Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Quy định trong Hiệp định Nông nghiệp của GATTWTO về trợ cấp nông sản.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.1 KB, 37 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AMS Tổng khối lượng hỗ trợ gộp
AoA Hiệp định Nông nghiệp
CAP Chính sách Nông nghiệp chung
Cairns Nhóm các nước xuất khẩu nông sản
DN Doanh nghiệp
EU Liên minh Châu Âu
EurepGAP Tiêu chuẩn về thực hành sản xuất nông nghiệp tốt của
Châu Âu
GAP Tiêu chuẩn về thực hành sản xuất nông nghiệp tốt
GATT Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại
HS Danh mục hài hòa hàng hóa
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
OECD Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
VN Việt Nam
WB Ngân hàng thế giới
WTO Tổ chức Thương mại thế giới
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Trang
Bảng 1 : Tỷ lệ cắt giảm Tổng hỗ trợ gộp 12
Bảng 2 : Tỷ lệ cắt giảm Tổng hỗ trợ bóp méo thương mại 13
Bảng 3 : Những mặt hàng nông sản xuất – nhập khẩu chủ
yếu của Việt Nam
22
Bảng 4 : Cam kết cắt giảm thuế đối với một số sản phẩm
nông nghiệp của Việt Nam
32
LỜI MỞ ĐẦU
Nông nghiệp là một ngành phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố thiên nhiên như
đất đai điều kiện khí hậu, môi trường … Đây cũng là lĩnh vực bị bóp méo thương
mại nhiều nhất trong thương mại toàn cầu. Do đó, ngày nay, xu thế bảo hộ và trợ


cấp nông nghiệp tăng theo trình độ phát triển kinh tế. Điều này đã gây nhiều ảnh
hưởng tiêu cực như khuyến khích sản xuất trong nước quá mức, tác động tới giá
thế giới, làm mất tính cạnh tranh dẫn tới thị trường nông sản thế giới bị bóp
méo… Các chuyên gia ước tính trung bình thuế quan về nông sản cao gấp 3 lần
những mặt hàng khác. Do yêu cầu cấp thiết cần có một quy định chung cho thị
trường nông sản, hiệp định Nông nghiệp của WTO ra đời.
Hiệp định Nông nghiệp WTO (AoA) là một văn bản quan trọng đầy đủ các
họat động liên quan tới thương mại nông sản.
Nhiều người đều biết sản xuất và thương mại nông sản tại nhiều nước thành
viên của WTO, nhất là các nước phát triển không chi mang tính kinh tế mà còn
mang tính chính trị và xã hội. Do đó, các nước này có xu hướng bảo hộ cao cho
sản xuất nông nghiệp trong nước. Hiệp định Nông nghiệp WTO ràng buộc các
nước từng bước cam kết cắt giảm bảo hộ và làm cho thương mại nông sản công
bằng hơn. Việt Nam là một nước xuất khẩu nông sản lớn trên thế giới và có tới
70% lực lượng lao động sống bằng nghề nông, vì vậy việc tìm hiểu thấu đáo các
nguyên tắc và quy định trong hiệp định Nông nghiệp WTO là hết sức cần thiết để
một mặc xúc tiến tốt thương mại nông sản Việt Nam ra thị trường thế giới và quan
trọng hơn là để tránh bị áp đặt những biện pháp hạn chế khả năng tiệp cận thị
trường đối với hàng nông sản của ta.
1
NỘI DUNG
I. Hiệp định Nông nghiệp của GATT/WTO
1. Giới thiệu chung
Hiệp định về Nông nghiệp (Agreement on Agriculture, viết tắt là AoA) là
một trong các hiệp định của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được ký kết tại
Vòng đàm phán Uruguay và có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1995, cũng là
ngày mà WTO chính thức đi vào hoạt động. AoA tượng trưng cho sự chấm dứt
một thời kỳ mà các chính sách nông nghiệp được xây dựng độc lập với GATT.
