Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.15 KB, 15 trang )

Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
I. SỰ CẦN THIẾT , MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THỰC HIỆN SÁNG
KIẾN
1. Cơ sở lí luận.
Nhận thức được tầm quan trọng của Tiếng Việt trong sự nghiệp giáo dục con người. Từ
xa xưa ông cha ta đã sử dụng nó một cách tự giác nhằm để giáo dục trẻ nhỏ.
Khi chưa có nhà trường, trẻ được giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội. Từ thuở nằm
nôi, các em được bao bọc trong tiếng hát ru của mẹ, của bà, lớn lên chút nữa những câu chuyện
kể có tác dụng to lớn, là dòng sữa ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn trẻ, rèn luyện các em thành con
người có nhân cách, có bản sắc dân tộc góp phần hình thành con người mới, đáp ứng yêu cầu của
xã hội đối với những thành viên của mình.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giáo dục nhà trường xuất hiện như một điều tất yếu,
đón bước thiếu nhi cắp sách tới trường. Cả thế giới đang mở trước mắt các em. Kho tàng văn
minh nhân loại được chuyển giao từ những điều sơ đẳng nhất. Quá trình giáo dục được thực hiện
ở mọi lúc, mọi nơi, tất cả các môn học.
Những điều sơ đẳng nhất đã góp phần rất quan trọng trong việc sử dụng ngôn ngữ vào
hoạt động giao tiếp của học sinh. Ngôn ngữ là thứ công cụ có tác dụng vô cùng to lớn. Nó có thể
diễn tả tất cả những gì con người nghĩ ra, nhìn thấy biết được những giá trị trừu tượng mà các
giác quan không thể vươn tới được. Các môn học ở Tiểu học có tác dụng hỗ trợ cho nhau nhằm
giáo dục toàn diện học sinh phải kể đến Luyện từ và câu, một phân môn chiếm thời lượng khá
lớn trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nó tách thành một phân môn độc lập, có vị trí ngang bằng
với phân môn Tập đọc, Tập làm văn song song tồn tại với các môn học khác. Điều đó thể hiện
việc cung cấp vốn từ cho học sinh là rất cần thiết và nó có thể mang tính chất cấp bách nhằm
đầu tư cho học sinh có cơ sở hình thành ngôn ngữ cho hoạt động giao tiếp cũng như chiếm lĩnh
nguồn tri thức mới trong các môn học khác. Tầm quan trọng đó đã được rèn giũa luyện tập
nhuần nhuyễn trong quá trình giải quyết các dạng bài tập trong môn Luyện từ và câu lớp 4.
2. Cơ sở thực tiễn.
Việc giải quyết các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 có hiệu quả đặt ra cho các Giáo
viên Tiểu học là một vấn đề không phải đơn giản. Qua thực tế dạy tôi đã gặp phải không ít
những khó khăn. Bởi đây là chương trình thay sách lớp 4 mới. Cùng tồn tại với nó là từ ngữ và
ngữ pháp của chương trình cải cách đều đảm nhiệm cung cấp vốn từ cho học sinh, việc hướng


dẫn làm các bài tập Luyện từ và câu mang tính chất máy móc, không mở rộng cho học sinh nắm
sâu kiến thức của bài. Về phía học sinh, làm các bài tập chỉ biết làm mà không hiểu tại sao làm
như vậy, học sinh không có hứng thú trong việc giải quyết kiến thức. Do vậy việc tổ chức cho
học sinh trong các giờ giải quyết các bài tập Luyện từ và câu là vấn đề trăn trở cho các giáo viên
và ngay bản thân tôi.
Trong quá trình dạy học cũng như việc phát hiện học sinh năng khiếu, tôi cũng như một
số giáo viên khác khi dạy đến tiết Luyện từ và câu, đặc biệt các khái niệm về từ đơn, từ ghép, các
kiểu từ ghép bộc lộ không ít hạn chế. Về nội dung chương trình dạy phần đó trong sách giáo
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
1
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
khoa rất ít. Chính vì vậy học sinh rất khó xác định, dẫn đến tiết học trở nên nhàm chán không thu
hút học sinh vào hoạt động này. Để tháo gỡ khó khăn đó rất cần có một phương pháp tổ chức tốt
nhất, có hiệu quả nhất cho tiết dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.
Từ những lý do khách quan và chủ quan đã nêu trên, thông qua việc học tập, giảng dạy
trong những năm qua, tôi đã chọn đề tài này để nghiên cứu sâu hơn về phương pháp tổ chức dạy
các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, nhằm tìm ra được phương pháp, hình thức
tổ chức thích hợp nhất, vận dụng tốt nhất trong quá trình giảng dạy của mình. Vì điều kiện, khả
năng nghiên cứu có hạn tôi xin mạnh dạn trình bày kết quả nghiên cứu của mình thông qua đề tài
:Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câu cho học sinh lớp 4.
3. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này mục đích nghiên cứu chính là tìm phương pháp tổ chức thích hợp nhất trong
quá trình dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu. Từ đó vận dụng linh hoạt vào hướng dẫn rèn kỹ
năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh một cáhc hiệu quả nhất.
II. PHẠM VI TRIỂN KHAI THỰC HIỆN
1. Đối tượng nghiên cứu
Là những mạch bài tập thuộc mạch kiến thức “Luyện từ và câu” trong trương trình lớp 4 ở
tiểu học
2. Phạm vi nghiên cứu
Chương trình môn Tiếng Việt thuộc phân môn “Luyện từ và câu” lớp 4

