Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Giải pháp hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHTMCP Phương Đông chi nhánh Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (506.34 KB, 91 trang )

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Viết đầy đủ
DN Doanh nghiệp
KQHĐ Kết quả hoạt động
NH Ngân hàng
NHCK Ngân hàng chiết khấu
NHPH Ngân hàng phát hành
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NHTB Ngân hàng thông báo
NHXN Ngân hàng xác nhận
NK Nhập khẩu
TDCT Tín dụng chứng từ
TMQT Thương mại quốc tế
TTQT Thanh toán quốc tế
TTTM Trung tâm thương mại
XK Xuất khẩu
XNK Xuất nhập khẩu
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ Tên sơ đồ
2.1. Cơ cấu tổ chức OCB – Hà Nội
2.2. So sánh thị phần L/C xuất khẩu của một số ngân hàng
2.3. Tỷ trọng L/C nhập trong tổng doanh số thanh toán hàng nhập
1
2.4. So sánh thị phần L/C nhập khẩu của một số ngân hàng
2.5.
Bảng Tên bảng
2.1. Tình hình huy động vốn qua các năm 2011- 06/2014
2.2. Tình hình huy động vốn qua các năm 2011- 06/2014
2.3. Kết quả hoạt động dịch vụ của OCB - Hà Nội
2.4. Doanh số TTQT hàng xuất tại OCB Hà Nội


2.5. Giá trị L/C được mở qua giai đoạn 2011 – 06/2014
2.6. Tình hình nợ quá hạn L/C tại OCB Hà Nội
3.1.
Mục tiêu phát triển hoạt động TTQT đến năm 2020
LỜI MỞ ĐẦU
1.1. Tính tất yếu của đề tài nghiên cứu
Là một trong những lĩnh vực hoạt động kinh doanh của NHTM, TTQT ra đời
và phát triển không ngừng như là một tất yếu khách quan. Tuy nhiên, trong quá
trình hoạt động của mình, hoạt động TTQT không chỉ đơn thuần mang lại những
lợi ích kinh tế mà còn phát sinh những nguy cơ có thể gây ra rủi ro, tổn thất trực
tiếpcho đất nước, cho các NHTM, cho doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh
doanh xuất nhập khẩu.
2
Thanh toán quốc tế bằng phương thức Tín dụng chứng từ ( TDCT) là một hoạt
động phổ biến và được sử dụng nhiều nhất trong TTQT bởi tính tiện lợi và những
lợi ích nó mang lại hơn hẳn những phương thức khác. Song không vì thế mà
phương thức này có ít hơn rủi ro so với các phương thức khác. Hiểu biết về những
rủi ro trong TTQT bằng phương thức TDCT là một đòi hỏi cấp thiết trong hoạt
động kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay.
Ngân hàng TMCP Phương Đông mặc dù mới gia nhập vào thị trường cho vay
xuất nhập khẩu, tuy nhiên ngân hàng đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy
nhiên, để có thể cạnh tranh được với các “ông lớn” trong ngành, đòi hỏi ngân hàng
cần phải nâng cao năng lưc chuyên môn và quản trị thật tốt bởi đây là một lĩnh vực
tiềm ẩn rất nhiều rủi ro do có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Sau thời gian dài
thực tập tại Chi nhánh OCB Hà Nội, em đã có cơ hội tìm hiểu thêm về hoạt động
TTQT, mà cụ thể hơn là hoạt động TTQT theo phương thức TDCT tại đây. Vì vậy,
trong chuyên đề nghiên cứu của mình, em xin viết về đề tài “Giải pháp hạn chế
rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức Tín dụng chứng từ tại Ngân
hàng thương mại cổ phần Phương Đông chi nhánh Hà Nội”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề cơ bản sau:
- Cơ sở lý thuyết của hoạt động thanh toán tín dụng chứng từ và những rủi ro trong
phương thức tín dụng chứng từ.
- Hoạt động thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng
TMCP Phương Đông OCB giai đoạn 2011 – 06/2014
- Tổng hợp những loại rủi ro có thể xảy ra đối với các ngân hàng khi tham gia
phương thức thanh toán theo tín dụng chứng từ khi là : Ngân hàng phát hành, ngân hàng
thông báo, ngân hàng xác nhận, chiết khấu thư tín dụng
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong phương thức
3
thanh toán tín dụng chứng từ tại OCB Chi nhánh Hà Nội.
1.3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
∗ Đối tượng nghiên cứu: Rủi ro trong thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ
∗ Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vị không gian: Đề tài được nghiên cứu tại Ngân hàng TMCP Phương Đông chi
nhánh Hà Nội
- Phạm vi thời gian: Đề tài được nghiên cứu từ năm 2011 - 6/2014
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Các số liệu trong bài nghiên cứu được cung cấp bởi phòng kế toán tổng hợp của
OCB Chi nhánh Hà Nội, bao gồm Bảng kết quả hoạt động kinh doanh, các báo cáo tổng
hợp hoạt động thanh toán quốc tế, các thông tin về lịch sử và quá trình hình thành phát
triển…Ngoài ra, đề tài còn sử dụng thông tin từ các nguồn khác như sách, báo, tạp chí
kinh tế, website….
Các số liệu trong bài được xử lý bằng phương pháp so sánh bằng số tương đối,
tuyệt đối, so sánh số liệu năm tính với số liệu các năm trước, so sánh tốc độ tăng trưởng
của các chỉ tiêu giữa các năm nhằm đưa ra nhận xét về sự tăng trưởng của hoạt động
thanh toán tín dụng chứng từ. Ngoài ra, nghiên cứu còn sử dụng phương pháp đồ thị,
phương pháp phân tích tỷ lệ, phương pháp thống kê mô tả nhằm đưa ra các đánh giá tổng
hợp về đối tượng trong đề tài nghiên cứu.
1.5. Kết cấu của nghiên cứu