Mục tiêu của Hiệp định về Nông nghiệp là tiến hành cải cách trong lĩnh vực
nông nghiệp và xây dựng các chính sách nông nghiệp có định hướng thị trường

sâu rộng. Hiệp định cũng nhằm nâng cao khả năng dự đoán trước các thay đổi và
đảm bảo an ninh lương thực cho các nước xuất khẩu cũng như nhập khẩu. Mục
tiêu trên xuất phát từ việc Nông sản là mặt hàng “nhạy cảm” trong thương mại do
thương mại Nông sản đụng chạm đến lợi ích của một bộ phận đông đảo dân cư
vốn có thu nhập thấp ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Mỗi nước
đều có nhu cầu đảm bảo nguồn cung lương thực ổn định trong hoàn cảnh thế giới
thường xuyên có biến động về thu hoạch và các nguy cơ nạn đói rình rập.
Để đảm bảo thực hiện tốt các mục tiêu trên, Hiệp định có đề cập đến 2 công
cụ chủ yếu nhằm cho phép các quốc gia hạn chế thỏa thuận mở cửa thị trường và
cắt giảm các hình thức trợ cấp cho hàng Nông sản mà các nước là thành viên
WTO đã ký kết, bao gồm:
- Các biện pháp tại cửa khẩu để kiểm soát nhập khẩu nông sản.
- Trợ cấp nông nghiệp (trợ cấp xuất khẩu và các loại trợ cấp trong nước đối
với nông nghiệp nhằm ổn định thu nhập và đời sống của người làm nông nghiệp).
Ngoài ra, khi nhắc đến mở cửa thị trường nông sản tức là việc giảm bớt các
“rào cản” về vật chất và thủ tục để hàng hóa nước ngoài có thể tiếp cận thị trường
nước nhập khẩu một cách thuận lợi. Theo Hiệp định Nông nghiệp, việc mở cửa thị
2
trường nông sản đồng nghĩa với việc: Giảm thuế nhập khẩu (và không được tăng
trở lại), giảm và loại bỏ các rào cản phi thuế quan đối với hàng hóa nhập khẩu
(như hạn ngạch, quy định giá nhập khẩu tối thiểu, các loại thuế-phí liên quan đến
việc nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu, các biện pháp mang tính hạn chế khác,…)
Hiệp định cho phép các chính phủ khuyến khích khu vực kinh tế nông thôn,
nhưng nên thông qua các chính sách ít làm biến dạng thương mại. Hiệp định còn
cho phép có sự linh động trong việc thực thi các cam kết của Hiệp định. Các nước
đang phát triển không cần phải giảm bớt trợ cấp hay cắt giảm thuế quan nhiều như
các nước phát triển. Họ cũng có thời gian chuyển tiếp dài hơn để thực hiện các
cam kết của mình. Các nước kém phát triển hoàn toàn không phải thực hiện những
cam kết giống như của các nước phát triển và đang phát triển. Hiệp định cũng có
những điều khoản đặc biệt giải quyết mối quan tâm của các nước phải nhập khẩu

lương thực và các nước kém phát triển.