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu tình hình học tiếng việt phân môn Luyện từ và câu thực hành xác định phương pháp tổ
chức dạy các dạng bài tập luyện từ và câ. Đề xuất một số biện pháp thực hiện trong khi dạy học
sinh dạng bài này.
Đối tượng nghiên cứu: Học sinh lớp 4.
III, MÔ TẢ SÁNG KIẾN
A. THỰC TRẠNG DẠY - HỌC CÁC DẠNG BÀI TẬP “LUYỆN TỪ VÀ CÂU”.
1. Đối với chương trình sách giáo khoa.
Số tiết Luyện từ và câu của chính sách giáo khoa lớp 4 gồm 2 tiết/tuần. Sau mỗi tiết hình
thành kiến thức là một loạt các bài tập củng cố bài. Mà việc xác định phương pháp tổ chức cho
một tiết dạy như vậy là hết sức cần thiết. Việc xác định yêu cầu của bài và hướng giải quyết còn
mang tính thụ động, chưa phát huy triệt để vốn kiến thức khi luyện tập, thực hành.
2. Đối với giáo viên.
Phân môn Luyện từ và câu tạo cho học sinh môi trường giao tiếp để học sinh mở rộng
vốn từ có định hướng, trang bị cho học sinh các kiến thức cơ bản về Tiếng Việt gắn với các tình
huống giao tiếp thường gặp. Từ đó nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh. Giáo
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
2
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
viên là một trong 3 nhân tố cần được xem xét của quá trình dạy học Luyện từ và câu, là nhân tố
quyết định sự thành công của quá trình dạy học này. Khi nghiên cứu quá trình dạy hướng dẫn
học sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4, tôi thấy thực trạng của giáo
viên như sau:
- Phân môn “Luyện từ và câu” là phần kiến thức khó trong khi hướng dẫn học sinh nắm
được yêu cầu và vận dụng vào việc làm các bài tập nên dẫn đến tâm lý giáo viên ngại bởi việc
vận dụng của giáo viên còn lúng túng gặp khó khăn.
- Giáo viên một số ít không chịu đầu tư thời gian cho việc nghiên cứu để khai thác kiến
thức và tìm ra phương pháp phù hợp với học sinh, lệ thuộc vào đáp án, gợi ý dẫn đến học sinh
ngại học phân môn này.
- Cách dạy của một số giáo viên còn đơn điệu, lệ thuộc máy móc vào sách giáo khoa, hầu

như ít sáng tạo, chưa thu hút lôi cuốn học sinh.
- Nhiều giáo viên chưa quan tâm đến việc mở rộng vốn từ, phát triển vốn từ cho học sinh,
giúp học sinh làm giàu vốn hiểu biết phong phú về Tiếng Việt.
- Thực tế trong trường tôi công tác, chúng tôi thường rất tích cực đổi mới phương pháp
dạy sao cho có hiệu quả nhất ở môn học này. Đồng thời là tiền đề trong việc phát triển bồi
dưỡng những em có năng khiếu. Nhưng kết quả giảng dạy và hiệu quả còn bộc lộ không ít những
hạn chế.
3. Đối với học sinh.
Hầu hết học sinh chưa hiểu hết vị trí, tầm quan trọng, tác dụng của phân môn Luyện từ và
câu nên chưa dành thời gian thích đáng để học môn này.
Học sinh không có hứng thú học phân môn này. Các em đều cho đây là phân môn vừa
“khô” vừa “khó”.
Nhiều học sinh chưa nắm rõ khái niệm của từ, câu Từ đó dẫn đến việc nhận diện phân
loại, xác định hướng làm bài lệch lạc. Việc xác định còn nhầm lẫn nhiều.
Học sinh chưa có thói quen phân tích dữ kiện của đầu bài, thường hay bỏ sót, làm sai
hoặc không làm hết yêu cầu của đề bài.
Thực tế cho thấy nhiều học sinh khi hỏi đến lý thuyết thì trả lời rất trôi chảy, chính xác,
nhưng khi làm bài tập thực hành thì lúng túng và làm bài không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện
học sinh nắm kiến thức một cách máy móc, thụ động và tỏ ra yếu kém thiếu chắc chắn.
Do vậy ngay khi dạy tới phần từ ghép, từ láy Tôi đã tiến hành khảo sát học sinh lớp 4
B
bằng bài tập sau.
Đề bài: Xác định từ ghép và từ láy trong đoạn văn sau.
Dáng tre vươn mộc mạc, màu tre tươi nhũn nhạn. Rồi tre lớn lên cứng cáp, dẻo dai, vững
chắc. Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người.
Qua khảo sát ở lớp tôi có 36 học sinh, kết quả khảo sát như sau:
Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
6 16 7 19 12 34 11 31
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm

3
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4

Điều đáng nói ở đây là có tới 20 em chưa biết xác định từ ghép, từ láy, trong quá trình
làm học sinh chưa biết trình bày khoa học rõ ràng, câu trả lời chưa đầy đủ.
Qua giảng dạy tôi nhận thấy kết quả chưa cao là do nguyên nhân cả hai phía; Người dạy
và người học. Do vậy tôi rất cần phải trau dồi kiến thức tìm ra phương pháp đổi mới trong hướng
dẫn giảng dạy để khắc phục thực trạng trên để kết quả dạy học được nâng lên, thu hút sự chú ý
của học sinh vào hoạt động học.
4. Sơ lược một số dạng bài tập Luyện từ và câu điển hình.
+ Phân tích cấu tạo của tiếng.
+ Tìm các từ ngữ nói về chủ đề.
+ Tìm lời khuyên trong các câu tục ngữ, ca dao.
+ Đặt dấu chấm phẩy vào đoạn văn cho phù hợp.
+ Tìm từ đơn, từ phức và đặt câu với từ tìm được
+ Tìm từ ghép, từ láy và đặt câu với từ đó.
+ Phân biệt động từ, danh từ, tính từ trong đoạn văn.
+ Phân biệt các kiểu câu chia theo mục đích nói, tác dụng của nó.
+ Viết thêm trạng ngữ cho câu
B. ĐỀ RA CÁC BIỆN PHÁP NGHIÊN CỨU, ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP TỔ
CHỨC DẠY CÁC DẠNG BÀI TẬP “ LUYỆN TỪ VÀ CÂU”.
B.1, Phương pháp nghiên cứu.
Với đặc trưng của môn Luyện từ và câu cùng các mâu thuẫn giữa yêu cầu của xã hội, nhu
cầu hiểu biết của học sinh với thực trạng giảng dạy của giáo viên, việc học của học sinh trường
tôi, đồng thời để củng cố nâng cao kiến thức, kỹ năng làm các bài tập Luyện từ và câu cho học
sinh lớp 4. Tôi đã nghiên cứu và rút ra được nhiều kinh nghiệm thông qua các bài học trên lớp,
trước hết tôi yêu cầu học sinh thực hiện theo các bước sau.
1. Đọc thật kỹ đề bài.
2. Nắm chắc yêu cầu của đề bài. Phân tích mối quan hệ giữa yếu tố đã cho và yếu tố
phải tìm.

3. Vận dụng kiến thức đã học để thực hiện lần lượt từng yêu cầu của đề bài.
4. Kiểm tra đánh giá.
Đặc biệt tôi cũng mạnh dạn đưa ra từng bước hướng dẫn các phương pháp rèn luyện kỹ
năng làm các dạng bài tập Luyện từ và câu. Muốn học sinh làm bài một cách có hiệu quả, trước
hết các em phải nắm chắc kiến thức, vì đó là bước quan trọng cho cả giáo viên và học sinh.
Mỗi một dạng bài tập cụ thể, bài tập riêng đều có một hình thức tổ chức riêng. Có thể
theo nhóm, làm việc cả lớp hoặc làm việc cá nhân. Song song với các hình thức đó là phương
pháp hình thành giải quyết vấn đề cho học sinh.
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
4
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Muốn làm được việc đó trước tiên học sinh phải hiểu rõ đặc điểm của nội dung các chủ
điểm mà phân môn Luyện từ và câu cần cung cấp.
- Qua các bài mở rộng vốn từ học sinh được:
Cung cấp thêm các từ ngữ mới theo chủ điểm hoặc nghĩa, các yếu tố hán việt; rèn luyện
khả năng huy động vốn từ theo chủ điểm ; rèn luyện sử dụng từ, sử dụng thành ngữ tục ngữ.
- Thông qua các bài tập cấu tạo của tiếng, cấu tạo của từng học sinh được:
Tìm hiểu về cấu tạo của tiếng, nhận diện được hiện tượng bắt đầu từ vấn đề trong thơ, tìm hiểu
phương thức tạo từ mới để phục vụ cho nhu cầu giao tiếp. Học sinh cần tìm hiểu được:
Có 2 cách để tạo từ phức:
1. Ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau là từ ghép.
2. Phối hợp những tiếng có âm đầu hay vần (hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau đó là từ
láy.
- Thông qua các bài tập về từ loại: Học sinh được cung cấp kiến thức sơ giản về danh từ,
động từ, tính từ gắn bó với các tình huống sử dụng. Cần lưu ý:
+ Tạo ra các từ ghép hoặc từ láy với tính từ đã cho.
+ Thêm vào các từ rất, quá, lắm vào trước hoặc sau tính từ.
+ Tạo ra phép so sánh.
Thông qua các bài tập về câu, học sinh được rèn luyện năng lực sử dụng các kiểu câu tuỳ theo
nhu cầu, lĩnh vực giao tiếp.

Ví dụ: Nhiều khi ta có thể sử dụng câu hỏi để thực hiện:
1. Thái độ khen, chê.
2. Sự khẳng định, phủ định
3. Yêu cầu, mong muốn
- Đặc biệt rất chú trọng đến việc dạy học sinh biết giữ phép lịch sự trong giao tiếp. Cụ
thể: Khi hỏi chuyện người khác cần giữ phép lịch sự.
Câu hỏi:
1. Cần thưa gửi, xưng hô cho phù hợp với quan hệ giữa mình với người được hỏi.
2. Cần tránh những câu hỏi làm phiền lòng người khác.
Câu khiến:
1. Khi yêu cầu, đề nghị phải giữ phép lịch sự
2. Muốn cho lời yêu cầu, được đề nghị lịch sự, cần có cách xưng hô cho phù hợp và thêm
vào trước hoặc sau động từ: Làm ơn, giùm, giúp
3. Có thể dùng câu hỏi, kiểu câu nếu yêu cầu đề nghị.
B.2, Phương pháp tổ chức dạy cho học sinh làm bài tập Luyện từ và câu.
Các kiểu hình thức và kĩ năng cần học trong phân môn Luyện từ và câu được rèn luyện thông
qua nhiều bài tập với các tình huống giao tiếp tự nhiên.
a. Đối với các dạng bài tập mở rộng vốn từ.
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
5
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Ví dụ: Tìm các từ ngữ:
- Thể hiện lòng nhân hậu, tình cảm yêu thương đồng loại.
- Trái nghĩa với nhân hậu hoặc yêu thương.
- Thể hiện tinh thần đùm bọc, giúp đỡ đồng loại.
- Trái nghĩa với với đùm bọc hoặc giúp đỡ.
Ngoài việc sử dụng hướng mẫu trong sách giáo khoa. Giáo viên yêu cầu học sinh làm
việc theo nhóm (4 nhóm). Mỗi nhóm một yêu cầu, sau khi đại diện nhóm trả lời cho học sinh làm
việc ở lớp.
Nhóm 1: Lòng thương người, đùm bọc, giúp đỡ