Ngoài lời mở đầu, mục lục và các danh mục tài liệu, luận văn được kết cấu thành 3
chương:
Chương 1: Tổng quan về rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ tại ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng về rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ tại ngân hàng TMCP Phương Đông chi nhánh Hà Nội
4
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro trong thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng TMCP Phương Đông chi nhánh Hà Nội
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ RỦI RO TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG
THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I.1. Tổng quan về thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
I.1.1. Khái niệm, đặc điểm
I.1.1.1.Khái niệm phương thức thanh toán tín dụng chứng từ (Documentary Credit)
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một sự thỏa thuận bất kỳ, trong đó, theo
yêu cầu của khách hàng (nhà nhập khẩu), một ngân hàng (ngân hàng mở thư tín dụng) sẽ
phát hành một bức thư theo đó ngân hàng cam kết trả một số tiền nhất định cho người
5
khác (nhà xuất khẩu) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong phạm vi số
tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với
những quy định đề ra trong thư tín dụng.
Điều 2 trong UCP 500 của Phòng Thương Mại Quốc Tế đưa ra một định nghĩa hoàn
chỉnh hơn, theo đó, tín dụng chứng từ là: Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả
thuận trong đó một Ngân hàng (Ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng
(người yêu cầu mở thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người
hưởng lợi số tiền thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong
phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho Ngân hàng một bộ chứng từ thanh toán
phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng.:
- Thanh toán cho, hoặc theo lệnh của người thứ ba (người thụ hưởng) hoặc chấp nhận và

thanh toán hối phiếu do người thụ hưởng ký phát
- Ủy quyền cho ngân hàng khác thanh toán, chấp nhận và thanh toán hối phiếu ; hoặc
- Cho phép ngân hàng khác chiết khấu chứng từ quy định trong thư tín dụng, với điều kiện
chúng phù hợp với tất cả điều khoản và điều kiện của thư tín dụng.
Từ khái niệm trên ta thấy rằng tín dụng thư hay thư tín dụng là văn bản quan trọng
nhất trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Thư tín dụng (letter of credit) gọi
tắt là L/C là văn bản pháp lý trong đó một ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng sẽ
đứng ra cam kết sẽ trả cho người thụ hưởng một số tiền nhất định nếu người này xuất
trình bộ chứng từ phù hợp với những quy định đã nêu trong văn bản.
I.1.1.2.Đặc điểm của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ
• L/C là hợp đồng kinh tế hai bên
L/C là hợp đồng kinh tế độc lập chỉ của hai bên là ngân hàng phát hành và người thụ
hưởng. Mọi yêu cầu và chỉ thị của người xin mở L/C không được thể hiện trong L/C.
• L/C độc lập với hợp đồng cơ sở và hàng hóa
L/C được hình thành trên cơ sở hợp đồng ngoại thương nhưng sau khi được thiết
lập nó lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng này. Một khi L/C đã được mở và được các bên
chấp nhận, thì cho dù nội dung của L/C có đúng với hợp đồng ngoại thương hay không
cũng không làm thay đổi quyền lợi và nghĩa vụ của các bên có liên quan đến L/C.
• L/C chỉ giao dịch bằng chứng từ và thanh toán chỉ căn cứ vào chứng từ
6
Chứng từ trong giao dịch L/C có tầm quan trọng đặc biệt, nó là bằng chứng về việc
giao hàng của người bán, là đại diện cho giá trị hàng hóa đã được giao. Do đó chúng trở
thành căn cứ để ngân hàng trả tiền, để nhà nhập khẩu hoàn trả tiền cho ngân hàng, là
chứng từ đi nhận hàng của nhà nhập khẩu v.v…
7
Có thể nói trong phương thức tín dụng chứng từ, người nào nắm chứng từ sở hữu
hàng hóa thì người đó là người có quyền sở hữu đối với hàng hoá. Vì chỉ cần nắm chứng
từ là có thể đi nhận hàng. Trong phương thức tín dụng chứng từ, các bên giao dịch cũng
chỉ căn cứ vào chứng từ để xem rằng xuất trình đó đã phù hợp hay chưa? để quyết định
việc có thanh toán hay chấp nhận thanh toán không? Chính các chứng từ xuất trình là căn

cứ duy nhất để các ngân hàng quyết định trả tiền hay từ chối thanh toán cho người hưởng
lợi, đồng thời cũng là căn cứ duy nhất để người nhập khẩu hoàn trả hay từ chối trả tiền
cho ngân hàng. Nếu người xuất khẩu xuất trình được các chứng từ thể hiện trên bề mặt
của chúng là phù hợp với các quy định của thư tín dụng thì sẽ được ngân hàng trả tiền.
Ngân hàng không có lý do gì để từ chối thanh toán tiền hàng khi người xuất khẩu
xuất trình bộ chứng từ hợp lệ. Bởi vì như đã nói ở trên, phương thức tín dụng chứng từ là
cam kết trả tiền của ngân hàng phát hành thư tín dụng đối với người xuất khẩu khi họ
xuất trình bộ chứng từ phù hợp với quy định trong thư tín dụng. Ngân hàng không chịu
trách nhiệm về tên hàng, số lượng, trọng lượng, chất lượng, trạng thái, bao bì, việc giao
hàng, giá trị hay sự hiện hữu của hàng hoá mà bất cứ chứng từ nào đại diện. Cũng tương
tự như vậy, nếu bộ chứng từ ngân hàng xuất trình để đòi tiền người nhập khẩu hợp lệ thì
ngưòi nhập khẩu sẽ trả tiền cho ngân hàng, còn nếu không thì người nhập khẩu có quyền
từ chối thanh toán. Trong trường hợp đó, rủi ro sẽ hoàn toàn thuộc về ngân hàng. Vì vậy,
ngân hàng cần phải kiểm tra kỹ bộ chứng từ xuất trình trước khi chấp nhận thanh toán
cho nhà xuất khẩu.
Như vậy, trong phương thức tín dụng chứng từ, các chứng từ có một tầm quan trọng
to lớn, nó tượng trưng cho giá trị hàng hoá mà người xuất khẩu đã giao và là căn cứ cho
người xuất khẩu đòi ngân hàng thanh toán tiền hàng, đồng thời nó cũng là căn cứ duy
nhất để nhà nhập khẩu dựa vào đó quyết định thanh toán hay từ chối thanh toán đối với
ngân hàng phát hành.
• L/C yêu cầu tuân thủ chặt chẽ của bộ chứng từ
8
Đây là nguyên tắc cơ bản của giao dịch L/C để được thanh toán người xuất khẩu phải
lập được bộ chứng từ phù hợp, tuân thủ chawtj chẽ các điều khoản và điều kiện của L/C
bao gồm: số loại, số lượng mỗi loại và nội dung chứng từ phải đáp ứng được chức năng
của chứng từ có liên quan.
I.1.2. Thư tín dụng
I.1.2.1. Khái niệm thư tín dụng
L/C là hình thức phổ biến hiện nay, đây là hình thức mà Ngân hàng thay mặt Người
nhập khẩu cam kết với Người xuất khẩu/Người cung cấp hàng hoá sẽ trả tiền trong thời

