Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Các quy định của WTO về trợ cấp nông nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.3 KB, 6 trang )

Lời mở đầu
Sản xuất và thương mại nông sản tại nhiều nước thành viên của WTO, nhất là các
nước phát triển không chỉ mang tính kinh tế mà còn mang tính chính trị và xã hội. Do đó
các nước này có xu hướng bảo hộ cao cho sản xuất nông nghiệp trong nước. Hiệp định
Nông nghiệp WTO đưa ra các quy định về hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu để
ràng buộc các nước từng bước cam kết cắt giảm bảo hộ và làm cho thương mại nông sản
công bằng hơn. Chúng ta sẽ tìm hiểu rõ hơn về nội dung các quy định đó trong phần
trình bày dưới đây.
Giải quyết vấn đề
1. Giới thiệu về Hiệp định Nông nghiệp (AoA):
Hiệp định Nông nghiệp của WTO được thông qua tại thời điểm kết thúc Vòng đàm
phán Uruguay vào cuối năm 1994. Mục tiêu của Hiệp định Nông nghiệp là nhằm cải
cách thương mại nông sản và làm cho các chính sách nông nghiệp có định hướng thị
trường hơn. Về dài hạn, Hiệp định nhằm nâng cao khả năng dự báo và an ninh cho các
quốc gia nhập khẩu cũng như xuất khẩu. Hiệp định Nông nghiệp đề cập đến hai vấn đề
chính:
- Mở cửa thị trường nông nghiệp: thuế quan hoá các biện pháp phi thuế quan, cắt
giảm và ràng buộc thuế quan đối với các mặt hàng nông sản;
- Quy định về các khoản trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp trong nước đối với nông sản.
Hiệp định có quy định cụ thể đối với ngành nông nghiệp trong các lĩnh vực mở cửa
thị trường, hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu. Những lĩnh vực được coi là 3 trụ cột
chính của Hiệp định. Theo nghĩa rộng các trụ cột này được định nghĩa như sau:
- Mở cửa thị trường: các hạn chế thương mại ảnh hưởng tới nhập khẩu.
- Hỗ trợ trong nước: trợ cấp trong nước và các chương trình khác, bao gồm các biện
pháp nhằm nâng hoặc đảm bảo giá sản xuất và thu nhập của nông dân.
- Trợ cấp xuất khẩu: các khoản trợ cấp được sử dụng để tạo khả năng cạnh tranh giả
tạo trong xuất khẩu.
1
2. Vấn đề trợ cấp đối với hàng nông nghiệp và nông sản:
Trợ cấp được hiểu là những lợi ích mà chính phủ đem lại cho một đối tượng nhất
định và có thể lượng hóa về mặt tài chính. Trong nông nghiệp, WTO phân chia trợ cấp


thành hai nhóm chính là hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu
Theo Hiệp định Nông nghiệp của WTO thì nông sản là tất cả các sản phẩm liệt kê từ
Chương I đến chương XXIV và một số sản phẩm cụ thể thuộc các chương khác trong Hệ
thống mã HS trừ cá và sản phẩm cá. Như vậy nông sản bao gồm các loại hàng hóa có
nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp như: (1) Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa
gạo, bột mỳ, sữa, động vật sống, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi, vv …
(2)Các sản phẩm phát sinh như bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt,…(3)Các sản phẩm được chế
biến từ sản phẩm nông nghiệp như bánh kẹo, sản phẩm từ sữa, xúc xích, rượu, thuốc lá,
bông xơ, da động vật thô,…
2.1. Hỗ trợ nội địa:
Hỗ trợ nội địa bao gồm các khoản hỗ trợ và trợ cấp của Chính phủ cho nông dân.
Biện pháp hỗ trợ trong nước bóp méo thương mại do các nước giàu áp dụng tác động
tiêu cực đến lợi ích xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển do chúng khuyến
khích sản xuất quá mức và làm mất giá nông sản trên thị trường thế giới.
Trong thuật ngữ của WTO, trợ cấp nói chung được xác định bởi các “hộp” với quy
định màu sắc khác nhau như trong đèn tín hiệu giao thông: xanh lá cây (được phép), hổ
phách (chậm lại, chuyển dần sang cắt giảm), đỏ (cấm). Trong nông nghiệp, các vấn đề
thường là phức tạp hơn. Hiệp định Nông nghiệp không có hộp đỏ, hỗ trợ trong nước
vượt quá mức và phải cam kết cắt giảm thì bị cấm và được đưa vào hộp hổ phách. Hộp
xanh lơ dành cho các loại trợ cấp gắn với các chương trình hạn chế sản xuất. Các nước
đang phát triển cũng được hưởng một số ngoại lệ, thường được gọi là “đối xử đặc biệt và
khác biệt” (S&D), như được quy định trong Điều 6 khoản 2 của Hiệp định.
- Hộp Hổ phách (Amber Box): Tất cả các biện pháp hỗ trợ trong nước được xem là
bóp méo sản xuất và thương mại (cũng có một số ngoại lệ) nằm trong hộp hổ phách và
được quy định trong Điều 6 của Hiệp định Nông nghiệp - là toàn bộ các biện pháp hỗ trợ
trong nước, ngoại trừ các biện pháp thuộc hộp xanh nước biển và hộp xanh lá cây.
2
Chúng bao gồm các biện pháp trợ giá, hoặc trợ cấp trực tiếp tới khối lượng sản xuất. Các
hỗ trợ này là tuỳ thuộc vào mức hạn chế giới hạn, hỗ trợ tối thiểu được phép: 5% đối với
sản xuất nông nghiệp ở các nước phát triển và 10% ở các nước đang phát triển. Các hỗ

