Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Phân tích lợi thế cạnh tranh của việc xuất khẩu sản phẩm giày dép việt nam sang thị trường nhật bản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 77 trang )

1


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA THƯƠNG MẠI – DU LỊCH – MARKETING



BÀI TIỂU LUẬN
Đề tài: “Phân tích lợi thế cạnh tranh của việc xuất
khẩu sản phẩm giày dép Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản.





GVHD: Th.S Quách Thị Bửu Châu


Thành viên nghiên cứu:
1. Lương Thị Huyền Trâm TM01
2. Trần Thị Lê Nga TM01
3. Ngô Thị Như Hoa TM02
4. Nguyễn Thị Thêm TM02
5. Phan Dương Hùng Vĩ TM04
6. Nguyễn Thị Thanh An TM03


Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10 năm 2012





2

Mục lục
I. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GIÀY DÉP CỦA VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN 4
1. Khái quát về ngành da giày Việt Nam 4
1.1. Sự hình thành và phát triển ngành da giày Việt Nam 4
2. Tình hình xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào các quốc gia 16
2.1. Tổng quan tình hình xuất khẩu của Việt Nam 16
2.2. Tình hình và các thị trường xuất khẩu giày dép của Việt Nam 20
3. Tình hình xuất khẩu sản phẩm giày dép sang Nhật Bản 23
II. TÌNH HÌNH NHẬP KHẨU GIÀY DÉP CỦA NHẬT BẢN TỪ CÁC NƯỚC 36
1. Thị trường của sản phẩm giày dép tại Nhật Bản 36
1.1. Nhu cầu, thị hiếu người tiêu dùng 36
1.2. Sản phẩm giày dép Việt Nam tại thị trường Nhật Bản 38
2. Chính sách nhập khẩu của Nhật Bản 39
2.1. Nhận xét chung về chính sách nhập khẩu của Nhật Bản 39
2.2. Chính sách nhập khẩu sản phẩm giày dép của Nhật Bản đối với 1 số nước 41
2.3. Chính sách nhập khẩu sản phẩm giày dép của Nhật Bản đối với Việt Nam 42
III. PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH CUẢ GIÀY DÉP VIỆT NAM SO VỚI TRUNG
QUỐC TẠI THỊ TRƯỜNG NHẬT BẢN (THEO MÔ HÌNH KIM CƯƠNG CỦA MICHAEL
PORTER) 44
1. Khái quát về mô hình kim cương của Michael Porter 44
2. Phân tích lợi thế cạnh tranh của giày da Việt Nam so với Trung Quốc tại thị trường Nhật Bản
dựa vào mô hình kim cương của Michael Porter 46
2.1 Điều kiện các yếu tố sản xuất 46
2.2 Điều kiện về cầu 51
2.3 Các ngành công nghiệp liên kết và bổ trợ 52

2.4 Các chiến lược, cấu trúc và tính cạnh tranh của các công ty 57
2.5 Cơ hội 62
2.6 Chính phủ 68
IV. KẾT LUẬN VỀ NHỮNG ĐIỀM MẠNH VÀ ĐIỀM YẾU TRONG VIỆC XUẤT KHẨU GIÀY
DÉP CỦA VIỆT NAM SO VỚI TRUNG QUỐC THÔNG QUA MÔ HÌNH KIM CƯƠNG
CỦA MICHAEL PORTER 74




3

LỜI MỞ ĐẦU

Tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới của Việt Nam đang diễn ra một
cách nhanh chóng. Hội nhập và toàn cầu hóa đã và đang mở ra nhiều cơ hội cho doanh
nghiệp Việt Nam, tuy nhiên nó cũng đem đến nhiều đe dọa và thách thức, cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài,
giữa các doanh nghiệp trong nước với nhau ngày càng khốc liệt. Các doanh nghiệp Việt
Nam được biết đến trên trường quốc tế như là một niềm tự hào của nền kinh tế Việt Nam
tuy nhiên đó chỉ là một con số ít ỏi trong số những ngành nghề kinh doanh cũng như
những doanh nghiệp tạo được vị thế trên thị trường. Ngành da giày Việt Nam cũng không
nằm ngoài sự cạnh tranh đó, bên cạnh đó đây cũng được coi là một ngành có kim ngạch
xuất khẩu cao trong mấy năm gần đây và được quan tâm đầu tư, mở rộng sản xuất. Việt
Nam hiện nay đang là một trong mười nước xuất khẩu hàng đầu thế giới trong ngành da
giày. Trong đó giầy dép được xem là một trong những sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn của
Việt Nam. Sản phẩm giầy dép của Việt Nam có chất lượng cao, rất có uy tín trên thị
trường quốc tế.
Vì vậy, nhóm chúng tôi thực hiện đề tài này mong muốn đem lại cho các bạn cái
nhìn tổng quan nhất về ngành da giày Việt Nam nói chung cũng như sản phẩm giày dép

nói riêng. Thông qua việc phân tích mô hình kim cương của M.Porter chúng ta sẽ nhận
thấy những cơ hội và thách thức mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình hội nhập và
phát triển về sản phẩm mũi nhọn này.

4

I. TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU GIÀY DÉP CỦA VIỆT NAM SANG NHẬT BẢN
1. Khái quát về ngành da giày Việt Nam
1.1. Sự hình thành và phát triển ngành da giày Việt Nam
1.1.1. Sự hình thành.
Nghề làm giầy ở Việt Nam được khai sinh cách đây 527 năm và có bề dầy
lịch sử phong phú. Nghề được khai sáng bởi tiến sỹ Nguyễn Thời Trung và 3 vị sư
tổ là: ông Phạm Đức Chính; ông Nguyễn Sỹ Bân; ông Phạm Thuần Khánh.
Vào thời đại nhà Lê Trung Hưng, trong đợt sứ sang Trung Hoa của tiến sỹ
Nguyễn Thời Trung , ba vị sư tổ được đi theo học nghề, tích lũy kiến thức về thuộc
da, làm giầy truyền thống và các bí quyết khác của người dân Hàng Châu, tỉnh Hồ
Nam. Từ khi về nước, các ông đã truyền bá và phát triển nghề làm giầy trong nước.
Nghề làm giầy lan truyền khắp nơi và được mọi người dân theo học và phát triển
đến ngày nay, các vị sư tổ được nhân dân yêu mến và phong làm “Ông tổ” nghề
giầy của Việt Nam, khởi nguồn khai sinh ra ngành Da –Giầy Việt Nam. Đến đầu thế
kỷ XX, công nghệ thuộc da và làm giầy phổ biến và phát triển rộng khắp, ngành Da
– Giầy Việt Nam được hình thành từ các phường thợ, làng nghề thủ công, cao hơn
phát triển thàng vùng chuyên sản xuất và những cụm công nghiệp chuyên ngành
như Bình Dương, Đồng Nai, Hà Nội, Hải Phòng.Giai đoạn này khá dài và trong suốt
thời gian này không có nhiều sự phát triển và cũng không ai ghi nhận lại được
những thành tựu trên nên chỉ để lại rất ít thông tin
1.1.2. Quá trình phát triển:
Ngành Da – Giầy Việt Nam là ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng,
thời trang phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu quan trọng. Ngành được hình
thành và phát triển lâu đời qua các giai đoạn chính và với những đặc thù như sau:

