Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành – Thực tế tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh và hướng khắc phục của người nghiên cứu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.07 KB, 14 trang )

Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Luật thuế thu nhập cá nhân được Quốc hội ban hành ngày 21/11/2007 và có hiệu lực
thi hành từ ngày 01/01/2009. Việc ban hành luật thuế thu nhập cá nhân đánh dấu một bước
tiến quan trọng, góp phần làm tăng nguồn thu rất lớn cho ngân sách nhà nước. Tuy nhiên,
luật thuế này hết sức nhạy cảm, tác động mạnh tới tâm lý và thu nhâp của mọi người dân
trong xã hội. Vì vậy, việc xây dựng các quy định của pháp luật và đảm bảo thực thi trong
thực tế gặp rất nhiều khó khăn. Để minh chứng cho điều này, bài viết sẽ giải quyết vấn đề:
“Giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành – Thực tế tuân thủ pháp luật
thuế về giảm trừ gia cảnh và hướng khắc phục của người nghiên cứu”.
B. NỘI DUNG.
I. Lý luận chung.
1.1. Khái niệm và đặc điểm thuế thu nhập cá nhân.
1.1.1. Khái niệm thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập cá nhân là khoản đóng góp bằng tiền mà cá nhân có đủ điều kiện theo
luật định phải nộp cho Nhà nước theo nguyên tắc bắt buộc, không hoàn trả khi phát sinh
thu nhập chịu thuế trong kỳ tính thuế.
1.1.2. Đặc điểm của thuế thu nhập cá nhân.
Thuế thu nhập cá nhân có các đặc điểm sau đây:
Một là, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế trực thu đánh trực tiếp vào thu nhập của
người nộp thuế. Do người nộp thuế đồng thời là người chịu thuế nên khó có thể chuyển
gánh nặng thuế sang cho người khác.
Hai là, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế có độ nhạy cảm cao vì nó liên quan trực tiếp
đến lợi ích cụ thể của người nộp thuế và liên quan hầu hết cá nhân trong xã hội. Đặc điểm
này xuất phát từ tính chất “trực thu” của thuế thu nhập cá nhân
Ba là, thuế thu nhập cá nhân là loại thuế luôn gắn liền với chính sách xã hội của mỗi
quốc gia mặc dù các quốc gia hiện nay vẫn luôn hướng tới một hệ thống chính sách thuế
mang tính trung lập. Khi tính thuế thu nhập cá nhân có xen xét đến hoàn cảnh cá nhân của
1
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3


người nộp thuế bằng việc quy định một số khoản được giảm trừ có tính chất xã hội trước
khi tính thuế
Bốn là, thuế thu nhập cá nhân thường được tính theo biểu thuế lũy tiến từng phần do
thuế thu nhập cá nhân được đánh theo nguyên tắc “Khả năng nộp thuế” và cũng xuất phát từ
vai trò chủ yếu của thuế thu nhập cá nhân là điều tiết mạnh người có thu nhập cao, động
viên sự đóng góp của những người thu nhập thấp, thu nhập trung bình trong xã hội.
Năm là, thuế thu nhập cá nhân không bóp méo giá cả hàng hóa, dịch vụ. Thuế thu
nhập cá nhân không cấu thành trong giá bán (giá thanh toán) hàng hóa, dịch vụ nên nó
không tạo ra sự sai lệch giá cả hàng hóa, dịch vụ khi lưu thông trên thị trường.
1.2.Chủ thể trong quan hệ pháp luật thuế thu nhập cá nhân.
Quan hệ pháp luật thuế thu nhập cá nhân là quan hệ thu, nộp thuế phát sinh giữa Nhà
nước với các cá nhân có thu nhập chịu thuế được các quy phạm pháp luật thuế thu nhập cá
nhân điều chỉnh.
Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật thuế thu nhập cá nhân gồm:
- Cơ quan thuế là một chủ thể trong quan hệ tham gia với tư cách nhân danh Nhà nước thực
hiện quyền thu thuế đối với đối tượng có nghĩa vụ nộp thuế.
- Các cá nhân có thu nhập chịu thuế là chủ thể thục hiện nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước.
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 2 Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 thì: “ Đối
tượng nộp thuế thu nhập cá nhân là cá nhân cư trú có thu nhập chịu thuế quy định tại Điều
3 của luật này phát sinh trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam và cá nhân không cư trú có thu
nhập chịu thuế quy định tại Điều 3 của luật này phát sinh trong lãnh thổ Việt Nam”.
Khoản 2 Điều 2 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 quy định cá nhân cư trú là người
đáp ứng một trong các điều kiện sau đây:
“a. Có mặt tại Việt Nam từ 183 ngày trở lên tính trong một năm dương lịch hoặc trong 12
tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam
b. Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, bao gồm có nơi ở đăng ký thường trú hoặc có nhà
thuê để ở tại Việt Nam theo hợp đồng thuê có thời hạn.”
Đối với quy định nơi ở thường xuyên tại Việt Nam, Nghị định của Chính phủ số
100/2008/NĐ-CP ngày 08/09/2008 quy định chi tiết một số điều của luật thuế thu nhập cá
nhân, tại Điểm b, Khoản 2, Điều 2 ghi nhận: “Có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam theo một

