Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Nâng cao chất lượngcho vay tiêu dùng tại Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.88 KB, 36 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây, với việc thúc đẩy mạnh mẽ công cuộc đổi mới kinh tế, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, trên 8%/năm. Trong quá trình hội nhập mạnh mẽ với nền kinh
tế thế giới, nền kinh tế trong nước đang có những chuyển biến tích cực phù hợp với xu thế phát triển chung. Đặc
biệt, kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên của WTO thì dấu ấn của sự hội nhập càng trở nên rõ nét hơn trong
nền kinh tế nước ta.
Trong hoàn cảnh nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống người dân ngày càng tăng cao, nhu cầu vay tiêu dùng
của người dân cũng ngày một lớn. Những năm trở lại đây, hoạt động cho vay tiêu dùng mang một vai trò quan
trọng trong dịch vụ ngân hàng, cho vay tiêu dùng đóng góp một phần lợi nhuận không nhỏ trong hoạt động cho
vay của ngân hàng. Người tiêu dùng với mức thu nhập ngày càng ổn định và được cải thiện, cùng với trình độ
dân trí và mức sống cao, hứa hẹn sẽ thúc đẩy hoạt động cho vay tiêu dùng ngày càng phát triển.
Tuy vậy, hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt Nam vẫn có những hạn chế nhất định như định mức cho vay tiêu
dùng tối đa còn thấp, thời hạn cho vay tiêu dùng ngắn, chính sách và thủ tục cho vay tiêu dùng còn phức tạp và
hạn chế, chưa hấp dẫn được lượng đông đảo KH tương xứng với vị thế và tiềm năng của các ngân hàng tại Việt
Nam.
Ngân hàng Công Thương Việt Nam là Ngân hàng thương mại Quốc doanh , cũng là một trong những ngân hàng
hàng đầu về quy mô và chất lượng đang hoạt động tại Việt Nam. Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình là
đơn vị thành viên của hệ thống Ngân Hàng Công Thương trên cả nước, có nhiệm vụ thay mặt Ngân Hàng Công
Thương trực tiếp kinh doanh trên địa bàn Quận Ba Đình. Trên thực tế, tiềm năng phát triển của kinh tế Quận Ba
Đình và nhu cầu vay tiêu dùng tại đây còn rất lớn. Sự phát triển của nền kinh tế cũng như nhu cầu tiêu dùng của
người dân nhất thiết phải có sự hỗ trợ của các ngân hàng. Bởi vậy, cho vay tiêu dùng là một thị trường tiềm năng
đối với các NHTM nói chung và Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình nói riêng trong thời gian tới.
Trước bối cảnh đó, Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của
việc thiết lập quan hệ với khu vực KH vay tiêu dùng tại địa bàn. Chi nhánh là đơn vị tiên phong trong khối
NHTM Nhà nước thành lập phòng tín dụng dành riêng cho KH cá nhân, nhằm nâng cao chất lượng của hoạt động
cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên, cho đến nay, hoạt động cho vay tiêu dùng của chi nhánh vẫn còn nhiều tiềm năng
cần khai thác. Do đó, việc tìm hiểu thực trạng cho vay tiêu dùng của chi nhánh và đưa ra những giải pháp nhằm
khắc phục hạn chế, nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng là rất cần thiết. Vì lý do trên, đề tài “Nâng cao chất
lượng cho vay tiêu dùng tại Chi Nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình” đã được lựa chọn nghiên cứu.
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, kết cấu đề tài được chia thành 3 chương:
• Chương 1: Hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM - những vấn đề lý luận cơ bản


• Chương 2: Thực trạng cho vay tiêu dùng của Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình
• Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương
Ba Đình
CHƯƠNG 1. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG
CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI - NHỮNG
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
1. Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại
1.1.1 Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại
Trong hệ thống tài chính, vốn được chuyển từ người cho vay đến người đi vay theo hai con đường: tài chính trực
tiếp và tài chính gián tiếp. Tài chính trực tiếp được thực hiện trên thị trường tài chính. Còn tài chính gián tiếp
được thực hiện thông qua các trung gian tài chính. Trung gian tài chính bao gồm các ngân hàng và các tổ chức tài
chính phi ngân hàng như công ty bảo hiểm, công ty tài chính…
Ngân hàng(NH) là tổ chức tài chính trung gian thực hiện việc chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Các loại NH bao
gồm: Ngân hàng thương mại(NHTM), NH phát triển, NH đầu tư, NH chính sách, NH hợp tác… Trong đó,
NHTM là loại hình chiếm tỷ trọng lớn nhất về số lượng, thị phần và quy mô tài sản. Dựa trên những loại hình
dịch vụ mà NH cung cấp thì có thể định nghĩa NH là “tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Các dịch vụ tài chính mà NHTM cung cấp là
đa dạng nhất. Do đó, NHTM có vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế.
Ðiều 20 Luật các tổ chức tín dụng (luật số 02/1997/QH 10): Ngân hàng thương mại là loại ngân hàng trực tiếp
giao dịch với các công ty, xí nghiệp, tổ chức kinh tế, cơ quan đoàn thể và các cá nhân bằng việc nhận tiền gửi,
tiền tiết kiệm… cho vay và cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên.
Ðạo luật ngân hàng của Pháp (1941): Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp
thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng
tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính.
Như vậy ngân hàng thương mại là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị
trường. Nhờ hệ thống định chế này mà các nguồn tiền vốn nhàn rỗi sẽ được huy động, tạo lập nguồn vốn tín dụng
to lớn để có thể cho vay phát triển kinh tế.
Hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam:

• Ngân hàng thương mại Quốc doanh: Là ngân hàng thương mại được thành lập bằng 100% vốn ngân
sách nhà nước. Thuộc loại này bao gồm:
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam (Bank for Agriculture and Rural Development -
AGRIBANK), hiện nay 100% vốn của Nhà nước và đến 2008 sẽ cổ phần hóa.
Ngân hàng công thương Việt nam (Vietnam Industrial and commercial Bank – VietIncombank) hiện nay 100%
vốn của Nhà nước và dự định cổ phần hóa vào năm 2008.
Ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam (Bank for Investement and Development of Viet nam – BIDV), hiện nay
100% vốn của Nhà nước, dự định sẽ cổ phần hóa vào năm 2008.
Ngân hàng ngoại thương Việt nam (Bank for Foreign Trade of Viet nam – Vietcombank), trong tình hình hiện nay
để tăng nguồn vốn và phù hợp với xu thế hội nhập tài chính với thế giới Ngân hàng ngoại thương Việt nam đã
thực hiện cổ phần hóa nhằm tăng sức cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng cổ
phần hiện nay. Sau phiên đấu giá cổ phần ngày 27/12/2007(1) Vietcombank chính thức trở thành Ngân hàng
thương mại cổ phần quốc doanh đầu tiên tại Việt Nam.
• Ngân hàng thương mại cổ phần (Joint Stock Commercial bank): Là ngân hàng thương mại được thành
2
lập dưới hình thức công ty cổ phần. Trong đó một cá nhân hay pháp nhân chỉ được sở hữu một số cổ phần nhất
định theo qui định của ngân hàng nhà nước Việt nam.
• Ngân hàng liên doanh (thuộc loại hình tổ chức tín dụng liên doanh)
Là Ngân hàng được thành lập bằng vốn liên doanh giữa một bên là ngân hàng thương mại Việt nam và bên khác
là ngân hàng thương mại nước ngoài có trụ sở đặt tại Việt nam, hoạt động theo pháp luật ở Việt nam
• Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo pháp luật nước ngoài, được phép
mở chi nhánh tại việt nam, hoạt động theo pháp luật việt nam
(1) www.vneconomy.vn
Vai trò của Ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là định chế tài chính trung gian quan trọng vào loại bậc nhất trong nền kinh tế thị trường.
NHTM thúc đẩy hiệu quả hoạt động của hệ thống tài chính. Thông qua NHTM những người có món tiết kiệm
nhỏ nhận được thu nhập từ tiền lãi cho vay, đồng thời những người cần vay các món tiền nhỏ có thể vay được
tiền. Điều này không thể có được ở thị trường tài chính. NH làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến
khích tiết kiệm, đồng thời giảm chi phí đi vay cho người đầu tư, từ đó khuyến khích sản xuất, đầu tư. Chính vì
thế, luồng vốn được luân chuyển dễ dàng và thường xuyên hơn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội.