Nêu ý nghĩa của các từ em tìm được. Các nhóm cùng bổ sung, giáo viên chốt lại ý kiến
đúng.
Liên hệ giữa tình huống học sinh đã làm được trong cuộc sống, quá trình học tập.
b. Rèn luyện kĩ năng cấu tạo từ dạng bài tập tìm từ ghép, từ láy.
Ví dụ: Tìm từ láy, từ ghép chứa các tiếng sau đây.
- Ngay
- Thẳng
- Thật
Đối với các dạng bài tập này tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm trong phiếu. Giáo
viên có thể sử dụng phương pháp động não thu nạp rất nhiều từ, từ quá trình học sinh, mỗi nhóm
hoạt động một nhiệm vụ với từ (Ngay, thẳng, thật).
Từ Từ láy Từ ghép
Ngay Ngay ngáy Ngay thẳng, ngay ngắn
Thẳng Thẳng thắn Ngay thẳng, thẳng tắp
Thật Thật thà Sự thật, thẳng thật
Cùng yêu cầu của bài đã cho học sinh chọn từ để đặt câu với từ đó. Giáo viên cho học
sinh làm việc cá nhân.
* Cho học sinh so sánh từ láy, từ ghép:
Giáo viên chốt:
Từ bao giờ cũng có nghĩa vì nó là đơn vị nhỏ nhất để đặt câu.
Từ láy, từ ghép đều là từ có nghĩa. Từ láy là phối hợp những tiếng có phụ âm đầu, vần hoặc cả
âm đầu và giống nhau gọi là từ láy. Từ ghép là ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau, đó là từ
ghép. Dựa vào cấu tạo trên mà học sinh có thể xác định từ ghép và từ láy.
Giáo viên có thể lấy thêm ví dụ:
+ Từ ghép: Cơn mưa, nhà cửa, bông hoa
+ Từ láy: Luộm thuộm, chăm chỉ
c. Luyện tập các bài có dạng về tính từ, động từ, danh từ.
Trong đó chương trình sách giáo khoa cũng lựa chọn những tình huống giao tiếp gắn bó
với cuộc sống gần gũi của học sinh.
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm

6
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Ví dụ1: Viết họ và tên 3 bạn nam, 3 bạn nữ trong lớp em. Họ và tên các bạn ấy là danh từ
chung hay danh từ riêng? vì sao?
Với bài này tôi đã gợi ý cho học sinh: Xác định tên của bạn mình, viết, ghi rõ họ, tên.
Lưu ý đó là danh từ chung hay danh từ riêng.
Cho học sinh làm việc cá nhân, nêu miệng. Phần học này học sinh thường hay mắc lỗi ở
vạch danh từ chung.
Tôi yêu cầu các em nêu lại danh từ chung là gì? Dùng phép “suy” để học sinh áp dụng
vào bài của mình.
Ví dụ 2: Gạch dưới các động từ trong đoạn văn sau:
Yiết Kiêu đến kinh đô yết kiến vua Trần Nhân Tông
Nhà vua: Trẫm cho nhà ngươi nhận một loại binh khí
Yết Kiêu: Thần chỉ xin một chiếc dùi sắt
Nhà vua: Để làm gì ?
Yết Kiêu: Để dùi những chiếc thuyền của giặc vì thần có thể lặn hàng giờ dưới nước.
Tôi đã cho học sinh làm việc theo nhóm. Học sinh trong nhóm thảo luận nêu trước lớp.
Lưu ý có 2 từ dùi từ nào là động từ ? Lấy ví dụ trường hợp khác. Người ta lấy cái đục là
cái lỗ để nước đục chảy ra.
Ví dụ 3: Tìm những từ ngữ biểu thị mức độ của đặc điểm, tính chất được gạch chân trong
đoạn văn sau:
Hoa cà phê thơm đậm và ngọt lên mùi hương thường theo gió bay đi rất xa. Nhà thơ
Xuân Diệu chỉ có một lần đến đây ngắm nhìn của cà phê đã phải thốt lên.
Hoa cà phê thơm lắm em ơi
Hoa cùng một điệu với hoa nhài
Trong ngà trắng ngọc, xinh và sáng.
Như miệng em cười đâu đây thôi
Đây là bài tập để rèn luyện về tính từ và bài này hơi trừu tượng với học sinh
Cho các em phân tích đề bài trước vì yều cầu của bài không quen thuộc với học sinh ;các em đã
hiểu .

