Tải bản đầy đủ (.docx) (83 trang)

Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở Đồng Nai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (555.62 KB, 83 trang )

1
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 4
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM GIẢI QUYẾT
VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG THÔN SAU THU
HỒI ĐẤT
13
1.1. Cơ sở lý luận về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
sau thu hồi đất
13
1.2. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau
thu hồi đất ở một số địa phương và bài học rút ra đối với
Đồng Nai
30
Chương 2 THỰC TRẠNG VỀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO
ĐỘNG NÔNG THÔN SAU THU HỒI ĐẤT Ở ĐỒNG NAI
37
2.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội Đồng Nai ảnh
hưởng đến giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau
thu hồi đất
37
2.2. Kết quả và hạn chế trong giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn sau thu hồi đất
16
Chương 3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU GIẢI
QUYẾT CÓ HIỆU QUẢ VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
NÔNG THÔN SAU THU HỒI ĐẤT Ở ĐỒNG NAI
TRONG THỜI GIAN TỚI
70
3.1. Những quan điểm cơ bản nhằm giải quyết có hiệu quả việc


làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở Đồng Nai
trong thời gian tới
70
2
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết có hiệu quả việc
làm cho lao động nông thôn ở Đồng Nai trong thời gian tới
75
KẾT LUẬN 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 97
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm là một vấn đề kinh tế - xã hội có tính toàn cầu, là mối
quan tâm của rất nhiều quốc gia trên thế giới. Ngày nay, quan niệm về phát triển được hiểu đầy
đủ là: tăng trưởng phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội; xóa đói, giảm nghèo,
giảm thiểu thất nghiệp… Điều đó cho thấy, bảo đảm việc làm cho người lao động có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng không chỉ đối với tăng trưởng, phát triển kinh tế, mà còn góp phần duy trì sự ổn
định xã hội, chính trị và phát triển bền vững của các quốc gia, dân tộc.
Trong những năm qua, cùng với quá trình CNH - HĐH, dân số, lao động và tỷ lệ lao
động nhàn rỗi ở nông thôn nước ta có xu hướng giảm xuống, song vẫn còn giữ ở mức cao. Theo
số liệu thống kê năm 2011 cho thấy, dân số nông thôn chiếm 69,4% dân số và 71,5 % lực lượng
3
lao động cả nước (32,7 triệu trong 43 triệu lao động cả nước) và tỷ lệ lao động nhàn rỗi chiếm
19,3% Con số này chứng tỏ vấn đề giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn đang đặt ra
yêu cầu bức thiết.
Đồng Nai là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, là một trong những địa
phương có tốc độ CNH - HĐH cao của cả nước. Quá trình CNH - HĐH đã đem lại những thành
tựu rất quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, trong đó có việc thúc đẩy tăng
trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, hiệu quả; tạo và giải quyết việc làm, nâng
cao thu nhập cho người lao động… Tuy nhiên, để quá trình tiến hành CNH-HĐH, việc hình
thành nên các khu công nghiệp, các khu đô thị là một tất yếu khách quan và để có tiền đề về vị

trí, đất đai xây dựng các KCN, khu đô thị này Chính quyền tỉnh đã phải thực hiện thu hồi khá
nhiều đất nông nghiệp. Việc thu hồi đất để xây dựng các KCN chính là điều kiện và thời cơ tốt
nhất để chuyển một bộ phận quan trọng lực lượng lao động nông nghiệp - nông thôn - là khu vực
có năng suất lao động thấp, sang khu vực công nghiệp và dịch vụ. Nhiều lao động đã được giải
quyết việc làm với thu nhập cao hơn, ổn định hơn nhưng bên cạnh đó, người dân bị thu hồi đất,
không phải tất cả mọi người đều có thể dễ dàng chuyển đổi được sang các công việc thuộc lĩnh
vực công nghiệp, dịch vụ như mong muốn, mà một bộ phận khá lớn người dân bị thu hồi đất là
những người nông dân thuần túy lâu đời, khi bị thu hồi đất, đất canh tác bị thu hẹp, không hoặc
khó có thể tiếp tục với hoạt động nông nghiệp nhưng bị hạn chế là rất nhiều lao động đã ở vào độ
tuổi không năng động để có thể được đào tạo nghề phù hợp trong lĩnh vực công nghiệp hoặc dịch
vụ, khả năng chuyển đổi nghề mới và tìm việc làm trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ còn gặp
nhiều khó khăn. Hiện nay, số lao động bị thu hồi đất chủ yếu chỉ được hỗ trợ bằng hình thức đền
bù đất.
Mặc dù vậy, giải quyết việc làm cho người lao động trong tỉnh nói chung, việc làm cho
lao động nông thôn sau thu hồi đất nói riêng còn tồn tại những bất cập, hạn chế. Điều đó do
nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ việc nhận thức và các giải pháp thực hiện còn
thiếu hiệu quả. Bởi vậy, việc tiếp tục luận giải làm rõ những vấn đề lý luận thực tiễn làm cơ sở để
xác định các giải pháp, nhằm giải quyết có hiệu quả việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi
đất ở Đồng Nai có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn. Với lý do đó, tác giả lựa chọn vấn
đề “Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở Đồng Nai” làm đề tài luận văn
tốt nghiệp thạc sĩ kinh tế.
4
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đề tài
Việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng. Bởi vậy, đã có nhiều công trình, bài viết của các tác giả nghiên cứu, đề cập trên các khía
cạnh khác nhau về việc làm và giải quyết việc làm. Trong đó, đáng chú ý một số công trình tiêu
biểu sau:
- Thị trường lao động, thực trạng và giải pháp của PGS. Nguyễn Quang Hiển, Nxb
Thống kê, Hà Nội, 1995. Tóm tắt: Giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố
con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng chính đáng

và yêu cầu bức xúc của nhân dân.
- Về chính sách giải quyết việc làm ở Việt Nam của PTS. Nguyễn Hữu Dũng, PTS. Trần Hữu
Trung, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Tóm tắt: phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN, vấn đề việc làm cho người lao động, chính sách tạo việc làm và chống thất nghiệp là một
trong những tiêu chí bảo đảm định hướng XHCN, góp phần bảo đảm an toàn, ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội.
- Thị trường lao động ở Việt Nam, định hướng và Phát triển của Thạc sĩ. Nguyễn Thị Lan
Hương, Nxb Lao động – xã hội, Hà Nội, 2002. Tóm tắt: Đánh giá rõ hơn về thị trường lao động Việt
Nam trong thời đại CNH-HĐH đất nước. Định hướng để phát triển bền vững lâu dài và ổn định thị
trường lao động.
- Sử dụng nguồn lao động và giải quyết việc làm ở Việt Nam của PGS. Trần Đình Hoan
Nxb Sự thật, Hà Nội 1991. Tóm tắt: Vai trò và tiềm năng nguồn lao động trong phát triển kinh
tế, xã hội, hiện trạng lao động và việc làm, phương hướng chủ yếu sử dụng nguồn lao động và
giải quyết việc làm có hiệu quả ở Việt Nam.
- Vấn đề phân bổ và sử dụng nguồn lao động theo vùng & hướng giải quyết việc làm ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay của Nguyễn Quốc Tế Nxb Thống kê, Hà nội 2003. Tóm tắt:
Lao động, việc làm, nguồn lực cơ bản cho sự phát triển xã hội. Thực trạng phân bố, sử dụng hợp
lý nguồn lao động, theo vùng và vấn đề giải quyết việc làm ở Việc Nam. Một số biện pháp nhằm
phân bổ, sử dụng hợp lý nguồn lao động theo vùng và giải quyết việc làm ở giai đoạn 2001-
2010.
5
Hầu hết các tác giả đều cho rằng, vấn đề việc làm cho người lao động và thất nghiệp là một
trong những vấn đề có vai trò thực tiễn, do đó cần đề ra phương pháp tiếp cận tổng quát về chính sách
việc làm, hệ thống khái niệm về lao động, việc làm, đánh giá thực trạng vấn đề việc làm ở Việt Nam.
Nội dung của các công trình đã đề xuất hệ thống các quan điểm, phương pháp giải quyết việc làm trong
công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.
Cũng có rất nhiều bài báo, tạp chí nghiên cứu viết về thực trạng lao động, vấn đề giải quyết
việc làm ở nước ta như:
- Nguyễn Hữu Chí, “Vai trò của nhà nước trong lĩnh vực giải quyết việc làm”, 2006. - Số
1. - Tr.13-21 Tạp chí luật học. Tóm tắt: Nhà nước đóng vai trò chủ lực trong công tác giải quyết