NHTM là tổ chức thu hút tiền gửi tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Tất cả các chủ thể trong nền
kinh tế, từ cá nhân, hộ gia đình đến các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội đều có tiền gửi tại NH. Do đó, các
nguồn tiền nhàn rỗi nằm rải rác trong xã hội được tập trung lại, được sử dụng để đáp ứng nhu cầu vốn kinh
doanh, vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu dùng của xã hội.
Tín dụng NHTM là nguồn tài chính quan trọng đối với các công ty, các cá nhân, hộ gia đình và cả Chính phủ.
Các khoản tín dụng mà NH cung cấp được sử dụng để mua hàng hóa dịch vụ, đầu tư, mở rộng sản xuất kinh
doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng…
Ngày nay, NHTM là thủ quỹ và trung gian thanh toán lớn nhất ở mỗi quốc gia. NHTM đứng ra làm trung gian
thanh toán giữa các KH. Nhiều hình thức thanh toán hiện đại đã góp phần làm giảm lượng tiền mặt lưu hành,
giảm chi phí in ấn, bảo quản tiền, tiết kiệm chi phí về giao dịch thanh toán. Chính vì thế, NHTM có đóng góp lớn
trong việc đẩy nhanh tốc độ luân chuyển tiền – hàng, thúc đẩy sự phát triển của quan hệ thương mại, tài chính
quốc tế.
Bên cạnh đó, NHTM thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ. Vì vậy, NHTM là kênh quan
trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ.
Tóm lại, sự có mặt của NHTM trong hầu hết các hoạt động kinh tế xã hội đã khẳng định rằng: NHTM là định chế
tài chính không thể thiếu được trong nền kinh tế. Hoạt động của NHTM có vai trò lớn đối với sự hoàn thiện của
hệ thống tài chính, thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
1.1.1.2 Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
* Hoạt động huy động vốn
Nghiệp vụ huy động nguồn vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với
bản thân NH cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, NHTM được phép
sử dụng những công cụ và biện pháp cần thiết mà luật pháp cho phép để huy
động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội làm nguồn vốn tín dụng để cho vay
đối với nền kinh tế.
Thành phần nguồn vốn của ngân hàng thương mại bao gồm:
- Vốn điều lệ
- Các quỹ dự trữ
- Vốn huy động
- Vốn đi vay
- Vốn tiếp nhận

- Vốn khác
• Vốn điều lệ và các quỹ:
Vốn điều lệ, các quỹ của NH được gọi là vốn tự có của NH là nguồn vốn khởi đầu và được bổ sung trong quá
trình hoạt động
Vốn điều lệ của NH trước hết được dùng để:
Xây dựng nhà cửa, văn phòng làm việc, mua sắm tài sản, trang thiết bị nhằm tạo cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt
động của ngân hàng, số còn lại để đầu tư, liên doanh, cho vay trung và dài hạn
Các quỹ dự trữ của NH: đây là các quỹ bắt buộc phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng,
các quỹ này được trích lập theo tỷ lệ qui định trên số lợi nhuận ròng của ngân hàng, bao gồm:
- Quỹ dự trữ : được trích từ lợi nhuận ròng hằng năm để bổ sung vốn điều lệ
- Quỹ dự phòng tài chính: Quỹ này để dự phòng bù đắp rủi ro, thu lỗ trong hoạt động của ngân hàng
- Quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ
- Quỹ khen thưởng phúc lợi.
- Lợi nhuận để lại để phân bổ cho các quỹ. Chênh lệch tỷ giá, đánh giá lại tài sản, nguồn vốn đầu tư XDCB.
Vốn tự có của NH là yếu tố tài chính quan trọng bậc nhất, nó vừa cho thấy qui mô của NH vừa phản ánh khả
năng đảm bảo các khoản nợ của NH đối với KH.

• Vốn huy động:
Ðây là nguồn vốn chủ yếu của các NHTM, thực chất là tài sản bằng tiền của các sở hữu chủ mà NH tạm thời
quản lý và sử dụng nhưng phải có nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi KH yêu cầu. Nguồn vốn huy động là
nguồn tài nguyên to lớn nhất, bao gồm:
- Tiền gửi không kỳ hạn của các tổ chức, cá nhân
- Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn
- Tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn
- Tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu
- Các khoản tiền gửi khác
Ðối với tiền gửi của cá nhân và đơn vị, ngoài lãi suất, thì nhu cầu giao dịch với những tiện lợi nhanh chóng và an
toàn là yếu tố cơ bản để thu hút nguồn tiền này. Ðối với tiền gửi tiết kiệm, tiền phát hành kỳ phiếu, trái phiếu thì
lãi suất là yếu tố quyết định và người gửi tiết kiệm hay mua kỳ phiếu đều nhằm mục đích kiếm lời
Tiền gửi của KH là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, thường chiếm tỷ trọng hơn 50% tổng nguồn vốn của NH.

Nghiệp vụ đầu tiên của NH khi đi vào hoạt động là mở tài khoản TG để giữ hộ và thanh toán hộ cho KH. Chính
nhờ nghiệp vụ này mà NH huy động được lượng tiền nằm rải rác trong xã hội. NHTM nhận TG từ các tổ chức, cá
nhân và các tổ chức tín dụng khác.
Đặc điểm chung của TG là phải được thanh toán khi có yêu cầu của KH, ngay cả khi đó là TG có kỳ hạn chưa
đến hạn. Quy mô và cơ cấu TG cũng phụ thuộc nhiều vào những biến động về lãi suất, tỷ lệ lạm phát và thu nhập
của KH. Vì thế, đây là nguồn kém ổn định, đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ của NH. Đặc biệt, sự cạnh tranh trong lĩnh
vực huy động vốn ngày càng gay gắt, các NH phải không ngừng đa dạng hoá các loại hình TG, đưa ra chế độ lãi
suất hấp dẫn để gia tăng số lượng và nâng cao chất lượng các khoản TG từ KH.
4
• Vốn đi vay:
Nguồn vốn đi vay có vị trí quan trọng trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại. Thuộc loại này bao gồm:
- Vốn vay trong nước:
- Vay ngân hàng trung ương: NHTW sẽ tiếp vốn cho ngân hàng thương mại thông qua biện pháp chiết khấu, tái
chiết khấu nếu các hồ sơ tín dụng cùng các chứng từ xin tái chiết khấu có chất lượng. Làm như vậy, NHTW sẽ trở
thành chỗ dựa và là người cho vay cuối cùng đối với ngân hàng thương mại. Việc vay vốn NHTW còn tuỳ thuộc
vào chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ
- Vay các ngân hàng thương mại khác thông qua thị trường liên ngân hàng
- Vốn vay ngân hàng nước ngoài
Khác với việc nhận TG, NHTM không thường xuyên đi vay mà chỉ vay khi cần thiết. Việc đi vay chủ yếu nhằm
đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
NHTM phát hành các giấy nợ như tín phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi để huy động vốn của tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước. Với nghiệp vụ này, NH có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn.
Đây là nguồn tài trợ quan trọng cho nhu cầu vay trung dài hạn của KH. Khả năng huy động vốn loại này phụ
thuộc nhiều vào trình độ phát triển của thị trường tài chính và uy tín của mỗi NH.
So với tiền gửi, tỷ trọng của tiền vay trong tổng nguồn vốn thường thấp hơn. Song, tiền vay lại có tính ổn định
cao hơn bởi nó chỉ phải hoàn trả khi đến hạn. Hơn nữa, các khoản vay có thời hạn và quy mô xác định trước, NH
hoàn toàn chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu của mình.
• Vốn tiếp nhận:
Ðây là nguồn tiếp nhận từ các tổ chức tài chính ngân hàng, từ ngân sách nhà nước… để tài trợ theo các chương
trình, dự án về phát triển kinh tế xã hội, cải tạo môi sinh… nguồn vốn này chỉ được sử dụng theo đúng đối tượng