Tìm những từ biểu thị mức độ của đặc điểm tính chất của cá từ gạng chân cụ thể : Hoà cà
phê thơm như thế nào ? (thơm đậm và ngọt ) nên mùi hương bay đi rất xa. Lần lượt học sinh tìm
(trả lời cá nhân theo phương pháp động não):
Thơm lắm
Trong ngà
Trắng ngọc
Như vậy các em thấy quen thuộc với cách làm của bài này.
c. Củng cố khắc sâu mở rộng luyện các dạng bài tập về câu.
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
7
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Với dạng bài này cũng được lựa chọn với thực tiễn sinh động hàng ngày để học sinh biết
đặt câu đúng, phù hợp với tình huống giao tiếp, đảm bảo lịch sự khi đặt câu.
1. Câu kể.
Ví dụ 1: Đặt một vài câu kể để:
a) Kể việc làm hàng ngày sau khi đi học về.
b) Tả chiếc bút em đang dùng.
c) Trình bày ý kiến của em về tình bạn.
d) Nói lên niềm vui của em khi nhận được điểm tốt.
Tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Kể về việc em làm
Lưu ý học sinh khi viết hết câu phải có dấu chấm. Học sinh viết và đọc cho học sinh
trong lớp nhận xét bổ sung.
Nội dung của các yêu cầu trên khác nhau: Tả, bày tỏ ý kiến, nói lên niềm vui
Giáo viên hướng dẫn mẫu:
+ Tả kết hợp với dùng từ ngữ gợi tả, biện pháp nghệ thuật
+ Bày tỏ ý kiến yêu mến, gắn bó như thế nào?
+ Nói lên niềm vui vui sướng như thế nào khi được điểm tốt.
Ví dụ 2: Khi muốn mượn bạn cái bút, em có thể chọn những cách nói nào?
a) Cho mượn cái bút!
b) Lan ơi, cho tớ mượn cái bút!

c) Lan ơi, cậu có thể cho tớ mượn cái bút được không?
Cho học sinh trả lời cá nhân, học sinh chọn trường hợp c, vì nó thể hiện sự lịch sự trong
giao tiếp.
Giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động tiếp nối. Trao đổi theo cặp, thực hành lời yêu cầu
lịch sự.
2. Câu hỏi:
Đối với việc giữ lịch sự khi đặt câu hỏi, dạng bài tập cho phần này cũng rất cụ thể:
Ví dụ: So sánh các câu hỏi trong đoạn văn sau: Em thấy câu các bạn nhỏ hỏi cụ già có
thích hợp hơn những câu hỏi khác không? Vì sao?
Sau một cuộc dạo chơi, đám trẻ ra về. Tiếng nói cười ríu rít. Bỗng các bạn dừng lại khi
thấy một cụ già đang ngồi ở vệ đường. Trông cụ thật mệt mỏi, cặp mắt lộ rõ vẻ u sầu.
- Chuyện gì đã xảy ra với ông cụ thế nhỉ? Một em trai hỏi, - Đám trẻ tiếp lời bàn tán sôi
nổi:
- Chắc là cụ bị ốm?
- Hay là cụ đánh mất cái gì?
- Chúng mình thử hỏi xem đi?
Các em tới chỗ ông cụ, lễ phép hỏi:
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
8
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cho cụ không?
Giáo viên tổ chức cho học sinh làm việc cá nhân. Trước hết học sinh phải xác định câu
nào là câu hỏi, câu nào là câu các bạn phỏng đoán với nhau: cho học sinh so sánh.
Các câu các em hỏi nhau: - Chuyện gì xảy ra với ông cụ thế nhỉ?
- Chắc là cụ bị ốm
- Hay cụ đánh mất cái gì?
Câu hỏi các bạn nhỏ hỏi cụ già:
- Thưa cụ, chúng cháu có thể giúp gì cụ không?
Hướng dẫn học sinh nhận xét về câu hỏi của các bạn nhỏ với cụ già là rất phù hợp trong
trường hợp đó vì: Nếu không biết nguyên nhân của ông cụ như thế nào mà hỏi cụ bị ốm hay cụ

đánh mất cái gì sẽ làm tổn thương đến ông cụ (chẳng may ông cụ rơi vào hoàn cảnh như vậy).
Qua bài tập này củng cố khắc sâu cho học sinh về cần đặt những câu hỏi lịch sự, tránh những
câu hỏi làm phiền lòng người khác.
Học sinh còn bỡ ngỡ trong việc phân tích các câu hỏi. Tôi đã dướng dẫn các em phải đặt
nó trong văn cảnh cụ thể.
Hoạt động liên hệ: Cho học sinh đặt câu hỏi phù hợp khi gặp tình huống như trong bài
tập trên ở ngoài thực tế.
3. Câu khiến
- Dạng bài tập cho mảng kiến thức này gồm:
- Chuyển các câu kể thành câu khiến.
- Đặt câu khiến phù hợp với các tình huống.
- Đặt câu khiến theo yêu cầu có hãy trước động từ
đi hoặc nào sau động từ
Xin hoặc mong trước chủ ngữ
- Nêu tình huống có thể dùng câu khiến nói trên.
Ví dụ 1: Chuyển các câu kể thành câu khiến
- Nam đi học
- Thanh đi lao động
- Ngân chăm chỉ
- Giang phấn đấu học giỏi.
Với bài tập này trước hết tôi cho học sinh phân tích mẫu: - Nam đi học!
-Nam phải đi học!
- Nam hãy đi học!
Cho học sinh nhận xét mẫu so với câu ban đầu: Thêm cac từ đi, phải,
hãy ứng với lời yêu cầu ở mức nặng nhẹ tuỳ thuộc vào mỗi lời yêu cầu.
- Nam đi học đi ! (yêu cầu nhẹ nhàng)
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
9
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
- Nam phải đi học! ( yêu cầu bắt buộc)