việc làm, giữ vai trò đào tạo, tuyển dụng và hướng nghiệp để xã hội phát triển theo định hướng
XHCN.
- Nguyễn Sinh Cúc (2003), “Giải quyết việc làm ở nông thôn và những vấn đề đặt ra” Tạp chí
Con số và Sự kiện, số 8. Tóm tắt: Đưa ra phương hướng giải quyết cho tình hình việc làm tại nông
thôn. Nhằm giúp giảm gánh nặng xã hội về giải quyết việc làm và giảm về tỷ lệ lao động nhàn rỗi. Nêu
và giải quyết những vấn đề thực tiển cần thực hiện và giải pháp thời gian tới.
- Nguyễn Hữu Dũng (2004), “Giải quyết vấn đề lao động và việc làm trong quá trình đô thị
hóa, công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn”, Tạp chí lao động và Xã hội, số 247. Tóm tắt: Tổng
hợp những giải pháp về lao động việc làm cho người lao động trình độ thấp, có phương hướng đạo tạo,
pháp triển nguồn lực hiện có tại địa phương. Đẩy mạnh phát triển toàn diện về công nghiệp hóa tại
nông thôn để phát triển xã hội theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Vũ Đình Thắng (2002), “Vấn đề việc làm cho lao động nông thôn”, Tạp chí kinh tế và phát
triển, số 3”. Tóm tắt: Thể hiện những mặc khó khăn còn vướng mắc cần thực hiện nhằm giúp người
lao động có được việc làm thích hợp với khả năng, trình độ để ổn định cuộc sống.
- Bùi Văn Quán (2001), “Thực trạng lao động và việc làm ở nông thôn và một số giải pháp
cho giai đoạn 2001-2005”, Tạp chí lao động và Xã hội, số chuyên đề 3. Tóm tắt: Phân tích được nhiều
khía cạnh về thực trạng nguồn lao động và việc làm khi áp dụng tại nông thôn. Đề ra phương hướng và
giải pháp giải quyết trong thời gian tới.
- Trần Kim Thoa, “Bảo đảm an sinh xã hội gắn với giải quyết việc làm cho người lao
động”, 2009. - Số 4. - tr. 72-74 Tuyên giáo. Tóm tắt: Nêu sự quan tâm của Nhà nước đối với
6
người lao động. Để người lao động an tâm, tập trung làm tốt công việc, mang lại lợi ích cho
mình và cho xã hội.
- Đàm Hữu Đắc, “Phương hướng giải quyết việc làm cho thanh niên đến năm 2015”,
2009. - Số 353. - tr. 10-12 Tạp chí Lao động và Xã hội. Tóm tắt: Thực trạng nguồn lao động dồi
dào của nước ta còn chưa phát triển đúng hướng, đúng ngành nghề. Để định hướng chính xác
phát triển tối ưu nguồn lao động cần đề ra kế hoạch, phương hướng để thanh niên tìm được việc
làm thích hợp nhất.
- Đỗ Thị Xuân Phương, “Phát triển thị trường sức lao động giải quyết việc làm”, LATS
Kinh tế: 5.02.05, Hà Nội 2000. Tóm tắt: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc hình thành

thị trường sức lao động ở Việt Nam. Thực trạng, quan điểm, giải pháp giải quyết việc làm, phát
triển thị trường sức lao động ở Hà Nội.
- Hoàng Kim Ngọc, “Phát triển doanh nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn nhằm
chuyển dịch cơ cấu lao động và giải quyết việc làm trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại
hoá”, LATS Kinh tế: 5.02.05, Hà Nội 2003. Tóm tắt: Một số vấn đề cơ bản về phát triển doanh
nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn và vai trò của nó trong việc giải quyết việc làm. Thực trạng và
giải pháp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
- Phí Thị Hằng, “Giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp trong quá trình đô thị
hoá ở Từ Liêm, Hà Nội”. Tóm tắt: Nêu và phân tích vấn đề việc làm, giải pháp thực hiện đối với
chủ trương phát triển xã hội chung của Nhà nước một phần ảnh hưởng đến đời sống công việc
của người dân, nhìn nhận để rút ra giải pháp tốt nhất.
- Nguyễn Đình Đức, “Hà Nội đẩy mạnh giải quyết việc làm trong bối cảnh suy giảm kinh
tế”. Tóm tắt: Phân tích nhiều khía cạnh của việc làm trong nền kinh tế suy giảm, để tìm ra giải
pháp tối ưu nhằm khôi phục lại nền kinh tế cũng như giảm tối đa tỹ lệ thất nghiệp trong xã hội.
- Lê Minh Tùng, “An Giang đẩy mạnh công tác dạy nghề và giải quyết việc làm giai
đoạn 2006-2010”, 2006. - Số 300. - Tr.16-17,24 Tạp chí Lao động và Xã hội. Tóm tắt: Công
tác đào tạo nghề là định hướng đúng đắng nhằm tạo việc làm cho xã hội. Nhưng nó phải phù hợp
với tư duy khả năng của nguồn lao động cần đào tạo.
- Nguyễn Thắng Lợi, “Một số vấn đề giải quyết việc làm ở nông thôn (Qua thực tế tỉnh
Thái Bình)”, 2005. - Số 5. - tr.53-55 Lịch sử Đảng. Tóm tắt: Giải pháp hiện tại và phương
7
hướng để tạo nguồn lực lao động nhàn rổi thành nguồn lao động chính để theo kịp sự phát triển
của đất nước.
- Đỗ Tuấn Sơn, “Thực trạng và giải pháp giải quyết việc làm cho lao động có đất thu hồi
tại tỉnh Bắc Ninh”, 2009. - Số 8 (149). - tr. 28-31 Giáo dục lý luận. Tóm tắt: Công tác bồi
thường, giải tỏa và tái định cư là vấn đề nóng trong xã hội. Đưa ra được những vấn đề thực tế
của người dân khi bị thu hồi đất và tìm được giải pháp để hạn chế và khắc phục những thiệt thòi,
ảnh hưỡng đến người dân.
- Bích Thuận, “Đồng Nai với công tác chăm sóc và giải quyết việc làm cho người khuyết
tật”, 2009. - Số 364. - tr. 37-38 Tạp chí Lao động và Xã hội. Tóm tắt: Thể hiện tốt tính an sinh xã

