Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ MÔN SINH HỌC THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 35 trang )

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO NAM ĐỊNH
TRƯỜNG THPT CHUYÊN LÊ HỒNG PHONG
SÁNG KIẾN DỰ THI CẤP TỈNH
BÁO CÁO SÁNG KIẾN
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ
MÔN SINH HỌC THPT

Tác giả: Trần Thị Thanh Xuân
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ
Chức vụ: Tổ phó chuyên môn
Nơi công tác: Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong
NAM ĐỊNH, NĂM 2014
THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN
1. Tên sáng kiến: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA VÀ QUỐC
TẾ MÔN SINH HỌC THPT
2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
Quốc gia, Quốc tế.
3. Thời gian áp dụng sáng kiến: từ ngày 08 tháng 12 năm 2009 đến ngày
11 tháng 04 năm 2014.
4. Tác giả:
Họ và tên: Trần Thị Thanh Xuân
Năm sinh: 1979
Nơi thường trú: 45 – đường Lê Văn Hưu - Khu đô thị Hòa Vượng
Trình độ chuyên môn: Thạc sĩ
Chức vụ công tác: Giáo viên
Nơi làm việc: Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong
Địa chỉ: Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong – 76 Vị Xuyên
Điện thoại: 0982826215
5. Đồng tác giả: Không có


6. Đơn vị áp dụng sáng kiến:
Tên đơn vị: Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong
Địa chỉ: 76 Vị Xuyên – Nam Định
Điện thoại: 0350 3640297
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA VÀ QUỐC TẾ MÔN
SINH HỌC THPT
A. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm và chăm lo
đến sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước nhà. Người coi: “Giáo dục là cốt
sách hàng đầu” trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người luôn
nhắc nhở toàn Đảng, toàn nhân dân ta phải chăm lo đến sự nghiệp giáo
dục, Người căn dặn: Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng
cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội
vừa “hồng” vừa “chuyên”. Đó là tinh thần, là tình cảm rất sâu sắc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta.
Người cũng gửi trọn niềm tin vào thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai
của nước nhà thông qua lời căn dặn: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ
vang hay không, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc
năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công lao học tập
của các cháu”.
Trong dự thảo bổ sung cương lĩnh năm 1991, Đảng ta xác định rõ:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước “gắn với phát triển
kinh tế tri thức”.
Trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra
phương hướng, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm (2011 – 2015) là
phát triển, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn
nhân lực; phát triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức.
Căn cứ vào quy chế tổ chức và hoạt động của trường trung học

phổ thông chuyên (Ban hành kèm theo Thông tư số: 06/2012/TT-
BGDĐT ngày 15/02/2012 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo) thì
mục tiêu của trường chuyên là phát hiện những học sinh có tư chất thông
minh, đạt kết quả xuất sắc trong học tập và phát triển năng khiếu của các
em về một số môn học trên cơ sở đảm bảo giáo dục phổ thông toàn diện;
giáo dục các em thành người có lòng yêu nước, tinh thần vượt khó, tự
hào, tự tôn dân tộc; có khả năng tự học, nghiên cứu khoa học và sáng
tạo; có sức khỏe tốt để tiếp tục đào tạo thành nhân tài đáp ứng yêu cầu phát
triển đất nước.
Người xưa đã từng nói “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”. Vì vậy,
bồi dưỡng học sinh giỏi là công tác mũi nhọn trong việc nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho địa phương nói riêng và cả đất
nước nói chung. Nam Định là được coi là vùng đất học học trấn Sơn
Nam xưa. Là một trong những điểm được nhà Vua chọn là nơi mở thi
hương vào đời Lê và đời Nguyễn. Ở đô thị cổ này, sớm đã có trường học
là trường Thành Chung; cũng bởi vậy mà người Thành Nam luôn tự hào
là mảnh đất sản sinh nhiều người hiền tài cho đất nước. Kế thừa truyền
thống hiếu học, học giỏi và học thành tài, người Nam Định hôm nay lại
càng tự hào hơn bởi trên quê hương mình vẫn là nơi sản sinh ra những
người Tài – Đức. Trường THPT Chuyên Lê Hồng Phong, Nam Định là
một trong những nôi đó, ban Giám hiệu nhà trường luôn xác định việc
phát hiện và bồi dưỡng học sinh giỏi là một trong những nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu.
Là người trực tiếp phụ trách đội tuyển học sinh giỏi Quốc gia
trong nhiều năm qua, tôi luôn trăn trở và tìm ra những giải pháp đạt hiệu
quả trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. Mỗi giải pháp được thực
hiện và rút kinh nghiệm qua mỗi năm đã làm giàu thêm kinh nghiệm cho
bản thân tôi. Với ý thức luôn học hỏi, cầu tiến và tâm huyết với nghề, tôi
đã góp phần nhỏ của mình sự nghiệp Giáo dục - Đào tạo tỉnh nhà với 15
năm liên tục dẫn đầu cả nước về Giáo dục và Đào tạo.

B. THỰC TRẠNG
Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi của các trường THPT hiện
nay thường gặp nhiều khó khăn. Điều đó xuất phát từ những nguyên
nhân chủ yếu như sau: nội dung, chương trình đào tạo thiếu tính liên
thông và liên môn. Tất cả giáo viên dạy bồi dưỡng đều phải tự soạn, tự
nghiên cứu và tự sưu tầm tài liệu. Giáo viên dạy bồi dưỡng vẫn phải đảm
nhiệm nhiều công tác kiêm nhiệm khác như: chủ nhiệm, tổ trưởng bộ
môn,… .
Ngoài ra, một bộ phận chưa thực sự yên tâm khi được chọn theo
một số lớp bồi dưỡng HSG vì phải mất nhiều thời gian, sợ thiếu kiến
thức về các môn liên quan đến thi Đại học. Đặc biệt đối với các môn xã
hội như Sử, Địa và một số môn tự nhiên như: Tin học, Sinh học thì học
sinh giỏi không mấy tha thiết khi được chọn bồi dưỡng.
Hơn nữa, nhiều phụ huynh học sinh e ngại con em mình học
không được toàn diện, trở thành “gà nòi”. Chế độ tuyển thẳng của Bộ
Giáo dục và đào tạo đối với học sinh giỏi quốc gia đã làm cho nhiều học
sinh và phụ huynh không “mặn mà” với các kỳ thi học sinh giỏi, nhất là
các môn khoa học cơ bản như toán, lý, hoá, sinh mà thay vào đó sẽ chọn
con đường ít chông gai hơn để đi tới đích.
Bồi dưỡng học sinh giỏi là công việc khó khăn và đòi hỏi sự dày
công của thầy và sự hết mình của trò. Công tác bồi dưỡng học sinh giỏi
cũng gặp những khó khăn như: về thời gian, người thầy phải đảm bảo số
tiết theo Luật viên chức và trò phải học đủ tất cả các môn theo chương
trình qui định. Do đó, thầy và trò đều cần có thời gian cho hoạt động
này.
Nhiều địa phương cũng chưa có một chế độ đãi ngộ hợp lí với các
Thầy cô trực tiếp phụ trách bồi dưỡng học sinh giỏi. Nhiều Thầy cô giáo
đã và đang hết mình cho công việc này, bởi tự trọng nghề nghiệp, niềm
đam mê và lòng yêu thương học trò. Chính vì thế, nhiều giáo viên có
năng lực chuyên môn tốt nhưng chưa thực sự gắn bó với công tác bồi