trong hai trường hợp sau đây: - Có nơi ở đăng ký thường trú theo quy định của pháp luật
2
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
về cư trú;- Có nhà thuê để ở tại Việt Nam theo quy định của pháp luật về nhà ở, với thời
hạn của hợp đồng thuê từ 90 ngày trở lên trong năm tính thuế.”
Luật thuế thu nhập cá nhân cũng quy định đơn giản rằng cá nhân không cư trú là cá
nhân không đáp ứng được các điều kiện của cá nhân cư trú.
1
1.3. Đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân.
Điều 3 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 quy định thu nhập chịu thuế gồm 10 loại thu
nhập. Mỗi loại thu nhập có phương pháp xác định thu nhập tính thuế và áp dụng biểu thuế
phù hợp, cụ thể là:
“ Thu nhập chịu thuế thu nhập cá nhân gồm các loại thu nhập sau đây, trừ thu nhập
được miễn thuế quy định tại Điều 4 của luật này:
1.Thu nhập từ kinh doanh;
2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công;
3. Thu nhập từ đầu tư vốn;
4. Thu nhập từ chuyển nhượng vốn;
5. Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản;
6. Thu nhập từ trúng thưởng;
7. Thu nhập từ bản quyền;
8. Thu nhập từ chuyển quyền thương mại;
9. Thu nhập từ nhận thừa kế từ chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở kinh
doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng;
10. Thu nhập từ nhận quà tặng là chứng khoán, phần vốn trong các tổ chức kinh tế, cơ sở
kinh doanh, bất động sản và tài sản khác phải đăng ký sở hữu hoặc đăng ký sử dụng.”
II. Giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành.
2.1. Khái niệm giảm trừ gia cảnh.
1

Theo Khoản 3 Điều 2 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007
3
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
Khoản 1 Điều 19 Luật thuế thu nhập cá nhân 2007 đưa ra khái niệm: “Giảm trừ gia
cảnh là số tiền được trừ vào thu nhập chịu thuế trước khi tính thuế đối với thu nhập từ kinh
doanh, tiền lương, tiền công của đối tượng nộp thuế là cá nhân cư trú”.
Trường hợp cá nhân cư trú vừa có thu nhập từ kinh doanh, vừa có thu nhập từ tiền
lương, tiền công thì sẽ tính giảm trừ gia cảnh một lần vào tổng thu nhập từ kinh doanh và từ
tiền lương, tiền công.
2
2.2. Quy định về mức giảm trừ gia cảnh.
Giảm trừ gia cảnh gồm hai phần theo quy định tại Khoản 1 Điều 19 Luật thuế thu
nhập cá nhân:
“ a, Mức giảm trừ đối với đối tượng nộp thuế là 4 triệu đồng/tháng (48 triệu đồng/năm);
b, Mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng/tháng”
2.3. Đối tượng và căn cứ xác định người phụ thuộc
Căn cứ vào Khoản 3 Điều 19 luật thuế thu nhập cá nhân và khoản 3 Điều 12 Nghi
định của Chính phủ số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/09/2008 quy định chi tiết một số điều của
luật thuế thu nhập cá nhân 2007, đối tượng và căn cứ xác định người phụ thuộc như sau:
“a. Con dưới 18 tuổi;
b. Con trên 18 tuổi bị tàn tật, không có khả năng lao động;
c. Con đang theo học tại các trường: Đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp,
dậy nghề, không có thu nhập hoặc có thu nhập không vượp quá mức thu nhập quy định tại
Khoản 4 của điều này;
d. Người ngoài độ tuổi lao động hoặc người trong độ tuổi lao động theo quy định
của pháp luật nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không có thu nhập hoặc có thu
nhập nhưng không vượt quá mức thu nhập quy định tại Khoản 4 điều này, bao gồm:
- Vợ hoặc chồng của người nộp thuế;
- Cha đẻ, mẹ đẻ, cha vợ, mẹ vợ (hoặc cha chồng, mẹ chồng) của người nộp thuế;