và mục tiêu đã được xác định.
• Vốn khác:
Bên cạnh tiền gửi và tiền vay, NH còn có một lượng vốn khác, tuy chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng cũng góp phần làm
tăng nguồn vốn cho các NHTM. Đó là các nguồn vốn phát sinh trong quá trình hoạt động của ngân hàng: đại lý,
chuyển tiền, các dịch vụ ngân hàng, vốn uỷ thác, vốn trong thanh toán… Các loại vốn này có thời gian sử dụng
đôi khi rất ngắn nhưng NH không phải tốn chi phí huy động, lại có điều kiện tốt để phát triển các nghiệp vụ và
dịch vụ khác, phục vụ tốt nhất nhu cầu của KH.
Như vậy nghiệp vụ huy động vốn là hoạt động tạo ra nguồn chủ yếu của các NHTM. Bởi vậy, hoạt động huy
động và quản lý vốn luôn là vấn đề mà các NHTM đặt lên hàng đầu. Chất lượng và số lượng của nguồn vốn huy
động được chính là nhân tố tác động lớn nhất tới hoạt động sử dụng vốn của NHTM.
* Hoạt động sử dụng vốn
Trên cơ sở lượng vốn huy động được, NHTM tiến hành sử dụng vốn để tạo ra lợi nhuận. Nghiệp vụ cho vay và
đầu tư là nghiệp vụ sử dụng vốn quan trọng nhất, quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của ngân hàng
thương mại. Các hoạt động sử dụng vốn của NHTM bao gồm:
- Dự trữ
- Cấp tín dụng
- Ðầu tư
- Các hoạt động sử dụng vốn khác
• Dự trữ:
Hoạt động tín dụng của ngân hàng nhằm mục đích kiếm lời, song cần phải bảo đảm an toàn để giữ vững được
lòng tin của KH. Muốn có được sự tin cậy về phía KH, trước hết phải bảo đảm khả năng thanh toán: đáp ứng
được nhu cầu rút tiền của KH. Muốn vậy các ngân hàng phải để dành một phần nguồn vốn không sử dụng nó để
sẵng sàng đáp ứng nhu cầu thanh toán. Phần vốn để dành này gọi là dự trữ. NHTW được phép ấn định một tỷ lệ
dự trữ bắt buộc theo từng thời kỳ nhất định, việc trả lãi cho tiền gởi dự trữ bắt buộc do chính phủ qui định. Dự trữ
bao gồm:
- Dự trữ sơ cấp: bao gồm tiền mặt, tiền gửi tại ngân hàng TƯ, tại các ngân hàng khác
- Dự trữ thứ cấp: dự trữ không tồn tại bằng tiền mà bằng chứng khoán, nghĩa là các chứng khoán ngắn hạn có thể
bán để chuyển thành tiền một cách thuận lợi. Thuộc loại này gồm: tín phiếu kho bạc, hối phiếu đã chấp nhận, các
giấy nợ ngắn hạn khác. Dự trữ thứ cấp chỉ được sử dụng khi các khoản mục dự trữ sơ cấp bị cạn kiệt.
• Cấp tín dụng:

Số nguồn vốn còn lại sau khi để dành một phần dự trữ, các ngân hàng thương mại có thể dùng để cấp tín dụng
cho các tổ chức, cá nhân. Các hoạt động cấp tín dụng bao gồm:
- Cho vay
Là nghiệp vụ tín dụng của NHTM. Trong đó NHTM sẽ cho người đi vay vay một số vốn để sản xuất kinh doanh,
đầu tư hoặc tiêu dùng trong một khoảng thời gian thoả thuận trước. KH muốn vay được vốn phải tuân thủ những
điều kiện nhất định, những ràng buộc pháp lý để đảm bảo NH có thể thu hồi vốn khi đến hạn. Người đi vay có ý
thức trả nợ cho nên bắt buộc họ phải quan tâm đến việc sử dụng vốn có hiệu quả để hoàn trả nợ vay. Các khoản
cho vay là loại tài sản kém lỏng hơn so với các tài sản khác, lại có rủi ro vỡ nợ cao hơn, tuy nhiên NH lại có được
lợi tức cao nhất từ chính các món cho vay. Để đảm bảo hoạt động cho vay của NH an toàn và đạt hiệu quả
cao,khi cho vay các ngân hàng sử dụng các biện pháp bảo đảm vốn vay như: thế chấp, cầm cố …
- Chiết khấu
Ðây là nghiệp vụ cho vay gián tiếp, NH sẽ cung ứng vốn tín dụng cho một chủ thể và một chủ thể khác thực hiện
việc trả nợ cho ngân hàng. Các loại chiết khấu bao gồm hối phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu và các giấy nợ có giá
khác.
- Cho thuê tài chính
Là loại hình tín dụng trung, dài hạn. Trong đó NH dùng vốn của mình hay vốn do phát hành trái phiếu để mua tài
sản, thiết bị theo yêu cầu của người đi thuê và tiến hành cho thuê trong một thời gian nhất định.
- Bảo lãnh ngân hàng
Trong loại hình nghiệp vụ này KH được NH cấp bảo lãnh được vay vốn ở ngân hàng khác hoặc thực hiện hợp
đồng kinh tế đã ký kết
- Các hình thức khác
• Ðầu tư
Hoạt động đầu tư có vị trí quan trọng thứ hai sau hoạt động cho vay, nó mang lại khoản thu nhập lớn và đáng kể
cho NHTM. Trong nghiệp vụ này, NH dùng nguồn vốn của mình và nguồn vốn ổn định khác để đầu tư dưới các
hình thức như:
- Hùn vốn mua cổ phần, cổ phiếu của các Công ty; hùn vốn mua cổ phần chỉ được phép thực hiện bằng
vốn của ngân hàng
- Mua trái phiếu chính phủ, chính quyền địa phương, trái phiếu công ty…
Tất cả hoạt động đầu tư chứng khoán đều nhằm mục đích mang lại thu nhập, mặt khác nhờ hoạt động đầu tư mà
các rủi ro trong hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán, mặt khác đầu tư vào trái phiếu chính phủ thì mức độ rủi