gian qui định khi Người xuất khẩu/Người cung cấp hàng hoá xuất trình những chứng từ
phù hợp với qui định trong L/C đã được NH mở theo yêu cầu của người nhập khẩu.
9
Thư tín dụng được ra đời trên cơ sở hợp đồng dịch vụ được ký kết giữa ngân hàng
phát hành và người nhập khẩu. Thư tín dụng hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán,
nhưng sau khi ra đời lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Thậm chí trong trường
hợp thư tín dụng có dẫn chiếu đến hợp đồng mua bán thì các ngân hàng cũng không coi
hợp đồng mua bán như là một bộ phận cấu thành nên thư tín dụng. Do vậy, các ngân hàng
thường khuyên khách hàng của mình không nên dẫn chiếu hợp đồng mua bán vào thư tín
dụng. Người nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng để làm đơn yêu cầu phát hành thư tín dụng.
Người xuất khẩu căn cứ vào các điều kiện của thư tín dụng tiến hành giao hàng và lập
chứng từ trên cơ sở yêu cầu của thư tín dụng. Do đó người xuất khẩu khi nhận được thư
tín dụng phải kiểm tra kỹ các điều khoản của thư tín dụng, nếu có điều khoản nào chưa
phù hợp phải yêu cầu người nhập khẩu tiến hành sửa đổi thư tín dụng cho phù hợp trước
khi thực hiện giao hàng. Người xuất khẩu phải lập đầy đủ các chứng từ phù hợp với yêu
cầu của thư tín dụng và xuất trình cho ngân hàng trong thời hạn quy định. Sau khi kiểm
tra chứng từ, nếu thây hoàn toàn phù hợp với các quy định của thư tín dụng, ngân hàng
phát hành thanh toán tiền hàng cho người xuất khẩu.
Như vậy thư tín dụng là cam kết trả tiền của ngân hàng phát hành đối với người
xuất khẩu. Nó hoàn toàn độc lập với hợp đồng cơ sở. Điều 4a UCP600 nêu rõ: “Về bản
chất, tín dụng là một giao dịch riêng biệt với các hợp đồng mua bán hoặc các hợp đồng
khác mà các hợp đồng này có thể làm cơ sở của tín dụng. Các ngân hàng không liên quan
đến hoặc bị ràng buộc bởi các hợp đồng như thế, thậm chí ngay cả trong tín dụng có bất
cứ sự dẫn chiếu nào đến các hợp đồng như thế. Vì vậy sự cam kết của một ngân hàng để
thanh toán, thương lượng thanh toán hoặc thực hiện bất cứ nghĩa vụ nào khác trong tín
dụng không phụ thuộc vào các khiếu nại hoặc các biện hộ của người yêu cầu phát sinh từ
quan hệ của họ với ngân hàng phát hành hoặc người thụ hưởng.”
I.1.2.2. Nội dung thư tín dụng
Một thư tín dụng phải gồm có các nội dung sau:
(1) Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C

10
* Số hiệu của L/C: Tất cả các L/C đều phải có số hiệu riêng của nó. Tác dụng của số hiệu
là dùng để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việc thực hiện L/C. Số hiệu của L/C
còn được dùng để ghi vào các chứng từ có liên quan trong bộ chứng từ thanh toán của
L/C, đặc biệt là tham chiếu khi lập hối phiếu đòi tiền.
* Địa điểm mở L/C: Là nơi ngân hàng cam kết trả tiền cho người hưởng lợi.
* Ngày mở L/C: là ngày bắt đầu phát sinh và có hiệu lực về sự cam kết của ngân hàng mở
L/C đối với người thụ hưởng.Ngày mở L/C là ngày bắt đầu tính thời hạn của L/C
và cũng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu có thực hiện việc
mở L/C đúng thời hạn như trong hợp đồng không.
(2) Loại thư tín dụng
Mỗi loại L/C đều có tính chất, nội dung khác nhau, quyền lợi và nghĩa vụ của
những người liên quan tới thư tín dụng cũng khác nhau. Do đó, khi mở thư tín dụng,
người có nhu cầu cần phải xác định cụ thể loại thư tín dụng nào cần mở.
(3) Tên, địa chỉ của những người liên quan
- Người yêu cầu mở thư tín dụng: Còn gọi là người mua người, người nhập khẩu ,người
mở L/C ,người phải trích tài khoản để thanh toán, người uỷ thác.
- Người hưởng lợi: Là người xuất khẩu, người bán hay người ký phát hối phiếu….được
hưởng thư tín dụng do người nhập khẩu mở. Người xuất khẩu chỉ giao hàng khi biết L/C
đã được mở đúng theo yêu cầu của mình như đã thỏa thuận trong hợp đồng ngoại thương.
Sauk hi giao hàng, người bán phải lập đầy đủ các chứng từ theo yêu cầu của L/C và nộp
cho ngân hàng trong thời hạn hiệu lực của L/C. Người bán chỉ nhận được tiền thanh toán
khi bộ chứng từ mà họ xuất trình đáp ứng được yêu cầu phù hợp về mặt hình thức quy
định của L/C.
- Ngân hàng mở thư tín dụng: Ngân hàng mở thư tín dụng hay ngân hàng phát hành là
ngân hàng phục vụ người nhập khẩu, phát hành thư tín dụng theo yêu cầu của người nhập
khẩu. Đây là ngân hàng thường được hai bên mua bán thỏa thuận lựa chọn và quy định
trong hợp đồng, nêu chưa có sự quy định trước thì người nhập khẩu có quyền lựa chọn.
11
- Ngân hàng thông báo: Là ngân hàng có trách nhiệm thông báo cho người xuất khẩu

biết rằng người nhập khẩu đã mở một L/C cho người xuất khẩu hưởng.
- Ngân hàng trả tiền (nếu có): Có thể là ngân hàng mở L/C hoặc một ngân hàng được
ngân hàng mở L/C uỷ thác trả tiền cho người bán. Nếu mở L/C tại nước của người xuất
khẩu thì ngân hàng thanh toán thường là ngân hàng thông báo. Sau khi đã kiểm tra tính
phù hợp của bộ chứng từ hàng xuất, ngân hàng này sẽ quyết định thanh toán hay không.
- Ngân hàng xác nhận (nếu có): là ngân hàng theo yêu cầu của ngân hàng mở L/C đứng
ra xác nhận cho L/C được mở. Thường thì ngân hàng xác nhận là ngân hàng có uy tín
trên thị trường quốc tế. Khi một ngân hàng mở L/C yêu cầu một ngân hàng khác xác
nhận cho mình thì sẽ làm giảm uy tín của nó. Muốn xác nhận ngân hàng mở L/C phải trả
thủ tục phí rất cao và đôi khi còn phải ký quỹ, mức ký quỹ có thể đạt 100% trị giá của thư
tín dụng.
(4) Số tiền của thư tín dụng
Đây là một nội dung rất quan trọng. Số tiền phải được ghi cả bằng số và bằng chữ,
đồng thời phải ghi rõ đơn vị tiền tệ.
(5) Thời hạn hiệu lực của L/C
Là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu, nếu
người xuất khẩu xuất trình bộ chứng từ thanh toán trong thời hạn đó và phù hợp với
những điều đã quy định trong L/C. Thời hạn hiệu lực của L/C bắt đầu tính từ ngày mở
L/C đến ngày hết hiệu lực của L/C.
(6) Thời hạn trả tiền của L/C
Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn có hiệu lực của L/C hoặc có thể nằm
ngoài thời hạn hiệu lực của L/C. Trong trường hợp này phải lưu ý là hối phiếu có kỳ hạn
phải được xuất trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng.
(7) Thời hạn giao hàng
Thời hạn giao hàng được ghi trong thư tín dụng và cũng do hợp đồng thương mại
quy định. Đây là thời hạn quy định bên bán phải chuyển giao hàng cho bên mua kể từ khi
12
thư tín dụng có hiệu lực. Thời hạn giao hàng có liên quan chặt chẽ với thời hạn hiệu lực
của thư tín dụng. Nếu hai bên thoả thuận kéo dài thời gian giao hàng thêm một số ngày
thì ngân hàng mở thư tín dụng cũng sẽ hiểu rằng thời hạn hiệu lực của thư tín dụng cũng