dưỡng học sinh giỏi.
Bắt đầu từ năm học 2011 – 2012 đến nay, Bộ Giáo dục và đào tạo
đã đưa nội dung thi thực hành vào trong các đề tuyển chọn học sinh giỏi
cấp Quốc gia và đội tuyển dự thi Olympic Quốc tế. Trong khi đó, ở hầu
hết các trường THPT không có giáo viên chuyên trách mà phải đưa các
giáo viên dạy lý thuyết sang kiêm nhiệm; đồng thời các trang thiết bị
thực hành được cung cấp cho các phòng thực thành còn thiếu cả về số
lượng, cả về chất lượng, chưa đáp ứng được với chuẩn Quốc tế.
Bên cạnh đó, phương pháp học của nhiều học sinh trong các đội
tuyển vẫn còn thụ động, còn trông chờ lĩnh hội kiến thức mà giáo viên
cung cấp trong mỗi tiết học mà chưa chủ động tự tìm hiểu. Một số em đã
xác định được vai trò của tự học nhưng lại chưa tìm ra phương pháp học
tập đúng đắn và đạt hiệu quả.
Nếu những học sinh ưu tú được ươm, trồng, phát triển trên những
mảnh đất có đủ điều kiện về nhiều mặt, đặc biệt được chăm chút bởi
những con người có tri thức, có tâm huyết thì chắc chắn Nam Định nói
riêng, Việt Nam nói chung sẽ không thiếu nhân tài. Và như vậy, nhân tài
Việt Nam không chỉ phụng sự đất nước, mà còn cho cả sự phát triển của
nhân loại, nhất là trong thời kỳ hội nhập và mở cửa.
C. GIẢI PHÁP
1. Mục tiêu của đề tài
- Đề xuất và tiến hành thực hiện các giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia, Quốc tế.
- Tăng cường năng lực tự học, năng lực làm việc với tài liệu, giáo
trình của học sinh giỏi Quốc gia.
- Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học của học sinh giỏi quốc
gia dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Nâng cao năng lực hợp tác, hiệu quả nhóm học tập của học sinh
giỏi trong đội tuyển thi học sinh giỏi Quốc gia.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm để đánh giá hiệu quả của các

giải pháp.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Trong phạm vi đề tài này, tôi chỉ đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi Quốc gia, Quốc tế môn
Sinh học.
3. Phương pháp nghiên cứu
- Điều tra thực tế.
- Sưu tầm, tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp thực nghiệm.
4. Thời gian thực hiện đề tài
- Từ năm học 2008 – 2009 đến nay.
5. Giải pháp cụ thể
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN
Dân tộc Việt Nam có truyền thống hàng nghìn năm văn hiến,
truyền thống hiếu học. Một trong những con người tiêu biểu cho truyền
thống hiếu học, có nhiều đóng góp trong việc xây dựng nền giáo dục
cách mạng Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Là người sáng lập ra chế
độ mới, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, ngay sau ngày
độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi việc giải quyết nạn dốt là một trong
những nhiệm vụ cấp bách của chế độ mới. Bởi vì, “Một dân tộc dốt là
một dân tộc yếu”, “Dốt thì dại, dại thì hèn”.
Hồ Chí Minh cho rằng, giáo dục sẽ tạo ra tính liên tục
của cách mạng. Trên cơ sở nâng cao dân trí, nhân dân sẽ
biết quyền lợi, bổn phận, có kiến thức mới để tham gia
vào công việc xây dựng. Sự thành công của các nước,
không có yếu tố nào quan trọng hơn giáo dục. Giáo dục
sẽ tạo ra “những nguyên liệu” không có sẵn trong tự
nhiên như kỹ sư, chuyên gia, bác học… Giáo dục và đào
tạo sẽ góp phần quyết định làm cho non sông Việt Nam

bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc
năm châu. Giáo dục tạo ra nhân cách và từng bước hoàn
thiện con người.
Mặt khác, giáo dục còn là yếu tố quyết định trực tiếp
nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học kỹ thuật,
chuyên môn nghiệp vụ, ngoại ngữ, trình độ tổ chức quản
lý. Giáo dục sẽ giúp cho người học có một vốn liếng về lịch
sử, văn hóa của dân tộc Việt Nam và thế giới mà nếu
không có nó thì sẽ không giữ vững được nền độc lập,
không thể tham gia vào công việc kiến thiết xây dựng
nước nhà dân giàu, nước mạnh. Giáo dục sẽ giúp cho mỗi
người dân có kiến thức mới để biến một nước dốt nát, cực
khổ thành một nước văn hóa cao và đời sống tươi vui,
hạnh phúc… Theo Hồ Chí Minh, giáo dục chỉ phát huy hết
vai trò, sức mạnh của mình khi thực hiện đúng đắn
phương châm, phương pháp giáo dục.
Điểm cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền
với giải quyết xã hội và giải phóng con người. Và vấn đề xây dựng con
người là vấn đề lớn, được đặt lên hàng đầu và là vấn đề trung tâm, xuyên
suốt trong toàn bộ nội dung tư tưởng của chủ tịch Hồ Chí Minh. Với
Bác, điều làm Bác suy nghĩ, trăn trở nhiều nhất là sự nghiệp “trồng
người”. Tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền Bắc,
ngày 13/9/1958, Bác Hồ đã có bài nói quan trọng về nhiệm vụ của những
người thầy giáo với sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Bác căn dặn: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng
người. Chúng ta phải đào tạo ra những công dân tốt và cán bộ tốt cho
nước nhà. Nhân dân, Đảng, Chính phủ giao các nhiệm vụ đào tạo thế hệ
tương lai cho các cô, các chú. Đó là một trách nhiệm nặng nề nhưng rất
vẻ vang”.
Đúng như lời Bác nói, sự nghiệp trồng người là một trách nhiệm

