Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận khủng hoảng tài chính mexico 1994 và tác động tới việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.77 KB, 34 trang )

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Liên tục trong những năm đầu của thập niên 90, Mexico thực hiện chương trình
tái cấu trúc nền kinh tế rất mạnh mẽ, thu hút được rất nhiều các dòng vốn nước ngoài
vào thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Thế rồi đến năm 1994 đồng tiền Peso đã lâm vào
tình trạng mất giá, chính phủ do phải chịu thâm hụt cán cân thương mại khổng lồ, các
dòng vốn quốc tế rút ra khỏi Mexico trước sự yếu kém của nền kinh tế và những rủi ro
về chính trị ngày một tăng cao nên đã không thể giữa được tỷ giá neo giữa đồng peso và
đồng đô la Mỹ.
Vậy nguyên nhân thực sự của sự sụp đổ này là do đâu? Đây cũng là đề tài mà
nhóm chúng em đưa ra để thảo luận, từ điển hình của Mexico mà rút ra những bài học
cho Việt Nam trong giai đoạn hiên nay.
Chính vì những lý do trên, nhóm nghiên cứu lớp 19A– Tài chính Ngân hàng đã lựa
chọn đề tài “ Khủng hoảng tiền tệ Mexico và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”. Bài
tiểu luận bao gồm 3 phần chính
Chương I: Diễn biến cuộc khủng hoảng tiền tệ Mexcio 1994
Chương II: Nguyên nhân và mô hình kinh tế giải thích cuộc khủng hoảng tiền tệ
Mexico 1994
Chương III: Biện pháp đối phó sau khủng hoảng của Mexico và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam
Do hạn chế về nguồn tài liệu, thời gian nghiên cứu, bài tiểu luận không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Nhóm nghiên cứu rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của
mọi người. Nhóm xin gửi lời cảm ơn đến TS Mai Thu Hiền – Giảng viên môn Tài chính
quốc tế - Khoa Tài chính Ngân hàng – Trường đại học Ngoại thương đã giúp đỡ nhóm
em hoàn thành bài tiểu luận này.
1
CHƯƠNG 1: DIỄN BIẾN CUỘC KHỦNG HOẢNG TIỀN TỆ MEXICO 1994
1.1 Tình hình kinh tế thế giới và Mexico trước khoảng hoảng 1994
1.1.1Những biến chuyển trong đầu tư quốc tế và thị trường tài chính toàn cầu
Do có tác động của sự mở cửa nền kinh tế cho đầu tư nước ngoài, mà nhiều nước
đang phát triển đã có những thành tựu đáng kể về thu hút vốn đầu tư nước ngoài trong


suốt nửa đầu của thập niên 90. Dòng vốn đổ vào những quốc gia này là khoảng $40 tỷ
trong năm 1990, đạt đến con số kỷ lục là 155 tỷ đô la vào 1993.
Tại những nền kinh tế mới nổi ở bán cầu Tây, dòng vốn càng được tập trung
nhiều hơn ở lĩnh vực lợi tức nhạy cảm, danh mục thanh khoản cao. Từ 1990-1994,
những khoản đầu tư này chiếm đến 66% dòng vốn đổ vào và so với đầu tư trực tiếp
nước ngoài, chỉ đạt 30%. Sự tăng lên mạnh mẽ dòng vốn đầu tư vào những nền kinh tế
mới nổi này là do những nguyên nhân sau đây:
• Các quốc gia đang phát triển đã tái cấu trúc những khoản nợ ngân hàng
thương mại và thực hiện đầy đủ những chính sách vĩ mô, đáng kể là sự cải
cách trong lĩnh vực tài chính như là dỡ bỏ những hàng rào trong lưu chuyển
vốn giữa các nước.
• Hàng rào biên giới quốc gia và giao dịch ngân hàng có chi phí thấp hơn và
ngày càng dễ tiếp cận hơn.
• Những nhà đầu tư thể chế - quĩ dự trữ, công ty bảo hiểm, quĩ hưu trí, các ngân
hàng và cơ quan chứng khoán đa dạng hóa danh mục đầu tư nước ngoài của
mình.
• Lãi suất đầu tư giảm ở những quốc gia công nghiệp phát triển, như Mỹ, đã
làm tăng tính hấp dẫn của những khoản đầu tư lợi suất cao của những nền
kinh tế mới nổi.
1.1.2Những chính sách kinh tế của Mexico trước năm 1988
2
Từ giữa thập kỉ 70 cho đến cuối thập kỉ 80, Mexico lâm vào vòng tròn luẩn quẩn
của lạm phát và phá giá tiền tệ, khó có thể quay trở lại phát triển kinh tế. Kiềm chế lạm
phát và phục hồi nền kinh tế trong đó chính sách ổn định tỷ giá là một ưu tiên hàng đầu
đối với chính phủ nước này.
Từ 1954 đến 1976, Mexico duy trì tỷ giá cố định peso/ đô la = 12.5. Thời kì này đi
cùng với kỉ nguyên của sự phát triển đáng kể nền kinh tế với chỉ số lạm phát vừa phải
Tuy nhiên, từ những năm1972, đồng peso suy yếu mạnh bởi thiếu hụt tài khoản vãng lai
và tăng lên của lạm phát. Cho đến tháng 12/1976, sức ép tăng lên của cán cân thanh toán
và sự tháo chạy của nguồn vốn ngoài tầm kiểm soát đã làm phá giá đồng peso. Cho đến

cuối năm, tỷ giá này lên đến 21 peso trên 1 đô la, tỷ lệ lạm phát là 60%. Mexico lâm vào
cuộc suy thoái trầm trọng.
Dưới sự quản lý của tổng thống José Lopez Portillo (1976-82), đồng nội tệ càng bị
mất giá hơn nữa, lên đến 27.25 peso 1 đô la. Trong thời kì này, giá dầu tăng đột biến đã
khiến chính phủ Mexico mất khả năng trong thực hiện chính sách khôi phục kinh tế,
phải vay 1 lượng lớn từ nước ngoài. Từ 1982, giá dầu trên thế giới giảm, nợ nước ngoài
của Mexico cũng giảm bớt. Đối mặt với sự giảm sút quỹ dự trữ ngoại hối và những
dòng vốn đầu tư khổng lồ, một lần nữa những nhà quản lý phải phá giá đồng peso. Lần
này, đồng peso bị phá giá xuống 500% so với đô la. Đất nước này lại lao vào nền kinh tế
thảm khốc và khủng hoảng tài chính. Lạm phát lên đến trên 60%, ngân hàng cạn kiệt dự
trữ ngoại hối, và sang tháng 8, Mexico tạm thời ngừng thanh toán gốc trên những khoản
nợ nước ngoài. Vào tháng 9, hệ thống ngân hàng được quốc gia hóa, và tỷ giá bắt đầu
được điều chỉnh, và đến cuối năm thì giảm xuống còn 160 peso 1 đô la.
Dưới sự điều khiển của tổng thống Miguel de la Madrid (1982-88), Mexico đã thích
nghi với chính sách tỷ giá kép. 1 loại tỷ giá có điều khiển cho hàng hóa thương mại và
những khoản nợ chính thức, và 1 loại tỷ giá tự do cho những giao dịch khác. Tỷ giá có
kiểm soát bị mất giá theo từng ngày dưới sự suy xét cẩn thận của chính phủ Mexico.
Dần dần,tỷ giá có kiểm soát chuyển gần đến tỷ giá thả nổi. Cho đến cuối năm 1986, hai
tỷ giá này tương đương nhau, khoảng 920 peso 1 đô la.
3
Dưới thời của tổng thống de la Madrid, việc thanh toán những khoản nợ khổng lồ
được ưu tiên lớn. Mexico trở thành nhà xuất khẩu vốn ròng. Nền kinh tế mất dần những
nguồn tài chính chủ yếu và phát triển kinh tế ngừng trệ với gánh nặng phá giá đồng nội
tệ và những khoản nợ trong và ngoài nước cũng như áp lực lạm phát đối với nền kinh tế.
Giữa năm 1987, Mexico lại đối mặt với khủng hoảng lạm phát với giá cả tăng mạnh.
Tháng 11, các ngân hàng Mexico ngừng can thiệp vào thị trường ngoại hối, và tiền mặt
giảm giá mạnh ở mức 3000 peso trên 1 đô la. Lại 1 lần nữa, thị trường chứng khoán
ngừng trệ và chỉ số lạm phát lên đến 159%.
1.1.3Những cải cách về kinh tế tài chính ở Mexico từ năm 1988
Từ năm 1988, chính phủ Mexico bắt đầu nỗ lực cải cách toàn diện để nền kinh tế