hội của Nhà nước, sự quan tâm, chăm lo đến đời sống của người lao động, đặc biệt là người
khuyết tật. Tạo điều kiện để họ hòa nhập với xã hội.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, luận giải về việc làm, giải quyết việc làm cho người
lao động trên các góc độ khác nhau, song đến nay chưa có công trình nào đề cập đến giải quyết việc
làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở Đồng Nai.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích: Trên cơ sở luận giải những vấn đề lý luận, thực tiễn về giải quyết việc làm
cho lao động nông thôn sau thu hồi đất, từ đó đề xuất một số quan điểm cơ bản và giải pháp chủ
yếu nhằm giải quyết có hiệu quả việc làm cho đối tượng này ở Đồng Nai trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ quan niệm, sự cần thiết và nội dung giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
sau thu hồi đất ở Đồng Nai.
- Đánh giá đúng thực trạng giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở
Đồng Nai.
- Đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết có hiệu quả việc làm
cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở Đồng Nai trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở
Đồng Nai.
8
* Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận chung về việc làm, giải quyết
việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất; thực trạng giải quyết việc làm và quan điểm,
giải pháp giải quyết việc làm trên địa bàn các địa phương ở Đồng Nai.
- Về không gian: Lao động nông thôn sau thu hồi đất ở Đồng Nai.
- Về thời gian: Các số liệu điều tra, khảo sát được thực hiện chủ yếu năm 2005 đến
nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài
sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của kinh tế chính trị Mác - Lênin: trừu tượng hóa

khoa học, kết hợp lôgíc và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh và phương pháp
chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Đề tài được thực hiện thành công góp phần cung cấp thêm cứ liệu khoa học giúp đảng
bộ, chính quyền và các ban, ngành tỉnh Đồng Nai có thể tham khảo trong hoạch định chủ trương,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh nói chung, giải quyết việc làm cho lao động nông
thôn sau thu hồi đất nói riêng.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy môn Kinh tế chính trị Mác - Lênin.
7. Kết cấu của đề tài:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài kết cấu
thành 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG
NÔNG THÔN SAU THU HỒI ĐẤT
9
1.1. Cơ sở lý luận về giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm về lao động, lao động nông thôn và giải quyết việc làm cho lao động
nông thôn sau thu hồi đất
1.1.1.1. Khái niệm về lao động và lao động nông thôn
* Khái niệm lao động
Khái niệm “lao động” tùy theo góc độ nghiên cứu mà các nhà khoa học đưa ra các quan niệm
về “lao động” tương ứng. Tuy nhiên, các quan điểm đều tập trung vào hai khía cạnh: Thứ nhất, coi lao
động là hoạt động, là phương thức tồn tại của con người. Thứ hai, coi lao động chính là bản thân con
người, là sự nỗ lực vật chất và tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của con người. Dựa vào quan niệm lao
động là hành động xã hội, người ta phân biệt năm yếu tố cơ bản tạo nên cấu trúc của lao động: đối
tượng lao động, mục đích lao động, công cụ lao động, điều kiện lao động và chủ thể lao động.
Theo giáo trình Phân tích lao động xã hội của khoa Kinh tế lao động, Trường
Đại học Kinh tế quốc dân: Lao động là hoạt động có mục đích của con người,
thông qua hoạt động đó con người tác động vào giới tự nhiên, cải biến chúng thành

những vật có ích phục vụ nhu cầu của con người. Khái niệm này nhấn mạnh nhiều
vào hoạt động sản xuất vật chất tạo của cải vật chất cho sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, chưa phản ánh được hết các hoạt động lao động của con người.
Trong giáo trình Kinh tế học chính trị Mác – Lênin, lao động là hoạt động có
mục đích, có ý thức của con người nhằm tạo ra các sản phẩm phục vụ các nhu cầu
của đời sống con người. Trong Bộ luật Lao động của nước ta chỉ rõ: Lao động là
hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh
thần của xã hội.
Thực tiễn cho thấy, hoạt động lao động của con người có vai trò hết sức
quan trọng. Lao động không chỉ tạo ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của con
người, giúp con người nâng cao được trình độ hiểu biết về thế giới tự nhiên và
nâng cao kiến thức về xã hội và nhân cách đạo đức. Lao động là điều kiện tiên
quyết cho sự tồn tại và phát triển xã hội.
10
Để lao động, trước hết con người phải có sức lao động, đó là là toàn bộ thể
lực, trí lực và tâm lực tồn tại trong con người. Thể lực, trí lực và tâm lực đó đem ra
vận dụng trong quá trình lao động để tạo ra của cải vật chất và những giá trị tinh
thần của xã hội.
* Khái niệm lao động nông thôn
Nông thôn là vùng khác với thành thị ở chỗ ở đó có một cộng đồng chủ yếu là
nông dân sống và làm việc, có mật độ dân cư thấp, cơ cấu hạ tầng kém phát triển hơn,
có trình độ tiếp cận thị trường và sản xuất hàng hoá thấp hơn. Điểm đáng lưu ý của
lao động nông nghiệp là mọi hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực
nông nghiệp đều gắn liền với đối tượng cây trồng, vật nuôi; là những cơ thể sống với
những đặc điểm riêng biệt, không thể xóa bỏ, lao động nông nghiệp mang sắc thái
riêng, không giống với lao động trong một số ngành kinh tế khác. Đặc biệt tính chất
thời vụ của lao động nông nghiệp, làm cho lao động nông nghiệp lúc thì căng thẳng,
lúc lại nhàn rỗi; tình trạng thiếu việc làm tạm thời là khá phổ biến.
Lao động nông thôn: là những người thuộc lực lượng lao động và tham gia
hoạt động trong hệ thống các ngành kinh tế nông thôn như trồng trọt, chăn nuôi,

lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ trong nông
thôn.
- Đặc điểm của lao động nông thôn:
+ Lao động nông thôn sống và làm việc rải rác trên địa bàn rộng. Đặc điểm
này làm cho việc tổ chức hiệp tác lao động và việc bồi dưỡng đào tạo, cung cấp
thông tin cho lao động nông thôn là rất khó khăn.
+ Lao động nông thôn có trình độ văn hoá và chuyên môn thấp hơn so với
thành thị. Lao động nông thôn chủ yếu học nghề thông qua việc hướng dẫn của thế
hệ trước hoặc tự truyền cho nhau nên lao động theo truyền thống và thói quen là
11
chính. Bởi vậy, đây là khó khăn cho việc thay đổi phương hướng sản xuất và thực
hiện phân công lao động, hạn chế sự phát triển kinh tế nông thôn.
+ Lao động nông thôn mang tính thời vụ rõ rệt, đặc biệt là các vùng nông
thôn thuần nông. Điều này dẫn đến việc sử dụng lao động trong nông thôn kém
hiệu quả, hiện tượng thiếu việc làm là phổ biến.
+ Khả trong năng tiếp cận, tham gia thị trường, nắm bắt, xử lý thông tin thị
trường, hạch toán của lao động nông thôn hạn chế.
1.1.1.2. Việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi
đất
*Khái niệm việc làm
Có nhiều quan niệm khác nhau về việc làm, song Theo Bộ luật Lao động
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, việc làm được xác định: Mọi hoạt
động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận
là việc làm. Khái niệm này được vận dụng trong các cuộc điều tra về thực trạng lao
động và việc làm hang năm của Việt Nam và được cụ thể hóa thành ba dạng hoạt
động sau:
- Làm các công việc để nhận tiền công, tiền lương dưới dạng bằng tiền hoặc bằng
hiện vật.
- Làm các công việc để thu lợi nhuận cho bản thân, bao gồm sản xuất nông nghiệp
trên đất do chính thành viên được quyền sử dụng, hoặc hoạt động kinh tế phi nông