- Cá nhân khác không nơi nương tựa mà người nộp thuế phải trực tiếp nuôi dưỡng.”
2
Điểm 3.1.1 Khoản 3 Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 hướng dẫn thi hành một số điều luật thuế thu nhập cá nhân
và hướng dẫn thi hành nghị định số 100/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật thuế thu nhập cá nhân
4
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
Khoản 4 Điều 12 Nghị Định của Chính phủ 100/2008/NĐ-CP quy định: “Mức thu
nhập làm căn cứ xác định người phụ thuộc được áp dụng giảm trừ là mức thu nhập bình
quân tháng trong năm từ tất cả các nguồn thu nhập không vượt quá 500.000 đồng”
2.4. Nguyên tắc giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc.
Nguyên tắc giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc được quy định tại Khoản 2
Điều 19 Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007; Khoản 2 Điều 12 Nghị định của Chính phủ
số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/09/2008 quy định chi tiết một số điều của luật thuế thu nhập
cá nhân 2007; và cụ thể đầy đủ tại Điểm 3.1.3 Khoản 3 Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày
30/9/2008 hướng dẫn thi hành một số điều luật thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành
nghị định số 100/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật thuế
thu nhập cá nhân, bao gồm:
Thứ nhất, đối tượng nộp thuế chỉ được tính giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc
nếu đối tượng nộp thuế đã đăng ký thuế và được cấp mã số thuế. Riêng năm 2009 trường
hợp chưa đăng ký thuế thì vẫn được tạm giảm trừ gia cảnh nếu thực hiện đăng ký giảm trừ
gia cảnh và có đủ hồ sơ chứng minh người phụ thuộc theo hướng dẫn tại điểm 3.1.7 khoản 3
mục I phần B Thông tư số 84/2008/TT-BTC
Thứ hai, việc giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc thực hiện theo nguyên tắc mỗi
người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một lần vào một đối tượng nộp thuế trong năm tính
thuế. Người phụ thuộc mà đối tượng nộp thuế có trách nhiệm nuôi dưỡng phát sinh tháng
nào thì được tính giảm trừ tháng đó.
Trường hợp nhiều đối tượng nộp thuế có chung người phụ thuộc phải nuôi dưỡng thì
các đối tượng nộp thuế phải tự thoả thuận để đăng ký giảm trừ gia cảnh vào một đối tượng
nộp thuế.

Thứ ba, đối tượng nộp thuế có trách nhiệm kê khai số người phụ thuộc được giảm trừ
và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính trung thực trong việc kê khai này.
2.5.Hồ sơ chứng minh người phụ thuộc
Điểm 3.1.7 Khoản 3 Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số
100/2008/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều luật thuế thu nhập cá nhân quy định hồ sơ
chứng minh người phụ thuộc như sau:
a) Đối với con:
- Con dưới 18 tuổi cần một trong các giấy tờ sau: bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao
sổ hộ khẩu.
5
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
- Con trên 18 tuổi bị tàn tật, không có khả năng lao động cần có các giấy tờ sau
+ Bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao sổ hộ khẩu.
+ Bản sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận
của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.
- Con đang theo học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề (kể cả
con đang học ở nước ngoài) cần có các giấy tờ sau:
+ Bản sao Giấy khai sinh hoặc bản sao sổ hộ khẩu
+ Bản sao Thẻ sinh viên hoặc bản khai có xác nhận của nhà trường hoặc các giấy tờ
khác chứng minh đang theo học tại các trường học đại học, cao đẳng, trung học chuyên
nghiệp hoặc học nghề.
Trường hợp là con nuôi, con ngoài giá thú thì ngoài Giấy khai sinh cần có bản sao
quyết định công nhận việc nuôi con nuôi, quyết định công nhận việc nhận cha, mẹ, con của
cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
b) Đối với vợ hoặc chồng:
- Vợ hoặc chồng đã hết tuổi lao động cần một trong các giấy tờ sau: bản sao sổ hộ
khẩu hoặc bản sao Giấy chứng nhận kết hôn.
- Vợ hoặc chồng trong độ tuổi lao động thì ngoài các giấy tờ nêu trên phải có thêm

bản sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của Uỷ
ban nhân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.
c) Đối với cha, mẹ, anh chị em ruột:
- Trường hợp đã hết tuổi lao động cần có: bản sao sổ hộ khẩu hoặc giấy tờ liên quan
khác để xác định rõ mối quan hệ của người phụ thuộc với đối tượng nộp thuế (là cha, mẹ,
anh, chị, em ruột).
- Trường hợp trong độ tuổi lao động thì ngoài các giấy tờ nêu trên, cần có thêm bản
sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác nhận của Uỷ ban
nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.
d) Đối với ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô, dì, chú, bác, cậu, cháu ruột.
Các đối tượng trên cần có giấy tờ hợp pháp để xác định mối quan hệ của người phụ
thuộc với đối tượng nộp thuế (là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, cô, dì, chú, bác, cậu
6
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
ruột, cháu ruột) và bản tự khai có xác nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi đối tượng nộp
thuế cư trú về trách nhiệm nuôi dưỡng của đối tượng nộp thuế với người phụ thuộc.
Các giấy tờ hợp pháp nêu ở đây là bất kỳ giấy tờ pháp lý nào xác định được mối quan
hệ của đối tượng nộp thuế đối với người phụ thuộc như: bản sao sổ hộ khẩu (nếu có cùng sổ
hộ khẩu), bản sao Giấy khai sinh thể hiện được quan hệ này.
Trường hợp người phụ thuộc trong độ tuổi lao động ngoài các giấy tờ nêu trên thì
phải có thêm bản sao xác nhận của cơ quan y tế từ cấp huyện trở lên hoặc bản khai có xác
nhận của Uỷ ban nhân dân cấp xã về mức độ tàn tật không có khả năng lao động.
đ) Các giấy tờ trong các hồ sơ theo hướng dẫn nêu trên:
Nếu là bản sao thì phải có công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban nhân dân cấp xã.
Nếu không có công chứng hoặc chứng thực thì phải xuất trình bản chính cùng với bản sao
để cơ quan thuế kiểm tra đối chiếu.
e) Cá nhân cư trú là người nước ngoài.
Nếu không có hồ sơ theo hướng dẫn đối với từng trường hợp cụ thể nêu trên thì phải
có các tài liệu pháp lý tương tự để làm căn cứ chứng minh người phụ thuộc.