mở cửa, hiệu quả và cạnh tranh hơn.
 Hiệp định Pacto giúp ổn định tỷ giá được coi như một biện pháp nhằm kiềm
chế lạm phát
Ổn định tỷ giá là 1 trong những nội dung của hiệp định giữa chính phủ với người làm
công và khu vực doanh nghiệp để làm tăng lên sự đồng lòng của người dân với những
cải cách kinh tế. Hiệp định 3 bên này được biết đến với tên gọi “Pacto”, cung cấp nền
tảng cho chính sách kinh tế mới.
Theo như Pacto, từ tháng 3 đến tháng 12/ 1988, tỷ giá peso/đô la được cố định. Tuy
nhiên, trong năm 1989, tỷ giá cố định đã bị cấm và thay vào đó là 1 tỷ giá linh hoạt hơn,
cho phép sự phá giá dần của đồng peso so với đồng đô la. Hệ thống linh hoạt này đã
khiến cho đồng peso theo từng năm mất giá dần 16.7% vào năm 1989, 11.4% năm 1990,
và 4.5% năm 1991. Bắt đầu từ tháng 11/1991, tỷ giá peso/đô la được cho phép dao động
trong 1 giới hạn mở rộng từng ngày. Giới hạn này cho phép tỷ lệ mất giá của đồng peso
so với đồng đô la là từ 0.0002 - 3.05 peso trên 1 đô la.Tỷ lệ mất giá này vào năm 1992
là 2.9%. Tháng 10/1992, giới hạn trần của tỷ lệ này là 0.0004 peso/đô la. Điều đó đã làm
tỷ lệ mất giá này vào năm 1993 là 4.5%. Vì vậy, từ cuối 1991 cho đến tháng 8/1994, tỷ
giá peso/đô la mất giá trong khoảng từ 3.08 – 3.24 peso trên 1 đô la.
 Sự nâng giá đồng Peso
4
Chiến lược Pacto đã thành công trong việc kiềm chế lạm phát, giảm chỉ số lạm phát
từ 159% năm 1987 xuống còn 8% năm 1993. Tuy nhiên, trong khi chỉ số này giảm ở
Mexico thì ở Mỹ, chỉ số lạm phát lại tăng tương đối. Vì vậy, tỷ giá peso/đô la lại tăng
dần lên, mặc dù ở thời kì trước,đồng peso bị phá giá. Điều này đã gây ra những cách
nhìn nhận khác nhau. Một số nhà phân tích kinh tế tranh luận rằng, cho đến 1994, đồng
peso được định giá cao và cần thiết phải phá giá nó nếu muốn có 1 nền kinh tế phát
triển. Mặt khác, những nhà tài chính chủ chốt ở Mexico thì lại cho rằng peso không bị
định giá cao, bằng chứng là xuất khẩu của Mexico vẫn tăng mạnh mẽ.
 Sự mở cửa đối với hoạt động đầu tư nước ngoài ở Mexico
Vào tháng 5 năm 1989, Mexico đã thiết lập một loạt các quy định mới về đầu tư
nước ngoài nhằm khắc phục những hạn chế trong việc sở hữu nước ngoài và đầu tư vào

Mexico. Những quy định mới đã giúp làm tăng khả năng đầu tư tới 100% sở hữu nước
ngoài. Bên cạnh đó quy định mới không yêu cầu nhà đầu tư phải được sự phê chuẩn của
chính phủ Mexico. Từ năm 1989 đến đầu năm 1990 đã có sự thay đổi trong các quy
định về quản lý đầu tư nước ngoài vào hóa dầu, ngân hàng quốc doanh và bảo hiểm. Sau
quyết định tái cổ phần hóa các ngân hàng được ban hành vào tháng 5 năm 1990 đã làm
giảm những rào cản của dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các định chế tài chính như việc
nâng tỷ lệ vốn góp nước ngoài trong những công ty như môi giới nhà đất, tập đoàn tài
chính và ngân hàng lên tới 30%.
 Những cải cách của Mexico thu hút đầu tư
Những cải cách ở lĩnh vực tài chính đã thu hút nguồn vốn rất lớn đổ vào Mexico
vào những năm đầu thập niên 90, đặc biệt là 93 tỷ USD từ năm 1990 tới năm 1993( theo
IMF). Tuy nhiên dòng vốn nước ngoài 60% đi vào Mexico theo hình thức đầu tư gián
tiếp (tập trung chủ yếu vào khu vực tài chính tư) chỉ có 18% theo hình thức đầu tư trực
tiếp. Luật thị trường chứng khoán Mexico tháng 12 năm 1989 mở đường cho nguồn
vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ được tiếp cận thị trường vốn trong nước và ngay sau đó
đã chiếm 6% tổng nguồn vốn. Từ năm 1990 đến năm 1993 thị trường vốn đã thu hút 23
tỷ USD đầu tư nước ngoài. Vào cuối giai đoạn này 27% vốn trên thị trường vốn là của
5
các nhà đầu tư nước ngoài. Từ việc lãi suất tăng, trái phiếu doanh nghiệp cũng trở nên
hấp dẫn thu hút được 14 tỷ trong cùng kỳ.
 Luật thương mại được nới lỏng
Trong suốt 10 năm trở lại đây thì Mexico đã từng bước thay đổi cải cách hệ thống
quản trị thương mại trong quốc tế và khu vực. Cuộc cải tổ này diễn ra vào giữa năm
1985 và tới năm 1986 luật thương mại được sửa đổi mở đường vào GATT( General
Agreement on Taiffs and Trade). Vào tháng 12 năm 1987, luật thuế ban hành giảm mức
cao nhất của tất cả các loại thuế xuống 20%. Dẫn tới hơn 90% sản phẩm quốc nội được
bảo hộ bởi hệ thống giấy phép nhập khẩu trước cải cách đã giảm nhanh xuống còn 20%.
 Nhiều các hiệp định thương mại được ký kết
Trong suốt 1 thập niên qua Mexico đã có nhưng bước tiến đáng kể trong việc mở
rộng thương mại quốc tế. Trước năm 1982, sự cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài

gần như là không có bởi các rào cản thuế quan và phi thuế quan. Nhưng kể từ năm 1986
khi chính thức trở thành thành viên của GATT, Mexico từng bước gỡ bỏ các bảo hộ cho
hàng hóa trong nước, đồng thời ký kết các hiệp ước song phương và đa phương phát
triển các mối quan hệ thương mại với những quốc gia khác trong cùng tổ chức. Từ năm
1992, Mexico đã ký các hiệp ước tự do hóa thương mại với các nước Châu Mỹ La tinh
bao gồm: Chile, Costa Rica, Salvador, Guatemala, Honduras và Nicaragua. Mexico
cũng tăng cường phát triển các mối quan hệ thương mại tốt đẹp với các khu vực kinh tế
khác bên ngoài Châu Mỹ La Tinh như : 11/1993 Mexico tham gia APEC – Diễn đàn hợp
tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương, 4/1994 Mexico trở thành thành viên thứ 25 của
OECD tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế.
Vào tháng 1 năm 1994, Mexico có được 1 bước tiến quan trọng khi cùng với Mỹ
và Canada thành lập khu thương mại tự do Bắc Mỹ NAFTA, khu vực tự do hóa thương
mại lớn nhất với 380 triệu người sản xuất khoảng 8000 tỷ USD giá trị hàng hóa và dịch
vụ. Nhờ đó mà những nhà cung cấp dịch vụ tài chính của Mỹ đã tiếp cận được thị
trường Mexico với những quyền lợi như với những nhà đầu tư trong nước. Theo ITC
( international trade commission) NAFTA trong năm đầu tiên đạt được sự phát triển
6
mạnh mẽ về thương mại và tăng cao về vốn. Ngân hàng của Mexico đều nhấn mạnh sự
tăng trưởng vượt bậc trong tất cả những giao dịch thương mại giữa Mexico và các nước
thành viên. 50% kim ngạch xuất khẩu của Hoa Kỳ là sang Mexico. Từ sau khi là thành
viên của NAFTA Mexico bắt đầu tiến trình 15 năm từng bước xóa bỏ hàng rào thương
mại lên hàng hóa dịch vụ và nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
1.2 Diễn biến cuộc khủng hoảng Mexico 1994
• Ngày 1 tháng 1 năm 1994, lực lượng vũ trang Zapatistas đã nổi dậy. Cuối tháng 2,
tỷ giá hối đoái giữa peso và dollar tăng đến kịch trần biên độ giao động. Nhưng
các nhà đầu tư nước ngoài vẫn lạc quan về tình hình Mexico và dòng vốn nước
ngoài vẫn tiếp tục đổ vào.
• Tháng 3, ứng cử viên tổng thống Luis Donaldo Colosio bị ám sát đã tạo nên những
căng thẳng chính trị ở Mexico. Các nhà đầu tư nước ngoài trở nên bất an và lo
lắng cho tài sản của mình ở Mexico. Trước những lo ngại về tình hình chính trị