nghiệp do chính thành viên đó làm chủ toàn bộ hoặc một phần.
- Làm công việc cho hộ gia đình mình nhưng không được trả thù lao dưới hình thức
tiền lương, tiền công cho công việc đó. Bao gồm sản xuất nông nghiệp trên đất do
chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ có quyền sử dụng, hoạt động kinh tế phi nông
nghiệp do chủ hộ hoặc một thành viên trong hộ làm chủ hoặc quản lý.
12
Điều này cho thấy thị trường việc làm đã được mở rộng, bao gồm tất cả các
thành phần kinh tế, các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh và không bị giới hạn
về không gian.Người lao động được tự do hành nghề, tự do liên doanh liên kết, tự
do thuê mướn lao động theo luật pháp để tạo việc làm cho mình và xã hội.
Từ quan niệm trên về việc làm, có thể hiểu được thiếu việc làm hay bán
thất nghiệp. Người thiếu việc làm là những người có việc làm nhưng do những
nguyên nhân khách quan ngoài ý muốn, mà họ phải làm việc không hết thời gian
theo luật định, hoặc làm những công việc có thu nhập thấp không đủ sống, muốn
tìm thêm việc làm để bổ sung.
Việc làm thường được phần làm hai loại: Việc làm thường xuyên và việc
làm không thường xuyên. Người có việc làm thường xuyên là những người hoạt
động kinh tế thường xuyên trong 12 tháng qua có số ngày làm việc thực tế lớn hơn
hoặc bằng tổng số ngày có nhu cầu làm thêm. Người không có việc làm thường
xuyên gồm những người thuộc bộ phận hoạt động kinh tế thường xuyên trong 12
tháng qua có tổng số ngày làm việc thực tế nhỏ hơn tổng số ngày có nhu cầu làm
thêm.
Như vậy, lao động nông thôn chủ yếu thuộc bộ phận dân số không có việc
làm thường xuyên, hay còn gọi là thiếu việc làm hoặc bán thất nghiệp.
* Các nhân tố ảnh hưởng đến việc làm
- Nhân tố điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên của một quốc gia, một vùng, một thành phố, một địa
phương đã có sẵn, ngoài ý muốn chủ quan của con người. Đó có thể là đất đai màu
mỡ hay không màu mỡ, phù hợp với loại cây trồng nào; hay điều kiện khí hậu,
thủy văn thuận lợi hay bất lợi cho phát triển các loại cây trồng, vật nuôi; các nguồn

tài nguyên khoáng sản nhiều hay ít, địa hình bằng phẳng hay không bằng phẳng,
thuận lợi phát triển ngành sản xuất nào, tạo ra bao nhiêu chỗ làm việc mới….Trên
13
thế giới có rất nhiều nước giàu tài nguyên thiên nhiên, đất đai rộng lớn thuận lợi
cho phát triển các ngành sản xuất và thu hút lao động. Còn đối với những nước
không được thiên nhiên ưu đãi, đất đai chật hẹp, nghèo tài nguyên, họ có vốn, có
công nghệ kỹ thuật hiện đại, máy móc tiên tiến, phương pháp quản lý tiên tiến nên
đã tạo ra được nhiều việc làm mới và việc làm có chất lượng cao.
- Nhân tố kinh tế - xã hội
+ Vốn đầu tư
Vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với việc làm của người lao động. Vốn dùng
để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, mua sắm máy móc, thiết bị, tích cực ứng dụng
tiến bộ khoa học – công nghệ, hơn nữa hoạt động trong nền kinh tế thị trường cạnh
tranh ngày càng khốc liệt, tính rủi ro cao. Có vốn lớn đem lại lợi thế cho doanh
nghiệp và người sản xuất, thực tế là muốn phát triển một ngành nào đó đều cần
phải có một lượng vốn đầu tư tương ứng cho một chỗ làm mới.
+ Đô thị hóa
Đô thị hóa làm giảm diện tích đất canh tác, đất canh tác bình quân trên một
người lao động trong nông nghiệp giảm, làm cho lao động nông nghiệp thiếu việc
làm gia tăng.
Quá trình đô thị hóa là quá trình gia tăng và lớn lên của hệ thống đô thị, quá
trình biến từng vùng nông thôn thành đô thị là nguyên nhân cơ bản làm giảm đất
canh tác trong nông nghiệp. Trong xu thế phát triển của nền kinh tế, các cơ sở hạ
tầng ngày càng được phát triển: đường giao thông, bến cảng, trung tâm thương
mại…Cũng góp phần làm giảm đất canh tác trong nông nghiệp, nông dân mất dần
ruộng đất. Với các nước đang phát triển, công nghệ ứng dụng trong lĩnh vực nông
nghiệp còn chậm chạp và khá lạc hậu, phương thức canh tác theo lối truyền thống
vẫn là chủ yếu, do vậy đất đai là yếu tố hết sức cơ bản và cần thiết đối với sản xuất
nông nghiệp và khả năng tạo việc làm cho người lao động. Nhiều đất khả năng tạo
14

việc làm cho lao động nông nghiệp lớn, ít đất đai khả năng tạo việc làm cho lao
động nông nghiệp sẽ giảm đi.
Đô thị hóa đã đẩy nhanh quá trình phân công lao động, tạo cơ sở hạ tầng
thuận lợi cho sản xuất phát triển, tuy nhiên các nước đang phát triển có mức thu
nhập trung bình thấp, trình độ văn hóa, khoa học kỹ thuật, tay nghề của người lao
động thấp, không đủ khai thác những thuận lợi của quá trình đô thị hóa tạo ra, để
giải quyết công ăn việc làm cho mình. Do vậy, quá trình đô thị hóa ngày càng diễn
ra nhanh chóng nguy cơ thất nghiệp và thiếu việc làm trong nông nghiệp, nông
thôn ngày càng gia tăng.
+ Dân số
Quy mô dân số tăng, nhu cầu về lượng hang hóa và dịch vụ tiêu dùng tăng
lên. Để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng tăng lên đó đòi hỏi phải mở rộng sản xuất, đa
dạng hóa các ngành nghề hoạt động. Điều đó dẫn đến nhiều ngành nghề mới ra
đời, dẫn đến số chỗ làm việc mới cũng được tạo ra nhiều hơn, cơ cấu việc làm
cũng biến đổi theo.
Cơ cấu dân số quyết định cơ cấu tiêu dùng. Mỗi độ tuổi, giới tính, ngành
nghề, tôn giáo, dân tộc….đều có tâm lý, sở thích tiêu dùng khác nhau, nhu cầu về
tiêu dùng về số lượng, chủng loại, chất lượng hàng hóa, dịch vụ cũng khác nhau.
Để thỏa mãn đầy đủ nhu cầu tiêu dùng cho các đối tượng đó tất yếu phải mở rộng,
phát triển sản xuất, thay đổi cơ cấu sản xuất, đa dạng chủng loại hàng hóa, nâng
cao chất lượng sản phẩm; thay đổi cơ cấu ngành nghề. Số lượng việc làm được tạo
ra nhiều hơn, phát triển đa dạng hơn.
Chất lượng lao động được đánh giá trên các mặt về sức khỏe, trình độ, phẩm
chất. Vấn đề được nói đến nhiều khi đề cập đến chất lượng lao động là trình độ của
người lao động. Kinh tế ngày càng phát triển, khoa học kỹ thuật ngày càng một
tiên tiến, đòi hỏi người lao động phải có trình độ nhất định đáp ứng yêu cầu công
15
việc. Người lao động có trình độ càng cao thì cơ hội tìm được việc làm càng dễ
dàng. Hầu hết những người thất nghiệp chủ yếu là những người có trình độ thấp,
không đáp ứng được yêu cầu của những công việc đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ

thuật cao. Do đó, người lao động muốn kiếm được việc làm và nhất là việc làm có
thu nhập cao, phù hợp cần phải có các thông tin thị trường lao động, biết các cơ hội
việc làm và đặc biệt là đầu tư vào vốn con người cả về thế lực và trí lực.
- Nhân tố thuộc về cơ chế, chính sách
Với xuất phát điểm thấp, bản thân nông nghiệp và những người lao động
nông nghiệp không đủ khả năng để tự giải quyết công ăn việc làm cho chính mình
trong quá trình đô thị hóa, để góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động nông nghiệp cần thiết phải có sự hỗ trọ của nhà nước trên nhiều mặt. Vai trò
của nhà nước ảnh hưởng tới việc làm của người lao động nông nghiệp thông qua
việc xây dựng chiến lược phát triển đất nước, quy hoạch phát triển đô thị.
Qua quy hoạch phát triển các ngành, quy hoạch phát triển các vùng mà các
ngành, các vùng xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển ngành, vùng mình, xây
dựng đội ngũ người lao động cho phù hợp. Nếu quy hoạch đô thị gắn với quy
hoạch phát triển nông nghiệp, nông thôn, gắn với chuyển dịch cơ cấu sản xuất
nông nghiệp nông thôn các ngành sẽ hỗ trợ nhau và tạo điều kiện cho nhau phát
triển, tạo nhiều việc làm cho người lao động
Ngoài ra, thông qua các chính sách, các chương trình, các dự án của mình
nhà nước đã tác động tới việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực,
hướng dẫn, khuyến khích người lao động phát triển ngành nghề, tạo việc làm, tạo
vốn cho đầu tư phát triển ngành nghề, qua đề bù đất, qua vay ưu đãi, qua luật đầu
tư, qua tạo lập môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý ổn định, thu hút các nhà
đầu tư trong và ngoài nước…
* Khái niệm về thu hồi đất
16
Thu hồi đất là việc Nhà nước ra quyết định hành chính để thu lại quyền sử dụng đất hoặc
thu lại đất đã giao cho tổ chức, Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quản lý theo quy định của
Luật Đất đai nhằm sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công
cộng, phát triển kinh tế…
* Quan niệm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất
Giải quyết việc làm cho người lao động là tổng thể hoạt động của nhà nước, người sử

dụng lao động và bản thân người lao động trong việc tạo ra số lượng, chất lượng tư liệu sản
xuất; số lượng, chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế - xã hội khác để kết hợp với
tư liệu sản xuất và sức lao động.
Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất chính là tạo cho người lao
động ở nông thôn - những người có đất bị thu hồi phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế -
xã hội có việc làm và thu nhập dể đảm bảo cuộc sống.
Trên cơ sở quan niệm về giải quyết việc làm cho người lao động nói chung, có thể quan
niệm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn trong quá trình CNH-HĐH ở tỉnh Đồng Nai: là
tổng thể hoạt động của Đảng bộ, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, các chủ doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất và bản thân người lao động tỉnh Đồng Nai trong việc tạo ra số lượng, chất lượng
tư liệu sản xuất; số lượng, chất lượng sức lao động và các điều kiện kinh tế - xã hội khác ở khuc
vực nông thôn để kết hợp với tư liệu sản xuất và sức lao động trong quá trình CNH-HĐH của
tỉnh, nhằm tạo việc làm, bảo đảm thu nhập cho những lao động sau thu hồi đất, góp phần thực
hiện có hiệu quả mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra.
Quan niệm trên chỉ rõ:
- Chủ thể giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn trong quá trình CNH - HĐH
tỉnh Đồng Nai chính là Đảng bộ, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, các chủ doanh nghiệp,
cơ sở sản xuất và chính bản thân người lao động nông thôn bị thu hồi đất;
- Cách thức tiến hành: tạo ra các điều kiện cần thiết cho việc kết hợp giữa tư liệu sản xuất
và sức lao động.
- Mục đích: Nhằm tạo việc làm, bảo đảm thu nhập cho người lao động, góp phần thực
hiện có hiệu quả mục tiêu kinh tế - xã hội đặt ra.
17
1.1.2. Sự cần thiết và nội dung giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
sau thu hồi đất
* Sự cần thiết giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất
ở Đồng Nai
- Do tác động của quá trình CNH – HĐH
Trong quá trình công nghiệp hoá nông thôn, việc thu hẹp diện tích đất nông nghiệp để
xây nhà máy, các khu chế xuất và dịch vụ là điều tất yếu. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và

Phát triển nông thôn tại Hội thảo “Nôngdân bị thu hồi đất - Thực trạng và giải pháp”, cho thấy:
trong 5 năm, từ năm 2001- 2005, tổng diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi là 366,44 nghìn ha
(chiếm 3,89% đấtnông nghiệp đang sử dụng). Trong đó, diện tích đất nông nghiệp đã thu hồi để
xâydựng các khu công nghiệp và cụm công nghiệp là 39,56 nghìn ha, xây dựng đô thị là70,32
nghìn ha và xây dựng kết cấu hạ tầng là 136,17 nghìn ha. Các vùng kinh tế trọngđiểm là khu vực
có diện tích đất nông nghiệp thu hồi lớn nhất, chiếm khoảng 50% diệntích đất thu hồi trên toàn
quốc.
Đồng Nai là tỉnh đi đầu trong xây dựng, phát triển và dẫn đầu cả nước về số lượng KCN
với 30 KCN tổng diện tích 9.573 ha và 43 cụm công nghiệp, thu hút 1.130 dự án từ 35 quốc gia
và vùng lãnh thổ như Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản…, có tổng vốn đăng ký hơn 13 tỷ USD và
hơn 31.600 tỷ đồng, thu hút hơn 375 ngàn lao động đang làm việc tại các KCN, trong đó hơn
60% là người ngoài tỉnh. Tỉnh đã quy hoạch 21 cụm công nghiệp với tổng diện tích 620 ha trên
địa bàn các huyện, thành phố Biên Hòa và thị xã Long Khánh.
Bảng 1.1: Quy hoạch phát triển một số KCN lớn của tỉnh Đồng Nai
STT KCN Tổng diện tích (ha)
1 Biên Hòa 1 335
2 Biên Hòa 2 365
3 Amata 418
4 Loteco 100
5 Gò Dầu 184
6 Nhơn Trạch, bao gồm: 2,700
Nhơn Trạch 1 430
18
Nhơn Trạch 2 700
Nhơn Trạch 3 368
Nhơn Trạch 4 352
Nhơn Trạch 5
556
Nhơn Trạch 6 616
7 Sông Mây 471