nặng nề nhưng rất vẻ vang. Với mỗi đối tượng giáo dục đều phải có
những phương pháp chung và những giải pháp đặc thù. Bồi dưỡng học
sinh giỏi là một nhiệm vụ rất vinh quang nhưng không kém phần vất vả.
Đối tượng học sinh này có khả năng nhận thức tốt nhưng đây chỉ là điều
kiện cần, bởi đó chỉ là một nền tảng bền vững còn việc phát triển nền
tảng ấy ra sao còn phải nhờ quá trình rèn luyện và học tập. Và người
Thầy chính là người giữ trách nhiệm phát triển nền tảng ấy.
Triết gia Aristote cho rằng: Thiên bẩm được sinh ra cùng thân xác,
và chỉ là thứ ngang bằng thân xác thôi. Tại sao? Bởi vì thiên bẩm được
sinh ra cùng với con người, ai cũng như ai. Ông còn bảo: không có đứa
trẻ nào sinh ra mà không cần học. Như vậy thiên bẩm luôn thấp hơn giáo
dục. Thiên bẩm mới chỉ là thân xác. Chỉ có giáo dục mới mang đến cho
con người tinh thần.
Học sinh giỏi phải là người có tư chất thông minh, đồng thời có sự
nỗ lực cá nhân, tự học, tự rèn luyện, sự đam mê, nghị lực phi thường đối
với công việc của mình làm, lại được sống trong một môi trường và điều
kiện thuận lợi cho việc phát triển tài năng. Không phải ai có tư chất
thông minh cũng đều say mê với công việc, cũng đều có những nỗ lực cá
nhân cần thiết để đạt tới tài năng. Ở đây đòi hỏi sự tu luyện của bản thân,
công tác giáo dục của gia đình, xã hội và môi trường sống tốt. Vai trò
của nhà trường và xã hội trong việc tạo nên điểm tựa cho tài năng nảy nở
và phát triển là rất lớn, chẳng khác nào hạt giống tốt được nảy mầm và
lớn lên trên mảnh đất màu mỡ. Người tài là những cá biệt, có năng lực
đặc biệt xuất sắc, có những cá tính khác thường, và do vậy cần được giáo
dục theo một chương trình đặc biệt và cần phải có những giải pháp,
những “nghệ thuật” trong quá trình dạy học.
II. CƠ SỞ THỰC TIỄN
Giáo trình về phương pháp dạy học của các tác giả: Trần Bá
Hoành (1980) “Lí luận dạy học sinh học”; Đinh Quang Báo, Nguyễn
Đức Thành (1998) “Lý luận dạy học Sinh học”; Phan Trọng Ngọ (2006)

“Đổi mới phương pháp dạy học”
Luận án tiến sỹ của các tác giả Vũ Đức Lưu, Phan Đức Huy, Lê
Thanh Oai, Lê Tấn Diện “Nội dung và biện pháp bồi dưỡng học sinh
giỏi hóa học hữu cơ THPT” đều đã dành những nội dung quan trọng
cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi.
CHƯƠNG II: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI QUỐC GIA VÀ
QUỐC TẾ MÔN SINH HỌC THPT
Từ năm học 2008 – 2009 đến nay, tôi được giao lãnh đội đội
tuyển học sinh giỏi Quốc gia môn Sinh học, tôi đã xây dựng và thực
hiện một số các giải pháp sau đây và đạt được những thành công nhất
định.
2.1. Nội dung, chương trình và tư liệu
Về nội dung và chương trình: Mặc dù, các trường và khối THPT
chuyên thành lập được nhiều năm nhưng cho đến thời điểm này vẫn
chưa có một chương trình chính thống nào do Bộ Giáo dục và đào tạo
quản lý. Bởi vậy, chúng tôi đã chủ động nghiên cứu về nội dung các đề
thi HSG môn Sinh học cấp Quốc gia và Quốc tế qua nhiều năm và đã
xây dựng được một chương trình khung để đề ra những nội dung phải
dạy và mục đích yêu cầu cần phải đạt được. bám sát chương trình
chuyên sâu do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và dựa trên tình tình
thực tế, chúng tôi xây dựng một chương trình khung cho khối chuyên
Sinh. Do kì thi chọn học sinh giỏi Quốc gia diễn ra vào cuối học kì I,
đồng thời Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép học sinh lớp 11 được tham
gia; vì vậy chúng tôi phải đẩy nhanh tiến độ hoàn thành chương trình
trên nền thời gian do Bộ quy định. Những điều chỉnh cụ thể: trong 2,5
năm, chúng tôi phải dạy xong toàn bộ kiến thức nền của cả 3 năm học.
Riêng với đối tượng học sinh lớp 11 dự tuyển, chúng tôi dựa trên kết quả
học tập trong năm học lớp 10 để lấy khoảng 5- 7 học sinh có năng lực
môn chuyên tốt để tăng cường các phân môn Tiến hóa, Sinh thái học và

Di truyền học ngay từ đầu năm học lớp 11.
Ngoài ra, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến logic cấu trúc và các kỹ
năng cơ bản một bài, chương, một tuyến, một phân môn và nhiều phân
môn trong nội dung chương tình khung. Logic cấu trúc phải tuân thủ
nguyên tắc hệ thống và khái quát, phụ thuộc vào năng lực và đặc thù tư
duy của đối tượng cụ thể.
Xin đưa ra một dẫn chứng cụ thể về logic cấu trúc một tuyến:
Tuyến cơ sở vật chất và cơ chế di truyền, biến dị
Chức năng
Cấu trúc
Cơ chế
Sinh học là môn khoa học có tầm kiến thức rộng và các kiến thức
Sinh học đang mở rộng với tốc độ nhanh chưa từng có, vì vậy môn Sinh
học luôn cần đến sự hỗ trợ kiến thức của các môn học khác như: Toán
học, Vật lý và Hóa học… Chúng tôi đã xây dựng một số chuyên đề bổ
trợ như: toán xác suất và hóa hữu cơ để phục vụ giảng dạy phân môn Di
truyền học, phân môn Sinh lí thực vật cần sự bổ trợ của một số chuyên
đề thuộc bộ môn Vật lí và Hóa học… và nhờ sự giúp đỡ của các tổ
chuyên môn khác.
Trong những năm gần đây, bắt đầu từ năm học 2011 – 2012, Bộ
Giáo dục và đào tạo đã đưa nội dung thi thực hành vào trong các đề
tuyển chọn học sinh giỏi cấp Quốc gia và đội tuyển dự thi Olympic Quốc
tế. Chính vì thế, trong chương trình bồi dưỡng học sinh giỏi, chúng tôi
đã dành một phần quan trọng cho việc hướng dẫn thực hành. Một yêu
cầu bắt buộc là phải thực hiện đầy đủ các bài thực hành trong nội dung
chương trình giảng dạy, đảm bảo hiệu quả và rèn kĩ năng thực hành cho
học sinh.
Về tư liệu: Cho đến nay, Bộ Giáo dục và đào tạo vẫn chưa xuất
bản một bộ tài liệu bồi dưỡng học sinh giỏi có tính pháp lý; song theo
quan điểm của tôi, việc sử dụng các tư liệu “mở” sẽ phát huy được tính