được kéo dài thêm một số ngày tương ứng.
(8) Điều khoản về hàng hóa
Là điều khoản chỉ ra những quy định có liên quan đến hàng hóa, bao gồm tên
hàng, số lượng và trọng lượng, giá cả…
(9) Những nội dung về vận tải, giao nhận hàng hóa
Điều kiện, cơ sở giao hàng (FOB, CIF, …), nơi gởi hàng, nơi giao hàng,… cũng
được ghi vào L/C. Thông thường điều kiện giao hàng tùy thuộc vào khả năng cung ứng
hàng của người xuất khẩu, khả năng nhận hàng của người nhập khẩu…
(10) Các chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình
Yêu cầu về việc ký phát và xuất trình các loại chứng từ cần phải được nêu rõ ràng,
cụ thể và chặt chẽ trong L/C. Các loại chứng từ phải xuất trình, căn cứ theo yêu cầu đã
được thoả thuận trong hợp đồng thương mại. Thông thường một bộ chứng từ gồm có:
Hối phiếu thương mại (Commerial Bill of Exchange); Hoá đơn thương mại (Commercial
Invoice); Vận đơn hàng hải (Ocean Bill of Lading); Chứng nhận bảo hiểm (Insurance
Policy); Chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin); Chứng nhận trọng lượng (Certificate
of qulity); Danh sách đóng gói (Packing list); Chứng nhận kiểm nghiệm (Inspection
Certificate). Ngoài ra còn có số lượng bản chứng từ thuộc mỗi loại và yêu cầu về việc ký
phát từng loại chứng từ.
(11) Cam kết trả tiền của ngân hàng mở thư tín dụng
Là nội dung thể hiện sự ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C đối với L/C
này.
(12) Những điều kiên đặc biệt khác
Những điều kiện khác có thể liệt kê như: ai trả phí ngân hàng, những hướng dẫn
đối với ngân hàng chiết khấu, số UCP mà hai bên thống nhất áp dụng,…
(13) Chữ ký của ngân hàng mở L/C
13
Nếu mở L/C bằng thư. Nếu gởi bằng telex, swift thì không có chữ ký, khi đó căn
cứ vào mã khóa của L/C.
I.1.2.3. Phân loại thư tín dụng
• Căn cứ vào công dụng của L/C

Thư tín dụng có thể huỷ ngang (revocable L/C): Là loại thư tín dụng mà sau khi L/C
được mở thì người nhập khẩu có thể yêu cầu ngân hang sửa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ bất
cứ lúc nào mà không cần có sự đồng ý của người hưởng lợi L/C. Thư tín dụng có thể huỷ
ngang hầu như không được sử dụng trong thực tế mà chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết.
Thư tín dụng không thể huỷ ngang (irrevocable L/C): Là loại thư tín dụng mà sau
khi được mở thì người yêu cầu phát hành thư tín dụng sẽ không được tự ý sửa đổi, bổ
sung hay huỷ bỏ những nội dung của nó nếu không được sự đồng ý của người hưởng lợi
thư tín dụng. Để đảm bảo được tính chất và tác dụng của thư tín dụng, ngày nay hầu hết
thư tín dụng được mở theo hình thức không huỷ ngang.
• Căn cứ vào tính chất của thư tín dụng
Thư tín dụng chuyển nhượng: Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ trong đó quy
định quyền được chuyển nhượng toàn bộ hay một phần số tiền L/C cho một hay nhiều
người theo lệnh của người hưởng lợi đầu tiên, nhưng chỉ được phép chuyển nhượng một
lần mà thôi.
Thư tín dụng tuần hoàn: Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ trong đó quy định
rằng khi L/C sử dụng hết kim ngạch hoặc sau khi hêtài sản hạn hiệu lực của L/C thì nó tự
động có giá trị như cũ và cứ như vậy cho đến khi hoàn tất giá trị hợp đồng.
Thư tín dụng giáp lưng: Là loại L/C không thể huỷ bỏ được mở ra căn cứ vào một
L/C khác làm đảm bảo. Theo L/C này, người xuất khẩu căn cứ vào thư tín dụng của
người nhập khẩu, yêu cầu ngân hàng mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu khác
hưởng.
Thư tín dụng dự phòng: Để đảm bảo quyền lợi cho người nhập khẩu, trong trường
hợp người xuất khẩu không giao hàng theo đúng hợp đồng, người nhập khẩu yêu cầu
14
người xuất khẩu mở một thư tín dụng dự phòng, trong đó quy định rằng nếu người xuất
khẩu không thực hiện đúng hợp đồng, ngân hàng mở thư tín dụng dự phòng sẽ thanh toán
tiền đền bù thiệt hại cho người nhập khẩu.
Thư tín dụng đối ứng (reciprocal L/C): Là loại L/C không thể hủy bỏ trong đó quy
định nó chỉ có hiệu lực khi L/C khác đối ứng với nó đượ mở ra. Điều đó có nghĩa là tổ
chức xuất khẩu khi nhận được L/C do tổ chức nhập khẩu mở thì phải mở lại L/C tương