ro sẽ rất thấp. Khi cần thiết, NH có thể bán chúng đi để gia tăng ngân quỹ. Các NHTM cũng thường nắm giữ
chứng khoán công ty để có quyền tham dự, kiểm soát hoạt động của các công ty đó.
• Các hoạt động sử dụng vốn khác
Các hoạt động sử dụng vốn còn lại mà NHTM được phép thực hiện là: liên doanh với tổ chức tín dụng nước
ngoài, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh vàng, ngoại hối, thành lập công ty trực thuộc, xây dựng hoặc mua
thêm nhà cửa để làm trụ sở văn phòng, trang thiết bị, máy móc, phương tiện vận chuyển, xây dựng hệ thống kho
quỹ…….Tuy nhiên, ngành NH là lĩnh vực nhạy cảm, có tác động đến mọi mặt của nền kinh tế nên các hoạt động
kinh doanh của NH đều chịu sự quản lý rất chặt chẽ của pháp luật.
* Hoạt động dịch vụ
Các dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở
rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho ngân hàng bàng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí… có vị trí
xứng đáng trong giai đoạn phát triển hiện nay của ngân hàng thương mại. Các hoạt động này bao gồm:
- Các dịch vụ thanh toán thu chi hộ cho KH (chuyển tiền, thu hộ séc, dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh
toán..)
- Nhận bảo quản các tài sản quí giá, các giấy tờ chứng thư quan trọng của công chúng
- Bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo uỷ nhiệm của KH
- Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng bạc đá quí
- Tư vấn tài chính, giúp đỡ các công ty, xí nghiệp phát hành cổ phiếu, trái phiếu…
6
Ba mặt hoạt động của NHTM có tác động qua lại lẫn nhau. Huy động vốn là tiền đề cho hoạt động dịch vụ và sử
dụng vốn. Sử dụng vốn an toàn, hiệu quả, đem lại lợi nhuận cao là cơ sở để NH huy động được nhiều vốn hơn.
Hoạt động dịch vụ có tác dụng thu hút thêm KH và quảng bá hình ảnh. Vì vậy, nó hỗ trợ rất nhiều công tác huy
động và sử dụng vốn. Thực hiện ba mảng hoạt động này một cách đồng bộ, hiệu quả chính là chìa khoá cho sự
thành công của NHTM trên thị trường.
1.1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Khái niệm hoạt động cho vay
Cho vay là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu (NHTM) sang người sử dụng (KH), sau
một thời gian nhất định lại quay về với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
Cho vay là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất của NHTM. Để NH tồn tại và phát triển vững chắc,
hoạt động cho vay phải an toàn và hiệu quả. Muốn vậy, nó phải được thực hiện theo những nguyên tắc nhất định.

Thứ nhất, KH vay vốn phải đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận. Điều này giúp hạn chế rủi ro
tín dụng cho NH. Thứ hai, KH phải đảm bảo hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thoả thuận trong
hợp đồng. Thứ ba, NH cho vay đối với những dự án khả thi, có hiệu quả và có khả năng hoàn trả nợ. Nhờ đó, NH
mới có được lợi nhuận từ việc cho vay.
Phân loại hoạt động cho vay
Cho vay được phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau.
Theo mục đích sử dụng vốn vay
• Cho vay nhằm mục đích sản xuất kinh doanh.
• Cho vay tiêu dùng.
Theo thời gian
• Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn đến 12 tháng.
• Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời hạn từ trên 12 đến 60 tháng.
• Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn trên 60 tháng trở lên.
Theo hình thức bảo đảm
• Cho vay có bảo đảm bằng tài sản
• Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản
Theo cách thức cho vay
• Cho vay trực tiếp
• Cho vay gián tiếp
Theo phương thức cho vay
• Cho vay thấu chi
• Cho vay trực tiếp từng lần
• Cho vay theo hạn mức
• Cho vay luân chuyển
• Cho vay trả góp
Hoạt động cho vay của NHTM có ý nghĩa lớn đối với nền kinh tế. Nó có tác dụng khuyến khích tiêu dùng, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh, tạo động lực cho sự tăng trưởng kinh tế. Nguồn vốn vay từ các NH rất quan trọng đối
với sự phát triển của các doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức kinh tế, đặc biệt nguồn vốn vay từ NH thúc đẩy
tiêu dùng và góp phần quan trọng đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân. Vậy tiêu dùng và nhu cầu tiêu dùng
của người dân có vai trò như thế nào trong nền kinh tế? Vì sao hoạt động cho vay tiêu dùng của NHTM lại có

tầm quan trọng đặc biệt? Điều này sẽ được trình bày ở phần tiếp theo.
2. Hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Cho vay tiêu dùng(CVTD) là việc Ngân Hàng Cho Vay giao cho KH một khoản tiền theo thoả thuận với nguyên tắc
có hoàn trả cả gốc và lãi trong một thời gian nhất định để sử dụng cho mục đích tiêu dùng, sinh hoạt và các nhu
cầu phục vụ đời sống(1). Nhìn chung, CVTD được coi là khoản tiền vay cấp cho các cá nhân, hộ gia đình để chi
dùng cho các mục đích không kinh doanh.
CVTD cho phép cá nhân, hộ gia đình được sử dụng trước khả năng mua hàng hoá của mình trong tương lai, tức
là tạo điều kiện thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trước khi họ có khả năng chi trả. Do đó ngoài việc nâng cao mức
sống về mặt vật chất, thì CVTD còn gián tiếp kích thích sản xuất.
Tại Việt Nam, cho vay tiêu dùng ra đời và phát triển muộn hơn thế giới rất nhiều. Hoạt động cho vay tiêu dùng đã
xuất hiện từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20. Nhưng phải đến sau năm 2000, khi nền kinh tế nói chung
và đời sống của người dân nói riêng có những bước chuyển rõ rệt, sắc nét thì loại hình tín dụng này mới thực sự
phát triển. Bên cạnh đó, cho vay tiêu dùng cũng nằm trong chiến lược đa dạng hoá các loại hình tín dụng, mở
rộng danh mục sản phẩm dịch vụ cũng như phân tán rủi ro của ngân hàng. Điều đó giúp ngân hàng gia tăng lợi
nhuận và quảng bá thương hiệu.
(1) Quy định cho vay tiêu dùng trong hệ thống NHCT
Đặc điểm cho vay tiêu dùng
Dịch vụ cho vay tiêu dùng của NHTM có thể là một trong những dịch vụ mang chi phí cao nhất với nhiều rủi ro
nhất vì tình hình tài chính của các cá nhân và hộ gia đình không ổn định, có thể thay đổi nhanh chóng tuỳ theo
tình trạng công việc hay sức khoẻ của họ. Do đó các khoản cho vay tiêu dùng luôn được quản lý một cách chặt
chẽ và linh hoạt.
• Đối tượng cho vay tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình. Nhu cầu vay vốn của những người này phụ
thuộc vào tình hình thu nhập, tài chính của họ. Do đó có thể chia ra thành 3 trường hợp phổ biến sau :
Các cá nhân có mức thu nhập thấp: nhu cầu tín dụng thường không cao, nó chỉ xuất hiện nhằm thoả mãn nhu cầu
gia đình tạo sự cân đối giữa thu nhập và chi tiêu.
Các cá nhân có mức thu nhập trung bình: nhu cầu tín dụng tiêu dùng phát triển mạnh do ý muốn vay mượn để
mua hàng tiêu dùng lớn hơn khoản tiền dự phòng của mình.
Các cá nhân có mức thu nhập cao: nhu cầu tín dụng tiêu dùng nảy sinh nhằm tăng thêm khả năng thanh toán hoặc
tài trợ chi tiêu khi mà nguồn vốn của họ đã nằm trong tài khoản đầu tư.