trợ nhóm màu hổ phách là đối tượng của các cam kết cắt giảm trong khuôn khổ WTO .
Cam kết cắt giảm được đề cập trong thuật ngữ “Tổng gộp hỗ trợ ” (Total AMS) bao
gồm tất cả các hỗ trợ đối với các sản phẩm cụ thể, cùng với những hỗ trợ mà không
nhằm đến một sản phẩm cụ thể nào. Một điều khoản đặc biệt và khác biệt dành cho các
nước đang phát triển trong nhóm chính sách này là chính sách khuyến khích phát triển
sản xuất được gọi là “chương trình phát triển” mà các nước đang phát triển được phép áp
dụng, bao gồm: trợ cấp đầu tư, trợ cấp đầu vào cho nông dân ở các vùng khó khăn, trợ
cấp chuyển dịch từ cây thuốc phiện sang cây trồng khác….
- Hộp Xanh lơ (Blue Box): Đây là “Hộp hổ phách có điều kiện”, bao gồm các
khoản hỗ trợ chi trả trực tiếp trên cơ sở diện tích hoặc số lượng vật nuôi, nhưng kèm
theo điều kiện về hạn chế sản suất bằng cách áp đặt hạn ngạch sản suất hoặc yêu cầu
nông dân không sử dụng một phần đất của họ (các quy định cụ thể được ghi rõ trong
khoản 5, Điều 6, Hiệp định Nông nghiệp). Các điều kiện được thiết kế để hạn chế bóp
méo thương mại.Theo quy định của WTO, các biện pháp hỗ trợ này được coi là tách rời
một phần với sản xuất và không thuộc đối tượng cam kết cắt giảm. Hiện tại, không có
các giới hạn đối với chi trả trợ cấp trong hộp xanh lơ. Hộp xanh lơ được các nước coi là
công cụ quan trọng để bãi bỏ các trợ cấp bóp méo thương mại trong hộp Hổ phách mà
không gây căng thẳng quá mức. Một số quốc gia khác muốn thiết lập những giới hạn
hoặc cam kết cắt giảm, một số thì bảo vệ việc chuyển các hỗ trợ này sang hộp hổ phách.
- Hộp Xanh lá cây (Green Box): Trợ cấp theo hộp xanh lá cây nhất thiết không
được bóp méo thương mại, hoặc chỉ bóp méo thương mại ở mức nhỏ nhất và không
thuộc đối tượng cam kết cắt giảm trong khuôn khổ WTO. Chúng phải được chi trả bởi
Chính phủ (mà không bắt người tiêu dùng phải trả một mức giá cao hơn) và phải không
bao gồm hỗ trợ giá. Các hỗ trợ cấp này thường là các chương trình không nhắm tới một
sản phẩm cụ thể và bao gồm hỗ trợ thu nhập trực tiếp cho nông dân không liên quan đến
mức độ sản xuất và giá cả hiện tại. Các trợ cấp này bao gồm bảo vệ môi trường và các
3
chương trình phát triển vùng. Trợ cấp theo “Hộp xanh lá cây” do đó được phép áp dụng
không giới hạn, với điều kiện chúng phù hợp với các tiêu chuẩn cụ thể về chính sách
được nêu ra trong Phụ lục 2.