ứng thì nó mới có giá trị. L/C này được sử dụng trong giao dịch hàng đổi hàng và gia
công hàng xuất khẩu. Cả 2 bên đều là người mua , người bán của nhau
• Căn cứ vào thời hạn thanh toán của L/C
Thư tín dụng trả ngay: Là loại L/C không thể hủy ngang và phải thanh tóan ngay khi
hối phiếu đuợc xuất trình.Rủi ro trong loại thư tín dụng này là thương fphải thanh tóan
trứoc khi nhận hàng,vì hối phiếu và bộ chứng từ thường đến trước khi hàng nhập cảng.
Thư tín dụng trả chậm: Là loại L/C không thể hủy ngang trong đó quy định ngân
hàng mở L/C hay ngân hàng xác nhận cam kết với người hưởng lợi sẽ thanh toán toàn bộ
số tiền của L/C vào thời hạn cụ thể ghi trên L/C sau khi nhận được chứng từ và không
cần có hối phiếu.
Thư tín dụng với điều khoản đỏ (Red clause L/C): Là loại thư tín dụng có điều khoản
đặc biệt(trước dây điều khoản này được ghi bằng mực đỏ), người mở L/C cho phép tổ
chức xuất khẩu được quyền tháo khoán trước một số tiền nhất định trước khi giao hàng
thay vì nói một cách đơn giản khi giao hàng. Vì thế nó còn gọi là thư tín dụng ứng trước.
I.1.3. Quy trình thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
Sơ đồ 1.1. Quy trình TTQT theo phương thức tín dụng chứng từ
15
(1) Người nhập khẩu, căn cứ vào hợp đồng mua bán, làm đơn xin mở thư tín dụng tại
ngân hàng phục vụ mình cho người xuất khẩu được hưởng.
(2) Căn cứ vào yêu cầu xin mở thư tín dụng của người nhập khẩu và các chứng từ có liên
quan. Nếu đồng ý, ngân hàng trích tài khoản của người nhập khẩu ( thường là ngân hàng
yêu cầu người nhập khẩu ký quỹ 100%trị giá thư tín dụng trong trường hợp thanh toán
ngay hoặc x% trị giá thư tín dụng trong trường hợp thanh toán có kỳ hạn ).Sau đó, ngân
hàng lập thư tín dụng gửi cho người bán thông qua ngân hàng thông báo tại nước của
người bán. Việc mở thư tín dụng qua bên bán có thể được thực hiện bằng đường hàng
không bưu chính hoặc L/C băng điện tín.
(3) Khi ngân hàng thông báo nhận được thư tín dụng của ngân hàng mở L/C gửi đến,
tiến hành kiểm tra, xác nhận điện báo mở L/C rồi chuyển bản chính L/C cho bên bán
dưới hình thức văn bán nguyên văn ( nhận thế nào gửi thế đó). Nếu gửi băng thư thì kiểm
tra chữ ký, gửi bằng điện thì kiểm tra mã quy

(4) Khi nhận được bản L/C chi tiết các điều khoản,người bán tiến hành giao hàng sau khi
đã kiểm tra nội dung L/C và đối chiếu với hợp đồng mua bán ngoại thương đã ký trước
16
đây.Sau khi kiểm tra chặt chẽ L/C,nếu đồng ý thì tiến hành giao hàng cho người nhập
khẩu, nếu không đồng ý thì đề nghị người nhập khẩu điều chỉnh hoặc bổ sung cho đến
khi hoàn chỉnh thì mới giao hàng.
(5) Sau khi tiến hành việc giao hàng,người bán lập bộ chứng từ và các điều khoản liên
quan (nếu có) để nộp vào ngân hàng phục vụ mình chờ thanh toán .Có thể xin ứng trước
tiền hàng bằng cách vay thế chấp bộ chứng từ hoặc thương lượng chiết khấu bộ chứng từ
chờ ngân hàng trả tiền báo Có.
(6) Ngân hàng phục vụ người bán kiểm tra các chứng từ so với các điều kiện quy định
trong thư tín dụng và sự phù hợp lẫn nhau giữa các chứng từ. Nếu đúng thì tiến hành đòi
tiền ngân hàng mở L/C
(7) Khi nhận được điện và bộ chứng từ đòi tiền của ngân hàng phục vụ người bán, ngân
hàng mở L/C phải kiểm tra tính chính xác phù hợp của các chứng từ. Nếu chấp nhận thì
lập lệnh trả tiền theo chỉ thị của họ và báo cho họ biết. Nếu phát hiện thấy sai sót phải
điện báo ngay cho ngân hàng thông báo, chờ xử lý và báo cho người mở L/C biết.
(8) Nhận được điện báo Có về khoản thanh toán bộ chứng từ hàng xuất, ngân hàng
thông báo báo Có cho người bán hoặc thông báo hối phiếu có kỳ hạn đã được chấp nhận
thanh toán và cũng có thể nhận được thông báo về sự từ chối của ngân hàng mở L/C.
(9) Đối với bộ chứng từ được người mua chấp nhận thanh toán, ngân hàng mở chuyển
giao toàn bộ chứng từ thanh toán và giấy báo về phí tổn nghiệp vụ ngân hàng cho người
mua để họ đi lấy hàng đồng thời thu hồi số tiền đã trả cho người bán.
(10) Người mua sau khi nhận được bộ chứng từ từ phía ngân hàng mở L/C, sẽ cầm bộ
chứng từ để đi lấy hàng hoá. Người mua có quyền từ chối thanh toán và báo cho ngân
hàng mở biết nếu thấy chứng từ không phù hợp.
I.1.4. Các văn bản pháp lý liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ
I.1.4.1. Quy tắc thống nhất về thực hành tín dụng chứng từ (UCP-DC)
UCP-DC (Uniform Customs Practice - Documentary Credit): dịch sang tiếng Việt
Nam là Quy tắc thống nhất về thực hành tín dụng chứng từ - dùng cho thanh toán bằng