sáng tạo của cả Thầy và trò. Vì thế, các tài liệu để bồi dưỡng học sinh
giỏi là do giáo viên tự xây dựng và tham khảo. Nhiều năm qua, bộ môn
chúng tôi đã sử dụng các giáo trình dành cho sinh viên các trường Đại
học trong nước và trên thế giới, đồng thời tham khảo các tài liệu có giá
trị mà các nước tiên tiến đang sử dụng như cuốn Biology của Campbell,
các đề thi của số nước như Mỹ, Anh và các đề thi chọn học sinh giỏi
trong nước, các đề thi Olympic Quốc tế.
2.2. Bồi dưỡng đội ngũ
Hiện nay có nhiều hình thức bồi dưỡng đội ngũ giáo viên đạt hiệu
quả và một trong các hình thức đó là việc tự bồi dưỡng các buổi sinh
hoạt nhóm chuyên môn. Trong kế hoạch giảng dạy đầu năm, chúng tôi
phân công mỗi giáo viên nghiên cứu sâu một chuyên đề. Đội ngũ giáo
viên này phải được phân công cụ thể, rõ ràng để phát huy khả năng và
thế mạnh của từng người. Nhóm giáo viên này có trách nhiệm biên soạn
chương trình, nội dung bồi dưỡng rõ ràng, cụ thể, chi tiết cho từng mảng
kiến thức. Việc phân chia nhỏ nội dung phù hợp với điểm mạnh của mỗi
người sẽ giúp giáo viên đầu tư đào sâu chuyên môn, đọc và dịch tài liệu
nước ngoài, tích lũy kinh nghiệm, nghiên cứu kỹ các dạng đề thi về kiến
thức và kỹ năng ở các đề thi đã qua. Sau đó, giáo viên sẽ trình bày nội
dung chuyên đề để cả nhóm lĩnh hội, bổ sung và hoàn thiện. Nội dung
các chuyên đề không chỉ để cho mỗi giáo viên trong nhóm chuyên môn
tham khảo mà còn là tài liệu cho học sinh học tập.
Ngoài ra, hàng năm, chúng tôi còn cử giáo viên tham dự các khóa
bồi dưỡng chuyên đề, mời các chuyên gia, giáo sư có kinh nghiệm về bồi
dưỡng đội ngũ, bồi dưỡng cho học sinh giỏi.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn tham gia các buổi giao lưu, các buổi
hội thảo của khối các trường chuyên cụm khu vực duyên hải và đồng
bằng Bắc Bộ, hội thảo Sinh học toàn quốc, làm quan sát viên trong đoàn
Việt Nam dự thi Olympic Quốc tế.
2.3. Phát hiện học sinh có năng lực

Đây là một khâu quan trọng trong công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi. Có câu “Có bột mới gột nên hồ” và câu “Không Thầy đố mày làm
nên”. Trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi, người giáo viên phải phát
hiện, đánh giá được tư chất và năng lực của học sinh. Qua nhiều năm
phụ trách đội tuyển, tôi thường chú trọng một số năng lực sau đây của
học sinh:
+ Năng lực phát hiện vấn đề và giải quyết vấn đề.
+ Năng lực đọc tài liệu và tư duy mô hình hóa, sơ đồ hóa các khái
niệm, các mối quan hệ; kĩ năng thao tác giải quyết vấn đề và sáng tạo cái
mới; kĩ năng thực hành.
+ Năng lực phản biện. Trước mỗi tình huống, học sinh có khả
năng phản biện hay không?
+ Năng lực tự học và năng lực hợp tác.
+ Khả năng vượt khó và bản lĩnh trước tình huống khó khăn. Có
khả năng tìm tòi phương hướng giải quyết vấn đề khó, biết tự bổ sung
kiến thức, phương tiện để thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ.
+ Độ “lì” – sức bền thần kinh.
Hai năm gần đây, căn cứ vào chủ trương của ngành, tôi đã mạnh
dạn tuyển chọn thêm những học sinh thuộc các khối chuyên khoa học tự
nhiên khác như: chuyên Toán. Qua quá trình làm việc, tôi nhận thấy, hầu
hết những học sinh này có tư duy logic, khả năng khái quát tốt nhưng lại
thiếu phông nền kiến thức Sinh học. Nếu các em này được định hướng
đúng thì sẽ tạo ra những triển vọng khả quan trong công tác bồi dưỡng
học sinh giỏi. Cụ thể: trong năm học 2013 – 2014, em Phạm Minh Đức
là học sinh lớp chuyên Toán đã đoạt giải Nhất Quốc gia môn Sinh học và
đang là thành viên của Đoàn học sinh Việt Nam dự thi Olympic Quốc tế
môn Sinh học ở Indonexia vào tháng 7 sắp tới.
2.4. Phương pháp dạy của Thầy và học của Trò
Chúng tôi quan niệm, việc trau dồi kiến thức chuyên ngành cho
học sinh chuyên là cần thiết nhưng quan trọng hơn là mọi biện pháp sư

phạm của giáo viên phải đạt tới cái đích là thắp lên và duy trì ngọn lửa
nhiệt huyết của mỗi học sinh với môn Sinh học.
Usinxki đã từng nói: “Nhân cách của người thầy là sức mạnh có
ảnh hưởng to lớn đối với học sinh, sức mạnh đó không thể thay thế bằng
bất kỳ cuốn sách giáo khoa nào, bất kỳ câu chuyện châm ngôn đạo đức,
bất kỳ một hệ thống khen thưởng hay trách phạt nào khác”. Phẩm chất,
uy tín, năng lực của người thầy có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học
tập và rèn luyện của học sinh. Thầy cô là yếu tố hàng đầu đóng vai trò
quyết định trong việc bồi dưỡng năng lực học tập, truyền cảm hứng,
niềm say mê môn học cho các em. Để dạy được học sinh có khả năng và
phương pháp tự học thì bản thân thầy cô cũng phải tự đào tạo, cố gắng
hoàn thiện về năng lực chuyên môn, có am hiểu về kiến thức chuyên sâu,
có phương pháp truyền đạt khoa học, tâm huyết với công việc, yêu
thương học trò, giúp đỡ đồng nghiệp.
2.4.1. Phương pháp dạy của Thầy
Hiện nay, trong các phương pháp dạy học tích cực, đã chuyển việc
lấy giáo viên làm trung tâm trong quá trình dạy học sang dạy học định
hướng vào học sinh; vì thế vai trò của người Thầy ngày càng quan trọng
hơn. Uyliam Batơ Dit đã khẳng định “Nhà giáo không phải là người nhồi
nhét kiến thức mà đó là công việc của người khơi dậy ngọn lửa cho tâm
hồn”.
Quả đúng như vậy, một người Thầy giỏi, trước hết phải là người
biết khơi dậy ngọn lửa đam mê đang tiềm ẩn trong mỗi học sinh. Nhưng
bằng cách nào và làm như thế nào thì đó lại là một nghệ thuật trong nghề
dạy học. Theo kinh nghiệm của bản thân tôi, trước hết người giáo viên
phải truyền cho học sinh sự tự tin vào chính bản thân mình. Một điều
chắc chắn rằng, các em sẽ làm được và thậm chí trong tương lai không
xa, các em sẽ thành công hơn cả các Thầy, các Cô.
Ngoài ra, trong mỗi giờ lên lớp, việc sử dụng các phương pháp
dạy học tích cực sẽ có tác dụng kích thích học sinh niềm say mê học tập,