2.2. Trợ cấp xuất khẩu:
Trợ cấp xuất khẩu là các khoản chi trả của Chính phủ hoặc các khoản lợi tài chính có
thể định lượng khác được cung cấp cho các nhà sản xuất trong nước hoặc các công ty
xuất khẩu để hỗ trợ việc xuất khẩu hàng hóa hoặc dịch vụ của họ. Trợ cấp xuất khẩu là
một hình thức trực tiếp bóp méo thương mại nông sản. Trợ cấp xuất khẩu cho nông
nghiệp là biện pháp bị cấm hoàn toàn đối với tất cả các nước gia nhập WTO sau
1/1/1995. Là nước gia nhập sau, Việt Nam phải bãi bỏ tất cả các trợ cấp xuất khẩu trong
nông nghiệp (trừ trường hợp được hưởng đối xử ưu đãi dành cho nước đang phát
triển).
Theo quy định của Hiệp định Nông nghiệp, trợ cấp xuất khẩu được định nghĩa là
những trợ cấp dựa trên kết quả thực hiện xuất khẩu, bao gồm các trợ cấp xuất khẩu liệt
kê cụ thể trong Điều 9 của Hiệp định. Theo Điều 9 Khoản 1 của Hiệp định, danh mục
này bao gồm hầu hết các thực tiễn trợ cấp xuất khẩu phổ biến trong lĩnh vực nông
nghiệp, điển hình như:
- Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp đặc trưng đối với hoạt động xuất khẩu.
- Bán các loại hàng nông sản tồn kho phi thương mại cho xuất khẩu với giá thấp hơn
mức giá so sánh của các sản phẩm đó trong thị trường nội địa.
- Các khoản trợ cấp tài chính cho nhà sản xuất như các chương trình của Chính phủ có
yêu cầu thu thuế trên các sản phẩm, sau đó được dùng để trợ cấp xuất khẩu cho một
phần nhất định của sản phẩm đó.
- Các biện pháp giảm chi phí khác như trợ cấp giảm chi phí tiếp thị sản phẩm cho xuất
khẩu, biện pháp này có thể bao gồm các chi phí ví dụ như nâng cấp và quản lý, vận
chuyển quốc tế.
- Trợ cấp vận tải trong nước chỉ được áp dụng cho hàng xuất khẩu, như các trợ cấp để
vận chuyển các sản phẩm có thể xuất khẩu được tới điểm gửi hàng.
4
- Các trợ cấp được gắn với sản phẩm thô và chế biến, cụ thể các trợ cấp đối với
nông sản như bột mỳ, nguyên liệu để sản xuất bánh quy xuất khẩu.
Tất cả các khoản trợ cấp xuất khẩu này đều phải cam kết cắt giảm cả về số lượng
hàng xuất khẩu được trợ cấp và chi phí ngân sách cho các trợ cấp này. Hiệp định nông

nghiệp không yêu cầu các nước xoá bỏ ngay trợ cấp xuất khẩu cho hàng nông sản,
nhưng buộc các nước phải giảm mức độ trợ cấp cả về mặt giá trị cũng như số lượng mặt
hàng được trợ cấp.
Theo Hiệp định, trợ cấp xuất khẩu chỉ được áp dụng trong 4 trường hợp:
- Đối với trợ cấp xuất khẩu là đối tượng của cam kết cắt giảm áp dụng đối với từng
sản phẩm cụ thể, thì được phép áp dụng trong mức giới hạn quy định tại biểu cam
kết của thành viên có liên quan;
- Bất kì khoản thặng dư nào của ngân sách chi tiêu dành cho trợ cấp xuất khẩu hoặc
cho khối lượng xuất khẩu đã được trợ cấp vượt quá giới hạn quy định tại biểu cam
kết mà được điều chỉnh bởi khoản 2(b) Điều 9 Hiệp định;
- Các loại trợ cấp xuất khẩu phù hợp với quy định về đối xử S&D dành cho các
thành viên DCs (Khoản 4 điều 9 Hiệp định)
- Các loại trợ cấp xuất khẩu khác, ngoài những loại là đối tượng của cam kết giảm,
với điều kiện chúng phù hợp với quy định về ngăn chặn việc trốn tránh các cam
kết về trợ cấp xuất khẩu tại Điều 10 Hiệp định.
Về vấn đề cắt giảm trợ cấp: Các nước thành viên phát triển được yêu cầu cắt giảm,
với các bước cắt giảm ngang nhau hàng năm trong giai đoạn 6 năm, số lượng trợ cấp
xuất khẩu tính trên giai đoạn tham chiếu ở mức 21% và chi phí ngân sách tương ứng cho
các trợ cấp xuất khẩu ở mức 36%. Đối với các thành viên đang phát triển, mức cắt giảm
được yêu cầu là 14% trong thời gian 10 năm có đối với số lượng, và 24% trong khoảng
thời gian tương tự đối với chi phí ngân sách. Các nước đang phát triển trong quá trình
thực hiện có thể tận dụng quy định về đối xử đặc biệt và khác biệt trong Hiệp định (Điều
9 Khoản 4), quy định này cho phép các nước này trợ cấp chi phí tiếp thị và vận chuyển
nội địa với điều kiện là các chi phí này không được áp dụng theo cách ngầm phá hỏng
các cam kết cắt giảm trợ cấp.
5
Kết luận
Vấn đề trợ cấp đối với hàng nông sản là một vấn đề nhạy cảm và được sử dụng để
bảo hộ nền nông nghiệp trong nước. Sau thất bại của vòng đàm phán Doha, WTO vẫn
đang cố gắng giảm đáng kể các biện pháp hỗ trợ trong nước bóp méo thương mại, và

đưa ra các quy định và các hạn chế phù hợp để ngăn các thành viên WTO không tăng
mức hỗ trợ, tạo ra bất ổn định và khó khăn cho nông dân ở các nước khác.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Luật Thương Mại quốc tế Nxb. CAND, 2012.
2. Ha Noi Law University, Textbook International Trade and Business Law,
People’s Security Publishing House, Ha Noi
3.
4. Hiệp định Nông nghiệp AoA
5. Sách Hỏi - Đáp về Hiệp định Nông nghiệp WTO do Bộ Nông nghiệp và PTNT,
Vụ Hợp tác Quốc tế ban hành.
6

×