Bên cạnh đó, Điều 2 Thông tư số 62/2009/TT-BTC hướng dẫn sửa đổi, bổ sung
Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 còn bổ sung thêm quy định về hồ sơ chứng
minh người phụ thuộc: Hồ sơ chứng minh đối với người phụ thuộc là bố dượng, mẹ kế;
hướng dẫn bổ sung về hồ sơ chứng minh người phụ thuộc là ông bà nội, ông bà ngoại, cô,
dì, chú, bác
2.6. Kê khai giảm trừ đối với người phụ thuộc.
Thông tư số 84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008, tại Điểm 3.1.8 Khoản 3 quy định về
kê khai giảm trừ đối với người phụ thuộc như sau:
Đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công từ 4 triệu
đồng/tháng trở xuống không phải kê khai người phụ thuộc.
Đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh, từ tiền lương, tiền công trên 4 triệu
đồng/tháng có nuôi dưỡng người phụ thuộc, để được giảm trừ gia cảnh đối với người phụ
thuộc cần kê khai theo hướng dẫn dưới đây:
a) Đối với đối tượng nộp thuế có thu nhập từ tiền lương, tiền công:
7
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
- Đầu năm, chậm nhất là ngày 30 tháng 1, đối tượng nộp thuế lập 02 bản đăng ký
người phụ thuộc được giảm trừ gia cảnh theo mẫu số 16/ĐK-TNCN ban hành kèm theo
Thông tư này gửi cho cơ quan trả thu nhập. Trong năm nếu có sự thay đổi về người phụ
thuộc so với đăng ký đầu năm thì chậm nhất là sau 30 ngày kể từ ngày có thay đổi (tăng,
giảm), đối tượng nộp thuế cần khai 02 bản đăng ký điều chỉnh người phụ thuộc theo mẫu số
16/ĐK-TNCN ban hành kèm theo Thông tư này gửi cho cơ quan trả thu nhập.
Trường hợp đối tượng nộp thuế ký hợp đồng lao động (hoặc có quyết định tuyển
dụng) sau ngày 30 tháng 1 thì thời hạn đăng ký người phụ thuộc chậm nhất là ngày cuối
cùng của tháng ký hợp đồng lao động hoặc quyết định tuyển dụng.
- Đối tượng nộp thuế đăng ký giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc phải có đủ hồ
sơ chứng minh về người phụ thuộc theo hướng dẫn tại điểm 3.1.7 nêu trên và phải nộp cho
cơ quan thuế trực tiếp quản lý đơn vị trả thu nhập.
- Thời hạn nộp hồ sơ chứng minh người phụ thuộc như sau:

+ Đối với các trường hợp đã đăng ký giảm trừ gia cảnh từ đầu năm 2009 thì thời hạn
nộp hồ sơ chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm 2009.
+ Đối với các trường hợp đăng ký giảm trừ gia cảnh sau ngày 30 tháng 1 năm 2009
thì thời hạn nộp hồ sơ chậm nhất là sau 03 tháng kể từ ngày đăng ký giảm trừ.
+ Trường hợp có phát sinh tăng, giảm về người phụ thuộc so với đăng ký thì thời hạn
nộp hồ sơ chậm nhất là sau 03 tháng kể từ ngày đăng ký điều chỉnh tăng, giảm người phụ
thuộc.
Quá thời hạn nộp hồ sơ nêu trên, nếu đối tượng nộp thuế không nộp hồ sơ chứng
minh người phụ thuộc sẽ không được giảm trừ cho người phụ thuộc và phải điều chỉnh lại
số thuế phải nộp.
- Cơ quan trả thu nhập có trách nhiệm:
+ Tiếp nhận bản đăng ký người phụ thuộc được giảm trừ của đối tượng nộp thuế.
+ Hàng tháng, thực hiện tạm giảm trừ gia cảnh cho số người phụ thuộc theo đúng bản
đăng ký người phụ thuộc của đối tượng nộp thuế trước khi tính số thuế tạm khấu trừ.
+ Chuyển 01 bản đăng ký giảm trừ người phụ thuộc của đối tượng nộp thuế cho cơ
quan thuế trực tiếp quản lý cơ quan trả thu nhập. Thời hạn chuyển chậm nhất là ngày 20
tháng 2 của năm thực hiện. Trường hợp đăng ký giảm trừ sau ngày 30 tháng 1 của năm thực
hiện hoặc đăng ký điều chỉnh người phụ thuộc, thời hạn chuyển cho cơ quan thuế trực tiếp
quản lý là ngày 20 của tháng sau tháng nhận được bản đăng ký.
8
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
b) Đối với đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh
- Đối tượng nộp thuế có thu nhập từ kinh doanh khai giảm trừ gia cảnh cho người phụ
thuộc cùng với tờ khai tạm nộp thuế dành cho cá nhân kinh doanh nộp thuế theo kê khai
hoặc tờ khai thuế dành cho cá nhân kinh doanh nộp theo phương pháp khoán.
- Đối tượng nộp thuế khai giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc tại các tờ khai nêu
trên vào đầu năm 2009 phải có đủ hồ sơ chứng minh về người phụ thuộc theo hướng dẫn tại
điểm 3.1.7 khoản 3 mục I phần B Thông tư này và nộp cho Chi cục Thuế trực tiếp quản lý
cá nhân kinh doanh chậm nhất là ngày 30 tháng 6 năm 2009.