khả năng tìm tòi, bồi dưỡng năng lực thích ứng và giải quyết các vấn đề
đặt ra trong học tập cũng như trong cuộc sống. Theo quan điểm của tôi,
một trong những yếu tố dẫn đến sự thành công trong nghề dạy học chính
là người Thầy phải giải phóng được mọi tiềm năng trong học sinh. Việc
tạo ra những tình huống có vấn đề, những mâu thuẫn trong nhận thức,
những hoạt động khám phá sẽ kích thích được nhu cầu khám phá của
học sinh, tạo động lực cho quá trình học tập.
Dưới đây là một giáo án được thiết kế theo hướng kích thích khả
năng tìm tòi của học sinh: Trên cơ sở những kiến thức về hiện tượng di
truyền liên kết với giới tính, học sinh có thể tự trang bị các kiến thức về
sự di truyền của tính trạng do gen phân bố trên vùng tương đồng của
NST giới tính XY.
* Bước 1: Tạo hoạt động khám phá
Giáo viên đưa 2 ví dụ:
- Ví dụ 1: Ở ruồi giấm,
Lai thuận Pt/c ♀ đỏ x ♂ trắng
F
1
: 100% mắt đỏ
F
2
: 100% ♀ mắt đỏ : 100% ♂ mắt trắng
Lai nghịch Pt/c ♂ đỏ x ♀ trắng
F
1
: 100% ♀ mắt đỏ : 100% ♂ mắt trắng
F
2
: 100% ♀ mắt đỏ : 50% ♂ mắt đỏ : 50% ♂ mắt
trắng

- Ví dụ 2: Ở một loài côn trùng, giới tính được xác định bởi cặp
nhiễm sắc thể XX (con cái, ♀) và XY (con đực, ♂). Biết tính trạng do
một gen quy định.
Lai thuận Pt/c ♀ đỏ x ♂ trắng
F
1
: 100% mắt đỏ
F
2
: 3 mắt đỏ : 1 mắt trắng (chỉ xuất hiện ở con ♂)
Lai nghịch Pt/c ♀ trắng x ♂ đỏ
F
1
: 100% mắt đỏ
F
2
: 3 mắt đỏ : 1 mắt trắng (chỉ xuất hiện ở con ♀)
Học sinh tự nhận thấy: Kết quả của phép lai thuận khác với lai
nghịch, sự phân bố kiểu hình ở 2 giới là không đồng đều. Do vậy, gen
quy định tính trạng nằm trên NST giới tính.
Bước 2: Tự khám phá kiến thức
a. Đề xuất các giả thuyết
Nhưng một vấn đề đặt ra là gen không thể nằm trên NST X hay trên
NST Y, vậy gen phải nằm trên vùng tương đồng của NST XY.
b. Lập kế hoạch để giải quyết
Để chứng minh giả thuyết này, học sinh phải viết sơ đồ lai trong
trường hợp gen nằm trên vùng tương đồng của NST XY.
c. Thực hiện kế hoạch giải quyết
Học sinh sẽ viết sơ đồ lai để nghiệm đúng các trường hợp trên:
- Alen quy định mắt đỏ (A) trội hoàn toàn so với alen a quy định mắt

trắng.
Lai thuận Pt/c ♀ X
A
X
A
(đỏ) x ♂ X
a
Y
a
(trắng)
GP: X
A
X
a
, Y
a
F
1
: 100% X
A
X
a
: 100% X
A
Y
a
(100% ♀, ♂ mắt đỏ)
♀ F
1
X

A
X
a
x ♂ F
1
X
A
Y
a
GP: X
A
= X
a
= 50% X
A
= Y
a
= 100%
F
2
: 50% X
A
X
A
(♀ mắt đỏ) : 50% X
A
X
a
(♀ mắt đỏ)
50% X

A
Y (♂ mắt đỏ) : 50% X
a
Y
a
(♂ mắt trắng)
Tỉ lệ kiểu hình: 3 mắt đỏ : 1 mắt trắng (chỉ xuất hiện ở con ♂)
Lai nghịch Pt/c ♀X
a
X
a
(trắng) x ♂ X
A
Y
A
(đỏ)
GP: X
a
X
A
= Y
A
= 100%
F
1
: 100% X
A
X
a
(100% ♀ mắt đỏ) : 100% X

a
Y
A
(100% ♂ mắt trắng)
♀ F
1
X
A
X
a
x ♂ F
1
X
a
Y
A
GP: X
A
= X
a
= 50% X
a
= Y
A
= 100%
F
2
: 50% X
A
X

a
(♀ mắt đỏ) : 50% X
a
X
a
(♀ mắt trắng)
50% X
A
Y
A
(♂ mắt đỏ) : 50% X
a
Y
A
(♂ mắt đỏ)
F
2
: 3 mắt đỏ : 1 mắt trắng (chỉ xuất hiện ở con ♀)
Với cách giải quyết trên, học sinh sẽ tự giải thích được cơ sở tế bào học
của sự di truyền của tính trạng mà gen quy định nằm trên vùng tương
đồng của NST XY.
- Sau khi viết sơ đồ lai, học sinh phải giải quyết: Nguyên nhân nào dẫn
đến kết quả lai thuận khác kết quả lai nghịch ở ví dụ 2? Tại sao kết quả
của ví dụ 1 và ví dụ 2 lại khác nhau?
- Cặp NST giới tính của con đực và con cái khác nhau.
- Trong ví dụ 1, gen quy định tính trạng nằm trên vùng không tương
đồng của NST X. Trong ví dụ 2, gen quy định tính trạng nằm trên
vùng tương đồng của NST X.
Bước 3: Đánh giá các phương án giải quyết
a. Thảo luận và phát biểu

