ
thể như sau
23
:
- Các chức danh cấp Trưởng, cấp phó quy định:
 Chưa qua đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ: Hệ số 1,00
 Có trình độ sơ cấp: Hệ số 1,20
 Có trình độ trung cấp: Hệ số 1,50
 Có hệ số cao đẳng: Hệ số 1,70
 Có trình độ đại học; Hệ số 1,90.
- Các chức danh còn lại:

 Chưa qua đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ: Hệ số 0,90
 Có trình độ sơ cấp: Hệ số 1,10
 Có trình độ trung cấp: Hệ số 1,40
 Có trình độ cao đẳng: Hệ số 1,60
 Có trình độ đại học: Hệ số 1,80.
Mức phụ cấp kiêm nhiệm:


22
Điều 1, Khoản 1, Điểm c Quyết định số 05/2010/QĐ-UBND tỉnh Bạc Liêu.
23
Điều 1, Khoản 1, Điểm c Quyết định số 32/2014/QĐ-UBND tỉnh Bạc Liêu.
Đề tài: Chế độ, chính sách đối với những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã –
Thực tiễn ở xã Hiệp Thành thuộc thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
GVHD: Th.S Diệp Thành Nguyên Trang 25 SVTH: Vũ Thụy Anh Phụng
Trước kia, những người hoạt động không chuyên trách ở xã nếu kiêm nhiệm chức
danh không chuyên trách khác, kể từ ngày được cấp có thẩm quyền quyết định việc kiêm
nhiệm thì được hưởng phụ cấp kiêm nhiệm bằng 25% mức phụ cấp hiện hưởng (Điều 1,
Khoản 1, Điểm d Quyết định số 05/2010/QĐ-UBND). Tuy nhiên từ năm 2011 đến nay,
mức phụ cấp kiêm nhiệm có sự thay đổi mức hưởng giảm xuống còn 20% thay vì trước
đây là 25%, xã Hiệp Thành thể chế hóa việc thực hiện quy định tại (Điều 1, Khoản 1,
Điểm d) Quyết định số 50/2011/QĐ-UBND ngày 06/9/2011 của Ủy ban nhân dân tỉnh về
việc sửa đổi, bổ sung Quyết định số 05/2010/QĐ-UBND ngảy 24/8/2010 của Ủy ban
nhân dân tỉnh). Áp dụng mức phụ cấp kiêm nhiệm hiện hưởng là 20% giữ nguyên đến
thời điểm hiện nay.
Khi Nhà nước điều chỉnh mức lương tối thiểu chung thì mức phụ cấp đối với các
đối tượng này cũng được điều chỉnh theo tương ứng. Mức lương tối thiểu chung có sự
thay đổi qua các năm trong giai đoạn từ (2012– 2014), được Chính phủ quy định cụ thể
như sau: 1.050.000 đồng/tháng; 1.150.000 đồng/tháng (Nghị định 31/2012/NĐ-CP và
Nghị định 66/2013/NĐ-CP).

Giả vụ, thời điểm 9 - 2013 ông Nguyễn Văn Tâm giữ chức danh Phó Chủ tịch Uỷ
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kiêm nhiệm chức danh Chủ tịch Hội Người cao tuổi ở xã
Hiệp Thành thuộc TP. Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu – thuộc đối tượng là người hoạt động
không chuyên trách ở xã. Căn cứ vào Quyết định số 05/2010/NQ-UBND:
Mức phụ cấp đối với chức danh là Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam có hệ số 1,0 so với mức lương tối thiểu chung.
Mức phụ cấp kiêm nhiệm bằng 20% mức phụ cấp hiện hưởng (hệ số kiêm nhiệm
là 0,2), ông Tâm công tác vào 9 - 2013, “tại thời điểm này mức lương tối thiểu chung
được áp dụng là 1.150.000 đồng/tháng”
24
.
Vậy, căn cứ vào Quyết định số 05/2010/NQ-UBND Quyết định của Uỷ ban nhân
dân tỉnh Bạc Liêu. Mức phụ cấp chức danh và mức phụ cấp kiêm nhiệm chức danh hằng
tháng ông Nguyễn Văn Tâm được hưởng cụ thể có:
Phụ cấp chức danh Phó Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được hưởng
hàng tháng là: 1,0 x 1.150.000 đồng/tháng = 1.150.000 đồng/tháng
Phụ cấp kiêm nhiệm chức danh Chủ tịch Hội Người Cao tuổi được hưởng là:
0,2 x 1.150.000 đồng/tháng = 230.000 đồng/tháng
Vậy tổng số tiền phụ cấp chức danh và kiêm nhiệm chức danh mà ông Nguyễn
Văn Tâm được hưởng hàng tháng theo Quyết định số 05/2010/NQ-UBND là: 1.380.000
đồng/tháng. Sau khi (trừ đi 1,5% mức đóng bảo hiểm y tế bắt buộc) theo quy định của
luật, số tiền phụ cấp thực lãnh của ông Tâm còn lại 1.359.000 đồng/tháng.
Với mức phụ cấp được hưởng hàng tháng như vậy so với mức sống thực tế của họ
là không đủ nuôi sống họ. Tuy đã nhiều lần được điều chỉnh, nhưng với số tiền phụ cấp
so với (mức lương tối thiểu 1.150.000 đồng/tháng) như hiện nay thì số tiền phụ cấp vẫn
còn khá ít ỏi.


24
Xem thêm Nghị định 66/2013/NĐ-CP ngày 27 tháng 06 năm 2013 của Chính phủ quy định mức lương tối thiểu

chung, mức lương tối thiểu tăng thêm 100.000 đồng thành 1.150.000 đồng/tháng áp dụng chung đến thời điểm hiện
nay, thực hiện từ ngày 01 tháng 07 năm 2013.

×