và kinh tế ở Mexico, các nhà đầu tư trong và ngoài nước đã giảm nhu cầu về
chứng khoán của Mexico. Peso chịu sức ép mất giá và chính phủ đã tung khoảng
10 tỷ dollar dự trữ ngoại hối nhà nước ra để bảo vệ tỷ giá danh nghĩa.
• Tháng 4, lãi suất trái phiếu chính phủ định danh bằng peso có xu hướng tăng. Lo
ngại rằng điều này có thể gây tổn thương cho khu vực ngân hàng còn non trẻ của
đất nước và sợ rằng lãi suất cao có thể gây ra suy thoái kinh tế vào một năm có
bầu cử tổng thống, nên chính phủ đã một mặt dùng dự trữ ngoại hối để chống lại
xu hướng tăng lãi suất, một mặt tiến hành đổi các trái phiếu chính phủ từ định
danh bằng peso sang định danh bằng dollar.
• Một số học giả kinh tế đã cảnh báo về việc đồng peso được định giá quá cao so với
dollar. Nhưng đồng thời cũng có ý kiến phản đối việc điều chỉnh tỷ giá vì lý do
niềm tin của các nhà đầu tư chưa đủ mạnh để có thể không bị hoảng loạn khi tỷ
giá thay đổi mạnh. Chính phủ Mexico chọn biện pháp vừa dùng dữ trữ ngoại hối
để giữ ổn định tỷ giá, vừa từng bước nhỏ điều chỉnh tỷ giá.
7
• Tháng 8, tổng thống Ernesto Zedillo nhậm chức phải đương đầu với nhiều khó
khăn trong lĩnh vực kinh tế.Tuy nhiên ông vẫn duy trì các chính sách tài chính,
tiền tệ như trước.
• Cuối tháng 9, Tổng thư ký của đảng Institutional Revolution, José Francisco Ruiz
Massieu bị ám sát. Cộng đồng thế giới cho rằng vụ ám sát này đã càn chứng tỏ
tình hình chính trị tại Mexico rất bất ổn.Các nhà đầu tư thêm bất an.Một số các
nhà đầu tư nước ngoài cùng các quỹ đã bắt đầu rút vốn khỏi Mexico.
• Giữa tháng 10, Cục dữ trữ Liên bang Mỹ tuyên bố mặc dù lo ngại về mức dự trữ
ngoại hối ít ỏi của Mexico, song Mexico không nên mong đợi chi viện của nước
ngoài. Tâm lý của các nhà đầu tư càng trở nên bất ổn. Cũng trong thời gian đó,
sau khi một số công ty lớn của Mexico công khai tình trạng lợi nhuận của mình
giảm sút. Thị trường chứng khoán Mexico chao đảo. Áp lực mất giá peso càng
tăng lên.
• Tổng thống mới nhậm chức không muốn phá giá đồng peso trong suốt nhiệm kỳ
của mình trừ khi việc phá giá này là không thể tránh được. Sự cố gắng duy trì

đồng peso được định giá cao đã gây ra cho nền kinh tế Mexico nhiều vấn đề như
nó đã không khuyến khích nước ngoài tiêu dùng hàng hóa của Mexico , trong khi
người Mexico lại thích tiêu dùng các sản phẩm của nước ngoài. Điều này dẫn đến
thâm hụt thương mại ngày càng trầm trọng.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư và các quỹ đầu tư ở Mexico cũng nhận sự mất giá
của đồng Peso nên đã bắt đầu chuyển việc nắm giữ các tài sản bằng đồng peso
sang nắm giữ các tài sản bằng đồng dollar. Để giữ tỷ giá của đồng nội tệ, có một
cách đó là dùng tiền nước ngoài để mua lại đồng nội tệ. Và hàng tỷ dollar trong
quỹ dự trữ ngoại hối của Mexico đã được tung ra nhằm giữ giá đồng peso nhưng
đã không thành công.
• Cuối tháng 10, thống đốc ngân hàng trung ương Mexico công khai rằng dữ trữ
ngoại hối của Mexico chỉ còn 17,12 tỷ dollar.
• Ngày 20 tháng 12 năm 1994, trước áp lực phá giá đồng peso , tổng thống Mexicon
Ernesto Zedillo đã phải phá giá đồng peso thêm 15% . Bên cạnh đó, chính phủ
cũng đã can thiệp nhằm giảm tốc độ mất giá, song không có hiệu quả mà trái lại
8
làm cho quỹ dự trữ ngoại hối của Mexico ngày càng cạn kiệt. Đến ngày 22/12,
chính phủ Mexico đã phải quyết định tuyên bố thả nổi đồng peso.
• Quyết định này đã làm các nhà đầu tư mất hết lòng tin vào khả năng trả các khoản
nợ ngắn hạn (các khoản nợ nước ngoài nếu tính theo peso đã lớn lên gấp nhiều
lần khi tỷ giá giữa peso và dollar tăng lên). Vì thế, các nhà đầu tư bán tháo các tài
sản bằng đồng peso. Điều này làm cho đồng peso càng mất giá hơn nữa.
Bên cạnh đó ,các khoản nợ nước ngoài đột nhiên tăng lên đã khiến bảng cân đối tài
sản của các xí nghiệp và ngân hàng của Mexico xấu đi. Hậu quả là nền kinh tế
Mexico rơi vào khủng hoảng thực sự
CHƯƠNG 2: NGUYÊN NHÂN CUỘC KHỦNG HOẢNG MEXICO 1994
9
Khủng hoảng tiền tệ ở Mexico bắt nguồn từ sự tác động lẫn nhau của các yếu tố
kinh tế và chính trị. Trong suốt thời gian nắm quyền chính phủ của Salinas đã thực hiện
việc cải tổ mở cửa nền kinh tế. Cùng với việc neo tỷ giá với đồng đôla Mỹ, Mexico đã