• Qui mô và số lượng các khoản vay tiêu dùng Các khoản CVTD thường có qui mô tương đối nhỏ so với
các khoản cho vay kinh doanh. Cho vay bất động sản có thể có giá trị lớn hơn, nhưng giá trị so sánh vẫn nhỏ hơn
các món vay khác tại Ngân hàng. Nguyên nhân chủ yếu do KH chỉ vay tiêu dùng khi đã có một lượng vốn tương
đối, chỉ vay ngân hàng để bổ sung số tiền còn thiếu. Tuy nhiên số lượng các khoản CVTD lại rất lớn do đối tượng
của loại hình cho vay này là mọi cá nhân trong xã hội với nhu cầu tiêu dùng đa dạng. Khi nền kinh tế phát triển,
nhu cầu tiêu dùng tăng cao, số lượng các khoản vay tiêu dùng sẽ càng nhiều thêm.
• Thời hạn vay Các khoản CVTD thường là ngắn và trung hạn do món vay có giá trị nhỏ và độ rủi ro cao.
• Nguồn trả nợ Nguồn trả nợ chủ yếu của khoản vay tiêu dùng chính là thu nhập của người đi vay, NH
thường xem xét mức thu nhập thường xuyên của KH để ra quyết định cho vay.
• Lãi suất cho vay tiêu dùng
Các khoản cho vay tiêu dùng có lãi suất cao hơn lãi suất cho vay trong các lĩnh vực khác. Nguyên nhân là do quy
mô của hợp đồng cho vay nhỏ lại khó quản lý hơn vì vậy chi phí cho vay của ngân hàng cao. Để bù đắp chi phí
này, tất nhiên, lãi suất cho vay sẽ cao. Bên cạnh đó, không như hầu hết các khoản cho vay kinh doanh hiện nay
với lãi suất thay đổi theo điều kiện thị trường, lãi suất cho vay tiêu dùng thường được cố định ở một mức nhất
định.
8
• Rủi ro cho vay tiêu dùng
Hình thức cho vay tiêu dùng chứa đựng độ rủi ro cao hơn so với việc tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
Rủi ro khách quan: Nguồn trả nợ chủ yếu của khoản vay tiêu dùng là từ thu nhập ổn định tại thời điểm hiện tại
của người vay, khả năng trả nợ của KH sẽ bị ảnh hưởng khi nền kinh tế gặp khó khăn, hoặc xảy ra những biến
động tiêu cực chung như thiên tai, mất mùa, thất nghiệp. Khả năng trả nợ vay tiêu dùng còn phụ thuộc vào tình
trạng sức khoẻ của KH, đặc biệt khi người vay chết thì NH sẽ rất khó để thu hồi được khoản nợ.
Ngoài ra CVTD có tính nhạy cảm theo chu kì kinh tế. Khi kinh tế tăng trưởng, người dân lạc quan về tương lai,
nhu cầu vay ngân hàng nhiều hơn, nhưng khi nền kinh tế suy thoái, đời sống trở nên khó khăn,người dân sẽ hạn
chế vay mượn NH hơn.
Rủi ro chủ quan: Thông tin tài chính của cá nhân và hộ gia đình thường khó đầy đủ và rõ ràng như thông tin về
doanh nghiệp (thông qua báo cáo tài chính thường niên, hoặc kiểm tra công tác kế toán), dẫn đến rủi ro đạo đức
và rủi ro thông tin không cân xứng. KH có thể không có thiện chí trả nợ cho NH mặc dù có khả năng thanh toán,
hoặc cung cấp thông tin không đầy đủ và trung thực nhằm đạt mục đích vay vốn.
• Chi phí cho vay tiêu dùng CVTD là một trong những khoản mục có chi phí lớn nhất trong danh mục cho

vay của NH. Do số lượng món vay nhiều, KH đông nhưng quy mô nhỏ, NH phải huy động nhiều nhân lực, từ
khâu tiếp nhận hồ sơ, thẩm định, quyết định cho vay, giải ngân, kiểm soát và thu nợ. Công tác quản lý các khoản
CVTD với số lượng lớn cũng phát sinh nhiều chi phí.
• Lợi nhuận từ cho vay tiêu dùng
Hiện nay mức lợi nhuận thu được từ các khoản cho vay tiêu dùng của các NHTM khá cao, chiếm tỉ trọng lớn
trong tổng lợi nhuận của NH. Số lượng các khoản vay tiêu dùng là rất lớn, thêm vào đó mức lãi suất CVTD cao
nên lợi nhuận của NH từ CVTD khá lớn.
Vì triển vọng về lợi nhuận cũng như phạm vi KH trong lĩnh vực CVTD là rất lớn nên đối với hầu hết các nước
phát triển hiện nay, CVTD đã trở thành một trong những nguồn thu chủ chốt của các NHTM, đóng vai trò chủ
đạo trong dịch vụ NH, mang ý nghĩa quan trọng trong quản lý NH. Khai thác lĩnh vực CVTD vẫn tiếp tục hứa
hẹn nhiều triển vọng trong tương lai. Tại các nước đang phát triển, CVTD cũng đang dần khẳng định được vai trò
của mình, đem lại những lợi nhuận không nhỏ trong hoạt động cho vay của NHTM.
• Các hình thức cho vay tiêu dùng
Rất nhiều phương thức cho vay được NHTM đưa ra nhằm tạo thuận lợi cho KH. Dựa vào nhu cầu vay của KH,
mức độ tín nhiệm của NH đối với KH, hai bên thoả thuận để lựa chọn một phương thức cho vay trong số các
phương thức sau:
Đối với cho vay tiêu dùng trực tiếp
Cho vay trả theo định kỳ: là phương thức trong đó KH vay vốn và trả trực tiếp cho NH với mức trả và thời gian
trả mỗi lần được quy định khi cho vay.
Thấu chi: là nghiệp vụ cho phép một cá nhân rút tiền từ tài khoản vãng lai của mình vượt quá số dư có tới một
hạn mức được thoả thuận.
Thẻ tín dụng: là nghiệp vụ trong đó NH phát hành thẻ cho những người có tài khoản ở NH đủ điều kiện cấp thẻ,
ấn định mức giới hạn tín dụng tối đa mà người có thẻ được phép sử dụng.
Đối với cho vay tiêu dùng gián tiếp
Tài trợ truy đòi toàn bộ: là hình thức khi bán cho Ngân hàng các khoản nợ mà người tiêu dùng đã mua chịu, công
ty bán lẻ sẽ cam kết thanh toán cho Ngân hàng toàn bộ nếu đến khi hết hạn người tiêu dùng không thanh toán cho
Ngân hàng.
Tài trợ truy đòi hạn chế: là phương thức trong đó công ty bán lẻ sau khi bán các khoản nợ do người tiêu dùng đã
mua chịu cho Ngân hàng sẽ cam kết thanh toán cho Ngân hàng một phần khoản nợ nếu khi đến hạn người tiêu
dùng không thanh toán cho Ngân hàng.

Tài trợ miễn truy đòi: là hình thức tài trợ mà sau khi bán các khoản nợ cho Ngân hàng, công ty bán lẻ không chịu
trách nhiệm cho việc chúng có được hoàn trả hay không. Phương thức này chứa đựng rủi ro rất cao nên khoản nợ
được lựa chọn rất kỹ và chỉ có các công ty bán lẻ đáng tin cậy mới áp dụng phương pháp này.
Tài trợ có mua lại: Khi thực hiện theo phương pháp này, nếu xảy ra rủi ro người tiêu dùng không trả nợ thì Ngân
hàng sẽ bán trở lại cho công ty bán lẻ phần nợ mình chưa được thanh toán kèm với tài sản đã được tiêu thụ trong
một thời gian nhất định.
Vai trò của hoạt động cho vay tiêu dùng
Hoạt động cho vay của NHTM có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế xã hội. Hoạt động cho vay giúp
khai thông dòng tài chính, để những luồng vốn được luân chuyển liên tục. Đối với nền kinh tế, việc NHTM cho
KH cá nhân vay vốn cho mục đích tiêu dùng còn có nhiều ý nghĩa hơn thế.
• Đối với Ngân hàng: Trước hết, CVTD giúp NH nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Như đã phân tích,
CVTD tuy có chi phí cao nhưng đồng thời cũng tạo ra lợi nhuận lớn hơn trên đồng vốn bỏ ra so với các hình thức
cho vay khác. CVTD cũng giúp NH thu hút KH sử dụng thêm các hình thức dịch vụ khác như
chuyển tiền hoặc sử dụng dịch vụ trả lương qua tài khoản tại Ngân hàng để thuận lợi cho hoạt động thanh toán lãi
theo kỳ hạn, sử dụng các dịch vụ thẻ, quảng bá thương hiệu NH thông qua KH. Khách hàng cũng có xu hướng sử
dụng kèm các dịch vụ tại NH mình đã có quan hệ tín dụng. Đây là điều kiện giúp NH nâng cao năng lực cạnh
tranh và mở rộng thị phần. Ngoài ra CVTD góp phần đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư, nâng cao thu nhập, phân
tán rủi ro cho NH.
• Đối với người tiêu dùng: CVTD giúp người tiêu dùng thoả mãn và nâng cao chất lượng tiêu dùng, cho
phép người tiêu dùng sử dụng trước khả năng thanh toán của mình trong tương lai, hưởng các dịch vụ tiện ích
trước khi có đủ nguồn tài chính, đặc biệt trong trường hợp chi tiêu cấp bách.
Trong những trường hợp cần gấp thì lãi suất cho vay của NH hợp lý hơn nhiều so với lãi suất vay “nóng” bên
ngoài thị trường. Thời hạn cho vay và phương thức trả nợ linh hoạt căn cứ vào khả năng trả nợ của KH. Điều
kiện và thủ tục để có được khoản vay tiêu dùng không quá phức tạp.
• Đối với nhà sản xuất: CVTD tạo điều kiện để người tiêu dùng có thể mua hàng hoá nhiều hơn và nhanh
hơn, giúp thúc đẩy quá trình sản xuất, rút ngắn vòng quay vốn, gia tăng lợi nhuận.
• Đối với toàn bộ nền kinh tế: Có thể nói, hoạt động CVTD là đòn bẩy kích thích sản xuất phát triển, tạo
điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống dân cư, góp phần thực hiện xoá đói giảm nghèo.
CVTD góp phần cải thiện môi trường thanh toán, giảm lượng tiền mặt lưu thông trên thị trường. Xét trên góc độ
kinh tế vĩ mô: dịch vụ ngân hàng bán lẻ đẩy nhanh quá trình lưu chuyển tiền tệ, tận dụng tiềm năng lớn trong dân