 Giai đoạn từ khi hình thành đến 1950
Nổi bật thời kỳ này là việc hình thành làng nghề Da – Giầy Phú Yên tại xã
Phú Yên, huyện Phú Xuyên, Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ). Đây là làng nghề chuyên sản
xuất giầy được hình thành hơn 100 năm. Ban đầu làng nghề chỉ sản xuất dép da, sau
5

đó mở rộng sản xuất giầy da. Những năm từ 1986 – 1992, hoạt động của làng nghề
tạm chìm lắng do những khó khăn từ nhiều phía, nhiều người bỏ làng đi làm ăn nơi
khác. Đến năm 1993, nhiều người quay về và tập hợp lực lượng xây dựng lại làng
nghề, trong thời gian cao điểm làng có gần 400 hộ sản xuất kinh doanh giầy và sử
dụng trên 1.000 lao động tại chỗ và khoảng 2.000 lao động từ các địa phương khác
hoặc nhận gia công lại. Hiện nay, làng nghề vẫn duy trì và phát triển hoạt động với
những sản phẩm trung và thấp cấp, chủ yếu tiêu thụ trong nước. Làng nghề Da –
Giầy Phú Yên có thể được xem là một làng nghề điển hình của Việt Nam
 Giai đoạn 1950 – 1990.
Giai đoạn này thể hiện thông qua sự phát triển của ngành Da – giầy khu vực
phía Nam, đặc biệt là tại quận 4 và khu vực Phú Thọ thuộc thành phố Hồ Chí Minh
(trước đây là tỉnh Gia Định). Nổi bật nhất là sự phát triển của khu vực thuộc da thủ
công tại Phú Thọ, đây là nơi cung cấp da cho tất cả các Xưởng làm giầy dép ở miền
Nam. Bên cạnh đó các cơ sở làm giầy dép tại quận 4, quận 11 là nơi cung cấp hầu
hết giầy dép cho khu vực Sài Gòn, Gia Định và miền Nam. Phần lớn các cơ sở này
sản xuất giầy dép bằng phương pháp thủ công và nửa thủ công với sự trợ giúp của
một số thiết bị giản đơn như: máy may mũ các loại, máy may đế, máy may cóp đế
v.v
Sau ngày miền Nam giải phóng (năm 1975), tại Thành phố Hồ Chí Minh và
một số tỉnh như: Đồng Nai, Hải Phòng đã phát triển sản xuất mặt hàng hài, dép thêu
xuất khẩu cho Liên Xô (cũ), Ba Lan v.v, theo một số chuyên gia của Liên hiệp Xã
ngành Thảm thêu giầy dép thuộc Liên hiệp Xã Tiểu thủ công nghiệp Thành phố Hồ
Chí Minh, thì chỉ riêng tại Thành phố có lúc số lao động đạt trên 20.000 người tham
gia sản xuất mặt hàng này.Một số cơ sở sản xuất có tiếng lúc bấy giờ là: Hợp tác xã

giầy da số 1, Hợp tác xã 19/5, Hợp tác xã Thống Nhất v.v.Vào cuối thập kỷ 1980,
các đơn hàng xuất khẩu vào khối XHCN ít dần, trong khi đó nhu cầu thị trường nội
địa chưa cao, nên các cơ sở sản xuất xuất khẩu này đã thu hẹp dần và đóng cửa.
6

Đặc điểm chính của giai đoạn này là: Chủ yếu là sản xuất bằng phương pháp
thủ công và bán thủ công.Thị trường chính là Liên xô cũ và các nước XHCN Đông
Âu.Thị trường xuất khẩu chủ yếu do các Công ty Thương mại cấp 1 cung ứng như
Tocontap, Axtexport, Intimex thông qua việc thực hiện các Hiệp định của Chính
phủ. Nhiệm vụ chính là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động.Với sự đổi
mới về chính sách kinh tế, việc tiếp cận ra bên ngoài giúp các doanh nghiệp sản xuất
giầy dép nhập da thành phẩm từ Đài Loan, Thái Lan, Trung Quốc, Achentina,
Canada với chất lượng tốt và giá cạnh tranh trở nên dễ dàng hơn, đồng thời với sự
phát triển nhanh chóng của khu dân cư sau những năm 1990, nhiều Xưởng thuộc da
ở khu vực này phải đóng cửa do không đủ sức cạnh tranh và do vấn nạn ô nhiễm.
Một số xưởng còn tồn tại là những cơ sở có đầu tư công nghệ và đổi mới máy móc
thiết bị, nhưng đều phải di chuyển ra ngoại ô. Hiện nay, chỉ còn lại vài cơ sở thuộc
da khởi đầu từ khu vực này như : Đặng Tư Ký, Kim Thành, Hưng Thái v.v.
 Giai đoạn 1990 – 2010.
Giai đoạn này bắt đầu từ khi Hiệp Hội Da – Giầy Việt Nam được thành lập,
Hiệp Hội đã cùng cộng đồng doanh nghiệp định vị và phát triển ngành dựa trên cơ
sở các mục tiêu được phê duyệt trong Quy hoạch tổng thể phát triển ngành Da –
Giầy Việt Nam đến năm 2000.
Giai đoạn này (từ năm 1992), ngành Da – Giầy Việt Nam tiếp nhận sự dịch
chuyển sản xuất từ các nước công nghiệp mới trong khu vực như: Đài Loan, Hàn
Quốc v.v . Các dây chuyền sản xuất hoàn chỉnh được các doanh nghiệp quan tâm
đầu tư phát triển với sự hợp tác của các đối tác trung gian nước ngoài. Khu vực
chính tập trung phát triển ngành Da – Giầy bao gồm: Hà Nội , Hải Phòng, Thành
Phố Hồ Chí Minh. Bình Dương, Đồng Nai v.v
Việc sản xuất giầy dép được trợ giúp bởi các thiết bị công nghiệp từ thiết bị

cắt, may, gò đến các dây chuyền sản xuất chuyên dụng v.v. Bên cạnh đó là việc
thành lập hàng loạt các nhà máy sản xuất công cụ hỗ trợ như: nhà máy sản xuất
khuôn, phom giầy, dao chặt v.v, các nhà máy sản xuất đế cao su, EVA, TPR v.v.
7