- Trường hợp có phát sinh tăng, giảm người phụ thuộc hoặc mới ra kinh doanh thì hồ
sơ chứng minh người phụ thuộc phải nộp chậm nhất là sau 03 tháng kể từ ngày khai người
phụ thuộc tại tờ khai thuế.
- Quá thời hạn nộp hồ sơ nêu trên, nếu đối tượng nộp thuế không nộp hồ sơ chứng
minh người phụ thuộc sẽ không được giảm trừ cho người phụ thuộc và phải điều chỉnh lại
số thuế phải nộp. Đối với cá nhân kinh doanh nộp thuế khoán phải điều chỉnh lại mức thuế
đã khoán.
Ngoài ra, còn quy định đối tượng nộp thuế chỉ phải nộp hồ sơ chứng minh cho một
người phụ thuộc một lần trong suốt thời gian được tính giảm trừ kể cả trường hợp đối tượng
nộp thuế thay đổi nơi làm việc, thay đổi nơi kinh doanh.
Đối tượng nộp thuế vừa có thu nhập từ kinh doanh, vừa có thu nhập từ tiền lương,
tiền công thì việc tạm giảm trừ gia cảnh cho người phụ thuộc vào loại thu nhập nào là do
đối tượng nộp thuế lựa chọn và đăng ký theo hướng dẫn nêu trên. Trường hợp có nhiều
người phụ thuộc nhưng kê khai tạm giảm trừ không hết vào một loại thu nhập thì được tạm
giảm trừ vào cả hai loại thu nhập.
Thông tư số 62/2009/TT-BTC Khoản 3 Điều 2 bổ sung hướng dẫn Điểm 3.1.8 Khoản
3 Thông tư số 84/2008/TT-BTC, như sau:
Trường hợp đối tượng nộp thuế có thu nhập từ tiền lương, tiền công thường xuyên, ổn
định từ 02 nơi trở lên; hoặc vừa có thu nhập từ kinh doanh vừa có thu nhập từ tiền lương
tiền công thường xuyên ổn định; hoặc có thu nhập từ kinh doanh thường xuyên ổn định từ
02 nơi trở lên thì đối tượng nộp thuế được lựa chọn nơi đăng ký giảm trừ gia cảnh; cụ thể
như sau:
- Về giảm trừ cho bản thân: đối tượng nộp thuế được lựa chọn khai giảm trừ cho bản
thân ở một nơi phát sinh thu nhập; đồng thời phải thông báo cho đơn vị chi trả thu nhập
khác hoặc cơ quan thuế (nơi có hoạt động kinh doanh khác) biết để không tính giảm trừ
trùng.
9
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
- Về giảm trừ cho người phụ thuộc: trường hợp, đối tượng nộp thuế có nhiều người