2. Nội dung chính của AoA
2.1 Các khoản mục trong AoA
Hiệp định AoA gồm 13 phần, 21 điều khoản và 5 phụ lục
Phần I: Điều 1: Định nghĩa các thuật ngữ
Điều 2: Diện sản phẩm
Phần II: Điều 3: Xây dựng những nhượng bộ và cam kết
Phần III: Điều 4: Tiếp cận thị trường
Điều 5: Tự vệ đặc biệt
Phần IV: Điều 6: Cam kết về hỗ trợ trong nước
Điều 7: Các nguyên tắc chung về hỗ trợ trong nước
Phần V: Điều 8: Cam kết về cạnh tranh xuất khẩu
Điều 9: Cam kết về trợ cấp xuất khẩu
Điều 10: Ngăn chặn việc trốn tránh các cam kết về trợ cấp xuất khẩu
Điều 11: Các sản phầm cấu thành
3
Phần VI: Điều 12: Các quy tắc về hạn chế và cấm xuất khẩu
Phần VII: Điều 13: Kiềm chế cần thiết
Phần VIII: Điều 14: Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch thực vật
Phần IX: Điều 15: Đối xử đặc biệt và khác biệt
Phần X: Điều 16: Các nước kém phát triển và đang phát triển nhập lương thực
chủ yếu
Phần XI: Điều 17: Ủy ban về Nông nghiệp
Điều 18: Rà soát việc thực hiện các cam kết
Điều 19: Tham vấn và giải quyết tranh chấp
Phần XII: Điều 20: Tiếp tục quá trình cải cách
Phần XIII: Điều 21: Điều khoản cuối cùng
Phụ lục
Phụ lục 1: Diện sản phẩm
Phụ lục 2: Hỗ trợ trong nước: cơ sở để miễn trừ cam kết cắt giảm

Phụ lục 3: Hỗ trợ trong nước: cách tình lượng hỗ trợ tính gộp
Phụ lục 4: Hỗ trợ trong nước: tính toán lượng hỗ trợ tương đương
Phụ lục 5: Đối xử đặc biệt theo khoản 2, điều 4
2.2. Nội dung chính
Các quy định và cam kết trong Hiệp định Nông nghiệp được xây dựng xoay
quanh ba nhóm vấn đề chính được gọi là ba trụ cột (pillars). Đó là:
- Tiếp cận thị trường : giảm bớt các rào cản thương mại đối với hàn
nông sản nhập khẩu
- Trợ cấp nội địa : đưa ra các quy định và cam kết quản lý trợ cấp cho
sản xuất trong nước cũng như các chương trình tương tự khác, bao
gồm cả các chương trình kích thích tăng giá nông sản do các trang
trại bán ra hoặc các chương trình đảm bảo thu nhập cho người nông
dân.
4
- Trợ cấp xuất khẩu : đưa ra các quy định và cam kết quản lý trợ
cấp đối với hàng nông sản xuất khẩu hay những biện pháp tương tự
khác khiến cho hàng nông sản xuất khẩu có tính cạnh tranh giả tạo
trên thị trường quốc tế.
II. Hiệp định Nông nghiệp về trợ cấp nông sản
1. Đối tượng trợ cấp của Hiệp định Nông nghiệp
Trong WTO, hàng hoá được chia làm hai (02) nhóm chính: nông sản và phi
nông sản. Nông sản được xác định trong Hiệp định Nông nghiệp là tất cả các sản
phẩm liệt kê từ Chương I đến XXIV (trừ cá và sản phẩm cá) và một số sản phẩm
thuộc các chương khác trong Hệ thống thuế mã HS (Hệ thống hài hoà hoá mã số
thuế).
Với cách hiểu này, nông sản bao gồm một phạm vi khá rộng các loại hàng
hoá có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp như:
- Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản như lúa gạo, lúa mỳ, bột mỳ, sữa, động
vật sống, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi…;
- Các sản phẩm phái sinh như bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt…;

- Các sản phẩm được chế biến từ sản phẩm nông nghiệp như bánh kẹo, sản
phẩm từ sữa, xúc xích, nước ngọt, rượu, bia, thuốc lá, bông xơ, da động vật thô…
Tất cả các sản phẩm còn lại trong Hệ thống thuế mã HS gọi là sản phẩm phi
nông nghiệp (còn được gọi là sản phẩm công nghiệp).
Khác biệt trong khái niệm về hàng nông sản giữa WTO và Việt Nam
Theo sự phân chia có tính chất tương đối của Việt Nam, nông nghiệp
thường được hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi),
thuỷ sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp. Các ngành công nghiệp chế biến nông lâm
thuỷ sản lại được gộp vào lĩnh vực công nghiệp.