Đặc biệt là từ khi có Bộ Luật đầu tư nước ngoài ra đời đã tạo khung pháp lý cho
hàng loạt các doanh nghiệp lớn từ Đài Loan, Hàn Quốc đầu tư sang Việt Nam, tên
tuổi của các nhà máy lớn sử dụng hàng nghìn lao động như: Teakwang VINA, Hwa
Sung, Pou Yuen, Chang Shin, Ching Lu, Kwang Nam v.v bắt đầu được biết đến.
Bên cạnh đó, cũng chính giai đoạn này những doanh nghiệp có tên tuổi của
ngành Da – Giầy Việt nam như: Biti’s, ThaiBinh Shoes, Bitas, An Lạc, Hiệp Hưng,
Thượng Đình, Thụy Khuê, Da Giầy Hải Phòng, Giầy Sài Gòn, Giầy Phú Lâm, Asia
Shoes, VINA Giầy v.v được nhiều khách hàng trong và ngoài nước biết đến.
Từ đầu những năm 2000 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều
chính sách khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước giúp cho các doanh nghiệp da
giày trong nước cơ hội phát triển, cộng với đầu tư của nhiều doanh nghiệp sản xuất
da giày từ Hàn Quốc, Đài Loan góp phần thay đổi nhanh chóng bộ mặt của ngành
da giày Việt Nam. Sản lượng sản xuất giầy dép các loại tăng nhanh qua các năm.
Năm 2007,ngành giày da Việt Nam đứng thứ tư trong số 8 nước xuất khẩu lớn nhất
thế giới, chỉ sau Trung Quốc, Hồng Kông và Italia . Năm 2010, ngành xuất khẩu da
giầy Việt Nam đã vượt lên đứng thứ 2 sau Trung Quốc
 Giai đoạn 2011 – 2012.
Giai đoạn 2011 – 2012 đánh giá sự phát triển mạnh mẽ của ngành giày gia
Việt Nam.
 Tổng quát về tình hình tiêu thụ giày da Việt Nam năm 2011.
 Xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày đạt 6.523 triệu USD, tăng
27,3% so với năm 2010, kim ngạch xuất khẩu của ngành túi xách – ba lô đạt
1.279 triệu la Mỹ, tăng 33,4% so với năm 2010. Tổng kim ngạch xuất khẩu của
toàn ngành đạt 7.802 triệu Đô la Mỹ.

Ba vùng thị trường chính hiện nay của ngành da giày là EU, Mỹ với
Nhật với kim ngạch xuất khẩu

8

Triệu USD
Thị trường 2007 2008 2009 2010 2011
EU
2.176,83 2.484,72 2.007,27 2.403,75 3.110,80

America
885,12 1.075,13 1.038,82 1.407,31 1.846,80

Japan
114,75 137,35 122,47 171,96 209,60
Các nước khác

817,54 1.060,35 1.060,35 1.138,62 1.381,80

Tổng số 3.994,24 4.767,22 4.066,76 5.122,25 6.549,00

Giày dép xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ dang đứng hàng
thứ 2 sau Trung Quốc và dẫn đầu tại một số thị trường như Mexico, Brazil…
Lĩnh vực ba lô - túi sách, vùng thị trường chính là: Mỹ, EU, Nhật và
Đông Á. Dự kiến năm 2011 kim ngạch xuất khẩu vào các cùng thị trường này
như sau: Mỹ: 461 triệu USD; EU: 422 triệu USD; Nhật: 140 triệu USD; Đông
Á: 66 triệu USD, các thị trường còn lại: 190 triệu USD.
 Nội Địa.
Tổng dung lượng thị trường nội địa ước chừng 130 – 140 triệu
đôi/năm, có tổng trị giá tương đương 1,5 tỷ USD. Dự kiến sản lượng giày dép

do DN trong nước sản xuất và tiêu thụ nội địa đạt ở mức gần 70 triệu đôi,
chiếm tỷ trọng gần 50%.
Các loại cặp, túi xách, ba lô tiêu thụ nội địa ước khoảng 25 triệu chiếc
trong năm 2011, trong đó có khoảng 15 triệu chiếc được sản xuất từ các doanh
nghiệp Việt nam, chiếm tỷ trọng trên 60%.
Trong sản phẩm tiêu thụ nội địa, lượng da thuộc trong nước được đánh
giá là chiếm đến 70%.
 Tổng quan về tình hình tiêu thụ da giày trong 3 tháng đầu năm 2012.
Xuất khẩu giày dép sang các thị trường sụt giảm liên tục về kim ngạch
trong 2 tháng đầu năm 2012, nhưng sang tháng 3 đã có sự tăng trưởng nhẹ với
mức tăng 0,08%, đạt 477,93 triệu USD; tính chung cả quí I/2012 kim ngạch
xuất khẩu nhóm hàng này đạt 1,49 tỷ USD, tăng 13,61% so với cùng kỳ năm
9

2011. Kim ngạch xuất khẩu giày dép chiếm 6,01% trong tổng kim ngạch xuất
khẩu hàng hóa của cả nước.
Theo Bộ Công Thương, doanh nghiệp (DN) da giày đang rất lo lắng vì
hiện tại mới ký hợp đồng xuất khẩu đến hết quý I. Chỉ có số ít DN ký được hợp
đồng đến hết quý II nhưng đơn hàng lại giảm 20%-30% so với cùng kỳ năm
trước. Cùng với sự cắt giảm chi tiêu, chính sách nhập khẩu của các thị trường
lớn như EU, Mỹ, Nhật đang có sự thay đổi trong cách thức mua hàng và yêu
cầu ngày càng cao về tiêu chuẩn chất lượng, các tiêu chuẩn môi trường, trách
nhiệm xã hội của DN. Để bù đắp sự sụt giảm này, các DN da giày đang nỗ lực
chuyển sang tìm kiếm đơn hàng từ thị trường Nam Mỹ, nghiên cứu hợp tác đầu
tư sản xuất và cung ứng nguyên phụ liệu da giày với các nước có tiềm năng
như Ấn Độ, Brazil.
Thị trường xuất khẩu chủ yếu nhóm hàng giày dép của Việt Nam là Hoa
Kỳ, Anh, Nhật Bản, Bỉ, Đức, Trung Quốc, Hà Lan. Tính trong cả quí I/2012,
Hoa Kỳ vẫn là thị trường chủ đạo, tiêu thụ lớn nhất nhóm hàng giày dép của
Việt Nam, với kim ngạch đạt 439,58 triệu USD, chiếm 29,48% trong tổng kim

ngạch xuất khẩu ngành hàng, tăng 15,8% so cùng kỳ. Thị trường lớn thứ 2 là
Anh chiếm 6,87%, đạt 102,4 triệu USD, giảm 3,27% so cùng kỳ; đứng thứ 3 là
kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chiếm 6,04%, đạt 90,14 triệu
USD, tăng 14,73%; tiếp theo là Bỉ chiếm 5,91%, đạt 88,14 triệu USD, tăng
25,67%; Đức chiếm 5,67%, đạt 84,12 triệu USD, tăng 2,44%.
Tính chung trong cả 3 tháng đầu năm 2012, kim ngạch xuất khẩu giày
dép sang đa số các thị trường vẫn tăng so với 3 tháng đầu năm ngoái; trong đó
các thị trường góp phần vào việc đẩy nhanh tốc độ tăng kim ngạch gồm có: Ba
Lan (tăng 262,88%, đạt 4,94 triệu USD); Séc (tăng 176%, đạt 8,41triệu USD);
Indonesia (tăng 129,55%, đạt 5,16triệu USD); Thái Lan (tăng 73,78%, đạt
3,74triệu USD); U.A.E (tăng 73,44%, đạt 7,53triệu USD); Trung Quốc (tăng
61,77%, đạt 82,69triệu USD); Singapore (tăng 60%, đạt 6,33triệu USD). Tuy
nhiên, xuất khẩu sang Phần Lan sụt giảm mạnh nhất tới 50,74% so với cùng
10

kỳ, chỉ đạt 0,61triệu USD và xuất sang Na Uy cũng giảm 32,7%, đạt 2,01 triệu
USD, ngoài ra, còn một số thị trường cũng sụt giảm nhưng mức giảm nhẹ từ
2% – 14% so với cùng kỳ; trong đó xuất sang Cu Ba giảm ít nhất 2,11% về
kim ngạch so cùng kỳ.
Những thị trường tiêu thụ giày dép của Việt Nam qúi I/2012
ĐVT: USD
Thị trường T3/2012 3T/2012
%Tăng/giảm
T3/2012 so với
T2/2012
%Tăng/giảm
3T/2012 so với
cùng kỳ
Tổng cộng 477.932.832