- Nam hãy đi học đi! ( yêu cầu mang tính ra lệnh)
Sau đó tôi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm ( 3 nhóm ứng với 3 tổ),
mỗi tổ một câu rồi nêu miệng nhận xét.
Tôi chốt lại học sinh: Muốn đặt câu khiến có thể dùng một trong các cách sau: Thêm các
từ hãy, đừng, chớ, nên, phải vào trước động từ và cuối câu dùng dấu chấm than (!).
Cùng phương pháp tổ chức này tôi cho học sinh làm ví dụ 2.
Ví dụ 2: Đặt câu khiến cho những yêu cầu dưới đây:
a. Câu khiến có hãy ở trước động từ.
b. Câu khiến có đi hoặc nào ở trước động từ.
c. Câu khiến có xin hoặc mong ở trước chủ ngữ.
Phần này học sinh không còn bỡ ngỡ về cách đặt câu khiến.
a. Bạn hãy làm bài tập đi!
b. Mong các em làm bài tập thật tốt!
4. Câu cảm: (câu cảm thán)
Yêu cầu học sinh hiểu câu cảm là câu dùng để bộc lộ cảm xúc (vui mừng, thán phục, đau
xót, ngạc nhiên ) của người nói.
Lưu ý trong câu cảm thường có các từ ngữ: ôi, chao, chà, trời, quá, lắm, thật Khi viết
câu cảm cuối câu thường có dấu chấm than (!).
Ví dụ 1: Đặt câu cảm cho các tình huống sau:
a. Cô giáo ra một bài toán khó, cả lớp chỉ một bạn làm được. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ
sự thán phục.
b. Vào ngày sinh nhật của em, có một bạn cũ đã chuyển trường từ lâu bỗng nhiên tới
chúc mừng em. Hãy đặt câu cảm để bày tỏ sự ngạc nhiên và vui mừng.
Tôi đã tổ chức cho học sinh làm việc cặp đôi và đóng vai trò trong tình huống, một bạn
nêu, một bạn trả lời, cả lớp nhận xét bổ sung.
a. Ôi, bạn giỏi quá!
b. Ôi, bất ngờ quá, tớ cảm ơn bạn!
Tôi cho học sinh suy nghĩ tìm thêm các tình huống khác đặt câu cảm, nêu cá nhận để các
bạn nhận xét.
Ví dụ 2: Những câu cảm sau đây bộ lộ cảm xúc gì?

a. Ôi, bạn Nam đến kìa!
b. Ồ, bạn Nam thông minh quá!
c. Trời, thật là kinh khủng!
Theo tôi phần này tôi cho học sinh làm việc cá nhân:
- B
1
: Nhận xét ý nghĩa của câu cảm.
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
10
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
- B
2
: Tìm cảm xúc của mỗi câu.
- B
3
: Rút ra kết luận chung về câu cảm.
d. Mở rộng khắc sâu cách dùng trạng ngữ trong câu.
Dạng bài tập:
- Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ thời gian cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ nguyên nhân cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ mục đích cho câu.
- Thêm trạng ngữ chỉ phương tiện cho câu.
Ví dụ 1: Thêm trạng ngữ chỉ nơi chốn cho câu:
a , em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình
b , em rất chăm chú nghe giảng và hăng hái phát biểu.
c , hoa đã nở.
Theo tôi, vì phần này tôi chưa trực tiếp giảng dạy nhưng ở chương trình lớp 4 cũ nó
không có những chi tiết cụ thể rõ ràng như vậy nên việc hình thành kiến thức khó khăn hơn. Còn
đối với dạng bài tập này tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm (3 nhóm ứng với 3 tổ),

mỗi tổ một câu. Tôi có gợi ý (với học sinh yếu): Em giúp bố mẹ làm những công việc gia đình
tại đâu?
Học sinh rất dễ phát hiện vì đây là các tình huống rất quen thuộc với học sinh nên cũng
không nhất thiết phải hướng dẫn cụ thể.
Tương tự như vậy là trạng ngữ chỉ thời gian cũng rất đơn giản.
Với trạng ngữ chỉ mục đích học sinh có thể mắc.
Ví dụ 2: Tìm các trạng ngữ thích hợp chỉ mục đích để điền vào chỗ trống:
a) , xã em vừa đào một con mương.
b) , chúng em quyết tâm học tập và rèn luyện thật tốt.
c) , em phải năng tập thể dục.
Giáo viên cần hướng dẫn h/s đến việc hiểu: Mục đích của đào mương để làm gì?
Quyết tâm tốt để dành được gì?
Tập thể dục có lợi gì?
Ví dụ 3: Trạng ngữ chỉ phương tiện có dạng bài tập:
Tìm trạng ngữ chỉ thời gian trong các câu sau
- Bằng một giọng thân tình, thầy khuyên chúng em gắng học bài, làm bài đầy đủ.
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
11
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
- Với óc quan sát tinh tế và đôi bàn tay khéo léo, người hoạ sĩ dân gian đã sáng tạo nên
những bức tranh làng Hồ nổi tiếng.
Học sinh đã biết: Trạng ngữ chỉ phương tiện thường mở đầu bằng các từ bằng, với và trả
lời cho các câu hỏi: bằng cái gì, với cái gì?
Nên bài này tôi chi cho học sinh dùng bút chì gạch chân trạng ngữ cá nhân và nêu miệng
trước lớp, theo tôi học sinh sẽ không khó khăn gì?.
Như vậy mức độ khó của bài tập khong phụ thuộc vào các loại, các dạng bài tập mà phụ
thuộc vào chính ngữ liệu đưa ra cho học sinh. Với các bài tập Luyện từ và câu của học sinh lớp
4. Nhiều yêu cầu trong sách giáo khoa tôi cũng cần phân tích cho nhiều đối tượng học sinh. Đối
với học sinh khá, giỏi tôi thường gài thêm hoạt động tiếp nối. Với học sinh trung bình, học sinh
yếu chọn những ngữ liệu cụ thể rõ ràng để học sinh dễ xác nhận.