thu hút lượng vốn đầu tư nước ngoài khổng lồ, và chính nguồn vốn này đã tài trợ cho
việc nhập khẩu, làm cho tình hình thâm hụt cán cân vãng lai của Mexico càng trở nên
tồi tệ hơn. Đến đầu năm 1994, khi một loạt các vụ scandal chính trị diễn ra đã làm cho
các nhà đầu tư mất niềm tin vào sự ổn định của nền kinh tế nước này. Dự trữ ngoại hối
của nước này giảm xuống nhanh chóng. Thời điểm đó, chính phủ Mexico đã nỗ lực hết
sức để ngăn chặn sự suy giảm nghiêm trọng của dự trữ ngoại hối. Tuy nhiên, những
chính sách kinh tế vĩ mô được áp dụng trong thời gian trước thềm cuộc bầu cử tổng
thống lại không tương thích với chính sách tỷ giá và hơn thế nữa làm cho tình hình thâm
hụt cán cân thương mại ngày càng xấu đi. Sau khi cuộc bầu cử diễn ra, một loạt các cú
sốc về chính trị đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài ồ ạt rút vốn, dự trữ ngoại hối rơi
xuống mức mà NHNN Mexico không đủ để can thiệp nhằm bình ổn tỷ giá.
2.1 Sự yếu kém nội tại của nền kinh tế
Quá trình cải cách, mở cửa nền kinh tế của Mexico đã tạo nên một loạt thách
thức mới cho chính phủ Salinas. Trong đó, sự gia tăng thâm hụt cán cân thương mại trở
nên nổi cộm hơn bao giờ hết, đi cùng với đó là việc giảm tỷ lệ tiết kiệm của khu vực tư
nhân. Việc quốc hữu hóa cũng khiến cho hệ thống ngân hàng của Mexico trở nên mong
manh, mang đến sự hạn chế cho quá trình sử dụng chính sách tiền tệ để hỗ trợ đồng
Peso và để giảm thâm hụt tài khoản vãng lai.
2.1.1 Thâm hụt cán cân thương mại kéo dài
Chính phủ Salinas đã tiến hành kích thích tăng trưởng kinh tế và tăng sức cạnh
tranh bằng cách khuyến khích thương mại và đầu tư quốc tế. Xuất khẩu hàng hóa của
Mexico này đã tăng gần gấp đôi, từ $31 triệu trong năm 1986 đến $61 triệu trong năm
1994. Mexico cũng đã thu hút được những khoản vốn đầu tư nước ngoài rất quan trọng.
Theo ngân hàng Trung ương Mexico, lượng vốn đầu tư nước ngoài thu hút được là
$102,8 triệu, trong đó $30,2 triệu là đầu tư trực tiếp nước ngoài. Mức độ đầu tư lớn này
10
đã tạo nên sự tích lũy vốn đầu tư đáng kể trong nền kinh tế Mexico. Trong thời gian này
dự trữ ngoại tệ tăng từ $6,4 triệu lên $24,5 triệu. Tuy nhiên, việc cải cách này cũng đòi
hỏi sự mở cửa thị trường đối với các sản phẩm nước ngoài, trong năm 1990, tổng kim
ngạch nhập khẩu của Mexico đã vượt quá kim ngạch xuất khẩu. Từ năm 1990 đến 1994,

thâm hụt thương mại của Mexico tăng từ $1 triệu lên $18,5 triệu. Có thể nói, chính dòng
vốn đầu tư nước ngoài đã làm tăng tiêu dùng tư nhân đối với các mặt hàng nhập khẩu.
Do đó, thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai của Mexico đã tăng từ 1,4% GDP trong năm
1988 đến 7,7% GDP trong năm 1994.
Bảng 1: Thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai của Mexico từ năm 1988-1994
Nguồn: Ngân hàng Trung ương Mexico
2.1.2 Tiết kiệm tư nhân giảm sút
Khi các cải cách kinh tế diễn ra đầu những năm 90,
người dân Mexico bắt đầu chuyển nhiều hơn thu nhập của họ từ tiết
kiệm sang tiêu dùng. Theo dữ liệu của Ngân hàng Trung ương
Mexico, tỷ lệ tiết kiệm của khu vực tư nhân năm 1989 vào
khoảng 16% thì đến năm 1992 đã giảm xuống dưới 9% và đến năm 1994 chỉ tăng lên
vào khoảng 12%. Lý giải cho tình trạng chuyển từ tiết kiệm sang tiêu dùng này là do
nhu cầu bị dồn nén sau nhiều năm khổ cực trong hầu hết thập kỷ 80 và sự hấp dẫn của
những sản phẩm ngoại có giá thành rẻ hơn, xuất hiện ở Mexico khi nước này mở cửa thị
trường. Sự giảm sút của tiết kiệm trong nước cũng được phản ánh thông qua nhu cầu
nhập khẩu tăng lên. Điều này đã gây thêm áp lực lên tình trạng thâm hụt cán cân tài
khoản vãng lai. Hơn nữa, nhập khẩu chủ yếu hướng vào tiêu dùng thay vì đầu tư, khiến
cho mức thâm hụt tài khoản vãng lai trở nên kém bền vững hơn do ít có tiền đầu tư dành
cho phát triển lâu dài hơn.
Bảng 2: Tỷ lệ tiết kiệm/GDP
11
Tỷ USD % so với GDP
Tỷ USD
% so với GDP
Nguồn: Ngân hàng Trung ương Mexico
2.1.3 Sự lên giá của đồng Peso
Như đã đề cập ở trên, trong giai đoạn từ 1988 đến 1994, chính phủ Mexico đã
thực hiện neo tỷ giá của đồng peso với đôla Mỹ. Và việc neo tỷ giá này đã góp phần
bình ổn nền kinh tế, thu hút đầu tư nước ngoài và kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, việc

neo tỷ giá trong dài hạn sẽ dẫn đến việc lên giá của đồng peso, ảnh hưởng tiêu cực đến
hoạt động xuất khẩu và làm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Một trong những
lý do của việc đánh giá quá cao giá trị đồng peso chính là sự mất giá danh nghĩa được
chính phủ Mexico cho phép trong giai đoạn này đã không đạt tới mức chênh lệch lạm
phát giữa Mỹ và Mexico. Mặc dù tỷ lệ lạm phát của Mexico có giảm trong những năm
này nhưng nó vẫn cao hơn tỷ lệ lạm phát của Mỹ. Do đó, tỷ giá đồng peso đối với đồng
đô la đã dần tăng trên thực tế dù về danh nghĩa đồng peso đã mất giá. Với đồng peso
được định giá quá cao, người dân Mexico có nhu cầu nhập khẩu nhiều hơn lượng mà họ
có thể chi trả. Trong khi đó, xuất khẩu lại bị tăng trưởng hạn chế do sự định giá cao này.
Vì vậy, sự tăng giá trị không ngừng và sự định giá quá cao đối với đồng peso trong giai
đoạn này đã dẫn đến tình trạng trầm trọng hơn của mức thâm hụt tài khoản hiện tại.
Bảng 3: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa giữa peso/đôla Mỹ từ 1988-1994
12
Tỷ lệ %
Năm
Bảng 4: Tỷ giá hối đoái thực peso/đôla Mỹ từ 1998-1994
Nguồn: Ngân hàng Trung ương Mexico
Vào giữa năm 1994, hai nhà kinh tế đã cho rằng Mexico cần phải hành động để
điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm bù đắp cho việc định giá quá cao đồng peso. Một lượng
phá giá giá hối đoái 20% có thể giảm thâm hụt tài khoản hiện tại xuống mức dễ quản lý
hơn. Tuy nhiên, theo các quan chức bộ tài chính, quan điểm này không được nhiều nhà
kinh tế khu vực tư nhân ủng hộ vì họ cho rằng chỉ cần có một sự điều chỉnh nhỏ về tỷ
giá hối đoái. Các quan chức tài chính của Mexico giải thích họ không bị thuyết phục bởi
việc đồng peso bị định giá quá cao vào thời điểm đó. Họ lấy dẫn chứng là tình hình xuất
13
khẩu mạnh mẽ của Mexico và sự gia tăng năng suất. Vì thế, chính phủ Mexico đã không
sẵn sàng cân nhắc đến việc kêu gọi phá giá tiền tệ.
2.1.4 Hệ thống ngân hàng còn sơ khai
Kể từ sau cuộc quốc hữu hóa một loạt các ngân hàng vào năm 1982, hệ thống
ngân hàng Mexico đã bộc lộ rất nhiều các yếu kém. Điều đầu tiên phải kể đến là việc