1.491.338.458 +0,08 +13,61
Hoa Kỳ 158.412.643

439.578.760

+14,02 +15,80
Anh 33.103.636 102.395.959

+1,29 -3,27
Nh
ật Bản 28.757.982 90.140.368 -4,93 +14,73
Bỉ 25.909.973 88.136.724 -18,64 +25,67
Đức 20.058.190 84.516.383 +10,10 +2,44
Trung Quốc 22.462.215 82.686.326 -30,69 +61,77
Hà Lan 18.323.600 61.993.322 -6,04 -12,76
Brazil 19.254.300 52.775.653 +136,69 +51,96
Tây Ban Nha 17.772.630 52.341.790 +5,46 -2,71
Hàn Quốc 16.042.134 46.732.473 -14,59 +41,74
Pháp 14.302.241 46.674.054 -6,93 +13,06
Italia 11.926.732 45.023.678 -6,35 -6,75
Mêhicô 14.531.135 44.287.569 -9,59 +2,26
Panama 5.400.290 22.299.688 -27,48 -8,88
Canada 7.832.292 22.079.947 +23,04 +5,90
Hồng Kông 6.583.482 17.381.313 +2,22 +17,83
Ôxtrâylia 4.875.143 16.889.595 -33,18 +35,55
11

Đài Loan 7.057.281 14.484.076 +58,82 +22,57
Nga
2.225.557 14.071.054 -50,78 +17,90

Nam Phi
3.007.677 12.611.431 -37,58 +25,18
Áo 3.543.349 9.536.095 +29,96 -9,29
Chi Lê 1.457.911 8.544.950 -34,29 *
Séc 3.825.214 8.405.771 +169,77 +176,05
Thuỵ Điển 2.219.596 8.293.112 -5,05 +32,24
Achentina 2.432.752 8.047.872 +11,26 *
Tiể
u Vương
quốc Ả Rậ
p
thống nhất
3.016.750 7.526.182 +10,68 +73,44
Slovakia 1.681.111 6.895.052 -13,02 *
Đan Mạch 1.890.201 6.335.944 -14,82 +3,68
Singapore 2.010.528 6.326.498 -37,15 +60,08
Malaysia 1.342.681 6.156.846 -59,23 -5,24
Indonesia 1.416.912 5.157.716 -42,19 +129,55
Thuỵ Sĩ 1.651.101 5.085.327 +33,72 +32,18
Ba Lan 221.589 4.941.039 -87,32 +262,88
Ấn Độ 867.401 4.418.849 -44,67 +54,44
Philippines 900.492 4.418.444 -63,47 +26,53
Thái Lan 1.435.151 3.739.346 +7,47 +73,78
Thổ Nhĩ Kỳ 699.965 3.082.101 -22,91 +9,59
NewZealand
1.138.881 2.983.400 -5,32 *
Israel 1.137.299 2.479.063 +66,65 *
Hy Lạp 1.523.503 2.376.129 +777,06 -14,21
Na Uy
863.525 2.010.663 +63,53 -32,74

12

Ucraina 127.974 1.443.333 -70,81 +1,78
Phần Lan 273.024 671.521 +25,98 -50,74
Cuba 345.057 539.835 * -2,11
Bồ Đào Nha 101.737 387.543 +61,48 -12,22
Nguồn: vinanet

1.1.3. Đặc điểm và vai trò của ngành da giày
 Đăc điểm
- Nguồn nhân công dồi dào có thể sử dụng được với chi phí thấp: Việt Nam hiện
có lực lượng lao động đông đúc, trẻ, khỏe khoảng 30 triệu người có tay nghề
đáp ứng được yêu cầu khi bắt đầu sử dụng công nghệ và máy móc thiết bị mới.
Toàn ngành giầy dép hiện nay có khoảng 350.000 lao động, trong đó 80% lao
động là nữ. Theo dự đoán số lượng lao động toàn ngành đến năm 2005 là
550.000 người, năm 2010 là 650.000 người, nhưng hầu hết các công nhân
không được đào tạo chính quy chỉ được đào tạo chủ yếu là kèm cặp trên dây
chuyền sản xuất. Cấp bậc kỹ thuật của công nhân bình quân là 2.5 trên 6 và
phần lớn số công nhân ở độ tuổi 20-35. Trong đó số lao động tốt nghiệp phổ
thông trung học chiếm 70%, số còn lại mới tốt nghiệp lớp 9. Chi phí nhân công
ở Việt Nam và đặc biệt trong ngành giầy da rất thấp. Điều này góp phần làm
giảm chi phí sản xuất song cũng dẫn đến tình trạng mức lương toàn ngành
thấp, phải thu hút lao động từ các vùng nông thôn, do đó số lao động này cần
cù chịu khó nhưng kỹ năng tay nghề, trình độ tinh xảo, tác phong công nghiệp
còn kém. Điều này rất khó khăn trong việc thực hiện những đơn hàng có giá trị
và đòi hỏi chất lượng cao.


13


Bảng 1: Chi phí lao động so sánh giữa các nhà sản xuất giầy dép ASEAN
Đơn vị USD
Việt Nam Indonesia Hàn Quốc Trung Quốc Hồng Kông Đài Loan