8 Hố Nai 523
9 Tam Phước 331
10 Long Thành 488
11 An Phước 130
12 Ông Keo 800
13 Thanh Phú 186
14 Bàu Xéo 494
15 Long Khánh 100
16 Xuân Lộc 100
17 Tân Phú 50
18 Định Quán 50
Tổng 7,826
(Nguồn: Website: www.dongnai.gov.vn)
Tình trạng phân bố các KCN trong tỉnh chưa đều đã ảnh hưởng đến phân bố lao động trên
địa bàn. Đa số dự án thu hút nhiều lao động được tập trung chủ yếu trong các KCN trên địa bàn
thành phố Biên Hòa. Trong tổng số 190.000 người làm việc trong các KCN, số lao động làm việc
trong các KCN ở thành phố Biên Hòa là: 101.000 người (chiếm 54%); số lao động nhập cư ước
khoảng: 113.000 người (chiếm đến 60% trên tổng số lao động). Lao động nhập cư là một trong
những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng quá tải về cơ sở hạ tầng như: nhà ở, bệnh viện,
trường học, nạn kẹt xe vào mỗi giờ ra, vào ca, các tệ nạn xã hội, vi phạm trật tự an ninh trên địa
bàn… Số lượng lao động có tay nghề trong các KCN còn thấp, chưa tạo ra được cán bộ quản lý
chủ chốt, chưa tập trung vào việc đào tạo ra đội ngũ công nhân có tay nghề.
19
Nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo đến cuối năm 2010 đạt 53%, tỷ lệ lao động qua đào tạo
nghề đạt 40%. Ngoài ra, tỉ lệ người tốt nghiệp đại học, công nhân tay nghề bậc cao còn thấp so
với bình quân chung cả nước. Công nghiệp phát triển nhanh nhưng nhân lực chất lượng cao
không đáp ứng kịp. Tính đến cuối năm 2008 mới có 19.751 người tốt nghiệp đại học, đang công
tác trong các thành phần kinh tế hoặc đã nghỉ hưu. Trong số này số tốt nghiệp từ hệ đào tạo
không chính qui (chuyên tu, tại chức, chuẩn hóa, từ xa) chiếm đến 44,2%.
Chỉ tính riêng Đồng Nai, diện tích đất thu hồi cũng lên đến19.752 ha. Giảm bớt đất canh

tác nông nghiệp, thay đổi cơ cấu lao động ở nông thôn, chuyển lao động thuần nông sang lao
động phi nông nghiệp tạo ra nhiều giá trị sản phẩm và giá trị gia tăng hơn, giảm tỷ trọng nông
nghiệp trong cơ cấu kinh tế.v v., là những việc cần làm. Tuy nhiên, việc thu hẹp diện tích đất
canh tác nông nghiệp để công nghiệp hoá và đô thị hoá ồ ạt như mấy năm gần đây ở nước ta, đã
tạo nên những ảnh hưởng tốt và không tốt đến đời sống người dân ở nông thôn, nhất là những
người nông dân.
Việc thu hồi đất cho công nghiệp hóa đã tác động trực tiếp đến việc làm và đời sống của
các hộ nông dân trước mắt cũng như lâu dài.Việc mất đất, thiếu việc làm, không tự chủ về lương
thực là tình trạng phổ biến của các hộ nông dân vùng công nghiệp hóa. Vì một phần lớn diện tích
đất nông nghiệp bị thu hồi cho việc xây dựng các khu, cụm công nghiệp, đô thị hóa và xây dựng
cơ sở hạ tầng, số hộ nông dân mất đất phải chuyển đổi việc làm tăng lên nhanh chóng. Mặc dù
các cấp chính quyền trung ương và địa phương đã có nhiều lỗ lực trong GQVL cho lao động
nông thôn nói chung và lao động bị thu hồi đất nói riêng, song tình trạng thiếu việc làm vẫn
không hề thuyên giảm. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu cho các cấp lãnh đạo và các nhà hoạch định
chính sách, các nhà nghiên cứu phải tìm giải pháp hữu hiệu tạo điều kiện cho lao động nông thôn
có việc làm thường xuyên, đảm bảo ổn định cuộc sống.
- Từ vai trò của việc làm và yêu cầu của phát triển bền vững;
Một quốc gia muốn phát triển bền vững thì cần phải có các nguồn lực của sự
phát triển linh tế như: tài nguyên thiên nhiên, vốn, khoa học - công nghệ, con
người … Trong các nguồn lực đó thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có
tính chất quyết định trong sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia từ
20
trước đến nay. Một nước cho dù có tài nguyên thiên nhiên phong phú, máy móc kỹ
thuật hiện đại nhưng không có những con người có trình độ, có đủ khả năng khai
thác các nguồn lực đó thì khó có khả năng có thể đạt được sự phát triển như mong
muốn.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và ngày nay trong công
cuộc hội nhập và phát triển nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”, Đảng ta luôn xác định: Nguồn lao động dồi dào, con
người Việt Nam có truyền thông yêu nước, cần cù, sáng tạo, có nền tảng văn hoá,

giáo dục, có khả năng nắm bắt nhanh khoa học và công nghệ là nguồn lực quan
trọng nhất - nguồn năng lực nội sinh.
Báo cáo Phát triển Thế giới năm 2013 nhấn mạnh vai trò của tăng trưởng dựa vào một khu
vực kinh tế tư nhân mạnh trong quá trình tạo việc làm và nêu bật cách thức mà việc làm có thể
giúp cho phát triển thúc đẩy một chu trình đúng đắn. Báo cáo nhận thấy nghèo đói sẽ giảm xuống
khi con người phấn đấu thoát khỏi hoàn cảnh khó khăn và khi việc làm giúp phụ nữ đầu tư nhiều
hơn cho con cái. Hiệu suất tăng lên khi người lao động làm việc giỏi hơn, khi các công việc có
năng suất cao xuất hiện và các công việc năng suất thấp dần dần biến mất. Xã hội phát triển khi
việc làm thúc đẩy sự đa dạng và mang lại nhiều lựa chọn để giải quyết mâu thuẫn. “Một công
việc tốt có thể làm thay đổi cuộc sống một cá nhân và những công việc phù hợp có thể chuyển
đổi cả xã hội. Chính phủ các nước phải đưa việc làm trở thành trọng tâm của việc thúc đẩy sự
thịnh vượng và chống đói nghèo”, "Điều quan trọng là chính phủ các nước phải kết hợp tốt với
khu vực tư nhân, nơi tạo ra 90% tổng số việc làm. Vì vậy, phải tìm ra cách tốt nhất giúp các
doanh nghiệp và nông trại nhỏ phát triển. Việc làm là hy vọng. Việc làm là hòa bình. Việc làm có
thể làm cho các nước dế bị tổn thương trở nên vững mạnh."
- Từ đặc điểm lao động nông thôn tỉnh Đồng Nai;
Đồng Nai là một tỉnh công nghiệp, cơ cấu ngành nông nghiệp chỉ chiếm tỉ
trọng 6,8%, nhưng nông nghiệp, nông dân, nông thôn vẫn đóng một vai trò hết sức
quan trọng, với hơn 60% dân cư sống vùng nông thôn. Với nhận thức đó, Đồng
Nai luôn đặt nông nghiệp, nông dân, nông thôn ở vị trí chiến lược quan trọng, coi
21
đó là cơ sở và lực lượng để phát triển kinh tế bền vững, ổn định chính trị, bảo đảm
an ninh, quốc phòng. Tính đến năm 2013, Đồng Nai có 15/136 xã đạt chuẩn nông
thôn mới và dự kiến đến cuối năm 2014 sẽ có thêm 6 xã hoàn thành. Với kết quả
này, Đồng Nai đang dẫn đầu cả nước về xây dựng nông thôn mới. Người lao động
ở nông thôn chủ yếu làm việc tại các trang trại trồng nấm,nuôi gà, trồng cam,
quýt…, các xưởng hàn điện
Trong những năm gần đây, Hội Nuôi ong tỉnh Đồng Nai đã xây dựng mối
liên kết chặt chẽ giữa người nuôi ong và doanh nghiệp qua hợp đồng đầu tư và bao
tiêu sản phẩm, song song với việc cập nhật hóa thông tin về kinh tế, kỹ thuật cho