17
L/C (Letter of Credit). UCP do phòng Thương mại quốc tế ICC (International Commerce
Chamber) phát hành. ICC được thành lập vào năm 1919 có trụ sở tại Pa-ri (Pháp). Với
mục tiêu ban đầu là thúc đầy thương mại quốc tế vào thời điểm mà chủ nghĩa quốc gia và
chủ nghĩa bảo hộ đe dọa nghiêm trọng hệ thống thương mại thế giới. Trên tinh thần đó,
UCP được ban hành lần đầu tiên vào năm 1933 (UCP số 82) nhằm thống nhất những
quan niệm trong thực hành Thư tín dụng (L/C) giảm thiểu sự xung đột pháp luật giữa các
giới thương nhân các quốc gia với nhau và giữa họ với ngân hàng trong vấn đề thanh toán
liên quan đến L/C. Đến nay đã có trên 180 nước trên thế giới và khu vực áp dụng UCP
cho thấy sự thành công của quy tắc này. UCP là quy tắc của một tổ chức quốc tế phi
chính phủ (ICC), chứ không phải là luật pháp quốc tế hay luật pháp quốc gia.
UCP là cẩm nang giúp doanh nghiệp NK mở L/C chính xác, kiểm tra chứng từ
thanh toán của người XK để nhập được hàng theo nguyện vọng nhập hàng của mình.
Giúp doanh nghiệp XK lập chứng từ thanh toán đúng với yêu cầu của L/C để được ngân
hàng thanh toán tiền hàng. UCP còn là tài liệu giúp cho các doanh nghiệp giám sát các
dịch vụ ngân hàng đối với mình. UCP còn là căn cứ để doanh nghiệp kiện, khiếu nại về
thanh toán làm ảnh hưởng đến quyền lợi của doanh nghiệp mình.
Từ khi ra đời năm 1993, ngay từ lần công bố đầu tiên UCP đã được chấp
nhận rộng rãi và thể hiện vai trò to lớn của nó. Cho đến nay ICC đã tiến hành 5 lần sửa
đổi UCP vào các năm : 1951, 1962 (UCP 222), 1974 (UCP 290). 1983 (UCP 400), và mới
đây là 1993 (UCP 500). Như vậy, cứ 10 năm ICC lại tiến hành sửa đổi UCP một lần, tuy
nhiên việc sửa đổi UCP không phải tiến hành theo định kỳ mà căn cứ vào nhu cầu
thực tế của giao dịch TDCT với mục tiêu phù hợp với trình độ phát triển về công nghệ,
thông tin liên lạc cũng như thương mại trên thế giới. Đến nay đã hơn 10 năm, hầu hết các
nội dung vẫn còn nguyên giá trị, tuy nhiên, một số nội dung đã bộc lé yếu điểm đang
được ICC nghiên cứu chỉnh sửa. Năm 1974, UCP 290 ra đời là bản sửa đổi của UCP
222 đã tạo ra những thay đổi về chứng từ và thủ tục. Những thay đổi này nhằm mục đích
đáp ứng sự phát triển của cuộc cách mạng trong vận tải đường biển, đặc biệt là cuộc cách
mạng container hoá(containeration) và sự phát triển của vận tải đa phương thức. Bản sửa
18

đổi năm 1983 (UCP 400) cũng chú ý đặc biệt đến những đặc điểm mới cuả thực tiễn:
cuộc cách mạng trong vận tải và thông tin liên lạc liên quan đến một giao dịch bằng các
phương thức xử lý dữ liệu điện tử (Electronic data processing EDP); quyền lợi và ảnh
hưởng ngày càng tăng trong buôn bán quốc tế của các quốc gia kém phát triển.
Với những lần sửa đổi như vậy, tuy nhiên có hai văn bản UCP đáng chú ý nhất, đó là:
 UCP 500
UCP500 hay UCP 500 là thuật ngữ viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Uniform Customs
and Practice for Documentary Credits do Phòng thương mại quốc tế (ICC) phát hành
năm1993 bản sửa đổi lần thứ 500. Nó được dịch ra tiếng Việt là Quy tắc và thực hành
thống nhất về tín dụng chứng từ hay Tập quán và thông lệ thống nhất về tín dụng chứng
từ lần sửa đổi thứ 500 năm 1993. Nó gồm 49 điều, được chia thành 7 phần (từ A tới G) và
đề cập tới các vấn đề có liên quan đến tín dụng chứng từ mà từ năm 1993 cho đến hiện
nay (thời điểm năm 2005) vẫn đang được áp dụng trong thanh toán quốc tế các chứng
từ thương mại.
UCP 500 ra đời với mục đích chính là đơn giản hoá các quy tắc của UCP 400
và phối hợp thực tiễn ngân hàng quốc tế, đồng thời giải quyết các vấn đề của điều kiện
phi chứng từ, tăng cường tính đúng đắn và tin cậy của sự cam kết trong TDCT thông qua
tính vững chắc của sự không thể huỷ bỏ được và làm sáng tỏ trách nhiệm chủ chốt
không chỉ của NHPH mà ngân hàng xác nhận. UCP 500 có hiệu lực từ ngày
01/01/1994, so với 55 điều khoản của UCP 400 thì 49 điều khoản cuả UCP 500 thể hiện
những bổ sung và sửa đổi nhằm đáp ứng sự phát triển không ngừng của thực tiễn.
Trong thực tiễn đã xảy ra một số tranh chấp về việc áp dụng trong hợp đồng mua bán
hoặc tín dụng thư. Cũng như các văn bản luật khác của phòng thương mại quốc tế, UCP
không là văn bản có tính chất pháp lý bắt buộc với các hội viên mà chỉ có tính chất pháp
lý tuỳ ý nên khi áp dụng các bên tham gia giao dịch phải dẫn chiếu trong TTD và( hoặc)
hợp đồng mua bán.
UCP 500 cũng như các văn bản khác của ICC và các bản Quy tắc và Thực hành
thống nhất về tín dụng chứng từ trước đây đều mang tính chất pháp lý tùy ý.Các bên
tham gia giao dịch có quyền lựa chọn việc áp dụng hay không áp dụng UCP 500 để điều
19

chỉnh những hoạt động liên quan đến TTD. UCP 500 cũng chỉ rõ: một khi các bên liên
quan thoả thuận áp dụng UCP 500 bằng cách dẫn chiếu trên TTD: “Thư tín dụng này tuân
thủ UCP 500” có nghĩa là đồng ý tuân thủ 49 điều khoản quy định của UCP 500
(trong chuẩn mực các điều khoản đó có thể vận dụng được) thì văn bản pháp lý này trở
thành bắt buộc áp dụng, ràng buộc trách nhiệm và nghĩa vụ của tất cả các bên liên quan.
Đây là điểm tích cực của UCP 500 so với các bản quy tắc trước đó, nó bác bỏ nhận thức
mơ hồ của người mở TTD và người hưởng lợi là UCP 500 chỉ là quy tắc của các ngân
hàng còn họ giải quyết với nhau trên cơ sở hợp đồng.
 UCP 600
Sau 03 năm soạn thảo và chỉnh lý, ngày 25 tháng 10 năm 2006 Uỷ ban Ngân hàng
của Phòng Thương mại Quốc tế (ICC) đã thông qua Bản Quy tắc thực hành thống nhất về
tín dụng chứng từ mới (UCP 600) thay thế cho Bản Quy tắc thực hành thống nhất về tín
dụng chứng từ cũ (UCP 500). UCP 600 này sẽ có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2007.
20
UCP 600 giảm thiểu nhiều trùng lắp về mặt ngôn từ không cần thiết trong UCP 500
và lược bỏ lời văn rườm rà. Cấu trúc câu thường là câu trực tiếp, logic và đơn giản. Ngôn
ngữ sử dụng trong UCP 600 được coi là thân thiện với người sử dụng hơn hẳn UCP 500.
UCP được bố cục lại với 39 điều khoản (thay vì 49 điều khoản như UCP500), trong đó bổ
sung nhiều định nghĩa và giải thích nhiều thuật ngữ vẫn còn gây tranh cãi trong UCP500.
Điều 2 định nghĩa của UCP600 là một dẫn chứng cụ thể. Lần đầu tiên các thuật ngữ như:
ngân hàng thông báo (advising bank), người yêu cầu (applicant), xuất trình (presentation)
… được định nghĩa một cách cụ thể trong một bản UCP.
UCP600 loại bỏ những nội dung không thuộc đối tượng áp dụng của UCP 600, ví
dụ những nội dung liên quan đến yêu cầu mở thư tín dụng, các chỉ thị không rõ ràng
(điều 12); huỷ bỏ một thư tín dụng (điều 8), tín dụng có thể huỷ bỏ và không thể huỷ bỏ
(một phần điều 6); lệnh phát hành, sửa đổi một thư tín dụng (điều 5); chứng từ vận tải do
người giao nhận phát hành (điều 30), các chứng từ khác (điều 38). UCP600 điều chỉnh
cả thư tín dụng dự phòng (standby L/C). Điều này được thể hiện rõ trong Điều 1
UCP600. UCP600 đã cập nhật một số điều khoản mới. Có thể kể đến ở đây đó là:
Điều 2: Định nghĩa (definitions)