0.3 0.31 0.38 0.48 5.16 5.98
Nguồn: Hiệp hội da giầy Việt Nam LEFASO
- Trình độ công nghệ chưa cao: Trình độ công nghệ của ngành Da giầy Việt
Nam thuộc loại trung bình so với thế giới nhưng trong giữa các nhà máy của
Việt Nam lại có sự khác biệt lớn. Đó là sự khác biệt giữa các doanh nghiệp có
loại hình sở hữu khác nhau. Trong khu vực các doanh nghiệp nhà nước, hầu
hết các máy móc thiết bị nhập khẩu từ Liên Xô và Đông Âu từ thập kỷ 80, đến
nay đã cũ kỹ và lạc hậu. Hiện nay, các doanh nghiệp này cũng đang dần dần
đổi mới, thay thế máy móc thiết bị, nhập khẩu những dây chuyền công nghệ
tiên tiến nhưng quá trình này diễn ra còn manh mún và rất chậm chạp do thiếu
vốn. Một nguyên nhân khác là do chúng ta chủ yếu sản xuất theo phương thức
gia công nên quy mô đầu tư sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào các đối tác nước
ngoài. Trong khi đó các doanh nghiệp liên doanh và 100% vốn nước ngoài lại
có qui mô lớn, được trang bị công nghệ máy móc nhà xưởng đồng bộ. Số máy
móc thiết bị này được các đối tác nước ngoài vận chuyển đến Việt Nam, trong
số đó có hai đối tác lớn nhất là Hàn Quốc và Đài Loan. Toàn ngành đã có trên
500 dây chuyền sản xuất đồng bộ sản xuất các loại dày dép hoàn chỉnh với
công suất mỗi năm hơn 420 triệu đôi các loại. Tuy nhiên số thiết bị máy móc
nói trên phần lớn thuộc thế hệ trung bình của thế giới chứ chưa phải thuộc thế
hệ hiện đại nên năng suất còn thấp.
- Phương thức hoạt động ở các doanh nghiệp xuất khẩu giầy dép hiện nay chủ
yếu là sản xuất gia công xuất khẩu: Chính vì thế trong những năm qua kim
nghạch xuất khẩu thì lớn còn kim ngạch thực thì lại rất ít. Tuy nhiên việc thực
hiện phương thức gia công này cũng có những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực
nhất định. Ngoài những tác động tích cực như nhanh chóng tạo được nhiều
công ăn việc làm cho ngưòi lao động, tiếp thu được những kỹ năng kiến thức

14

về quản lý sản xuất và công nghệ, tiết kiệm được vốn đầu tư và tránh được rủi
ro về thị trường đầu ra, nó còn có các tác dộng tiêu cực như: phụ thuộc nặng nề
vào đối tác nước ngoài, không có cơ hội nắm bắt thị trường, bị động trong việc
tiếp nhận đơn hàng và triển khai kế hoạch sản xuất, lợi nhuận thấp và ít vốn
tích luỹ để tái đầu tư phát triển. Ngoài ra còn có một tác động do tâm lý chủ
quan như do dựa vào nguồn nguyên liệu nước ngoài không chú trọng đầu tư
phát triển nguồn nguyên liệu trong nước.
- Nguồn nguyên liệu đầu vào hạn chế: Khoảng từ 60% đến 80% đầu vào cho sản
xuất giầy dép ở Việt Nam là nhập khẩu, cụ thể tuỳ theo từng chủng loại sản
phẩm. Có khi một sản phẩm giầy được sản xuất tại Việt Nam nhưng phần lớn
nguyên phụ liệu của sản phẩm đó lại được nhập khẩu từ nơi khác. Thái Lan và
Hàn Quốc là hai quốc gia cung cấp nguyên liệu da và Trung Quốc là nhà cung
cấp các phụ liệu khác.
- Về tổ chức quản lý sản xuất: Ngành Da giầy Việt Nam cùng với sự chuyển đổi
cơ chế và chính sách của Nhà nước hiện nay được tồn tại dưới nhiều hình thức
sở hữu: doanh nghiệp nhà nước (76 doanh nghiệp), doanh nghiệp ngoài quốc
doanh (80 doanh nghiệp), doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (77 doanh
nghiệp) (Nguồn LEFASO-2001). Do vậy về hình thức tổ chức quản lý sản xuất
có nhiều điểm khác nhau.Sau năm 90, do có sự khuyến khích từ phía Chính
phủ Việt Nam, nhiều đối tác nước ngoài đã đến Việt Nam. Hiện nay có khoảng
80% các doanh nghiệp sản xuất giầy ở Việt Nam có quan hệ hợp đồng sản xuất
với các hãng nước ngoài. Trong tổ chức của một Công ty liên doanh điển hình
ở Việt Nam, phía nước ngoài chịu trách nhiệm về mặt kỹ thuật các hoạt động
của Công ty bao gồm: vận chuyển máy móc và vật liệu từ nước họ đến Việt
Nam, cung cấp hầu như toàn bộ các nguyên vật liệu sử dụng trong dây chuyền
sản xuất và tìm kiếm hợp đồng. Trong khi đó phía Việt Nam thường cung cấp
nguồn nhân lực, duy trì bảo dưỡng các thiết bị máy móc trong nhà máy và chịu
trách nhiệm về công tác quản trị hành chính của công ty. Tuy nhiên, đến năm

2000 sự phát triển rầm rộ của ngành giầy dép cũng đã từ từ giảm dần. Xét ở
15

mức độ quốc gia có một vài yếu tố ảnh hưởng làm giảm tốc độ gia tăng của
ngành giầy dép như do giá trị gia tăng của một số sản phẩm giầy dép cụ thể
thấp, sự lệ thuộc quá lớn vào các nhà đầu tư nước ngoài và sự hạn chế của dây
chuyền sản xuất. Do vậy, các chủ nhà máy và các phía đối tácViệt Nam đã ý
thức được nhu cầu phải thoát ra khỏi sự lệ thuộc đó và cải thiện được các điểm
yếu kém để đạt được một sự vững mạnh của ngành công nghiệp giầy dép của
Việt Nam trong tương lai.
 Vai trò
- Giải quyết công ăn việc làm: Với số dân hơn 86 triệu người, mỗi năm Việt
Nam có hàng triệu người bước vào độ tuổi lao động trong đó tỷ lệ lao động phổ
thông chưa qua đào tạo còn khá lớn. Ngành da giầy với ưu điểm là sử dụng
nhiều lao động và có thể dùng lao động phổ thông, hàng năm đã tạo ra rất
nhiều công ăn việc làm với những lao đông chưa qua đào tạo. Với việc mở
rộng sản xuất, số công nhân da - giầy đã tăng rất nhanh trong vòng 5 năm trở
lại đây. Năm 1995 số người lao động trong ngành giầy dép là 148.000 người
nhưng đến năm 1999, con số này đã lên đến 250.00 người với tốc độ tăng trung
bình hàng năm là 27% trong giai đoạn này. Năm nay trong toàn ngành hiện có
500.000 lao động. Bình quân mỗi năm ngành da giầy đã tạo ra khoảng 50.000
suất công ăn việc làm. Điều này có ý nghĩa xã hội rất to lớn với một nước ở
giai đoạn đầu công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và đông dân như nước
ta. Việc giải quyết công ăn việc làm cho một số lượng lao động lớn, tay nghề
chưa cao sẽ giải quyết được nhiều vần đề xã hội khác. Mặt khác thông qua việc
lao động trên dây chuyền đặc biệt là lao động trong các công ty liên doanh có
vốn đầu tư nước ngoài, ý thức lao động công nghiệp trình độ tay nghề của
người lao độngnước ta cũng được nâng lên rất cao. Điều này cũng là một thứ
mà người lao động của chúng ta đang rất cần.
- Phục vụ nhu cầu trong nước: Hiện nay nhu cầu trong nước về mặt hàng giầy

dép tăng nhanh cùng với mức tăng thu nhập của dân cư trong nước. Với năng
lực sản xuất hiện có, ngành công nghiệp giầy - dép đã đáp ứnSg được một phần
16