Theo WTO thì nông sản lại bao gồm toàn bộ sản phẩm thuộc Chương 1 đến
5
24 (trừ cá và sản phẩm từ cá) và một số sản phẩm thuộc các chương khác trong Hệ
thống thuế mã HS của Việt Nam và không bao gồm các sản phẩm thuộc lĩnh vực
thuỷ sản, lâm nghiệp và diêm nghiệp.
2. Tại sao WTO lại phải có một hiệp định riêng về hàng hóa nông sản?
Hàng nông sản vốn là nhóm mặt hàng nhạy cảm trong thương mại quốc tế.
Vì vậy, không dễ đạt được thoả thuận về mở cửa thị trường và cắt giảm các hình
thức trợ cấp cho loại hàng hoá này.
Vậy tại sao nông sản lại được coi là loại hàng hoá “nhạy cảm” trong thương
mại quốc tế?
Có rất nhiều lý do về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội khiến chính sách đối
với thương mại hàng nông sản trở nên đặc biệt “bảo thủ” so với đối với các loại
hàng hoá công nghiệp, trong đó lý do chủ yếu được nêu ra là:
Thứ nhất: Thương mại hàng nông sản đụng chạm đến lợi ích của
một bộ phận dân cư vốn có thu nhập không cao ở cả các nước phát triển và
các nước đang phát triển;
Thứ hai: Mỗi nước đều có nhu cầu đảm bảo nguồn cung lương thực
ổn định trong hoàn cảnh thế giới thường xuyên có biến động về thu hoạch
và các nguy cơ nạn đói rình rập.
Thứ ba: Là lĩnh vực sử dụng nhiều lao động, đặc biệt ở các nước

đang phát triển, và là lực lượng đáng kể tác động đến sự ổn định chính trị,
xã hội của từng quốc gia.
Thứ tư: Các nước muốn thông qua nông nghiệp để bảo vệ những giá
trị không đếm được, ví dụ như: bảo vệ môi trường, bảo tồn cộng đồng và
cảnh quan nông thôn.
Do vậy, hầu hết các nước dều có khuynh hướng bảo hộ nền sản xuất nông
nghiệp của nước mình bằng cách dựng các hàng rào thuế quan thật cao, đề ra
những tiêu chuẩn khắt khe, đồng thời tăng cường trợ cấp cho nông dân trong
6
nước. Vì lẽ đó mà nông sản trở thành loại hàng hóa gặp nhiều trở ngại trong nhất
trong thương mại quốc tế và là chủ đề của những cuộc tranh cãi quyết liệt tại các
diễn đàn thương mại.
Hiệp định AoA ra đời để cải cách thương mại nông sản và làm cho các
chính sách nông nghiệp có định hướng thị trường hơn. Về dài hạn, Hiệp định
nhằm nâng cao khả năng dự báo và an ninh cho các quốc gia nhập khẩu cũng như
xuất khẩu.
3. Các điều khoản về trợ cấp nông sản trong Hiệp định Nông nghiệp
a. Hỗ trợ trong nước
Hỗ trợ trong nước bao gồm các khoản hỗ trợ và trợ cấp chính phủ cho nông
dân. Biện pháp hỗ trợ trong nước bóp méo thương mại do các nước giàu áp dụng
tác động tiêu cực đến lợi ích xuất khẩu nông sản của các nước đang phát triển do
chúng khuyến khích sản xuất quá mức và làm mất giá nông sản trên thị trường thế
giới.
Nhóm trợ cấp trong nước bao gồm:
• Trợ cấp hộp màu xanh lá cây: (trợ cấp được phép) gồm các biện pháp
hỗ trợ không hoặc hầu như không gây bóp méo thương mại nên các
nước được phép duy trì không giới hạn. Đặc điểm của các biện pháp hỗ
trợ thuộc Hộp Xanh lá cây là do ngân sách chính phủ chi trả và không
mang tính chất hỗ trợ giá.