Ví dụ: Với dạng bài mở rộng vốn từ ý chí nghị lực.
Viết một đoạn văn ngắn nói về một người có ý chí, nghị lực nên đax vượt qua nhiều thử
thách, đạt được thành công.
Với học sinh khá, giỏi tôi cho học sinh phân tích yêu cầu đề bài sau đó viết ngay vào
nháp.
Với học sinh trung bình và yếu tôi hướng dẫn học sinh sử dụng các từ ngữ thuộc chủ đề ý
chí nghị lực đã học để viết. Hỏi học sinh về người em định viết (học sinh yếu tôi còn hỏi về
người em định viết có những phẩm chất gì).
Quan tâm đến đối tượng học sinh trong giảng dạy chính là chú ý đến việc nâng cao chất
lượng học sinh giỏi để bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đại trà. Đó là việc làm quan trọng và
không thể thiếu trong quá trình giảng dạy.
Một điều tôi cũng rất quan tâm đó là việc trình bày của học sinh. Các em làm bài có thể
tốt nhưng cách trình bày bố cục bài làm của học sinh còn là cả một vấn đề cần chấn chỉnh.
Trong quá trình nghiên cứu, thử nghiệm và tích cực tìm tòi phương pháp tổ chức cho học
sinh làm các dạng bài tập Luyện từ và câu. Trải qua một học kỳ ôn tập cùng thời gian áp dụng
phương pháp nghiên cứu tôi đã tiến hành khảo sát để xem sự chuyển biến của học sinh sau khi
đã được hoạt động sôi nổi trong giờ luyện từ và câu giải quyết các bài tập với lớp 4B do tôi chủ
nhiệm.
Đề bài:
Đọc thầm bài Về thăm bà và trả lời câu hỏi sau:
1) Trong bài Về thăm bà từ nào cùng nghĩa với từ hiền
2) Câu Lần nào trở về với bà, Thanh cũng thấy bình yên và thong thả như thế có mấy
động từ, tính từ?
a. Một động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ
b. Hai động từ, 2 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
12
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4

c. Hai động từ, 1 tính từ. Các từ đó là: - Động từ
- Tính từ
3) Câu Cháu đã về đấy ư ? được dùng làm gì?
a. Dùng đề hỏi.
b. Dùng để yêu cầu, đề nghị.
c. Dùng thay lời chào.
4) Trong câu Sự im lặng làm Thanh mãi mới cất được tiếng gọi khẽ” bộ phận nào là chủ
ngữ?
a. Thanh
b. Sự yên lặng
c. Sự yên lặng làm Thanh.
Kết quả thu được: Tổng só lớp 4B có 36 em.

Giỏi Khá Trung bình Yếu
SL % SL % SL % SL %
14 39,2 16 44,8 6 16 0 0
C. DẠY THỰC NGHIỆM TRÊN LỚP ĐỐI CHỨNG.
Không chỉ dừng lại phạm vi nghiên cứu trong lớp, tôi đã áp dụng kinh nghiệm đổi mới
này vào lớp cùng khối là lớp 4C (lớp đối chứng). Lớp 4C có 35 học sinh. Trước tiên tôi sử dụng
ngay bài khảo sát của lớp 4B (lớp tôi dạy) ở giai đoạn cuối để khảo sát lớp 4A, kết quả thu được
như sau:
Giỏi : 7 em chiếm 20%
Khá : 9 em chiếm 25,6%
TB : 11 em chiếm 31,4%
Yếu : 8 em chiếm 23%
Điều này chứng tỏ phương pháp tổ chức cho học sinh học các bài tập Luyện từ và câu là
rất quan trọng, nó quyết định rất nhiều đến kết quả học tập của học sinh. Cùng với việc nghiên
cứu của mình, kết hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp, phổ biến kinh nghiệm tổ chức phương pháp
dạy học tốt cho học sinh xác định rõ yêu cầu của bài, tổ chức cho các em được hoạt động có hiệu
quả, học sinh được hướng dẫn thực hành phù hợp với nội dung từng bài. Dần dần các em đã hình