Giáo viên cho học sinh thảo luận để đánh giá giả thuyết đã nêu ra.
b. Phát biểu kết luận
Sau khi thảo luận và thống nhất, học sinh tự rút ra những đặc điểm về
sự di truyền của tính trạng do gen nằm trên vùng tương đồng của NST
XY quy định:
- Kết quả phép lai thuận, lai nghịch là khác nhau.
- Sự phân bố kiểu hình ở 2 giới không đồng đều.
- Tỉ lệ phân tính kiểu hình ở đời con giống với tỉ lệ phân tính kiểu
hình trong quy luật phân li (F
1
: 100% kiểu hình trội, F
2
phân tính
theo tỉ lệ 3 trội : 1 lặn).
Bước 4: Áp dụng kiến thức đã khám phá vào thực tiễn
Một loại tính trạng do một gen quy định, nếu:
- Lai thuận và lai nghịch cho kết quả khác nhau.
- F
1
cho100% kiểu hình trội, F
2
phân tính theo tỉ lệ 3 trội : 1 lặn thì kết
luận gen nằm trên vùng tương đồng của NST XY quy định.
Song song với việc đổi mới phương pháp dạy học, việc áp dụng
công nghệ thông tin trong dạy học đã đem lại hiệu quả nhất định trong
dạy học. Sử dụng công nghệ thông tin đã làm cho bài giảng trở nên trực
quan hơn, giảm bớt tính trừu tượng, bài giảng sống động hơn, thu hút sự
tập trung, niềm say mê hứng thú của người học, làm cho người học dễ
hiểu và nhớ lâu hơn. Đa phương tiện giúp người giáo viên có thể truyền
đạt bằng nhiều con đường khác nhau những lượng thông tin cần thiết

giúp cho việc tiếp thu bài học của học sinh. Từ năm 2009 đến nay, chúng
tôi đã và đang sử dụng một bộ video clips kèm theo cuốn Biology của
Campbell xuất bản để làm nguồn tư liệu cho việc giảng dạy môn Sinh
học lớp 10, 11 và 12. Nhờ đó mà những cấu trúc và cơ chế hoạt động ở
mọi cấp độ tổ chức sống được mô tả một cách sống động bằng những
video clips sinh động, hình ảnh nhãn quan nhằm phát huy những ưu thế
của các giác quan trong quá trình học tập của học sinh. Bên cạnh việc sử
dụng các clips có sẵn, tôi còn chủ động thiết kế các giáo án dựa trên các
phần mềm ứng dụng như Powerpoint, ActivInspire . Sau đây là một
giáo án để dạy bài Cấu trúc và chức năng của màng sinh chất mà tôi đã
sử dụng công nghệ thông tin.
* Khâu chuẩn bị bài giảng của giáo viên:
- Tạo hình ảnh cấu trúc màng sinh chất trong hình ảnh một tế bào.
+ Có 2 hình ảnh: hình ảnh động cấu trúc màng sinh chất và hình ảnh tế
bào.
+ Dùng Layer: để hình ảnh cấu trúc màng sinh chất ở lớp dưới còn
hình ảnh tế bào ở lớp trên.
- Tạo hình ảnh về cơ chế vận chuyển chủ động các chất qua màng dưới
hình ảnh một màng sinh chất.
+ Có 2 hình ảnh: hình ảnh động về cơ chế vận chuyển chủ động các
chất qua màng và hình ảnh một màng sinh chất.
+ Dùng Layer: để hình ảnh về cơ chế vận chuyển chủ động các chất
qua màng ở lớp dưới còn hình ảnh màng sinh chất ở lớp trên.
- Tạo kính lúp
+ Sử dụng Magic để tạo kính lúp: công cụ mực thần kì để tạo kính lúp
nhìn qua một lớp ảnh.
* Tiến trình giảng dạy:
- Bước 1: Giáo viên cung cấp phương tiện, công cụ cho học sinh; cụ
thể là một cấu trúc tế bào, một màng tế bào (màng sinh chất) và một
chiếc kính lúp. Học sinh sẽ sử dụng chúng để tự tìm hiểu về cấu trúc

và chức năng của màng tế bào.

Hình 1 Hình 2

Hình 3 Hình 4
Hình 5
- Bước 2: Sau khi tự khám phá kiến thức, học sinh sẽ ghi lên bảng
những đơn vị kiến thức vừa thu nhận.
Hình 6
- Bước 3: Học sinh có thể tự kiểm tra bài làm của mình.
Hình 7
Với cách thiết kế giáo án như trên thì vai trò của người giáo viên
là trang bị phương tiện, công cụ cho học sinh còn học sinh phải tự đi tìm
hiểu kiến thức và kiểm tra mức độ chính xác của các đơn vị kiến thức
vừa thu nhận.
Việc khơi dậy ngọn lửa đam mê trong mỗi học sinh đã là một việc
khó đối với giáo viên nhưng việc duy trì ngọn lửa ấy như thế nào thì còn
là bài toán nan giải với những người làm công tác giáo dục. Với kinh
nghiệm bản thân, tôi nhận thấy, chính trong quá trình học tập, các em
học sinh tự khám phá ra tri thức lại là nguồn động lực, nguồn nhiên liệu
dồi dào để duy trì và thổi bùng lên ngọn lửa đam mê ấy.
Trong hành trình đi tìm tri thức, việc định hướng của giáo viên
cũng không kém phần quan trọng. Đối với học sinh giỏi, không phải chỉ
dừng lại ở việc các em đã đọc được bao nhiêu tài liệu, nhớ được bao
nhiêu nội dung mà quan trọng hơn là biết khai thác và sử dụng các tài
liệu đó như thế nào? Như vậy, giá trị của một tài liệu phụ thuộc vào khả
năng khai thác và phạm vi sử dụng để đạt hiệu quả trong công việc và
giáo viên chính là người định hướng việc sử dụng tài liệu của học sinh.
Trong quá trình dạy học, người giáo viên phải đưa ra những mục tiêu
kiến thức, kĩ năng mà học sinh cần phải đạt tới và dựa trên những đơn vị