quốc hữu hóa một số các ngân hàng đã làm giảm tính cạnh tranh trong lĩnh vực tài chính
ngân hàng. Hơn nữa, các ngân hàng Mexico chưa có được hệ thống các tiêu chí đánh giá
độ tín nhiệm của khách hàng khi cung cấp các khoản vay. Đặc biệt khi cuộc bùng nổ tín
dụng tiêu dùng kể từ sau 1989, vấn đề về đánh giá độ tín nhiệm này đã dẫn việc chồng
chất các khoản tín dụng tiêu dùng quá hạn. Tỷ lệ nợ quá hạn của các ngân hàng liên tục
tăng từ tháng 12/1991 đến tháng 3/1994 từ mức 3,5% lên 8,5% (số liệu IMF). Chính sự
gia tăng các khoản nợ quá hạn này đã làm cho tình hình bảng cân đối kế toán của các
ngân hàng trở nên ngày càng tồi tệ hơn. Và một hệ thống ngân hàng bộc lộ nhiều điểm
yếu kém như vậy chính là một yếu tố cản trở việc thực thi chính sách tiền tệ của NHTW
một cách hiệu quả, nhằm mục tiêu giảm thâm hụt thương mại.
2.2 Bất ổn chính trị đầu năm 1994 gây nên lo lắng về sự ổn định của Mexico
Trong khi toàn bộ nền kinh tế Mexico đang trải qua quá trình tái thiết lập bắt đầu
từ cuối những năm 80 thì hệ thống chính trị tại quốc gia này không hề có sự chuyển
biến. Tuy nhiên vào năm 1994, khi cuộc bầu cử tổng thống diễn ra thì chính phủ vấp
phải sức ép lớn từ các phe đối lập trong việc thay đổi một số yếu tố liên quan giữa đảng
cầm quyền và các đảng khác, nhằm thay đổi hệ thống bầu cử tại Mexico để đem lại một
cuộc bầu cử thực sự công bằng. Đầu năm 1994 chiến tranh du kích nổi dậy tại các bang
miền nam thuộc Chiapas bày tỏ sự bất bình của những người dân nông thôn nhằm yêu
cầu thực hiện một cuộc cải tổ cả hệ thống chính trị và xã hội. Với việc diễn ra cuộc nổi
dậy của những người Chiapas, và 2 vụ bắt cóc quy mô lớn xảy ra chỉ trong vài tháng
đầu năm 1994 đã dấy lên sự băn khoăn lo lắng cao độ của các nhà đầu tư về tình hình
chính trị và sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế Mexico.
14
2.2.1 Sự điều hành cuộc bầu cử của Đảng cách mạng thể chế tại Mexico gây phản đối của
các Đảng đối lập
Một làn sóng ý kiến về cuộc bầu cử tổng thống tại Mexico lan rộng, hầu hết đều
tập trung vào Đảng CM thể chế, một đảng nắm quyền tại Mexico đã hơn 60 năm, liệu có
thể tiến hành một cuộc bầu cử thực sự công bằng. Các đảng đối lập cho rằng họ phải
chịu quá nhiều tổn thất do sự lừa đảo sau khi tổng thống Salinas lên nắm quyền vào năm
1988, năm mà Đảng CM thể chế giành chiến thắng với số phiếu rất sít sao.

2.2.2 . Cuộc nổi loạn Chiapas gây tổn hại lớn tới hình ảnh của Mexico
Vào ngày 1/1/1994, cuộc chiến tranh du kích có trang bị vũ khí của đội quân giải
phóng mang tên Zapatista (EZLN) diễn ra và chiếm được vài thành phố tại bang miền
Nam thuộc Chiapas của Mexico. Đội quân này yêu cầu một nền dân chủ thực sự và sự
quan tâm cần thiết tới các vấn đề tồn tại của những người nông dân địa phương. Cuộc
tấn công xảy ra đúng vào thời điểm mà hiệp định NAFTA đi vào có hiệu lực. Điều này
đã giáng một đòn mạnh tới hình ảnh của Mexico, một quốc gia đang tiến hành hiện đại
hóa với sự ổn định và hầu như không hề có xung đột và đang tìm kiếm con đường tham
gia vào nền kinh tế thế giới bằng việc cải tổ nền kinh tế quốc gia và tham gia vào hiệp
định NAFTA.
Tuy nhiên chính phủ Mexico đã đáp lại bằng việc cử một đội quân liên bang tới
Chiapas đàn áp cuộc nổi dậy trong khi vẫn tìm mọi cách đàm phán để đưa ra một thỏa
thuận về cuộc xung đột này. Vào giữa tháng 1, Quốc hội Mexico thông qua luật về ân xá
cho bất kì ai liên quan đến những hành động bạo lực tới thời điểm đó. Tổng thống
Salinas ngay lập tức thay thế Bộ trưởng Bộ nội vụ, nguyên là thống đốc Chiapas bằng
ông Jorge Carpizo, một nhân vật được xem là luôn bảo vệ cho quyền con người. Trước
các động thái hòa giải, tổ chức EZLN ngay lập tức đưa ra sự đồng ý về các điều kiện với
chính phủ. Cả hai bên đều đồng ý ngừng chiến nhưng tình hình vẫn rất căng thẳng suốt
thời gian sau đó.
Vào 27/1/1994, hiệp ước về hòa bình công bằng và dân chủ được kí kết giữa
chính phủ và 8 Đảng chính trị khác, nhằm nỗ lực giải quyết các vấn đề chính trị lớn hơn,
15
bao gồm cả cải tổ lại chế độ bầu cử. Nhiệm vụ chủ yếu của quá trình cải tổ này đó là tạo
ra một hệ thống quyền lực bầu cử độc lập và phân bổ đều tới tất cả các Đảng. Mỗi đảng
được tiếp cận tới công chúng một cách công bằng và hợp lí hơn, và ngăn cấm việc sử
dụng các nguồn lực công cộng để hỗ trợ cho quá trình tranh cử của bất kì đảng nào.
2.2.3 . Sự gia tăng lo lắng với những vụ bắt cóc quy mô lớn
Sự lo lắng của các nhà đầu tư về tình hình bất ổn chính trị tại Mexico ngày càng
gia tăng trong thời gian này do việc xảy ra vụ cóc 2 doanh nhân lớn. 14/3/1994, chủ tập
đoàn ngân hàng lớn nhất Mexico (Banamex-Accival) bị bắt cóc và số tiền chuộc không

được tiết lộ. Ngay sau tai nạn này thị trường chứng khoán Mexico giảm 81 điểm và có
thông tin cho rằng vụ bắt cóc này có liên quan tới cuộc nổi dậy tại Chiapas và tổ chức
nổi dậy đang thực hiện các động thái chính trị tiếp theo. Vị doanh nhân lớn này được trả
về vào 28/6/1994 với số tiền chuộc vô cùng lớn. Vào 25/4/1994, một vị doanh nhân giàu
có khác bị bắt cóc ngay tại thủ đô Mexico, buộc tổng thống Salinas phải lên tiếng trấn
an dư luận và các nhà đầu tư bằng việc sẽ thành lập một ủy ban mới để kiểm soát sự an
toàn của dân chúng. Và cuối cùng thì vị doanh nhân này cũng được phóng thích vào
5/8/1994.
2.2.4 Một loạt các sự kiện kinh tế - chính trị gây nên sự tháo vốn ồ ạt khỏi Mexico
Thâm hụt cán cân vãng lai lớn đẩy nền kinh tế Mexico vào tình trạng mất cân đối
khiến các nhà đầu tư lo lắng và buộc phải rút vốn về nước nhằm tránh rủi ro khủng
hoảng. Cùng lúc đó thì một loạt các sự kiện chính trị vào đầu năm 1994 gây nên sự nghi
ngờ về tính bất ổn của Mexico không chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn. Sự lo lắng
lên tới đỉnh điểm khi ứng cử viên tổng thống của Đảng CM thể chế bị ám sát khi đang
thực hiện vận động tranh cử tại Tijuana vào 23/3/1994. Ngay sau đó, Mexico phải chịu
mất một lượng dự trữ ngoại hối rất lớn do Chính phủ sử dụng dự trữ ngoại hối để thực
hiện chiến dịch bình ổn tỷ giá trong thời gian ngắn nhằm đối phó với khủng hoảng và
song song tìm kiếm các sự hỗ trợ từ phía các thành viên NAFTA. Chiến dịch này tuy
thành công nhưng chỉ đem lại sự ổn định tạm thời cho nền kinh tế Mexico chứ không
giải quyết được các bất ổn về chính trị trong nội tại quốc gia này.
16
2.2.5 Thị trường tài chính phản ứng bất lợi do vụ ám sát ứng cử viên tổng thống Colosio
Việc ám sát một ứng cử viên tổng thống Colosio – một nhân vật tầm cỡ trong bộ
máy chính phủ Mexico là chưa từng xảy ra trong lịch sử Mexico thời gian gần đây. Với
cương vị là ứng cử viên của Đảng CM thể chế, Colosio luôn đứng đầu trong cuộc chạy
đua vào chiếc ghế tổng thống và gần như nắm chắc phần thắng. Thị trường tài chính
ngay lập tức phản ứng lại sau những vụ việc này. 24/3/1994, trước những lo lắng về sự
mất giá của đồng Peso và giảm điểm liên tục của thị trường chứng khoán, Tổng thống
Salinas buộc phải lên tiếng để trấn an dư luận. Các Ngân hàng, trung tâm ngoại hối, thị
trường chứng khoán buộc phải đóng cửa trong ngày hôm đó. Và trong cùng ngày thì