cư để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống người dân, hạn chế dùng tiền mặt và tiết kiệm chi phí thời gian, tiền
bạc cho xã hội
1.2.2 Quy trình cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Quy trình cho vay là tổng hợp các công việc cụ thể mà cán bộ tín dụng và các phòng ban có liên quan trong NH
phải thực hiện khi cấp vốn cho KH. Để chuẩn hoá quá trình tiếp xúc, phân tích, cho vay và thu nợ, mỗi NHTM
thường xây dựng cho mình một quy trình cho vay. Giữa các NH, quy trình ấy có thể có sự khác biệt, tuỳ thuộc
vào đặc điểm và khả năng tổ chức quản lý của NH, tuy nhiên nhìn chung đều bao gồm 6 bước sau:
Bước 1 Nhận hồ sơ tín dụng: KH có nhu cầu vay vốn đến NH làm thủ tục xin vay. Tại đây cán bộ tín dụng
hướng dẫn cho KH cách lập hồ sơ đầy đủ và đúng quy định, hồ sơ tín dụng thường bao gồm: hồ sơ pháp lý, hồ sơ
kinh tế và hồ sơ vay.
Bước 2 Thẩm định tín dụng: Đây là khâu quan trọng trong quá trình cho vay tiêu dùng, quyết định đến chất
lượng tín dụng. Cán bộ tín dụng thẩm định sai sẽ đưa ra quyết định sai. Quá trình thẩm định bao gồm :
- Thẩm định đặc điểm nguồn vay
- Thẩm định mục đích sử dụng vốn vay
- Thẩm định tình hình tài chính và khả năng thanh toán của KH
- Thẩm định tài sản đảm bảo
Bước 3 Xét duyệt và quyết định cho vay: Sau quá trình thẩm định, cán bộ tín dụng thông báo lại với cấp trên để
trình lên hội đồng xét duyệt, đưa ra quyết định cho vay. Sau khi đã quyết định, Ngân hàng phải lập văn bản thông
báo cho KH biết rõ nội dung (nếu không cho vay phải ghi chi tiết lý do).
Bước 4 Hoàn tất thủ tục pháp lý và tiến hành giải ngân:
Sau khi xét duyệt và quyết định cho vay, NH và KH tiến hành kí kết hợp đồng tín dụng
Các yếu tố chủ yếu của một hợp đồng tín dụng là:
• Khách hàng: họ tên, địa chỉ, tư cách pháp nhân (nếu có).
10
• Mục đích sử dụng: KH phải ghi rõ khoản vay được sử dụng để làm gì.
• Số tiền hoặc hạn mức tín dụng mà NH cam kết cấp cho KH.
• Lãi suất áp dụng: mức lãi suất mà KH phải trả, lãi suất cố định hay thay đổi, các điều kiện thay đổi lãi
suất.
• Mức phí để có được cam kết tín dụng từ NH, tính theo tỷ lệ phần trăm trên hạn mức cam kết.
• Thời hạn cho vay: là thời hạn mà trong đó NH cấp tín dụng cho KH, tính từ lúc đồng vốn đầu tiên của

NH được phát ra đến lúc đồng vốn và lãi cuối cùng được NH thu về.
• Các loại đảm bảo: các nội dung như định giá, bảo hiểm, quyền sở hữu, quyền chuyển nhượng hoặc bán,
quyền sử dụng các đảm bảo… đều phải được quy định rõ trong hợp đồng.
• Điều kiện và kỳ hạn giải ngân.
• Cách thức, thời điểm thanh toán gốc và lãi.
Các điều kiện khác: kiểm soát vật thế chấp, kiểm soát hoạt động kinh doanh của người vay, điều kiện phát mại tài
sản, phạt vi phạm hợp đồng…
Sau khi kí kết hợp đồng tín dụng, NH tiến hành giải ngân cho KH.
Bước 5 Kiểm tra trong quá trình cho vay: Sau khi giải ngân cho KH, NH phải kiểm soát xem KH có sử dụng tiền
vay đúng mục đích hay không. Việc thu thập thông tin về KH :
Tất cả thông tin phản ánh theo chiều hướng tốt thể hiện chất lượng tín dụng đang được đảm bảo.
Nếu chất lượng khoản vay đang bị đe dọa cần có biện pháp xử lý kịp thời.
Ngân hàng có quyền thu hồi nợ trước hạn, ngừng giải ngân nếu bên đi vay vi phạm hợp đồng tín dụng.
Bước 6 Thu hồi nợ hoặc đưa ra quyết định tín dụng mới: Khi KH đã trả hết nợ gốc và lãi đúng hạn, quan hệ tín
dụng giữa Ngân hàng và KH sẽ kết thúc. Tuy nhiên bên cạnh các khoản tín dụng an toàn, vẫn tồn tại các khoản
tín dụng mà đến thời điểm hoàn trả KH không trả được nợ. Cho nên Ngân hàng phải tìm hiểu nguyên nhân và
đưa ra quyết định mới: có cho KH gia hạn nợ hay là bán tài sản đảm bảo để bù đắp rủi ro.
Tóm lại, quy trình cho vay cần được xây dựng sao cho phù hợp với các quy định của pháp luật, với từng nhóm
KH, và với từng loại cho vay của NH. Quy trình cho vay phải đảm bảo để NH có đủ các thông tin cần thiết nhưng
không gây phiền hà cho KH. Một quy trình cho vay được xây dựng hợp lý sẽ làm tăng hiệu quả hoạt động, giảm
thiểu rủi ro và nâng cao doanh lợi của NH.
1.2.3. Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của Ngân hàng thương mại
* Khái niệm nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Chất lượng của các khoản cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại thể hiện ở hiệu quả sử dụng vốn của
người vay tiêu dùng. Khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích, đạt được nhu cầu tiêu dùng thông qua sự tài
trợ của ngân hàng. Chất lượng cho vay tiêu dùng tốt giúp ngân hàng thu hồi được gốc và lãi, bù đắp chi phí và
thu được lợi nhuận. Điều này có nghĩa là ngân hàng vừa tạo ra hiệu quả kinh tế lại tạo được hiệu quả xã hội,tác
động rất tích cực tới sự phát triển kinh tế. Tuy nhiên, vay vốn NH vẫn đang là khó khăn lớn của người tiêu dùng.
Không kể nguồn vốn vay tại NH, để thoả mãn và nâng cao nhu cầu tiêu dùng, người tiêu dùng thường phải vay
mượn từ những nguồn không chính thức. Nguồn vốn này mang tính chắp vá, không ổn định, và chi phí cao, gây