kiến thức cơ bản, học sinh sẽ sử dụng tài liệu tham khảo để thực hiện các
mục tiêu mà giáo viên đã đề ra. Trong quá trình này, học sinh sẽ phải
huy động mọi nội lực của bản thân để tìm ra con đường ngắn nhất, chính
xác nhất để đi tới đích cần đạt. Như vậy, thông qua việc làm này sẽ giải
phóng được năng lực sáng tạo của học sinh.
Một điểm cũng hết sức quan trọng là cần quan tâm đến tâm lí lứa
tuổi, tạo áp lực vừa đủ trong quá trình dạy học. Một áp lực vừa đủ, phù
hợp với từng giai đoạn không những đạt được mục tiêu dạy học mà còn
thúc đẩy quá trình học tập của học sinh.
2.4.2. Phương pháp học của trò
Với khối lượng kiến thức khổng lồ, tự học là điều kiện tất yếu trên
con đường thành công. Mặc dù gọi là “Tự học” nhưng giáo viên vẫn phải
là người định hướng cho quá trình tự học của học sinh. Tôi cho rằng
hướng dẫn học sinh tự học là điều rất quan trọng, vì con đường ngắn
nhất để học sinh đạt được kết quả học tập tốt là phải tự học, tự nghiên
cứu. Nhưng động lực để giúp các em tự học, tự nghiên cứu chính là niềm
say mê, hứng thú đối với môn học. Vậy làm sao để khơi gợi được niềm
say mê, hứng thú học tập của học sinh? Những giải pháp giúp học sinh
tự học mà trong nhiều năm qua tôi đã và đang thực hiện:
- Giao cho mỗi học sinh hoặc mỗi nhóm học sinh chuẩn bị một
chuyên đề để trình bày trước lớp. Để làm được việc này, học sinh phải
biết huy động kiến thức cơ sở, thu thập tài liệu, xử lí thông tin. Ngoài ra,
việc làm này cũng giúp cho mỗi học sinh tự khẳng định bản thân trước
tập thể, tự phát hiện ra những năng lực tiềm ẩn trong mỗi cá nhân. Trong
các hoạt động tập thể, các thành viên sẽ kế thừa thành quả làm việc và
sản phẩm trí tuệ của nhau. Mỗi học sinh sẽ có ý thức và trách nhiệm
trước tập thể, học cách chia sẻ với bạn bè.
- Hướng dẫn học sinh cách “Dạy cho nhau”.
Trên cơ sở nắm vững các kiến thức trong mỗi chuyên đề đã được
giao chuẩn bị, mỗi học sinh sẽ trở thành “Người Thầy” để có thể hướng

dẫn cho những học sinh khác và ngược lại.
Hai giải pháp trên đã được cụ thể hóa bằng việc làm cụ thể như
sau: Tôi chia toàn bộ thời gian tập huấn thành hai giai đoạn: giai đoạn
một chiếm khoảng 2/3 tổng thời gian tập huấn, giai đoạn hai là lượng
thời gian còn lại. Ngoài mục tiêu chung, mỗi giai đoạn tập huấn còn
nhằm giải quyết các mục tiêu cụ thể. Chính vì vậy, mỗi giai đoạn cần các
giải pháp thực hiện khác nhau.
A. Giai đoạn II
a. Đối với học sinh:
- Nhận bài tập lớn theo tuần (bài tập lớn của từng phân môn)
- Bài tập lớn bao gồm:
+ xây dựng khung kiến thức cơ bản cho mỗi phân môn → tìm ra logic
của phân môn và đề xuất cách thức tiếp cận kiến thức phân môn đó→
khai thác các đơn vị kiến thức bằng cách đặt ra các dạng câu hỏi, bài tập
trên cùng một đơn vị kiến thức → nêu cách giải quyết các vấn đề đã đặt
ra.
b. Về phía giáo viên lãnh đội:
- Đánh giá bài tập lớn đã giao cho mỗi học sinh trong 2 buổi chiều:
+ Buổi 1: tổ chức cho mỗi học sinh được trình bày khung chương trình
của mỗi phân môn, đặc biệt là cách tiếp cận kiến thức.
+ Buổi 2: tổ chức cho mỗi học sinh được giới thiệu về cách khai thác và
giải quyết mỗi đơn vị kiến thức . Giáo viên cần hướng dẫn cụ thể, chi tiết
và chuẩn hóa (nếu cần thiết).
- Phân công mỗi học sinh phụ trách chính từng phân môn, những học
sinh này có nhiệm vụ tổng hợp để xây dựng một đề cương tương đối
hoàn chỉnh cho từng phân môn.
c. Đối với các giáo viên tham gia tập huấn:
- cần trang bị phông kiến thức cơ bản chuẩn hóa cho học sinh.
B. Giai đoạn II (thời gian còn lại)
1. Mục tiêu:

- Bồi dưỡng mũi nhọn và nâng cao mặt bằng.
2. Giải pháp thực hiện:
- Thông qua kết quả của giai đoạn I, lãnh đội phân hóa học sinh theo các
nhóm:
+ Nhóm 1: gồm khoảng 1 – 2 học sinh khá đều tất cả các phân môn
+ Nhóm 2: gồm những học sinh còn nắm kiến thức một số phân môn
chưa chắc chắn
+ Nhóm 3: gồm những học sinh còn bị hổng kiến thức của nhiều phân
môn.
- Tổ chức thực hiện các giải pháp đối với từng nhóm đối tượng để phù
hợp với từng mục tiêu
* Bồi dưỡng mũi nhọn: nhóm 1
+ Luyện kĩ năng làm bài ở mức độ nhuần nhuyễn
+ Giao bài tập khó ở mức độ vòng 2 quốc gia và quốc tế
+ Tìm hiểu một số kiến thức nâng cao
* Nâng cao mặt bằng: nhóm 2 và 3.
+ Đầu tiên, những phân môn mà cả 2 nhóm đều chưa nắm chắc thì phân
công giáo viên giảng dạy trên mức cơ bản vào 2 buổi chiều/tuần.
+ Đối với nhóm 2, sau khi đã đảm bảo mặt bằng về tất cả các phân môn
thì tập trung luyện kĩ năng làm bài.
+ Đối với nhóm 3, phân công giáo viên tiếp tục giảng dạy những phân
môn còn lại. Đồng thời, lãnh đội phân công “cốt cán” giúp đỡ những học
sinh chưa nắm chắc kiến thức.
Ngoài ra, việc dạy học của giáo viên còn mang một ý nghĩa quan
trọng là “dạy cho học sinh cách học”, làm cho mỗi học sinh có phương
pháp tư duy khoa học, năng lực tự học và năng lực sáng tạo. Vì vậy,
chúng tôi rất chú trọng việc hướng dẫn học sinh cách tiếp cận và giải
quyết vấn đề, nhất là đối với những học sinh trong đội tuyển học sinh
giỏi Quốc gia.
Trong việc bồi dưỡng học sinh giỏi cần chú trọng hiệu quả nhóm học