người nuôi ong. Hiện nay, toàn tỉnh có khoảng 250 đến 300 ngàn đàn ong và phát
triển theo nhiều dạng: nuôi hộ gia đình, nuôi ong bán chuyên nghiệp và nuôi ong
chuyên nghiệp. Sản lượng trung bình hàng năm từ 6000 đến 8000 tấn mật ong và
các sản phẩm khác từ ong như: sáp ong, phấn hoa, sữa ong chúa…Nuôi ong đã thu
hút và tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động nông thôn trong tỉnh, trong đó
có hơn 500 người nuôi ong chuyên nghiệp. Lợi nhuận bình quân khoảng 200 triệu
đồng mỗi năm cho một người nuôi ong với quy mô 250 đàn.
Một cái khó của các địa phương miền núi là chính quyền, đoàn thể các xã
chưa hiểu và chưa cùng vào cuộc với huyện trong tuyên truyền, vận động bà con
học nghề. Bà con không đi học nghề cũng vì chưa được giải thích các chế độ chính
sách rõ ràng. Với lao động là đồng bào dân tộc thiểu số, học nghề đã khó, sống
bằng nghề đã học càng khó, ngay cả các nghề đặc thù của địa phương như đan lát,
dệt thổ cẩm, mây tre cũng khó triển khai đào tạo. Bởi, bà con sau học nghề làm
ra sản phẩm chẳng biết bán cho ai. Trong khi đó, đào tạo các nghề phi nông nghiệp
như nề, may, mộc thì học viên tốt nghiệp ít được các chủ cơ sở tiếp nhận do tay
nghề không đạt yêu cầu, ý thức lao động không cao.
- Từ thực tiễn giải quyết việc làm cho lao động nông thôn tỉnh Đồng Nai.
22
Kể từ khi Đề án 1956 được thực hiện, Đồng Nai đã đào tạo gần 3.000 cán bộ
công chức cấp xã, trong đó có gần 90% phục vụ trực tiếp cho công tác đào tạo
nghề cho lao động nông thôn. Để tạo thuận lợi cho lao động nông thôn đi học
nghề, mới đây, Ngân hàng Chính sách Xã hội tỉnh đã bổ sung thêm hai đối tượng
được vay vốn học nghề là bộ đội xuất ngũ và lao động nông thôn. Bên cạnh đó,
nhiều cơ chế, chính sách tạo thuận lợi như hỗ trợ tiền ăn, ở, đi lại khi lao động
nông thôn tham gia học nghề sẽ tạo hiệu quả để công tác dạy nghề cho lao động
nông thôn thực sự có chất lượng.
Sau 05 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 (khoá X), tình hình nông
thôn trên địa bàn tỉnh có nhiều chuyển biến tích cực: nông nghiệp phát triển ổn
định, cơ cấu ngành nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng, phù hợp xu thế phát
triển chung của tỉnh; giá trị sản xuất nông nghiệp bình quân trên một đơn vị diện

tích tăng khá cao và đạt 85,58 triệu đồng/ha vào năm 2013. Bên cạnh đó, xuất hiện
nhiều loại hình tổ chức sản xuất kinh tế tập thể, kinh tế trang trại, tổ hợp tác và
doanh nghiệp trong lĩnh vực nông nghiệp. Đời sống vật chất, thu nhập bình quân
đầu người khu vực nông thôn được nâng lên và đạt 32 triệu đồng/người/năm. Kết
cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội khu vực nông thôn từng bước được đầu tư
nâng cấp. Trong đó, hệ thống trường học, trạm y tế, văn hóa ngày càng khang trang
đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn, nhất là hệ thống đường
giao thông nông thôn ngày càng được hoàn thiện đã tạo điều kiện cho người dân đi
lại, vận chuyển, lưu thông hàng hóa, phát triển sản xuất ngày càng thuận lợi. Công
tác an sinh xã hội được quan tâm, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể; công tác phát triển
ngành nghề, đào tạo nghề cho lao động nông thôn, tạo việc làm tại chỗ được chú
trọng.
Trong những năm qua và thời gian tới, Đồng Nai sẽ tiếp tục thực hiện đề án
nhưng tập trung vào những nghề mà nông dân đang sinh sống, hỗ trợ họ kiến thức,
kỹ năng để làm nghề và sống được bằng nghề. Tỉnh tập trung vào các nghề trọng
23
điểm như trồng trọt, chăn nuôi gà thả vườn, nuôi dê, may công nghiệp vừa phục
vụ tại chỗ, vừa cung cấp nguồn lao động dịch chuyển cho doanh nghiệp. Đồng
thời,tỉnh cũng hạn chế những nghề không phù hợp với khu vực nông thôn để nâng
cao hiệu quả của đề án, gắn với chương trình xây dựng nông thôn mới. Một trong
19 tiêu chí xây dựng nông thôn mới là tăng thu nhập, nhất là đối tượng nghèo.
* Nội dung giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở Đồng Nai
- Mở rộng và đa dạng hoá các loại hình sản xuất, kinh doanh trong nông thôn; Sản xuất
ra nhiều loại sản phẩm hàng hoá với tỷ suất hàng hoá cao, tận dụng triết để các lợi thế so sánh
của các hộ, các vùng, trước hết là nguồn lực đất đai, lao động và các điều kiện tự nhiên ưu đãi
để đáp ứng yêu cầu tại chỗ và góp phần tham gia vào các quá trình phân công và hợp tác kinh tế
trong nội bộ hộ gia đình nông dân cũng như trong phạm vi rộng
- Thực hiện chính sách đất đai và hỗ trợ tín dụng cho sản xuất, kinh doanh của người lao
động trên địa bàn nông thôn; tích tụ ruộng đất, dồn điền đổi thửa để có những cánh đồng mẫu
lớn, làm bàn đạp tiến lên sản xuất lớn giúp giảm chi phí, hạn chế rủi ro trong sản xuất cho nông