Điều 3: Giải nghĩa (interpretations)
Điều 9: Thông báo tín dụng và các sửa đổi (Advising of credits and amendments)
Điều 12: Sự chỉ định (nomination)
Điều 15: Xuất trình phù hợp (complying presentation)
Điều 17: Các chứng từ gốc và bản sao (original documents and copies)
21
UCP 600 giảm thiểu những mâu thuẫn giữa các điều khoản với nhau. Có thể dẫn
chiếu đến ở đây như là điều 13(a) và điều 13(c) UCP 500. UCP đã đưa ra khoảng thời
gian cụ thể cho việc chấp nhận hoặc từ chối bộ chứng từ không hợp lệ là 5 ngày làm việc
ngân hàng (banking day) thay vì 7 ngày làm việc trước đây quy định trong UCP500. UCP
600 đã loại trừ việc sử dụng những từ, cụm từ mơ hồ, khó hiểu, thường dẫn đến hiểu lầm
và xảy ra tranh chấp trong UCP500 như là: Khoảng thời gian hợp lý, sự cần mẫn hợp
lý…
Mặc dù có nhiều thay đổi nhưng điều quan trọng, UCP No.600 quy định những vấn
đề cơ bản về phương thức thanh toán bằng L/C bao gồm: Các đối tượng kinh doanh XNK
liên quan đến thanh toán L/C; Các ngân hàng, vai trò của nó; Các thuật ngữ thanh toán
cần được các bên thống nhất; Thủ tục mở L/C; Quy định về các chứng từ, cơ quan lập,
nội dung các chứng từ; số lượng chứng từ, các thuật ngữ trong các chứng từ, chứng từ
thanh toán hợp lệ, không hợp lệ; Chứng từ của các phương thức vận tải; Trị giá thanh
toán; Vận dụng tập quán trong thanh toán bằng L/C v.v
I.1.4.2. ISBP 745
Các tập quán và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ là một bộ các quy tắc
(rules) áp dụng cho bất cứ loại L/C nào (bao gồm cả Tín dụng dự phòng trong chừng mực
có thể áp dụng). Các quy tắc của UCP được quy định trong các Điều khoản (Articles) của
UCP, trong đó bao gồm các quyền và nghĩa vụ của các ngân hàng có liên quan và người
thụ hưởng L/C trong thanh toán bằng tín dụng chứng từ. Do UCP chỉ bao gồm những
điều khoản rất cơ bản, ngắn gọn chứa đựng các quy tắc điều chỉnh L/C, cho nên trong
ứng dụng đã phát sinh các cách hiểu khác nhau làm nảy sinh các tranh chấp không cần
thiết. Trước khi ISBP ra đời, có tới 60-70% lần xuất trình chứng từ đầu tiên đòi tiền theo
L/C bị từ chối thanh toán, vì vậy ICC thấy cần thiết ban hành một tập quán quốc tế để

diễn giải và hướng dẫn áp dụng các điều khoản của UCP. Đó chính là bản quy tắc Tập
quán Ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế để kiểm tra chứng từ trong phương thức tín dụng
chứng từ (International Standard Banking Practice for the examination of documents
under documentary credits – gọi tắt là ISBP). ISBP đầu tiên ra đời năm 2002 mang số
22
hiệu 645 áp dụng cho việc kiểm tra chứng từ theo tín dụng chứng từ đã tạo ra một hành
lang pháp lý cho các ngân hàng kiểm tra chứng từ theo L/C, nhờ đó đã giảm thiểu rất
nhiều các tranh chấp. Sau khi ban hành bản sửa đổi UCP600, ICC đãxuất bản ấn
phẩm ISBP681 2007 thay cho ấn phẩm cũ ISBP 645 2002. ISBP 681 đưa ra các quy tắc
kiểm tra chứng từ nhằm giúp đỡ các ngân hàng trong việc quyết định bộ chứng từ có phù
hợp hay không. Từ đó ISBP 681 được áp dụng đương nhiên cùng với phiên bản UCP
600.
Tuy nhiên, sau gần 7 năm áp dụng, trong chừng mực nào đó ISBP681 đã bộc lộ
nhiều thiếu sót và chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế về kiểm tra chứng từ theo L/C, do
vậy, mới đây vào tháng 4 năm 2013 Ủy ban Ngân hàng của ICC đã thông qua bản ISBP
sửa đổi với tên gọi mới là ISBP745 (International Standard Banking Practice for the
Examination of Documents under UCP600 - ISBP 2013 ICC Publication No. 745).
ISBP745 được đổi tên: là “Tập quán ngân hàng tiêu chuẩn quốc tế để kiểm tra
chứng từ theo UCP600” (International Standard Banking Practice for the Examination of
Documents under UCP600 - ISBP745 2013 ICC) thay vì tên cũ “Tập quán ngân hàng tiêu
chuẩn quốc tế để kiểm tra chứng từ theo tín dụng chứng từ” (International Standard
Banking Practice for the Examination of Documents under Documentary Credits -
ISBP681 2007 ICC).
Mục đích của ISBP 745 là nhằm diễn giải và hướng dẫn áp dụng các điều khoản
của UCP600, trong phạm vi của các điều khoản và điều kiện của thư tín dụng hoặc bất
cứ các sửa đổi thư tín dụng kèm theo. “The practices described in this publication
highlight how the articles of UCP 600 are to be interpreted and applied, to the extent that
the terms and conditions of the credit, or any amendment thereto”. Ngoài UCP 600, ngân
hàng căn cứ vào ISBP 745 để kiểm tra chứng từ và có thể trích dẫn các điều khoản thích
hợp của ISBP 745 để làm cơ sở quyết định thanh toán hay từ chối nếu các chứng từ xuất