nhu cầu giầy dép trong nước, tuy nhiên Việt Nam vẫn còn nhập khẩu giầy dép
với số lượng lớn, vào khoảng 4 triệu đôi/năm chủ yếu là giầy dép Trung Quốc.
Trong những năm trở lại đây, các nhà máy da giầy trong nước đã nỗ lực bên
cạnh việc tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu đã chú trọng đến thị trường
trong nước, cải tiến mẫu mã chất lượng để phù hợp, đáp ứng nhu cầu, thị hiếu
của người tiêu dùng nội địa. Có thể nêu ra vài ví dụ như công ty giầy Hà Nội,
công ty giầy Thượng Đình, công ty giầy Bình Tiên . v.v để chứng minh cho
điều này.
- Phát huy được lợi thế so sánh của đất nước: Công nghiệp da giầy đóng một
vai trò rất to lớn trong hoạt động công nghiệp chung của nước ta. Nó đã tận
dụng và phát triển được lợi thế so sánh trong việc sản xuất các loại sản phẩm
này nhờ có nguồn nhân lực rẻ mang tính cạnh tranh cao. Trong nền công
nghiệp da giầy của Việt Nam, giầy vẫn được sản xuất nhiều hơn là túi xách tay
và các sản phẩm khác.
- Góp phần làm tăng thu ngoại tệ: Đất nước ta trong giai đoạn đầu Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá rất cần nhiều ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị góp
phần xây dựng đất nước. Cùng với sự phát triển của ngành da giầy, sự tăng
trưởng trong việc xuất khẩu của ngành giầy dép trong thời gian qua cũng đem
lại một số lượng ngoại tệ lớn.

2. Tình hình xuất khẩu giày dép của Việt Nam vào các quốc gia
2.1. Tổng quan tình hình xuất khẩu của Việt Nam
Tình hình xuất khẩu của Việt Nam trong những năm vừa qua có nhiều khởi
sắc, đặc biệt từ khi Việt Nam chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới, hàng
rào thuế quan dần được dỡ bỏ, cùng với các chính sách thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu
của Chính phủ. Bằng việc tiếp tục đẩy mạnh và đổi mới, cải tiến các hoạt động xúc

tiến thương mại, đặc biệt là các hoạt động thuộc chương trình xúc tiến thương mại
quốc gia nhằm giúp các doanh nghiệp Việt Nam trong việc tìm kiếm đối tác, mở
17

rộng thị trường xuất khẩu. Đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu để phát triển thêm các
mặt hàng xuất khẩu mới có tiềm năng. Quy mô và tốc độ tăng trưởng và cơ cấu
hàng hoá xuất khẩu đã có những chuyển dịch theo hướng tích cực. cụ thể được thể
hiện qua bảng sau:

TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CỦA VIỆT NAM QUA CÁC NĂM
ĐVT: Triệu USD

TT Chỉ tiêu 2009 2010 2011
2010/2009 2011/2010
Tuyệt
đối
Tương
đối
Tuyệt
đối
Tương
đối

Tổng kim ngạch 57,096 72,237 96,257 15,141 26.52 24,020 33.25
I
Nhóm nông sản,
thủy sản
12,261 15,286 19,713 3,025 24.67 4,428 28.97
1
Thuỷ sản 4,251 5,018 6,107 767 18.04 1,089 21.71

2
Rau quả 439 460 628 21 4.85 168 36.42
3
Nhân điều 847 1,135 1,476 288 33.97 341 30.05
4
Cà phê 1,731 1,851 2,741 120 6.95 890 48.07
5
Chè các loại 180 200 201 20 11.10 1 0.69
6
Hạt tiêu 348 421 746 73 21.09 324 76.92
7
Gạo 2,664 3,248 3,643 584 21.92 395 12.17
8
Sắn & sp từ sắn 574 564 948 (10) (1.69) 384 68.07
9
Cao su 1,227 2,388 3,223 1,161 94.64 835 34.96
II
Nhóm nhiên liệu,
kh/sản
8,651 8,071 11,160 (580) (6.71) 3,090 38.28
1 Than đá 1,317 1,611 1,659 294 22.35 48 2.97
2 Dầu thô 6,195 4,958 7,236 (1,237)

(19.96)

2,278 45.94
3 Xăng dầu 1,005 1,346 2,068 341 33.97 721 53.57
4 Quặng và các 135 156 199 21 15.39 43 27.55
18


khoáng sản khác
III
Nhóm công nghiệp
chế biến
29,619 43,353 57,249 13,734 46.37 13,896 32.05
1
Bánh kẹo & SP từ
ngũ cốc
276 326 377 50 18.16 50 15.46
2 Hóa chất 90 223 245 133 148.44 22 9.95
3 Sản phẩm hóa chất 274 416 585 143 52.04 168 40.40
4 Chất dẻo 160 219 230 59 36.75 11 5.16
5 Sản phẩm chất dẻo 808 1,049 1,347 241 29.88 298 28.41
6 Sản phẩm từ cao su 175 291 387 116 65.98 96 33.06
7
Túi xách, va li, mũ,
ô dù
731 959 1,279 228 31.20 320 33.38
8 Mây, tre, cói, thảm 179 203 199 24 13.66 (5) (2.23)
9 Sản phẩm gỗ 2,598 3,436 3,910 838 32.26 475 13.81
10 Giấy và sp từ giấy 276 374 415 99 35.88 40 10.75
11 Hàng dệt may 9,066 11,210 14,029 2,144 23.65 2,819 25.14
12 Giày dép 4,067 5,122 6,523 1,056 25.96 1,401 27.35
13 SP gốm, sứ 267 317 350 50 18.74 33 10.48
14
Thủy tinh và các sản
phẩm
275 368 373 93 33.80 5 1.35
15 Đá quý, sp từ đá quý 2,732 2,824 2,676 92 3.39 (148) (5.23)
16 Sắt thép 383 1,050 1,640 667 174.23 590 56.23

17 Sp từ sắt thép 604 828 1,146 224 37.11 318 38.43
18
Hàng đ/tử & LK
m/tính
2,763 3,590 4,198 827 29.93 608 16.92
19
Máy móc, thiết bị,
PT khác
2,059 3,066 4,124 1,007 48.92 1,058 34.49
20 Dây điện và cáp điện

885 1,311 1,518 426 48.15 207 15.77
19

21
Phương tiện vận tải
và phụ tùng
954 1,578 2,387 624 65.39 809 51.31
IV Hàng hoá khác 6,565 5,527 8,134 (1,038)

(15.81)