phụ thuộc, mà số người phụ thuộc tính giảm trừ ở một nơi phát sinh thu nhập không đủ
giảm trừ thì được đăng ký số người phụ thuộc chưa giảm trừ hết vào nơi phát sinh thu nhập
khác để được giảm trừ.
III. Thực tế tuân thủ pháp luật thuế về giảm trừ gia cảnh.
3.1. Quy định về mức giảm trừ gia cảnh.
Quy định mức giảm trừ gia cảnh trong luật thuế thu nhập cá nhân 2007 gây ra nhiều
tranh cãi trong dân. Họ có tâm lý không tuân thủ, tìm mọi cách để giảm mức đóng thuế
suống thấp nhât. Hiện tượng trốn thuế xảy ra nhiều, bởi với mức khởi điểm chịu thuế và
giảm trừ gia cảnh đã trở lên qúa thấp, với mức 4 triệu đồng hiện nay ở những thành phố lớn
là không đủ sống. Cụ thể có thể thấy thông qua số liệu: chỉ số tiêu dùng (CPI) năm 2008 là
gần 23% so với năm 2007 – tuy nhiên nhóm lương thực tăng gần 50% và nhóm thực phẩm
tăng gần 33%. Tiếp đến năm 2009, CPI là gần 7% so với 2008 – trong đó nhóm lương thực
thực phẩm tăng hơn 8 %. Tiếp đó, năm 2011, CPI tăng tới 11,75% so với 2009 – nhưng
nhóm hàng ăn uống tăng tới hơn 16%. Rõ ràng với tốc độ trượt giá của riêng nhóm lương
thực thực phẩm thì đã đủ thấy thu nhập của người dân không theo kip đà tăng giá. Bên cạnh
đó nhóm giáo dục cũng liên tục tăng giá, trong đó có cả việc tăng học phí.
3.2.Nguyên tắc giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc.
Việc kê khai giảm trừ gia cảnh chủ yếu là dựa vào ý thức. Thuế thu nhập cá nhân sẽ
lấy đi một khoản tiền đối với những người có thu nhập đạt mức phải nộp thuế theo quy định
của pháp luật. Điều này tạo ra tâm lý cho người nộp thuế , sẽ tận dụng tất các thuận lợi,
nhằm giảm đi số tiền mà họ phải đóng vào ngân sách Nhà nước. Bên cạnh những đối tượng
nộp thuế tuân thủ nguyên tắc giảm trừ gia cảnh đối với những người phụ thuộc. Còn có tình
trạng khai gian dối về người phụ thuộc. Sự việc này thường diễn ra trong trường hợp, ví dụ
như: cùng một ông bố hay bà mẹ, nhưng sẽ được tính trùng thành hai bởi cả hai người con ở
hai địa phương khác nhau đều cùng kê khai và chính quyền địa phương sở tại đều xác nhận.
Vi phạm nguyên tắc giảm trừ gia cảnh “Mỗi người phụ thuộc chỉ được tính giảm trừ một
lần vào một đối tượng nộp thuế trong năm tính thuế”. Thực tế cho thấy hiện nay nhiều địa
phương khi nhận được một số đơn đề nghị xác nhận đối tượng cư trú có trách nhiệm nuôi
dưỡng người phụ thuộc ở địa phương khác (ông, bà, cháu ở quê), họ không thể nào xác định
được mối quan hệ của người phụ thuộc đang sống ở tỉnh khác và người dân đang cư trú trên

địa bàn, càng không thể nào biết đúng được người dân đang cư trú trên địa bàn có trách
nhiệm nuôi dưỡng người đang sống ở tỉnh khác hay không, dẫn đến tình trạng nơi thì chứng
nhận hết một cách dễ dàng, nơi thì từ chối chứng nhận gây khó khăn cho người dân. Và
cũng theo phản ánh của người dân thì một trong nhưng khó khăn mà họ gặp phải là xin hồ
sơ để xác định đối tượng phụ thuộc không có thu nhập.
10
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
Vậy, để quản lý chặt chẽ người nộp thuế, yêu cầu đặp ra là phải cấp mã số thuế cá
nhân cho mọi công dân. Việc người nộp thuế chưa có mã số thuế sẽ gây thiệt haị cho chính
người nộp thuế vì phải nộp thuế thu nhập cá nhân với tỷ lệ trích cao. Đặc biệt việc cá nhân
phụ thuộc không có mã số thuế dẫn đến khe hở và khó kiểm soát chính xác vấn đề giảm trừ
gia cảnh cho người phụ thuộc, từ đó gây thất thu thuế thu nhập cá nhân.
3.3. Kê khai giảm trừ đối với người phụ thuộc.
Việc kê khai giảm trừ gia cảnh đối với người phụ thuộc được các đối tượng nộp thuế
thực hiện rất tốt. Việc kê khai ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của đối tượng nộp thuế.
Căn cứ vào việc kê khai này, là kết quả để xem xét giảm trừ số tiền phải nộp vào ngân sách
nhà nước của đối tượng nộp thuế. Có thể thấy số lượng kê khai giảm trừ đối với người phụ
thuộc tăng, có thể thấy thông qua số lượng số người đi kê khai tại Cục thuế Hà Nội, tính đến
ngày 30/6/2010, cụ thể: Mã số thuế cá nhân cấp cho đối tượng có thu nhập từ tiền lương,
tiền công tăng gấp hơn 200 lần so với năm 2008 và đạt tỷ lệ 31,64 % dân số từ 15 tuổi trở
lên.
IV. Hướng khắc phục các vấn đề liên quan đến “giảm trừ gia cảnh”.
4.1. Các quy định về “giảm trừ gia cảnh” trong pháp luật thuế thu nhập cá nhân .
Thứ nhất, để quản lý chặt chẽ người nộp thuế, sự cần thiết phải đặp ra vấn đề là cấp
mã số thuế cá nhân cho mọi công dân. Mã số này là duy nhất, để nếu có sử dụng kê khai
giảm trừ cho hai đối tượng nộp thuế thì máy tính sẽ phát hiện sự gian luận. Việc xây dựng
mã số thuế cá nhân do cơ quan thuế cấp. Khi thiết kế tờ khai quyết toán thuế, ngoài việc ghi
mã số của đối tượng nộp thuế, cần có mục ghi mã số thuế của người phụ thuộc.
Thứ hai, theo thời giá hiện nay, mức quy đinh là giảm trừ gia cảnh là 4 triệu