trình phù hợp hay không phù hợp với điều kiện và điều khoản của L/C và các sửa đổi L/C
kèm theo có dẫn chiếu đến UCP600.
23
ISBP745 không sửa đổi hay hủy bỏ các điều khoản của UCP600: “The practices
do not expressly modify or exclude an applicable article in UCP 600”. Điều này hàm ý
mục đích ban hành ISBP của ICC chỉ nhằm diễn giải và hướng dẫn áp dụng các điều
khoản của UCP600 mà không sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ các điều khoản của UCP600.
ISBP 745 2013 đã bổ sung nội dung cho một số điều khoản của UCP 600 2007.
- Quy tắcC10 ISBP 745 bổ sung điều khoản 18aiv UCP 600 về việc hóa đơn không cần
thiết phải ghi ngày phát hành.
- Quy tắc D32, E28, G26 ISBP 745 bổ sung các điều khoản 19, 20, 22 của UCP 600 2007
về vấn đề giải tỏa hàng hóa nhiều chứng từ vận tải.
- Quy tắc D17a, E13a, G12a ISBP 745 bổ sung các điều khoản 19, 20 và 22 UCP 600 2007
về quy định người gửi hàng ký hậu chứng từ vận tải.
- Quy tắc D26, E22, G20, F20, H22 và J17 ISBP 745 bổ sung các điều khoản 19, 20, 21,
22, 23, 24 UCP 600 2007 về mô tả hàng hóa trên các chứng từ vận tải.
- Quy tắc K5 ISBP 745 bổ sung điều khoản 28 UCP 600 2007 về ký đối chứng trong chứng
từ bảo hiểm vv và vv…
I.1.4.3. Quy tắc thực hành Tín dụng dự phòng quốc tế (ISP98)
ISP98 là bản quy tắc có tính chuyên biệt đầu tiên điều chỉnh tín dụng thư dự phòng
trên phạm vi quốc tế, là công trình của một nhóm làm việc của ICC do cố vấn kỹ thuật
của Ủy ban ngân hàng Garry Collyer chỉ đạo hợp tác cùng Viện thực hành và luật thương
mại quốc tế IIBLP cùng sự hỗ trợ của Hiệp họi tài chính quốc tế IFSA. Đây là kết quả
của dự án kéo dài trong 5 năm với sự tham gia của nhiều cá nhân, tổ chức sau nhiều cuộc
gặp mặt tại 11 quốc gia trên 4 châu lục trên thế giới.
ISP98 ra đời không nhằm đưa ra một bản giới thiệu về tín dụng thư dự phòng hay
các tác dụng của nó mà nhằm tới việc thực hành sử dụng tín dụng thư dự phòng hàng
ngày. ISP98 được soạn thảo phù hợp với Công ước Liên Hợp Quốc về bảo lãnh độc lập
và tín dụng thư dự phòng và luật pháp các quốc gia. Đây là bộ quy tắc hết sức cụ thể và
thực tế. Cũng như UCP, ISP98 đơn giản hóa tiêu chuẩn háo và thuận lợi hóa giao dịch dự

phòng nhằm góp phần giúp các bên giao dịch tiết kiệm thời gian, chi phí đàm phán và
thẩm phán trong quá trình soạn thảo các điều kiện, đồng thời cũng là chỉ dẫn cho các luật
gia trong việc diễn giải tập quán sử dụng và giải quyết tranh chấp có lien quan tới giao
dịch tín dụng thư dự phòng.
24
ISP98 có thể áp dụng cho các bảo lãnh độc lập khác. Nó cảnh bảo cho người xin
mở về những rủi ro trong bất cứ L/C nào, chi tiết hóa những vấn đề mà người phát hành
có quyền tự quyết. ISP điều chỉnh những vấn đề ẩn khuất liên quan tới tín dụng thư dự
phòng đối ứng, đưa ra những quy tắc cơ bản cho vấn đề hoàn trả, đồng phát hành và cùng
tham gia.
Một đặc điểm đáng lưu ý trong các điều khoản của ISP98 là kiến nghị việc chấp
nhận xuất trình chứng từ bằng các phương tiện điện tử. Việc ISP đưa ra được định nghĩa
quy tắc khuyến khích áp dụng những chứng từ điện tử trong các giao dịch dự phòng đã
phản ánh sự bắt kịp xu thể phổ biến của thanh toán bằng xuất trình chứng từ qua mạng
SWIFT trong giới tài chính quốc tế.
I.2. Rủi ro trong thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại NHTM
I.2.1. Khái niệm
Rủi ro trong hoạt động TTQT của NHTM là vấn đề xảy ra ngoài ý muốn trong quá
trình tiến hành hoạt động TTQT và ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của NHTM.
Trong quá trình tiến hành hoạt động TTQT, rủi ro xảy ra khi quyền lợi của một bên tham
gia bị vi phạm. Rủi ro không chỉ được hiểu theo nghĩa hẹp là việc chứng từ không được
thanh toán, mà còn được hiểu rộng ra là bất kỳ một sự chậm trễ nào trong các khâu của
quá trình TTQT. Rủi ro có thể xảy ra với tất cả các bên tham gia.
Rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ là những biến cố không mong đợi có
thể xảy ra và gây thiệt hại cho các bên tham gia trong phương thức TDCT. Những biến cố
này mang tính khách quan và tồn tại độc lập với ý chí của các bên tham gia vào hoạt
động thanh toán.
I.2.2. Các loại rủi ro trong phương thức tín dụng chứng từ tại NHTM
Có nhiều cách phân chia rủi ro, nhưng nếu căn cứ vào nguồn gốc của rủi ro thì có
thể phân loại các rủi ro phổ biến như sau:

I.2.2.1. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là những rủi ro phát sinh do việc cấp tín dụng cho các bên liên quan
nhưng không có khả năng hoàn trả. Rủi ro tín dụng liên quan trực tiếp đến tình hình tài
chính, khả năng thanh toán của các bên.
- Đối với NHPH: Khi phát hành L/C, NHPH đã thực hiện việc cấp tín dụng cho nhà nhập
khẩu vì thông thường L/C đã được phát hành với mức ký quỹ dưới 100%. Nhà nhập khẩu
25

×