Trợ cấp “Hộp xanh lá cây” bao gồm các biện pháp trợ cấp thuộc một trong

05 nhóm xác định và phải đáp ứng đủ 03 điều kiện cụ thể như dưới đây:
Nhóm 1 - Trợ cấp cho các Dịch vụ chung Ví dụ: Trợ cấp cho nghiên cứu khoa
học; kiểm soát dịch bệnh; đào tạo; khuyến nông, tư vấn; kiểm tra sản phẩm vì mục
đích sức khoẻ con người; tiếp thị, thông tin thị trường, tư vấn; kết cấu hạ tầng
nông nghiệp (điện, đường, thuỷ lợi…)
7
Nhóm 2 - Trợ cấp nhằm mục tiêu dự trữ an ninh lương thực quốc gia Khối
lượng lương thực dự trữ phải phù hợp với các tiêu chí định trước, việc thu mua để
dự trữ và thanh lý khi hết hạn dự trữ phải thực hiện theo giá thị trường.
Nhóm 3 - Trợ cấp lương thực trong nước Tiêu chí để cho hưởng trợ cấp lương
thực phải rõ ràng, có liên quan đến mục tiêu dinh dưỡng.
Nhóm 4 - Hỗ trợ giảm nhẹ thiên tai Các khoản chi phí hỗ trợ nhằm phục hồi sản
xuất nông nghiệp cho những vùng bị thiên tai như giống, thuốc BVTV, thuốc thú
y, san ủi lại đồng ruộng…
Nhóm 5 - Hỗ trợ trực tiếp cho người sản xuất. Hỗ trợ thu nhập (không được gắn
với yêu cầu về sản xuất):
 Hỗ trợ tài chính của Nhà nước vào chương trình an toàn và bảo hiểm
thu nhập cho nông dân (khi mất mùa hoặc mất giá);
 Hỗ trợ bù đắp thiệt hại do thiên tai gây ra;
 Hỗ trợ hưu trí cho người sản xuất nông nghiệp;
 Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu thông qua chương trình chuyển các nguồn
lực (đất đai, vật nuôi…) khỏi mục đích sản xuất thương mại;
 Hỗ trợ điều chỉnh cơ cấu thông qua chương trình trợ cấp đầu tư (đầu
tư nhằm khắc phục các bất lợi về cơ cấu);
 Hỗ trợ theo các chương trình môi trường (bù đắp chi phí sản xuất
phải tăng thêm hoặc sản lượng giảm đi do thực hiện các yêu cầu về
môi trường);
 Hỗ trợ theo các chương trình trợ giúp vùng (vùng có vị trí hoặc điều
kiện bất lợi).
Các điều kiện sau:

• Là các biện pháp không hoặc rất ít tác động bóp méo thương mại;
• Thông qua chương trình do Chính phủ tài trợ (kể cả các khoản đáng ra
phải thu nhưng được để lại);
8
• Không có tác dụng trợ giá cho người sản xuất.
• Trợ cấp hộp màu xanh da trời: gồm các khoản chi trả trực tiếp từ
ngân sách nhà nước mà gắn với sản xuất và thuộc các chương trình thu
hẹp sản xuất nông nghiệp. Các nước không phải cam kết cắt giảm các
biện pháp này.
Những hình thức trợ cấp trực tiếp cho người sản xuất trong chương trình hạn
chế sản xuất nông nghiệp cũng được miễn trừ cam kết cắt giảm với các điều kiện:
 Những trợ cấp dựa trên diện tích hoặc năng suất cố định.
 Trợ cấp tối đa bằng 85% hoặc ít hơn mức sản xuất cơ sở
 Trợ cấp trong chăn nuôi dựa trên số đầu con cố định.
Đây là hình thức trợ cấp mà nhiều nước phát triển áp dụng trong chương
trình hạn chế bớt sản xuất nông nghiệp. Trong khi đó tất cả các nước đang phát
triển đều không có hình thức trợ cấp này. Vì vậy, mặc nhiên, loại trợ cấp này được
xem là dành cho các nước phát triển. Tại vòng đàm phán Doha, các nước cũng
đang yêu cầu phải giảm nhiều và tiến đến loại bỏ hình thức trợ cấp này.