2,607 47.16
Nhận xét:
Nhìn vào bảng trên ta thấy quy mô và tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu đã
được mở rộng và tăng trưởng ở mức độ khá cao. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo
hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, sản phẩm chế
biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng
hàng xuất khẩu thô. Phát triển xuất khẩu các mặt hàng mới như sản phẩm cơ khí,
thực phẩm chế biến, hoá phẩm tiêu dùng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ

cao như sản phẩm phần mềm, hàng điện tử và tin học.
Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá năm 2010 đạt khoảng 71,6 tỷ USD, tăng
25,5% so với năm 2009. Trong đó nhóm hàng nông, lâm, thủy sản ước đạt 15,1 tỷ
USD, chiếm 21% trong tổng KNXK, tăng 22,9% so với cùng kỳ. Nhóm khoáng sản
ước đạt 7,9 tỷ USD, chiếm 11,1% trong tổng KNXK. Nhóm hàng công nghiệp chế
biến ước đạt 38,5 tỷ USD, chiếm 53,8% trong tổng KNXK, tăng 30% so với năm
2009.
Năm 2010, tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 72,2 tỷ USD
tăng 26,52% so với năm 2009, về giá trị kim ngạch xuất khẩu tăng 15,1 tỷ USD.
Trong đó: Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản ước đạt 15,1 tỷ USD, chiếm 21% trong
tổng KNXK, tăng 22,9% so với cùng kỳ. Nhóm khoáng sản ước đạt 7,9 tỷ USD,
chiếm 11,1% trong tổng KNXK, giảm 4,1% so với cùng kỳ. Nhóm hàng công
nghiệp chế biến ước đạt 38,5 tỷ USD, chiếm 53,8% trong tổng KNXK, tăng 30% so
với năm 2009.
Năm 2011, tuy kinh tế thế giới và trong nước gặp nhiều khó khăn, thách
thức, nhưng hoạt động xuất khẩu vẫn đạt kết quả cao, vượt trội cả về quy mô xuất
khẩu và tốc độ tăng so với năm trước. Tỷ lệ xuất khẩu/GDP vượt qua mức 80%
(năm 2010 là 70%). Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đã vượt mức 200 tỉ USD.
20

Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá (KNXK) năm 2011 ước đạt 96,3 tỷ
USD, tăng 33,3% so với năm 2010. So với năm 2010 có thêm 2 mặt hàng là túi
xách, va li, mũ, ô dù và sản phẩm từ sắt thép có kim ngạch trên 1 tỷ USD, đưa các
mặt hàng có kim ngạch trên 1 tỷ USD lên con số 23 mặt hàng.
Nhiều mặt hàng tăng mạnh về số lượng xuất khẩu, giúp duy tăng trưởng xuất
khẩu và thể hiện được quy mô mở rộng sản xuất. Lượng hàng công nghiệp tăng lên
đã góp phần bù đắp cho lượng hàng khoán sản, dầu thô giảm mạnh. Giá xuất của
nhiều mặt hàng cũng tăng mạnh, trong đó nhiều mặt hàng được hưởng lợi từ tăng
giá thế giới như gạo, cà phê, cao su, dầu thô, than….một số hàng hóa tăng giá khá
do hàm lượng chế biến tăng lên như dệt may, thủy sản, gỗ, dây và cáp điện,… Tổng

kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng dần qua các năm và tốc độ tăng trưởng bình
quân cả giai đoạn 2009-2011 vào khoảng 30%/năm.

2.2. Tình hình và các thị trường xuất khẩu giày dép của Việt Nam
Bảng số liệu về tình hình xuất khẩu giày dép của Việt Nam 2010, 2011,2012
Thị trường
2010 2011 1/2012-8/2012

Giày
dép
Tổng kim
ngạch
Giày
dép
Tổng kim
ngạch
Giày dép
EU 2.403,75

2720.05 3.110,80

3532.8 1740
America 1.407,31

1752.91 1.846,80

2307.8 1450
Japan 171,96 276.86 209,60 349.6 233
Các nước khác 1.138,62


1330.62 1.381,80

1637.8 1337
Tổng kim ngạch 5.112,25

6071.05 6549 7828 4760
Nguồn: Viện nghiên cứu gia giầy
Năm 2011 là năm đầy khó khăn, thử thách của các doanh nghiệp ngành da
giày, sự tiết giảm nhu cầu tiêu dùng của các thị trường xuất khẩu, nguồn vốn vay
khó khăn, chi phí đầu vào ngày một cao… đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động
sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành. Tuy nhiên, với rất nhiều nỗ
21

lực ngành da giày đã vượt khó một cách xuất sắc. Kim ngạch xuất khẩu của ngành
da giày đạt 6,549 tỷ USD, tăng 27,3% so với cùng kỳ, tổng kim ngạch xuất khẩu
toàn ngành năm 2011 đạt 7,828 tỷ USD, chỉ đứng thứ 3 sau dệt may, dầu khí.
EU, Mỹ, Nhật Bản vẫn là những thị trường chính của ngành với 80% tỷ trọng
xuất khẩu
Đặc biệt, năm 2011 là năm đáng nhớ trong công tác đối ngoại của ngành da
giày, với những thắng lợi trong vụ kiện chống bán phá giá giày nhập khẩu vào
Canada, EU quyết định chấm dứt việc áp thuế Anti dumping đối với một số mặt
hàng giày và mũ da xuất khẩu của Việt Nam, Việt Nam được công nhận là nước
xuất khẩu giày lớn thứ 2 sau Trung Quốc và là nước sản xuất giày lớn thứ 4 trên
toàn thế giới tại Hội nghị WFC diễn ra tại Brazil… ngành da giày Việt Nam đã
không chỉ bảo vệ được quyền lợi của các doanh nghiệp trong ngành mà còn tô đậm
hơn tên mình trong bản đồ ngành da giày thế giới.
Tính đến hết tháng 8-2012, xuất khẩu nhóm hàng giày dép đạt 4,76 tỷ USD,
tăng 13,2% so với cùng kỳ năm 2011. Trong đó, thị trường EU đạt 1,74 tỷ USD,
tăng 3% và chiếm 36,5% kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước. Tiếp
theo là xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đạt 1,45 tỷ USD, tăng 17,9%; sang Nhật

Bản đạt 223 triệu USD, tăng 31%; sang Trung Quốc đạt 208 triệu USD, tăng
39,1%; so với cùng kỳ năm 2011.
Những thị trường tiêu thụ giày dép của Việt Nam qúi I/2012 (ĐV: USD)
Thị trường 3T/2012
%Tăng/giảm 3T/2012 so với
cùng kỳ
Tổng cộng 1.491.338.458 +13,61
Hoa Kỳ 439.578.760 +15,80
Anh 102.395.959 -3,27
Nhật Bản 90.140.368 +14,73
Bỉ 88.136.724 +25,67
Đức 84.516.383 +2,44
Trung Quốc 82.686.326 +61,77
Hà Lan 61.993.322 -12,76
Brazil 52.775.653 +51,96
22

Tây Ban Nha 52.341.790 -2,71
Hàn Quốc 46.732.473 +41,74
Pháp 46.674.054 +13,06
Italia 45.023.678 -6,75
Mêhicô 44.287.569 +2,26
Panama 22.299.688 -8,88
Canada 22.079.947 +5,90
Hồng Kông 17.381.313 +17,83
Ôxtrâylia 16.889.595 +35,55
Đài Loan 14.484.076 +22,57
Nga 14.071.054 +17,90
Nam Phi 12.611.431 +25,18
Áo 9.536.095 -9,29