đồng/người/tháng, đối với cá nhân người nộp thuế và 1,6 triêu đồng/người/tháng đối với
người phụ thuộc là chưa đảm bảo đời sống tối thiểu của người lao động, nhất là ở đô thị.
Một điểm chưa hợp lý nữa là mức giảm trừ gia cảnh hiện nay không tính đến khu vực, có
nghĩa là ở nông thôn thành thị đồng bằng hay miền núi đều áp dụng như nhau, nhưng thực
tế cho thấy mức chi tiêu cho sinh hoạt hàng ngày của một cá nhân ở thành thị là lớn hơn rất
nhiều so với nông thôn và miền núi. Để đảm bảo nguyên tắc công bằng thì thu thuế lên thu
từ đồng thu nhập đầu tiên, nhưng phải xét tới điều kiện , hoàn cảnh sống của cá nhân, lên
lấy mức lương tối thiểu làm cơ sở đưa ra mức giảm trừ gia cảnh. vì khi Chính phủ đưa ra
mức lương tối thiểu thì chính phủ đã phải xem xét mức sống trung bình của người dân,
trong đó có tính đến chỉ số lạm phát. Tương tự như vậy, khi xác định mức giảm trừ gia
cảnh, luật thuế thu nhập cá nhân 2007 đưa ra con số 1,6 triệu đồng cho những người phụ
thuộc là không có cơ sở và khó ổn định lâu dài. Những người phụ thuộc cũng cần căn cứ
vào mức lương tối thiểu để làm cơ sở tính số tiền giảm trừ cho người nộp thuế. Sự cần thiết
phải sửa đổi điều luật quy định mức giảm trừ gia cảnh theo hướng trên.
11
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
Thứ ba, đối với cha mẹ ông bà đã hết tuổi lao động thì thông thường thu nhập sẽ rất
thấp hoặc có thể không có, nhưng những người này có thể đã tích lũy được số tài sản rất
lớn, đủ để nuôi sống họ suốt đời. Nên nếu đưa vào luật thuế thu nhập cá nhân những người
này là đối tượng phụ thuộc thì sẽ không đảm bảo nguyên tắc công bằng và không đúng ý
nghĩa cụm từ phụ thuộc. Vì vậy nên quy đinh những người này phải có trách nhiệm kê khai
là không có tài sản gì để đảm bảo nguồn sống ở dước mức thu nhập GDP bình quân đầu
người thì mới được xét là đối tượng phụ thuộc để tính giảm trừ gia cảnh cho những đối
tượng trực tiếp nuôi dưỡng.
Thứ tư, việc áp dụng giảm trừ gia cảnh chỉ áp dụng đối với những cá nhân cư trú có
thu nhập từ kinh doanh từ tiền lương, tiền công mà không áp dụng đối với những người có
thu nhập từ đầu tư vốn, chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng bất động sản, từ trúng thưởng,
từ nhượng quyền thương mại, từ thừa kế quà tặng trong luật thuế là không đảm bảo công
bằng về mặt đối xử với những cá nhân trong xã hội. Điều này gây ra những bức xúc trong

dân, ảnh hưởng đến tâm lý của đối tượng nộp thuế, làm tăng dần số đối tượng muốn trốn
thuế. Vì mỗi cá nhân đều phải chi tiêu cho nhu cầu cuộc sống của bản thân và những người
phụ thuộc, việc lựa chọn nghề nghiệp để mưu sinh là phụ thuộc vào bản thân mỗi người .
Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta đều hướng tới sự phát triển con người và
gia đình của họ. Trong thực tế đa số nhà đầu tư chứng khoán, bất động sản ở Việt Nam là
những nhà đầu tư nhỏ lẻ. Nên tạo ra sự công bằng cho những cá nhân nộp thuế cần đưa ra
quy định: “tất cả các cá nhân cư trú có thu nhập đều được giảm trừ gia cảnh khi tính thu
nhập chịu thuế”.
Thứ năm, Khoản 3 Điều 19 Luật thuế thu nhập cá nhân năm 2007 quy định con chưa
thành niên đang học đại học cao đẳng, trung học chuyên nghiệp hoặc học nghề nếu không
có thu nhập hoặc có thu nhập không vược quá mức quy định coi là người phụ thuộc để giảm
trừ gia cảnh cho cha mẹ. Quy định này dẫn đến sự không công bằng giữa những đối tượng
nộp thuế thu nhập cá nhân vì việc học tập là vấn đề phải làm suốt đời người, Nhà nước
khuyến khích học tập và đã có chính sách cho vay vốn đối với những người đi học đại học,
trung học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và học nghề. Nên người học có thể vay vốn
của chính sách này để trang bị tri thức cho mình và sau này đi làm sẽ trả dần cho Nhà nước.
Việc học là quá trình đầu tư cho tương lai, khi nói về thị trường lao động thì người lao động
sẽ phải trả lương gồm cả phần bù đắp chi phi đào tạo, ai được đào tạo nhiều, có trình độ cao
thì sẽ được lương cao hơn. Nên để công bằng cho những người có con đi học hoặc vừa làm
vừa học hoặc đi làm trước học sau. Nên chăng bỏ quy định ở khoản 3 Điều 19 Luật thuế thu
nhập cá nhân năm 2007 nói trên.
4.2.Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thực thi quy định “giảm trừ gia cảnh”.
Thứ nhất, tăng cường hơn nữa công tác tuyên truyền thuế thu nhập cá nhân nhằm
nâng cao trình độ hiểu biết, ý thức tuân thủ của người nộp thuế. Để công tác tuyên truyền
đạt hiểu quả cao cần phải: Đa dạng hóa các hình thức và phương pháp tuyên truyền về thuế
12
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
thu nhập cá nhân. Định kỳ tổ chức điều tra trắc nghiệm đối với người nộp thuế để đáng giá
mức dộ hiểu biết pháp luật thuế thu nhập cá nhân, nắm bắt được ý kiến nguyện vọng của