dân, đồng thời giảm chi phí và thuận tiện các tổ chức tín dụng cho vay NNNT, kết hợp cho vay
sản xuất và vay tiêu dùng.
- Hỗ trợ đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho lao động nông thôn; Đào tạo nghề nông
nghiệp cho lao động nông thôn phải xuất phát từ nhu cầu thực sự của người nông dân; gắn với
quy hoạch sản xuất nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi.
- Ứng dụng khoa học, công nghệ trong sản xuất, kinh doanh trên địa bàn nông thôn; Nâng
cao kiến thức cho đội ngũ cán bộ để tăng hiệu quả tuyên truyền cho người dân về tầm quan trọng
của khoa học – công nghệ, tăng nguồn kinh phí hỗ trợ
- Thực hiện chương trình quốc gia về việc làm v.v…. Có chính sách khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư vào địa bàn nông thôn như đầu tư làm công nghiệp, làm dịch vụ trên địa bàn
nông thôn, qua đó góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, chuyển dịch lao động trực
tiếp làm nông nghiệp sang làm dịch vụ, làm công nghiệp, tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho
lao động nông thôn. Tạo sự liên kết chặt chẽ, hình thành chuỗi giá trị trong sản xuất, chế biến,
tiêu thụ sản phẩm.
24
1.2. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn sau thu hồi đất ở một
số địa phương và bài học rút ra đối với Đồng Nai
• Thành phố Hồ Chí Minh
Theo thống kê cho thấy trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh có gần 49.000 hộ dân với
hàng trăm ngàn lao động đã di dời tái định cư, trên 40% tái định cư ở các chung cư. Tình trạng
việc làm của người dân sau tái định cư ở thành phố theo điều tra của Viện kinh tế thành phố; việc
làm ổn định chiếm: 37,8% , việc làm bấp bênh: 15,8%, không có việc làm: 23,2%, còn đi
học:18,3%, nội trợ: 4,9%. Có đến 37,7% về nơi ở mới cho răng tình trạng việc làm của các thanh
niên trong gia đình xấu hơn so với trước tái định cư; ý kiến cho rằng việc làm tốt hơn chỉ chiếm
11% và phần lớn cho rằng việc làm cũng vậy chiếm: 52,3%.
Vấn đề ổn định việc làm, ổn định thu nhập, nâng cao đời sống cho người dân sau khi tái
định cư luôn được Thành Ủy, Ủy Ban Nhân Dân thành phố quan tâm chủ trương chỉ đạo. Tuy
nhiên trong thực tế sau khi tái định cư ở địa phương mới, đa số người lao động của hộ sau tái
định cư gặp nhiều khó khăn trong việc làm và tìm việc làm mới ổn định, theo khảo sát thực tế có
nhiều nguyên nhân cụ thể ;

- Về đặc điểm : Người dân sau khi tái định cư chủ yếu là người nghèo, trên 80% có trình
độ học vấn và trình độ chuyên môn thấp, việc làm đơn giản không ổn định, nghề nghiệp của họ
đa số là công việc lao động phổ thông, cá thể hoặc nhóm sản xuất kinh doanh quy mô nhỏ như :
công nhân ngành tiểu thủ công nghiệp, buôn bán nhỏ, cắt tóc, uốn tóc, chạy xe vận chuyển, bán
hàng rong, bốc xếp…, nên việc định cư ở một chung cư cao tầng và các khu dân cư mới hầu hết
các cơ hội việc làm không nhiều, khó thay đổi việc làm mới, khó tìm lại công việc như trước đó
ở nơi định cư mới, dù công việc trước đó đơn giản nhưng đã nuôi sống họ. Từ đó đã ảnh hưởng
đến việc làm, có nhiều người dân sau khi di dời vẫn quay về chổ củ để làm ăn, tốn nhiều chi phí
đi lại, và các chi phí khác, kể cả những hộ có người lao động đã là công nhân viên chức ở các
công ty với việc làm, thu nhập ổn định khi di chuyển chổ ở mới, cũng bị ảnh hưởng giảm sút thu
nhập. Điều đáng quan tâm nhất là có 40% người dân cho rằng việc làm của họ sau khi tái định cư
gặp nhiều tình trạng khó khăn nhiều hơn, trong đó trên 20% đã lâm vào cảnh thất nghiệp, nhiều
hộ dân phải bán nhà tái định cư để đến các khu vực có nhiều cơ hội tìm được việc làm hơn để
sinh sống.
25
- Về việc thực hiện các giải pháp chính sách hổ trợ việc làm thì cũng có nhiều hạn chế,
chưa đạt kết quả tốt, vì:
+ Các cơ quan chức năng ở địa phương trước ,sau tái định cư và các Trung tâm tư vấn,
giới thiệu việc làm chưa thực hiện được việc tư vấn nghề nghiệp – việc làm cho người dân.
Thông tin hướng nghiệp, thị trường lao động không được chuyển tải đầy đủ, người dân không
biết định hướng nghề nghiệp, học nghề, chuyển đổi nghề nghiệp nào là phù hợp nơi ở mới, phù
hợp với năng lực sở trường.
+ Chương trình đào tạo của các cơ sở đào tạo nghề không phù hợp với việc làm và không
thể đáp ứng đầy đủ các ngành nghề đa dạng của thị trường lao động nơi ở mới , đồng thời do
trình độ hạn chế người dân khó tiếp cận học nghề ở các trường chính quy mà thường học nghề
trong các cơ sở sản xuất, dịch vụ nên khó vào làm việc trong các doanh nghiệp ở các KCX –
KCN, các ngành công nghiệp, các ngành kinh tế , dịch vụ cần lao động lành nghề, cần kỹ năng
làm việc, tác phong công nghiệp.
+ Chính sách hổ trợ học nghề cho người dân tái định cư trước đây ( 1 triệu
đồng/người/lượt ) không đủ trang trải trong thời gian học nghề.

Tính chung 5 tháng đầu năm 2014, có trên 122.000 lao động được giải quyết việc làm,
giảm 1.361 lượt lao động so với cùng kỳ. Góp phần giải quyết việc làm cho người lao động,
trong 5 tháng đầu năm, thành phố cũng đã phê duyệt 147 dự án vay vốn sản xuất kinh doanh từ
Quỹ hỗ trợ đào tạo và giải quyết việc làm cho người bị thu hồi đất để thực hiện các dự án đầu tư
trên địa bàn thành phố, giải quyết việc làm cho 1.093 lao động với số tiền là 9,152 tỷ đồng, hỗ
trợ học phí giáo dục, đào tạo nghề và sinh hoạt phí cho 171 lượt học với số tiền 488 triệu đồng.
Quỹ giảm nghèo hiện đang trợ vốn cho 150 cơ sở sản xuất kinh doanh thu nhận 1.687 lao động
nghèo.
Thành phố cũng cấp 5 giấy chứng nhận đăng ký hoạt động dạy nghề và 12 giấy chứng
nhận đăng ký bổ sung hoạt động dạy nghề, đào tạo nghề ngắn hạn cho 347 lao động nghèo, đưa
6 lao động đi làm việc có thời hạn tại nước ngoài và giới thiệu việc làm cho 1.065 lao động
nghèo
• Tỉnh Bình Dương

×