• Trợ cấp hộp màu hổ phách: gồm các biện pháp hỗ trợ bị coi là gây
bóp méo sản xuất và thương mại, vì thế các nước phải cam kết cắt giảm
theo một lộ trình nhất định. Các biện pháp được xếp vào Hộp Hổ phách
có thể là hỗ trợ giá, trợ cấp gắn với sản xuất, tức là tất cả biện pháp hỗ
trợ trong nước mà không nằm trong Hộp Xanh lá cây và Xanh da trời.
Theo qui định của hiệp định nông nghiệp, tổng mức hỗ trợ gộp AMS
cho phép đối với nước đang phát triển là 10% giá trị sản lượng của sản
phẩm nếu là hỗ trợ cho sản phẩm cụ thể, và là 10% giá trị sản xuất nông
nghiệp cả nước nếu là hỗ trợ không theo sản phẩm cụ thể.
Trên thực tế, hình thức trợ cấp “hộp hổ phách” thông dụng nhất ở các nước là
các chương trình thu mua nông sản của Chính phủ để can thiệp vào thị trường.

9
Theo quy định tại Hiệp định Nông nghiệp, thành viên WTO vẫn có thể thực
hiện các trợ cấp thuộc “hộp hổ phách” nhưng mức trợ cấp phải đảm bảo 1 trong 2
điều kiện dưới đây:
 Trong mức tối thiểu (mức tối thiểu được tính bằng 5% trị giá sản
phẩm hoặc 5% tổng trị giá sản lượng ngành nông nghiệp đối với nước
phát triển và bằng 10% đối với nước đang phát triển);
 Không vượt mức trần cam kết (cam kết giảm tổng trị giá trợ cấp tính
gộp – AMS ).
Với những loại trợ cấp “hộp hổ phách”, mặc dù điều kiện áp dụng khó khăn
nhưng là những trợ cấp trực tiếp và mang lại nhiều lợi ích cho nông dân và doanh
nghiệp liên quan, vì thế doanh nghiệp cũng cần chú ý để đề xuất các cơ quan liên
quan trong điều kiện có thể.
b. Trợ cấp về xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu là các khoản chi trả của Chính phủ hoặc các khoản lợi tài
chính có thể định lượng khác được cung cấp cho các nhà sản xuất trong nước hoặc
các công ty xuất khẩu để hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản. Đây là một biện pháp
trực tiếp bóp méo thương mại nông sản. Hoa Kỳ và EU là hai ví dụ điển hình về
trợ cấp xuất khẩu.
Điều 9, khoản 1 của Hiệp Định Nông nghiệp đã đưa ra các danh mục bao
gồm hầu hết các thực tiễn trợ cấp xuất khẩu phổ biến trong lĩnh vực nông nghiệp,
điển hình như:
• Trợ cấp xuất khẩu trực tiếp đặc trưng đối với hoạt động xuất khẩu.
• Bán các loại hàng nông sản tồn kho phi thương mai cho xuất khẩu với
giá thấp hơn so với mức giá so sánh của các sản phẩm đó trong thị
trường nội địa.
• Các khoản trợ cấp tài chính cho sản xuất như các chương trình của
10
Chính phủ có yêu cầu thu thuế trên các sản phẩm, sau đó được dùng
để trợ cấp xuất khẩu cho một phần nhất định của sản phẩm đó.

• Các biện pháp giảm chí phí khác như trợ cấp giảm chí phí tiếp thị sản
phẩm cho xuất khẩu, biện pháp này có thể bao gồm các chí phí ví dụ
như nâng cấp và quản lý, vận chuyển quốc tế.
• Trợ cấp vận tải trong nước chỉ được trợ cấp cho hàng xuất khẩu, như
các trợ cấp để vận chuyển hàng xuất khẩu tới điểm gửi hàng.