Chi Lê 8.544.950 *
Séc 8.405.771 +176,05
Thuỵ Điển 8.293.112 +32,24
Achentina 8.047.872 *
Tiểu Vương quốc Ả Rập 7.526.182 +73,44
Slovakia 6.895.052 *
Đan Mạch 6.335.944 +3,68
Singapore 6.326.498 +60,08
Malaysia 6.156.846 -5,24
Indonesia 5.157.716 +129,55
Thuỵ Sĩ 5.085.327 +32,18
Ba Lan 4.941.039 +262,88
Ấn Độ 4.418.849 +54,44
Philippines 4.418.444 +26,53
Thái Lan 3.739.346 +73,78
Thổ Nhĩ Kỳ 3.082.101 +9,59
NewZealand 2.983.400 *
Israel 2.479.063 *
Hy Lạp 2.376.129 -14,21
Na Uy 2.010.663 -32,74
Ucraina 1.443.333 +1,78
Phần Lan 671.521 -50,74
Cuba 539.835 -2,11
Bồ Đào Nha 387.543 -12,22
Nguồn: vinanet
23

Từ những số liệu trên phần nào cho ta thấy được sự ảnh hưởng của việc xuất
khẩu giày dép nói riêng, xuất khẩu Việt Nam nói chung khi nền kinh tế Châu Âu
hiện đang trên đà suy thoái. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu giày dép Việt Nam quí

I/2012 không đổi hoặc tăng không đáng kể ở các nước khu vực Châu Âu.
Ngoài ra, các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước còn phải đối mặt với nguy
cơ bị các đối thủ cạnh tranh như Brazil, Mexico, Argentina kiện tụng. Brazil vừa
chính thức khởi xướng điều tra chống lẩn tránh thuế đối với giày dép nhập khẩu từ
VN kể từ tháng 10-2011 là một ví dụ. Hiện các quốc gia này vẫn đang “theo dõi”
chặt chẽ các mặt hàng giày dép xuất khẩu từ VN, nếu có cơ hội, họ sẵn sàng đưa
vào diện kiện tụng.
Trong khi đó thì với thị trường Trung Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, kim ngạch
xuất khẩu giày của Việt Nam vẫn tăng đáng kể, đây cũng là một dấu hiệu đáng
mừng cho ngàng giày da trên các thị trường này.
Mặc dù tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vào khu vực Châu Âu đang chựng lại
nhưng đây vẫn là thị trường nhập khẩu giày da lớn nhất của Việt Nam.

3. Tình hình xuất khẩu sản phẩm giày dép sang Nhật Bản
3.1. Kim ngạch xuất khẩu sản phẩm giày dép Việt Nam sang thị trường
Nhật Bản thời gian gần đây



Năm Kim ngạch (USD) %
Thứ hạng XK
vào Nhật Bản
2007 114,750,000

3
2008 137,350,000 20% 3
2009 122,473,697 -11% 3
2010 171,960,000 40% 3
2011 209,600,000 22% 3
24




Biểu đồ về kim ngạch xuất khẩu giày dép Việt Nam sang thị trường Nhật
(Nguồn dữ liệu được lấy từ Bộ Công Thương và Tổng Cục Thống Kê)
Nhận xét:
Nhìn chung kim ngạch xuất khẩu giày dép của Việt Nam từ năm 2007 đến
năm 2011 tăng trưởng khá tốt qua từng năm.
Năm 2007 tỉ lệ tăng trưởng đạt 114,750,000 USD, đừng thứ 3 sau Italy và
Trung Quốc. Đến năm 2008, chúng ta vẫn giữ được thứ hạng nhưng mức tăng
trưởng đã tăng mạnh, đạt137,350,000 USD , ứng với tăng 20% so vối năm 2007
cùng kì. Đó là thành tựu của những quyết tâm và sự thích nghi nhanh nhạy với thị
trường của các doanh nghiệp Việt Nam.
Đến năm 2009, là năm xảy ra đại khủng hoảng tài chính trên toàn thế giới,
đặc biệt đối với các cường quốc kinh tế trên thế giới. Không riêng gì ngành giày da,
mà hàng loạt các ngành hàng xuất khẩu khác bị đình trệ, hàng loạt hợp đồng bị hủy.
Do đó riêng trong năm này sản phẩm giày dép có tỉ lệ tăng trưởng -11% so với cùng
kỳ năm 2008.
Sau khi gượng dậy từ cuộc khủng hoảng năm 2009, năm 2010 giày dép Việt
Nam đã tăng trưởng khá tich cực (đạt 40%).Tuy vậy, Việt Nam vẫn xếp thứ hạng 3
25

trong các nước xuất khẩu giầy dép vào thị trường Nhật Bản (theo Hiệp Hội Da giày
Việt Nam).Sang năm 2011 kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng lên 22% so với năm
2010 và đạt khoảng 249,600,000USD.
Một trong những nhân tố góp phần tạo nên những thành quả đáng khen ngợi
năm 2011 của ngành da giày nói chung và giày dép nói riêng là những nỗ lực giữ
vững thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp trong ngành. EU, Mỹ, Nhật Bản
vẫn là những thị trường chính với 80% tỷ trọng xuất khẩu, riêng mặt hàng giày dép
xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Nhật Bản đứng hàng thứ 3 chỉ sau Italy và

Trung Quốc và dẫn đầu tại một số thị trường như: Mexico, Brazil…
Những chuyển biến tích cực ở thị trường nội địa cũng là một trong những
điểm nhấn của năm 2011, theo số liệu của Hiệp hội Da giày Việt Nam, tổng dung
lượng thị trường nội địa của sản phẩm giày dép ước khoảng 130-140 triệu đôi/năm,
đã đáp ứng được gần 70 triệu đôi, chiếm gần 50% tỷ trọng, sản phẩm túi xách, ba lô
đáp ứng được 25 triệu chiếc, chiếm 60% tỷ trọng và lượng da thuộc cũng được tiêu
thụ nội địa tới 70%.
Đặc biệt, năm 2011 là năm đáng nhớ trong công tác đối ngoại của ngành da
giày, với những thắng lợi trong vụ kiện chống bán phá giá giày nhập khẩu vào
Canada, EU quyết định chấm dứt việc áp thuế Anti dumping đối với một số mặt
hàng giày và mũ da xuất khẩu của Việt Nam, Việt Nam được công nhận là nước
xuất khẩu giày dép lớn thứ 2 sau Trung Quốc và là nước sản xuất giày dép lớn thứ 4
trên toàn thế giới tại Hội nghị WFC diễn ra tại Brazil… ngành da giày Việt Nam đã
không chỉ bảo vệ được quyền lợi của các doanh nghiệp trong ngành mà còn tô đậm
hơn tên mình trong bản đồ ngành da giày thế giới.
Kim ngạch xuất khẩu giày dép tăng vượt bậc là do trong những năm này Nhà
nước có những chính sách khuyến khích xuất khẩu giày dép vào Nhật Bản là thị
trường trọng điểm thứ 3 sau thị trường Hoa Kì và EU.


×