dân. Qua đó thiết kế nội dung tuyên truyền phù hợp với từng nhóm đối tượng nộp thuế, xây
dựng cơ chế tiếp thu ý kiến, thông tin phản hồi từ người nộp thuế một cách phù hợp, tổ chức
các lớp đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ thuế thu nhập cá nhân và kỹ thuật
tuyên truyền cho các tuyên truyền viên để họ có thể làm tròn nhiệm vụ của một tuyên truyền
viên tốt. Thực hiện cung cấp các dịch vụ phong phú, đa dạng cho đối tượng nộp thuế như:
xây dựng các trung tâm tư vấn, cung cấp các dịch vụ hỗ trợ qua mạng, bằng mail, nộp thuế
điện tự, hỗ trợ khai thác thông tin, hỏi đáp các vứng mắc qua mạng điện tử, cung cấp các
thông tin, chính sách, thủ tục về thuế cho đối tượng nộp thuế, cung cấp các ấn phẩm, tài liệu
hướng dẫn chuyên sâu về pháp luật thuế thu nhập cá nhân.
Thứ hai, Nhà nước cần tổ chức thực hiện lấy ý kiến của toàn dân để đánh giá mức độ
phù hợp của chính sách thuế thu nhập cá nhân trong đời sống xã hội, trên cơ sở đó có những
bổ sung, sửa đổi luật một cách kịp thời nhằm hoàn thiện một số nội dung của thuế thu nhập
cá nhân. Luật nên quy định điều khoản cho phép điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh theo
mức độ trượt giá và tăng trưởng kinh tế trog từng giai đoạn và giao quyền cho Chính phủ
điều tiết mức giảm trừ này khi cần thiết.
Thứ ba, ứng dụng tối đa công nghệ thông tin trong quản lý, để quản lý tốt vấn đề
giảm trừ gia cảnh và phát triển hệ thống thanh toán qua ngân hàng, thể tín dụng,
C.KẾT LUẬN
Như vậy, từ các vấn đề về giảm trừ gia cảnh theo quy định của pháp luật hiện hành
được nêu ở trên. Bên cạnh những quy định hợp lý, còn có những điểm hạn chế nhất định.
Vấn đề đặt ra là cần thiết phải sửa đổi các quy định đó, góp phần khẳng định hơn nữa vai trò
và chức năng của thuế thu nhập cá nhân là một nguồn thu quan trọng trong ngân sách nhà
nước và là công cụ góp phần đảm bảo công bằng xã hội một cách đắc lực.
13
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính
Đoàn Văn Nhật – 360850 – Nhóm 1 – N05 – TL3
* DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Thuế Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân,
Hà Nội, 2012.
2. Luật Thuế Thu nhập cá nhân năm 2007.

3. Luật Quản lý Thuế năm 2006.
4. Nghị định số 100/2008/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều Luật Thuế
thu nhập cá nhân.
5. Thông tư số 84/2008/TT-BTC của Bộ Tài chính ngày 30/9/2008 hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-
CP quy định chi tiết một số điều luật thuế thu nhập cá nhân.
6. Thông tư số 62/2009/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số
84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008.
7. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Thuế thu nhập cá nhân sau hai năm thực hiện một số
bất cập nảy sinh và hướng giải quyết, số 4/2/2011, tr 42-46.
8. “Những vấn đề đặt ra khi thực thi Luật Thuế thu nhập cá nhân Việt Nam”, Tạp chí Luật
học số 4/2009.
9. “Đảm bảo công bằng trong thuế thu nhập cá nhân”, Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số
6/2007.
10. “Hoàn thiện pháp luật Thuế thu nhập cá nhân và các biện pháp bảo đảm thực hiện”,
Khóa luận tốt nghiệp, Nguyễn Quỳnh Hoa, Hà Nội – 2008.
11. “Pháp luật về Thuế thu nhập cá nhân ở Việt Nam thực trạng và phương hướng hoàn
thiện”, Khóa luận tốt nghiệp, Nguyễn Trần Linh, Hà Nội 2011.12, tr 40 – 42.
14
Bài tập lớn học kỳ môn Luật Tài chính

×