tập dưới sự hướng dẫn của giáo viên .
Song song với việc trang bị, tích lũy kiến thức cho học sinh thì
cũng cần tăng cường khâu kiểm tra, đánh giá. Ngoài kênh đánh giá của
giáo viên thì với đối tượng học sinh giỏi, việc khai thác năng lực tự đánh
giá của học sinh là một việc làm cần thiết. Mỗi tuần, các học sinh trong
đội tuyển làm một bài kiểm tra để rèn sức bền thần kinh, rèn kĩ năng
trình bày bài. Ngoài ra, qua mỗi bài kiểm tra, tôi còn khai thác năng lực
tự đánh giá của học sinh. Việc tổ chức chấm chéo bài, học sinh phải chỉ
ra trong từng câu trả lời của bạn, những điểm nào trùng với mình, những
điểm nào khác. Sau đó, học sinh phải tự đánh giá xem những điểm khác
đó là đúng hay sai hoặc chưa thể khẳng định. Trong trường hợp chưa thể
khẳng định chắc chắn thì sẽ đưa ra trước lớp để cùng thảo luận và giáo
viên sẽ là người đánh giá cuối cùng.
Thông qua mỗi bài chấm, học sinh sẽ học được từ bạn kĩ năng,
cách trình bày bài và còn được bổ sung thêm kiến thức; đồng thời những
khiếm khuyết nào trong bài của bạn cần tránh.
Một học sinh giỏi, bên cạnh sự nhuần nhuyễn về kiến thức lý
thuyết, kĩ năng thì việc nghiên cứu khoa học cũng để giúp các em tiếp
cận với các phương pháp nghiên cứu của các nhà khoa học lỗi lạc; qua
đó các em có thể vận dụng những kiến thức đã học vào thực tiễn. Một
khâu nữa trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi là tổ chức nghiên cứu
khoa học cho học sinh chuyên dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Những nghiên cứu khoa học này có thể không hoàn toàn lệ thuộc
vào thực nghiệm mà đó chỉ là những quy luật, hằng số, những bài viết
mà học sinh cần khái quát những những đơn vị kiến thức đơn lẻ; thông
qua đó sẽ rèn năng lực tự nghiên cứu khoa học của học sinh. Ngoài ra,
còn tăng cường tổ chức các hoạt động nghiên cứu khoa học bằng thực
nghiệm, đồng thời khuyến khích học sinh tham dự cuộc thi khoa học, kỹ
thuật dành cho học sinh THPT (VSEF).
2.5. Tăng cường giảng dạy môn Sinh học bằng tiếng Anh

Việc trang bị vốn từ chuyên ngành sẽ giúp cho học sinh giỏi có
điều kiện tiếp cận, tham khảo các đề thi của nước tiên tiến trên thế giới,
nhằm rút ngắn thời gian tới đích.
2.6. Xây dựng một mái ấm gia đình tình thương, trách nhiệm
Yếu tố cốt lõi để đạt tới sự thành công chính là tình yêu thương
giữa thầy và trò, giữa trò với trò. Chính điều đó sẽ giúp cho mỗi học sinh
sẽ vượt lên chính mình và khi đó các em không chỉ học cho bản thân mà
còn cho thầy và cho bạn bè của mình. Giáo viên lãnh đội thường xuyên
quan tâm đến sức khỏe của học sinh, khen thưởng kịp thời những em có
sự tiến bộ, động viên những em có chuyển biến chưa rõ ràng. Đối với
những em có hoàn cảnh kinh tế khó khăn, hoàn cảnh gia đình đặc biệt rất
cần sự động viên thường xuyên của thầy, cô và các bạn bè trong đội
tuyển để các em yên tâm học tập.
Một bữa cơm đầm ấm bên các bạn đội tuyển
đang sống trong kí túc xá của trường.
Bạn bè đang chung vui sinh nhật của thành viên trong đội tuyển
CHƯƠNG 3
THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
3.1. Mục đích thực nghiệm
Thực nghiệm là khâu đặc biệt quan trọng trong quá trình nghiên cứu
đề tài nói riêng và trong dạy học nói chung. Ở đây, thực nhiệm nhằm
kiểm tra tính khả thi và hiệu quả của giả thuyết khoa học mà đề tài đã đặt
ra.
Quá trình này còn cho phép thu thập ý kiến của giáo viên và học
sinh về thực trạng giảng dạy môn Sinh học và hiệu quả của các giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng bồi dưỡng học sinh giỏi môn Sinh học tại
trường THPT chuyên Lê Hồng Phong làm cơ sở thực tiễn cho việc
nghiên cứu của đề tài.
3.2. Nội dung thực nghiệm
Thực nghiệm sư phạm một số giáo án mẫu có sử dụng phương

pháp dạy học tích cực, giáo án mẫu có sử dụng công nghệ thông tin và
các giải pháp tự học của học sinh trong đội tuyển.
3.3. Phương pháp thực nghiệm
3.3.1. Chọn học sinh thực nghiệm
- Thực nghiệm được triển khai ở các lớp chuyên Sinh và đội tuyển
học sinh giỏi Quốc gia môn Sinh học từ năm học 2008 – 2009 đến nay
tại trường THPT Lê Hồng Phong - Nam Định.
- Thực nghiệm được triển khai cho học sinh trong đội tuyển thi
HSG Quốc gia từ năm học 2008 – 2009 đến nay tại trường THPT chuyên
Lê Hồng Phong - Nam Định.
- Thực nghiệm được tiến hành “gối sóng” trên các lớp và các đội
tuyển qua nhiều năm liên tục gồm nhóm thực nghiệm và nhóm đối
chứng với tổng số học sinh bằng nhau và năng lực về môn Sinh học
tương đương nhau.
- Do điều kiện thực tế, mỗi năm học, nhà trường chỉ có một lớp
chuyên Sinh và có một đội tuyển học sinh giỏi Quốc gia nên tôi sử dụng
các đối tượng học sinh năm trước là nhóm đối chứng, còn đối tượng học
sinh năm sau là nhóm thực nghiệm.
3.3.2. Phương án thực nghiệm
- Chọn học sinh thực nghiệm:
+ Nguyên tắc: đảm bảo tính đồng đều về năng lực của học sinh.
+ Hình thức thực nghiệm: sử dụng các đối tượng học sinh năm trước là
nhóm đối chứng, còn đối tượng học sinh năm sau là nhóm thực nghiệm.
- Thời gian làm thực nghiệm: trong 5 năm (bắt đầu từ năm thứ
nhất (2008 – 2009) đến nay.
3.4. Kết quả thực nghiệm: Để kiểm tra đánh giá kết quả học tập của
học sinh, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra bằng câu hỏi tự luận, sau đó sử
dụng phương pháp phân tích định lượng, định tính kết quả thực nghiệm.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng một số mẫu điều tra để đánh giá tâm lí
của học sinh sau mỗi tiết học có sử dụng công nghệ thông tin.

** Về việc đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên:
Đối với học sinh lớp chuyên và học sinh giỏi, chúng tôi đã khảo sát bằng
đề sau:
Câu 1: Ở một loài thực vật, khi tiến hành lai thuận nghịch, người ta thu
được kết quả như sau:

×