Cục dự trữ liên bang và kho bạc tuyên bố rằng họ luôn có sẵn một lượng lớn các tài sản
trao đổi dự trữ. Tuy nhiên thì thị trường chứng khoán vẫn giảm 22 điểm vào ngày hôm
sau và đã có một lượng vốn lớn bị rút ra khỏi Mexico, đồng thời chính phủ cũng mất
một khoản dự trữ ngoại hối lớn. Đến 22/4/1994, gần 1 tháng sau vụ ám sát ứng cử viên
tổng thống Colosio dự trữ ngoại hối của Mexico giảm xuống chỉ còn 10,8 tỷ USD.
2.3 Những mâu thuẫn trong các chính sách vĩ mô của Mexico
Chính phủ Mexico không hề nhận ra điểm yếu cơ bản của nền kinh tế chính là sự
mất cân bằng cán cân vãng lai với những biện pháp được thông qua sau vụ ám sát ứng
cử viên tổng thống Colosio. Trong suốt thời kì trước cuộc bầu cử tổng thống vào tháng
8, giới cầm quyền Mexico luôn cố để giữ đà tăng trưởng kinh tế bằng cách đẩy thêm áp
lực lên sự thâm hụt của cán cân vãng lai. Và sự mâu thuẫn giữa các chính sách tiền tệ,
tài chính và tỷ giá được đẩy lên ngày một rõ ràng.
2.3.1 Những nỗ lực của chính phủ nhằm đẩy mạnh kinh tế trước kì bầu cử tổng thống
Vào giữa năm 1994 khi kinh tế Mexico bước vào giai đoạn tăng trưởng, các
Ngân hàng phát triển của Chính phủ phát hành ra thị trường các khoản tín dụng nhằm
khuyến khích tăng trưởng kinh tế. Đây chính là bằng chứng cho thấy thâm hụt cán cân
vãng lai của Mexico đã tăng hơn so với năm 1993 trừ phi Chính phủ đã có những động
thái nhằm giảm chi tiêu. Tuy nhiên theo chính quyền Mexico thì chính phủ khó có thể
áp dụng biện pháp nào để vực lại nền kinh tế đang lâm vào khủng hoảng sau vụ việc của
17
Zedillo chỉ 3 tháng trước cuộc bầu cử tổng thống. Hơn thế nữa tuyên bố của bộ tài chính
và ngân hàng Mexico đã được đưa ra trước đó lại cho rằng với 1 kết quả thành công sau
cuộc bầu cử tổng thống thì chính phủ Mexico rất tự tin để khơi lại dòng vốn chảy vào
Mexico và cơ cấu lại thâm hụt cán cân vãng lai.
Trong thời kỳ trước cuộc bầu cử diễn ra, giới cầm quyền Mexico đã thực hiện rất
nhiều các chính sách tỷ giá, tài chính, tiền tệ nhằm đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên xét về tỷ giá thì không có động thái nào được đưa ra để kìm hãm lại sự tăng giá
của đồng Peso. Trong khi đó, chính sách tiền tệ lại trở nên bành trướng và thông qua các
phương tiện tài chính trung gian của Chính phủ - các ngân hàng phát triển hay các quỹ
tín thác - để bơm thêm tín dụng vào nền kinh tế. Chính sách tiền tệ điều tiết sự mở rộng

của nền kinh tế bằng cách giữ cho lãi suất thấp. Nhưng mặc dù lãi suất có tăng nhưng
cũng không phải là lớn để Ngân hàng Mexico phải bảo vệ đồng Peso. Những chính sách
này trở nên mâu thuẫn cùng với việc thâm hụt cán cân vãng lai gia tăng và các hành
động trì hoãn trong việc định giá quá cao tiền tệ.
2.3.2 Không có sự điểu chỉnh trong chính sách tỷ giá
Theo rất nhiều các nhà phân tích thì trong năm 1994 giới cầm quyền Mexico đã
có thể giảm thâm hụt cán cân vãng lai bằng cách điều chỉnh tỷ giá. Các nhà phân tích
cho rằng dù năng lực sản xuất có tăng nhưng Mexico đã mất khả năng cạnh tranh do
việc định giá quá cao đồng tiền. Hơn thế nữa ngân hàng và bộ tài chính Mexico còn cho
rằng chính do sản lượng xuất khẩu của Mexico vào năm 1994 nên việc các nhà phân
tích đưa ra ý kiến về sự định giá quá cao đồng Peso là phóng đại sự thật. Hậu quả là đến
cuối năm 1994, động thái duy nhất của chính quyền Mexico là cho phép đồng Peso phá
giá so với đồng USD với biên độ tối đa cho phép trong hệ thống tỷ giá đã thiết lập.
2.3.3 Chính sách tiền tệ khuyến khích sự mở rộng của nền kinh tế
Một số nhà phân tích kinh tế khác cho rằng Mexico có thể theo đuổi 1 chính sách
tài chính thắt chắt nhằm giảm thâm hụt cán cân thương mại vào năm 1994. Chính phủ
có thể giảm chi tiêu, giảm các nhu cầu nội địa cũng như nhập khẩu để giảm bớt áp lực
lên đồng Peso bằng cách tăng thuế, tăng tiết kiệm nội địa, giảm chi tiêu chính phủ.
18
Mexico dù sao cũng đã từng trải qua nhiều năm khó khăn cắt giảm ngân sách, từ việc
thâm hụt ngân sách liên bang tương đương 9,3% GDP vào năm 1988 cho tới thặng dư
0,7% vào năm 1993. Hơn thế nữa tổng nợ công của Mexico giảm từ gần 50% vào năm
1988 xuống còn 25% vào năm 1993. Để có được kết quả này, chính phủ Mexico cho
rằng sẽ vô cùng khó khăn để theo đuổi thặng dư tài chính và chấp nhận 1 tỷ lệ thất
nghiệp cao và tăng trưởng kinh tế thấp. Họ còn cho rằng những động thái như vậy sẽ tác
động xấu tới tăng trưởng kinh tế và việc thay đổi theo chính sách này sẽ khó co khả
năng hoàn thành trong năm bầu cử.
Vậy là thay vì thực hiện một chính sách tài chính kiểm soát chặt hơn thì chính
phủ Mexico lại tăng chi tiêu vào năm 1994. Các con số chi tiêu ở khu vực công cho thấy
chính phủ chi tiêu để khuyến khích tăng trưởng kinh tế, đặc biệt là khu vực năng lượng