thành được thói quen làm việc có kế hoạch, linh hoạt với từng dạng bài.
Sau một thời gian hướng dẫn lớp 4C, tôi ra một đề khảo sát.
Đề bài:Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao. Màu vàng trên lưng chú lắp lánh, bốn
cánh mỏng như giấy bông. Cái đầu tròn và hai con mắt long lanh như thuỷ tinh.
Hãy xác định: Từ đơn, từ ghép, từ láy.
Trong các từ đó đâu là danh từ, động từ, tính từ.
Đătl một câu với 1 từ đơn, từ ghép, từ láy em vừa tìm được.
Kết quả đạt được như sau:
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
13
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Giỏi : 11 em chiếm 31,4%
Khá : 15 em chiếm 43,6%
TB : 05 em chiếm 14%
Yếu : 04 em chiếm 11%
Với kết quả thu được ở việc dạy thực nghiệm trên lớp đối chứng tôi càng vững vàng tin
tưởng vào việc vận dụng phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học
sinh lớp 4 có hiệu quả.
IV. KẾT QUẢ, HIỆU QUẢ NGHIÊN CỨU ĐẠT ĐƯỢC.
Thực hiện đề tài này, khi học sinh đã được củng cố, khắc sâu, mở rộng và rèn kĩ năng
luyện tập thực hành về các dạng bài tập Luyện từ và câu lớp 4 tôi thấy kết quả của việc làm đó
như sau:
- Học sinh được tổ chức hoạt động một cách độc lập, tìm tòi kiến thức, tầm nhận thức đối
với mọi đối tượng học sinh là phù hợp, nên học sinh tiếp thu một cách có hiệu quả.
- Các em biết dựa vào kiến thức lý thuyết để vận dụng làm các bài tập một cách chủ
động.
- Với phương pháp tổ chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc có cơ sở, được
đối chứng qua nhận xét của bạn, của giáo viên.
- Các em đã hình thành được thói quen đọc kỹ bài, xác định yêu cầu của bài. Không còn
tình trạng bỏ sót yêu cầu của đề bài.

- Học sinh có ý thức rèn cách trình bày sạch sẽ, khoa học, biết dùng từ đặt câu hợp lý.
Ngoài ra học sinh còn có thêm thói quen kiểm tra, soát lại bài của mình.
- Qua việc giảng dạy theo dõi kết quả của học sinh qua các giờ kiểm tra, bài kiểm tra định
kỳ của học sinh tôi thấy: Học sinh sẵn sàng đón nhận môn Luyện từ và câu bất kỳ lúc nào. Đó
cũng nói lên học sinh đã bắt đầu yêu thích môn học, mạnh dạn nêu ý kiến của mình.
- Tuy kết quả tôi nêu trên hết sức sơ lược và ở phạm vi nhỏ, song nó cũng góp phần động
viên tôi trong công tác giảng dạy học sinh nói chung, phát hiện bồi dưỡng những học sinh khá,
giỏi, phụ đạo học sinh yếu nói riêng. Bé nhỏ như vậy nhưng vô cùng quan trọng đối với một giáo
viên còn non nớt kinh nghiệm như tôi trong việc tháo gỡ khó khăn, trong việc tìm ra phương
pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luện từ và câu cho học sinh của mình.
V. ĐÁNH GIÁ PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA SÁNG KIẾN
Khi tụi thực hiện đề tài này và áp dụng vào quá trình giảng dạy, với phương pháp tổ
chức này học sinh nắm kiến thức một cách sâu sắc có cơ sở được đối chứng qua nhận xét của
Ban giám hiệu và các bạn đồng nghiệp, và được áp dung trong toàn trường.
VI. NHỮNG ĐỀ XUẤT.
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
14
Phương pháp tổ chức dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
Dạy các dạng bài tập Luyện từ và câu là nguồn cung cấp vốn từ, lối diễn đạt bồi dưỡng tư
duy văn học cho học sinh. Muốn vậy:



Đối với học sinh:
+ Học sinh trong quá trình học tập cần đề ra phương pháp học tập cho minh.
+ Các em cần quan tâm, xác định được tầm quan trọng của môn này. Các em cần được
động viên, khích lệ kịp thời, đúng lúc của mọi người để kích thích các em có nhiều cố gắng vươn
lên trong học tập, đó chính là gia đình nhà trường xã hội.




Đối với giáo viên:
+ Không ngừng học hỏi tìm tòi tích luỹ kinh nghiệm từ đồng nghiệp, từ thông tin, sách
vở và từ chính học sinh.
+ Nắm chắc nội dung chương trình, ý đồ của sách giáo khoa, dạy sát đối tượng học sinh,
lựa chọn phương pháp hình thức tổ chức phù hợp với mỗi dạng bài.
+ Cần xác định không phải dạy bài khó, bài nâng cao thì học sinh mới giỏi.
+ Đặc biệt phải tâm huyết với nghề, luôn đặt học sinh là trung tâm, có trách nhiệm với
việc học của học sinh và bài dạy của mình. Động viên gần gũi giúp đỡ học sinh.



Đối với nhà trường và các cấp quản lý:
+ Nhà trường cần tạo điều kiện cơ sở vật chất để giáo viên và học sinh có thể học tập
nâng cao kiến thức.
+ Tạo điều kiện để giáo viên nâng cao tay nghề qua việc cung cấp các loại sách tham
khảo, trang thiết bị phục vụ bộ môn.
+ Động viên khuyến khích kịp thời những giáo viên, học sinh đạt nhiều thành tích cao
trong giảng dạy và học tập.
+ Quan tâm xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Rất mong sự góp ý của các đồng nghiệp để chúng ta có hương giải quyết tiếp theo cho việc
nâng cao chất lượng dạy và học phân môn Luyện từ và câu nói riêng và phân môn Tiếng Việt nói
chung, góp phần giáo dục học sinh trở thành con người phát triển toàn diện.
Xin chân thành cảm ơn!
Người viết sáng kiến
Thủ trưởng đơn vị
(Ký, ghi rừ họ tên)
Nguyễn Hoàng Anh
GV: Nguyễn Hoàng Anh Sáng kiến kinh nghiệm
15

×