ảnh hưởng tới đời sống người tiêu dùng, và tác động xấu đến nền kinh tế. Chính vì vậy, vấn đề quan trọng hiện
nay là làm thế nào đển nâng cao chất lượng CVTD của NHTM.
Nâng cao chất lượng CVTD là việc NHTM cải thiện hiệu quả vốn vay tiêu dùng của KH cá nhân cho mục đích
tiêu dùng, qua đó thu hút thêm nhiều KH đến với NH. Nâng cao chất lượng CVTD biểu hiện ở sự gia tăng tổng
dư nợ, tổng doanh số cho vay, giảm tỷ lệ nợ quá hạn, tăng trưởng số lượng KH được vay vốn tại NHTM.
* Các chỉ tiêu đánh giá nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng của Ngân hàng
thương mại
Mức độ nâng cao chất lượng CVTD được xem xét ở một số chỉ tiêu cơ bản như sau:
• Số lượng KH vay tiêu dùng vay vốn tại NH: chỉ tiêu này được tính trong một khoảng thời gian nhất
định, thường là một năm. Sự tăng trưởng của nó qua các năm cho thấy chất lượng cho vay tiêu dùng
đang được cải thiện.
• Dư nợ cho vay và doanh số cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng: Dư nợ là số tiền mà NH đang cho
vay vào thời điểm cuối kỳ. Doanh số cho vay là tổng số tiền NH đã cho vay ra trong kỳ. Dư nợ là chỉ
tiêu tích luỹ qua các thời kỳ, tính theo công thức:
DNCV kỳ này = DNCV kỳ trước + DSCV trong kỳ - DS thu nợ trong kỳ
Đây là chỉ tiêu phản ảnh rõ nhất chất lượng CVTD của NH. Nếu dư nợ CVTD kỳ này lớn hơn kỳ trước, hoặc
doanh số cho vay trong kỳ lớn hơn kỳ trước, có thể khẳng định rằng, chất lượng CVTD đang được nâng cao.
• Tốc độ tăng trưởng dư nợ CVTD:
DNCV kỳ này – DNCV kỳ trước
DNCV kỳ trước
Đây là chỉ tiêu phản ánh tốc độ nâng cao chất lượng cho vay của NH nhanh hay chậm. Xem xét trong nhiều năm,
tỷ lệ này cho biết tốc độ đó tăng hay giảm. Nếu như chỉ tiêu tăng dần qua các năm thì có thể thấy rằng tốc độ
nâng cao chất lượng ngày càng tăng. Tuy nhiên, khi sử dụng chỉ tiêu này, cần phải kết hợp với các chỉ tiêu khác
thì mới rút ra được kết luận đúng. Nếu như tốc độ tăng dư nợ CVTD nhỏ hơn so với các nhóm cho vay khác thì
không thể nói rằng chất lượng CVTD được nâng cao.
• Tỷ trọng dư nợ CVTD trong tổng dư nợ cho vay của NHTM:
Dư nợ CVTD
Tổng dư nợ cho vay của NH
Sự tăng lên của con số này cũng đồng nghĩa với chất lượng CVTD được nâng cao.
Tóm lại, sự tăng hoặc giảm của những chỉ tiêu trên cho biết chất lượng CVTD của NH đang được cải thiện hay

giảm sút. Tuy nhiên, kết luận rút ra chỉ chính xác khi có sự kết hợp cả bốn chỉ tiêu.
3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao chất lượng cho vay
tiêu dùng của ngân hàng thương mại
3.1. Những nhân tố chủ quan
Những nhân tố chủ quan thuộc về phía NHTM có tác động lớn tới sự nâng cao hay giảm sút chất lượng CVTD.
Có 5 nhân tố như sau:
Chính sách tín dụng:
Chính sách tín dụng phản ánh cương lĩnh tài trợ của một NH. Vì thế nó là nhân tố hàng đầu ảnh hưởng đến hoạt
động CVTD. Về cơ bản, nội dung của chính sách tín dụng bao gồm chính sách KH, chính sách marketing, chính
sách về quy mô và giới hạn tín dụng, chính sách lãi suất và thời hạn tín dụng, chính sách về các khoản đảm bảo…
• Chính sách KH: NH thường tiến hành phân loại KH. Những KH truyền thống, KH mục tiêu, KH được
xếp hạng cao thường được hưởng nhiều ưu đãi của NHTM. Một chính sách KH hấp dẫn, chính sách
marketing hướng tới nhóm KH là KH vay tiêu dùng sẽ thúc đẩy người tiêu dùng đến vay vốn tại NH. Từ
đó, chất lượng CVTD được nâng cao.
• Quy mô và giới hạn tín dụng: Bên cạnh các quy định của pháp luật về giới hạn cho vay, mỗi NH thường
có quy định riêng về quy mô và các giới hạn đối với từng KH cụ thể. Ví dụ như quy mô cho vay tối đa
12
đối với từng KH, từng ngành nghề, quy mô cho vay trên giá trị vật đảm bảo… Chính sách về quy mô và
giới hạn tín dụng ảnh hưởng trực tiếp tới quy mô các khoản tín dụng mà KH nhận được từ NH. Khi
muốn nâng cao chất lượng CVTD, NH sẽ phải nới lỏng chính sách này theo hướng tăng quy mô và mở
rộng giới hạn cho vay đối với KH vay tiêu dùng.
• Chính sách lãi suất: lãi suất cho vay của NHTM có tác động lớn tới nhu cầu vay vốn của KH vay tiêu
dùng. Một mức lãi suất cao sẽ hạn chế ý muốn vay mượn của KH, bởi chi phí vốn cao. Ngược lại, NH sẽ
áp dụng mức lãi suất cho vay thấp khi muốn nâng cao chất lượng cho vay đối với KH vay tiêu dùng. Chi
phí vốn thấp góp phần giảm gánh nặng chi phí cho KH. Khi đó, nhiều KH tìm đến NH để vay vốn cho
nhu cầu tiêu dùng. Số lượng KH vay tiêu dùng tại NH tăng lên, nghĩa là chất lượng CVTD được cải
thiện.
• Chính sách về các khoản đảm bảo: Chính sách đảm bảo bao gồm các quy định về: trường hợp vay vốn
phải có tài sản đảm bảo, các hình thức đảm bảo, tỷ lệ phần trăm cho vay trên đảm bảo… Thông thường,
các NH chỉ cho vay với giới hạn thấp hơn giá trị thị trường của đảm bảo. Tỷ lệ phần trăm cho vay tuỳ