và xây dựng. Tổng chi ngân sach tăng 11,6% và theo Ngân hàng Mexico thì chi tiêu cho
khu vực công phi tài chính chiếm 11% GDP.
2.3.4 Chính sách tiền tệ điều tiết tăng trưởng kinh tế
Với mục đích giảm thâm hụt cán cân vào năm 1994, chính quyền Mexico đã có
thể theo đuổi 1 chính sách tài chính thắt chặt có kiểm soát hơn như các nhà phân tích
đưa ra. Ngân hàng Mexico công bố rằng họ theo đuổi chính sách tiền tệ không rộng mở
và bằng chứng họ đưa ra là: (1) tăng trưởng trung bình khi so sánh với tăng trưởng GDP
danh nghĩa, (2) lạm phát ở mức thấp so với tăng trưởng kinh tế, (3) tỷ lệ lãi suất cao
trong hầu như cả năm và (4) ổn định dự trữ từ tháng 4 đến tháng 11. Thêm vào đó họ
còn cho rằng chính sách tiền tệ là hoàn toàn ăn khớp với việc hỗ trợ chế độ tỷ giá và phù
hợp với sự ổn định chỉ số giá cả. Chính quyền khằng định rằng lạm phát năm 1994 chỉ
là 7,4%, thấp nhất trong vòng 22 năm. Tuy nhiên 1 vài nhà phân tích thì cho rằng chính
sách tiền tệ của Mexico 1994 đã điều tiết sự mở rộng kinh tế và không hoàn toàn phù
hợp với chính sách tỷ giá của chính phủ.
Như đã nêu ra ở trên, chính quyền Mexico thành công trong việc ổn định dự trự
ngoại hối từ cuối tháng 4 cho tới giữa tháng 11 năm 1994. Tuy nhiên không thể coi là
hiệu quả bởi chính sách tiền tệ thắt chặt mà nền kinh tế lại đòi hỏi 1 lãi suất đủ cao để
19
thu hút và giữ chân các nhà đầu tư. Sau vụ ám sát ứng cử viên tổng thống, lãi suất tăng
từ 9% lên 20% nhưng đến cuối tháng 4, lãi suất giảm chỉ nằm trong khoảng từ 15% đên
20% và giữ cho tới tháng 11. Và thay vì nâng lãi suất thì chính phủ lại thu hút các nhà
đầu tư bằng cách đổi các khoản chứng khoán được định giá bằng đồng Peso sang USD.
Và kết quả là lượng đầu tư vào tín phiếu kho bạc Mexico mệnh giá USD tăng từ 6,4%
lên 70,2 % trên tổng đầu tư nước ngoài vào chứng khoán từ tháng 1 đến thang 11. Và
lượng đầu tư vào tín phiếu mệnh giá Peso giảm từ 70,3% xuống còn 24,4%. Bằng việc
chuyển đổi này, chính phủ Mexico đã tránh được việc trả lãi suất cao cho các nhà đầu tư
và nhu cầu nắm giữ tài sản bằng đồng Peso. Tuy nhiên thì động thái lại không hề giảm
thiểu được thâm hụt cán cân. Hơn thế nữa việc tăng số lượng các tín phiếu mệnh giá
USD khiến nền kinh tế Mexico dễ bị tác động hơn bởi khủng hoảng tài chính bởi các
nhà đầu tư đầu tư vào loại danh mục chứng khoán này vô cùng nhạy cảm với sự thay đổi

rủi ro và lãi suất. Bởi loại chứng khoán này có thời hạn ngắn, có nghĩa nhà đầu tư nắm
giữ không thể chuyển đổi sang dạng khác nếu nhận thấy rủi ro vỡ nợ của chính phủ gia
tăng hay lợi nhuận cao hơn nếu chuyển đầu tư sang dạng khác.
2.3.5 . Sự ngập ngừng của chính phủ trong việc đối phó với khủng hoảng
Tháng 4 năm 1994, 3 quốc gia Mỹ, Canada và Mexico đã lập ra Hội đồng cố vấn
tài chính Bắc Mỹ bao gồm các thành viên là bộ trưởng bộ tài chính và NHTW của ba
nước. Các thành viên của hội đồng này đã thông qua việc cấp khoản tín dụng ngắn hạn
giúp Mexico vượt qua khủng hoảng, trong đó Mỹ sẽ tài trợ 6 tỷ USD, Canada tài trợ 1 tỷ
đô la Canada. Đồng thời, NHTW Mexico đã quyết định nâng lãi suất của tín phiếu kho
bạc bằng đồng peso từ 9%/năm lên 18%/năm nhằm thu hút các nhà đầu tư, ngăn chặn sự
rút vốn ồ ạt.
Tuy nhiên, việc tăng lãi suất vẫn không làm cho tín phiếu kho bạc Mexico trở nên
hấp dẫn hơn với các nhà đầu tư. Họ kỳ vọng rằng trong tương lai đồng peso sẽ mất giá
mạnh nên họ yêu cầu các tín phiếu kho bạc mới phát hành đem lại mức lại suất cao hơn.
Trước tình hình đó, chính phủ Mexico có 3 lựa chọn:
- Thứ nhất là: tăng lãi suất tín phiếu kho bạc
- Thứ hai là: giảm chi tiêu công  giảm cầu về hàng hóa giảm nhập khẩu
20
- Thứ ba là: phá giá đồng nội tệ
Xét trên hoàn cảnh của chính phủ Mexico lúc đó, khi mà cuộc bầu cử tổng thống
đang chuẩn bị diễn ra, nếu như tăng lãi suất hay giảm chi tiêu công sẽ gây ra ảnh hưởng
xấu tới tăng trưởng kinh tế, làm mất niềm tin của nguời dân vào chính phủ. Và lựa chọn
thứ 3, phá giá nội tệ cũng không khả thi. Lý do là vì nếu phá giá đồng peso sẽ phát tín
hiệu cho các nàh đầu tư rằng peso không phải là một đồng tiền có giá trị ổn định, từ đó
sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lý của nhà đầu tư. Bên cạnh đó, việc duy trì một tỷ giá
ổn định là nhân tố quan trọng quyết định sự ổn định về kinh tế xã hội trong dài hạn.
Đồng thời, tỷ giá được giữ ổn định thì mới kiềm chế được lạm phát.
Tuy nhiên, Chính phủ Mexico đã không áp dụng một giải pháp nào trong 3 giải
pháp trên. Mùa xuân 1994, Mexico đã quyết định sử dụng một công cụ tài chính gọi là
tesobono (một loại trái phiếu chính phủ nhưng được bảo hiểm do nó được đảm bảo bởi

chỉ số dola-index., do đó các nhà đầu tư có thể chuyển rủi ro hối đoái sang cho chính
phủ). Loại chứng khoán này đã thu hút được đông đảo các nhà đầu tư nước ngoài. Đây
có thể là một dấu hiệu tốt vì như vậy chính phủ đã ngăn chặn được sự tháo vốn của các
nhà đầu tư nước ngoài trong ngắn hạn. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nắm giữ các chứng
khoán ngắn hạn này lại hết sức nhạy cảm với các biến động của lãi suất và rủi ro. Do đó,
họ sẽ rất dễ bán các chứng khoán này khi rủi ro chính chị ở Mexico ra tăng hoặc là khi
có sự chênh lệch giữa lãi suất ở một quốc gia khác so với ở Mexico. Trên thực tế, sau
khi thực hiện việc phát hành lại chứng khoán Tesobono này, quỹ dự trữ ngoại hối của
Mexico đã ổn định trở lại mức 17 tỷ đô la Mỹ trong suốt khoảng thời gian từ tháng 4
đến tháng 8, thời điểm kết thúc cuộc bầu cử tổng thống. Tuy nhiên, sau đó do lãi suất
đồng peso giảm nên đã tác động làm cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài càng khó
khăn hơn. Trong suốt quý 3 năm 1994, các dấu hiệu cho thấy sự không đồng bộ và bất
hợp lý giữa các chính sách vĩ mô của chính phủ ngày càng trở nên rõ ràng hơn. Thâm
hụt thương mại tiếp tục gia tăng trong suốt năm 1994. Có thể lý giải điều này là do sự
mở rộng của chính sách tài khóa làm cho tăng nhu cầu nhập khẩu. Thêm vào đó, việc
đồng peso bị định giá cao cũng đã làm cho nhập khẩu ra tăng.
21
Bảng 5: Dự trữ ngoại hối của Mexico từ 7/1993 đến 12/1994
Được tài trợ bởi việc phát hành trái phiếu Tesobonos, quỹ dự trữ ngoại hối của Mexico
đã được bình ổn trở lại. Tuy nhiên, đến giữa tháng 11/1994, chính phủ đã phải trích
ngoại tệ từ quỹ ra để đáp ứng nhu cầu ngoại tệ của thị trường. Thêm vào đó, 15/11/1994,
Cục dự trữ liên bang Mỹ quyết định nâng lãi suất cơ bản lên thêm 0.75% để làm tăng
thêm tính hấp dẫn của trái phiếu chính phủ Mỹ đối với các nhà đầu tư. Sau đó vào cuối
tháng 11 và đầu tháng 12, vụ xung đột vũ trang và vụ ám sát ứng cử viên hàng đầu của
chức Tổng thống đã làm cho các nhà đầu tư e ngại về sự ổn định chính trị của quốc gia
này. Thêm vào đó, 9/12/1994, chính quyền mới nhậm chức tuyên bố mức thâm hụt
thương mại trong năm 1995 sẽ có thể cao hơn năm 1994 đã làm cho các nhà đầu tư càng
kém mặn mà với việc đầu tư vào Mexico. Hệ quả là hàng loạt các trái phiếu được bán ra
trước khi đáo hạn, và quỹ dự trữ ngoai hối rơi xuống mức 10 triệu đô la Mỹ. trong khi
đó, mức dư nợ của chính phủ Mexico đối với các trái phiếu Tesobonos lên tới 30 tỷ