• Các trợ cấp được gắn với sản phẩm thô và chế biến, cụ thể trợ cấp đối
với nông sản như bột mỳ, nguyên liệu để sản xuất bánh quy xuất
khẩu.
Về nguyên tắc, WTO nghiêm cấm các hình thức trợ cấp xuất khẩu. Đối với
các thành viên đang áp dụng trợ cấp xuất khẩu phải kê khai và cam kết cắt giảm cả
về giá trị trợ cấp và khối lượng nông sản được nhận trợ cấp. Các nước phát triển
phải cam kết giảm ít nhất 36% ( riêng New Zeland bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất
khẩu), các nước đang phát triển phải cam kết giảm ít nhất 24%.
III. Tác động của Hiệp định nông nghiệp đối với các quốc gia
1. Tác động của Hiệp định nông nghiệp của WTO (AoA) về trợ cấp nông
sản đối với EU và các nước phát triển khác
Mặc dù hiệp định nông nghiệp của WTO có hiệu lực từ năm 1995 nhưng
11
cho đến giai đoạn 2000-2002 EU và các nước phát triển khác vẫn duy trì mức trợ
cấp nông nghiệp cao.
Người sản xuất nông nghiệp ở các nước thành viên khối OECD nói riêng đã
nhận được vào khoảng 230 tỷ USD trong hai năm 2000-2002, chiếm gần 46% giá
trị sản lượng nông nghiệp tính theo giá thế giới, trong đó 63% số tiền hỗ trợ này
có được nhờ giá nông sản trong nước cao hơn giá thế giới do tác động của việc
bảo hộ bằng thuế nhập khẩu, số 37% còn lại có được nhờ các khoản trợ cấp trực
tiếp từ ngân sách chính phủ. Trong khối EU, riêng hỗ trợ cho sản xuất thịt bò đã
chiếm tới 84% giá trị sản xuất nông nghiệp toàn khối. Hay như Nhật bản hỗ trợ
cho nông dân trồng lúa với mức tương đương 700% giá trị sản xuất nông nghiệp
của nước này tính theo giá thế giới, khiến cho không nước nào có thể xuất khẩu
gạo vào Nhật bản. Mức hỗ trợ ước tính mà người sản xuất đường ở các nước

OECD nhận được đã tăng từ 5,8 tỷ USD trong giai đoạn 1986-1988 lên tới 7,1 tỷ
USD vào năm 2003.
Trợ cấp xuất khẩu của các nước phát triển là một trong những nguyên nhân
chủ yếu gây ra tình trạng rớt giá của nông sản trên thị trường thế giới những năm
1980. Vì thế, trong vòng Uruguay, các nước phát triển đã không thể lẩn tránh
được yêu cầu phải cắt giảm trợ cấp xuất khẩu trực tiếp. Hoa Kỳ đã chấm dứt
chương trình trợ cấp xuất khẩu quy mô lớn đối với lúa mỳ kể từ khi kết thúc vòng
Uruguay, tuy nhiên vẫn duy trì mức độ trợ cấp xuất khẩu đáng kể đối với bột sữa
gầy. Mặc dù EU đã tuân thủ đầy đủ cam kết cắt giảm trợ cấp xuất khẩu, nhưng
khối này vẫn đứng đầu thế giới về giá trị trợ cấp xuất khẩu; không những thế,
những biện pháp trợ cấp xuất khẩu trực tiếp trước đây lại được thay thế bằng
những hình thức hỗ trợ trong nước thuộc diện miễn trừ.
Kể từ khi vòng đàm phán Doha có những dấu hiệu khởi sắc từ tháng 10 năm
2005 với việc Đại diện Thương mại Hoa Kỳ Rob Portman đưa ra đề xuất về trợ
cấp nồng nghiệp. Kế hoạch của Hoa Kỳ gồm hai giai đoạn Giai đoạn 1 diễn ra
12

×