thuộc vào khả năng bán và khả năng thay đổi giá trị của tài sản đảm bảo. Tỷ lệ này càng cao thì quy mô
vốn mà KH được nhận từ NH càng lớn. Ngược lại, chính sách về các khoản đảm bảo quá chặt chẽ sẽ cản
trở khả năng nâng cao chất lượng CVTD của NHTM.
Quy trình cho vay:
Một quy trình cho vay rườm rà, phức tạp, tốn thời gian nhiều khi làm mất đi cơ hội kinh doanh của KH. Do đó,
quy trình thủ tục cho vay của NH cần phải đơn giản, hợp lý, vừa đảm bảo để NH có được các thông tin cần thiết,
vừa không gây phiền hà cho KH. Điều này sẽ thu hút nhiều KH tới NH để vay vốn.
Quy mô và cơ cấu vốn của NHTM
Đây là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến nâng cao chất lượng CVTD. Với lượng vốn dồi dào, NHTM sẽ dễ dàng hơn
đối với các chính sách tín dụng nhằm nâng cao chất lượng cho vay. Ngược lại, nếu hoạt động huy động vốn của
NH gặp khó khăn thì NH sẽ không đáp ứng đủ nhu cầu vay của KH. Tình trạng thiếu vốn khiến NH tăng lãi suất
huy động, từ đó lãi suất cho vay cũng phải tăng lên. Khi đó, sức cạnh tranh của NH giảm đi và mục tiêu nâng cao
chất lượng CVTD khó lòng đạt được.
Bên cạnh đó, cơ cấu nguồn vốn của NH cũng ảnh hưởng đến chất lượng CVTD. Nếu tỷ trọng nguồn vốn ngắn
hạn quá lớn, NH không đủ nguồn trung dài hạn để tài trợ cho các nhu cầu vốn dài hạn của KH như nhu cầu mua
bất động sản. Việc nâng cao chất lượng CVTD cũng khó khăn hơn.
Đội ngũ cán bộ nhân viên của NHTM
Ngành dịch vụ có đặc điểm nổi bật là chất lượng dịch vụ phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố con người. NH là doanh
nghiệp cung cấp các dịch vụ tài chính. Nhân viên NH thường xuyên tiếp xúc với KH, do đó, là hình ảnh đại diện
cho NH trong con mắt KH. Đội ngũ nhân viên có trình độ, có tác phong chuyên nghiệp, thái độ phục vụ chu đáo,
nhiệt tình sẽ để lại cho NH ấn tượng tốt. Sự hài lòng của KH sẽ giúp cho việc nâng cao chất lượng CVTD của
NHTM thuận lợi hơn.
Mạng lưới chi nhánh và cơ sở vật chất thiết bị của NHTM
Số lượng và sự phân bố chi nhánh của NH cũng tác động tới khả năng nâng cao chất lượng CVTD. KH thường
giao dịch với NH có vị trí địa lý gần địa bàn hoạt động của mình để giảm chi phí về thời gian và phương tiện đi
lại. Vì thế, việc nâng cao chất lượng CVTD sẽ đạt hiệu quả hơn nếu như NHTM có mạng lưới chi nhánh dày và
rộng, trụ sở, phòng giao dich khang trang, lịch sự…
3.2. Những nhân tố khách quan
Những nhân tố từ phía khách hàng
• Nhu cầu vay vốn tiêu dùng của KH

Trong nền kinh tế thị trường, khi nhu cầu về một loại hàng hóa nào đó tăng lên thì việc tăng cung để đáp
ứng nhu cầu đó là hết sức cần thiết. Trong lĩnh vực tín dụng, điều này cũng hoàn toàn đúng. Người tiêu dùng có
nhu cầu lớn về vốn tiêu dùng sẽ thúc đẩy NH nâng cao chất lượng CVTD, qua đó thu hút đông đảo hơn lượng
KH đến với NH. Vì thế, cầu về vốn tiêu dùng của KH là nhân tố khách quan tác động tới việc nâng cao chất
lượng CVTD của NHTM.
• Khả năng đáp ứng điều kiện vay của KH: được xem xét trên các khía cạnh: năng lực tài chính và tào
sản đảm bảo của KH. Các yếu tố này quyết định đến việc họ có được vay vốn NH hay không.
Phân tích trước khi cấp tín dụng là khâu không thể thiếu trong hoạt động cho vay của NHTM. Thông qua
đó, NH nắm được tình hình và năng lực tài chính của KH cần vay vốn. Tình hình và năng lực tài chính của KH
càng mạnh thì khả năng đáp ứng các điều kiện cho vay càng lớn.
CVTD là hoạt động tín dụng hàm chứa nhiều rủi ro nên NH luôn yêu cầu tài sản đảm bảo cho các khoản
vay. Tài sản đảm bảo là căn cứ để NH xác định mức cho vay đối với KH. Nếu KH không có tài sản đảm bảo,
không có người bảo lãnh hoặc giá trị tài sản đảm bảo thấp, không đủ tiêu chuẩn thì khó vay được vốn NH.
Như vậy,tình hình tài chính, năng lực tài chính và tài sản đảm bảo là những yếu tố quyết định tới khả năng
đáp ứng điều kiện vay của KH vay tiêu dùng. Các chỉ số đó càng tốt, việc nâng cao chất lượng CVTD của NHTM
càng được thực hiện dễ dàng hơn.
Những nhân tố từ phía môi trường kinh doanh
• Thực trạng chung của nền kinh tế: Hoạt động NH có liên quan đến tất cả các lĩnh vực trong nền kinh tế.
Vì thế, những biến động của nền kinh tế sẽ có tác động tới hoạt động của NH, đặc biệt là hoạt động cho
vay. Cụ thể, khi nền kinh tế tăng trưởng, nhu cầu tiêu dùng của người dân tăng lên. Các NHTM có xu
hướng nâng cao chất lượng tín dụng CVTD, qua đó thu hút được nhiều KH, mở rộng lĩnh vực đầu tư.
• Môi trường pháp lý: Tín dụng là một trong những hoạt động rủi ro nhất của NH, song lại rất quan trọng
đối với nền kinh tế. Vì thế, nó chịu sự kiểm soát rất chặt chẽ của pháp luật. Môi trường pháp lý rõ ràng,
minh bạch với hệ thống các văn bản pháp luật hợp lý, thống nhất là điều kiện để KH tiếp cận dễ dàng
hơn với nguồn vốn của NHTM.
• Môi trường chính trị xã hội: Môi trường chính trị xã hội ổn định giúp đời sống người dân được cải thiện,
nhu cầu tiêu dùng tăng cả về chất và lượng. Trái lại, môi trường chính trị xã hội kém ổn định sẽ làm cho
xu hướng tiêu dùng của người dân giảm sút, dẫn đến sự thu hẹp hoạt động CVTD của NHTM.
Tóm lại, việc nâng cao chất lượng CVTD không chỉ chịu ảnh hưởng từ những nhân tố bên trong NHTM,
mà còn từ nhiều nhân tố khách quan khác. Hoạt động đó tốt hay xấu, mạnh hay yếu đều do các nhân tố này quyết

định. Vậy, thực trạng hoạt động CVTD của chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình đang diễn ra như thế
nào? Các nhân tố kể trên có tác động ra sao tới thực trạng ấy? Những vấn đề này sẽ được trình bày rõ ràng ở
chương 2.
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHO VAY TIÊU
DÙNG CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG
THƯƠNG BA ĐÌNH
2.1 Tổng quan về Chi nhánh Ngân Hàng Công Thương Ba Đình
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh Ngân Hàng Công
Thương Ba Đình
Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình có tên giao dịch quốc tế là VietinBank Ba Đình (Vietnam
Industrial and commercial Bank Ba Đình) ra đời từ năm 1959 với tên gọi lúc được thành lập là “Chi điếm Ngân
hàng Ba Đình trực thuộc ngân hàng Hà Nội”, địa điểm đặt trụ sở tại phố Đội Cấn – Hà Nội (nay là 142 phố Đội
Cấn). Chi nhánh được thành lập với nhiệm vụ : vừa xây dựng cơ sở vật chất, củng cố tổ chức và hoạt động ngân
hàng (hoạt động dưới hình thức cung ứng, cấp phát theo chỉ tiêu, kế hoạch được giao). Mục tiêu hoạt động của
chi nhánh mang tính bao cấp, phục vụ, không lấy lợi nhuận làm mục tiêu, hoạt động theo mô hình quản lý một
cấp (Ngân hàng Nhà nước) và mô hình này được duy trì từ khi thành lập cho đến tháng 7/1988 thì kết thúc. Số
lượng cán bộ Ngân hàng lúc đó có trên 10 người.
Ngày 1/7/1988, thực hiện Nghị định 53 của Hội đồng Bộ trưởng (Nay là Chính phủ), ngành Ngân hàng
14

×