USD và tất cả sẽ đáo hạn vào năm 1995. Bất chấp tất cả những thực trạng trên, chính
phủ Mexico vẫn tìm mọi cách để đảm bảo với các nhà đầu tư rằng nước này sẽ không
phá giá tiền tệ.
22
Ngày 20/12/1994, chính phủ nước này đã quyết định nới rộng biên độ giao động
tỷ giá nhằm làm giảm bớt áp lực tỷ giá. Tuy nhiên, họ lại không đưa ra bất cứ môt chính
sách tài chính tiền tệ nào khác chẳng hạn như nâng lãi suất. Và chính sự việc này đã
làm cho dự trữ ngoại hối tiếp tục giảm đi 4 tỷ USD. Kết quả là, Mexico không còn đủ
khả năng để can thiệp nhằm bình ổn tỷ giá. Họ buộc phải thả nổi tỷ giá vào 22/12/1994.
CHƯƠNG 3:BIỆN PHÁP ĐỐI PHÓ SAU KHỦNG HOẢNG CỦA MEXICO
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
3.1 Các biện pháp đối phó sau khủng hoảng của Mexico
Nền tài chính thế giới đã chứng kiến cuộc khủng hoảng tài chính ở Mexico bắt
đầu vào ngày 20/12/1994 khi nước này tuyên bố phá giá đồng Peso 40% so với USD.
23
(Nếu trước ngày phá giá 1 USD bằng 3,46 Peso thì sau ngày phá giá 1 USD bằng 6
Peso, thậm chí có lúc 1 USD bằng 8 Peso). Nợ nước ngoài của Mexico vượt quá 200 tỷ
USD, lạm phát ít nhất lên tới 60%, thất nghiệp từ 3,6% tăng lên xấp xỉ 10%. Tốc độ
tăng trưởng năm 1995 là âm 6,2%. Khi đó chính quyền Mexico phải kêu gọi cộng đồng
quốc tế giúp đỡ Mexico thoát khỏi cuộc khủng hoảng.
Thách thức đối với chính sách kinh tế không chỉ để giảm thâm hụt tài khoản
hiện tại bên ngoài mà còn để có biện pháp để ngăn chặn sự sụp đổ của ngành tài chính
và sản xuất trong nước. Vì vậy, ngoài việc điều chỉnh tiền tệ tài chính, thông qua một
tỷ giá hối đoái thả nổi, và những tiến bộ trong cải cách cơ cấu và tự do hoá thị trường,
các nhà chức trách Mexico thương lượng một gói tài chính khẩn cấp với chính phủ
Hoa Kỳ, IMF, Ngân hàng Thế giới, để tránh đình chỉ thanh toán các nghĩa vụ của bên
ngoài đất nước. Gói tài chính này không những cần thiết để ngăn chặn cuộc khủng
hoảng tại Mexico mà còn tránh cho khủng hoảng tràn qua các nước khác.
Tuy nhiên cùng với việc chấp nhận gói tài chính cứu trợ khẩn cấp có điều kiện
của IMF - Quỹ tiền tệ quốc tế và áp dụng các biện pháp giảm chi tiêu ngân sách, thắt

chặt chính sách tiền tệ và đẩy nhanh cải cách cơ cấu kinh tế, từ giữa năm 1996 nền
kinh tế Mêxicô đã thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng và bắt đầu phục hồi.
3.1.1 Gói tài chính cứu trợ khẩn cấp
Một thành phần quan trọng của các biện pháp ngắn hạn là giải cứu tài chính của
các tổ chức đa phương, chính phủ Mỹ và Canada trong hai tháng đầu năm 1995.
Nguồn lực của gói tài chính này gồm 20 tỷ USD của chính phủ Mỹ trong các hình
thức trao đổi hoặc tín dụng trung và dài hạn được đảm bảo bởi quỹ Ổn định ngoại hối,
17,8 tỷ USD của IMF. Phần còn lại là của nguồn lực được cung cấp bởi chính phủ
Canada, Ngân hàng thế giới. Chính phủ Mexico dùng quỹ này cho 2 mục đích cơ bản:
Tái tài trợ thương mại của các ngân hàng nước ngoài cho các khoản nợ: đầu năm
1993, mức độ thâm hụt tương đương 6,5% tổng sản phẩm trong nước (GDP). Sự thâm
hụt này chủ yếu được bù đắp bằng vay nợ ngắn hạn của nước ngoài. Quỹ Tiền tệ
Quốc tế đã kiến nghị chính phủ Mexico có các biện pháp giảm thâm hụt cán cân tài
khoản vãng lai. Tuy nhiên, mức độ thâm hụt tiếp tục gia tăng trong năm 1994, lên tới
24
8% GDP. Biên pháp này cứu giúp được chính phủ từng vay mượn ngắn hạn quá nhiều
(dưới hình thức các trái phiếu kho bạc) ra khỏi tình trạng phá sản.
Tăng dự trữ ngoại hối: trong năm 1994 xảy ra môt số sự việc trong chính phủ
Mexico. Bắt đầu của cuộc nổi dậy Chiapas để phản ứng lại sự hình thành và hoạt động
của tổ chức NAFTA đã khiến các nhà đầu tư nước ngoài lo ngại đầu tư vào một thị
trường bất ổn về chính trị như Mexico, kèm theo đó là những mâu thuẫn trong chính
phủ dẫn đến quỹ dự trữ ngoại hối giảm 30 tỷ USD trong tháng 2 – 1994 xuống đến 17
tỷ USD trong tháng 4 và khoảng gần 12 tỷ USD trong đầu tháng 12.
3.1.2 Thay đổi trong chính sách tài khóa
Nguồn tín dụng quốc tế đã đi kèm với điều kiện buộc Mexico phải chấp nhận
một kế hoạch quản lý tài chính: kiểm soát tiền lương, tiết kiệm, và các chi tiêu công
cộng và phải giảm mức thâm hụt tài khoản vãng lai. Ngoài các chế độ cải cách thương
mại – tài chính, các nhà chức trách đã nghiêm túc lại trong việc thay đổi các chính
sách của nền kinh tế. Giảm bớt vai trò của nhà nước, nâng cao vai trò của doanh
nghiệp tư nhân trong nền kinh tế. Phạm vi cải cách bao gồm tư nhân hóa, loại bỏ

những quy định, thay đổi sắp xếp các vùng nông thôn giảm đáng kể vai trò của nhà
nước trong các hoạt động kinh tế.
Để kiềm chế lạm phát, chính phủ đã ký một thỏa thuận với công đoàn và khu
vực tư nhân trong tháng 1 – 1995. Giá cả được quản lý hạn chế tăng giá để điều chỉ
bởi chí phí cao hơn nhập khẩu đầu vào. Thắt chặt chính sách tiền tệ và tài chính nhằm
giảm thặng dư ngân sách. Do ban đầu ngân sách dự kiến cho năm 1995 được phê
duyệt vào tháng 12- 1994 trước thời kỳ khủng hoảng là 2,2% GDP, sau đó ngân sách
điều chỉnh dự kiến thâm hụt lên mức 3,4% GDP trong năm 1995.
Ngoài các chế độ cải cách thương mại – tài chính, các nhà chức trách đã nghiêm
túc lại trong việc thay đổi các chính sách của nền kinh tế. Giảm bớt vai trò của nhà
nước, nâng cao vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế. Phạm vi cải cách
bao gồm tư nhân hóa, loại bỏ những quy định, thay đổi sắp xếp các vùng nông thôn
giảm đáng kể vai trò của nhà nước trong các hoạt động kinh tế.
3.1.3 Thay đổi chính sách tiền tệ
Tỷ giá hối đoái thả nổi
25

×