Website: Email : Tel : 0918.775.368
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sau 20 năm tiến hành đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, nước ta đã có sự
chuyển biến rõ rệt về đời sống kinh tế, xã hội trong đại bộ phận dân cư. Đặc
biệt, sự kiện Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO
(7/11/2006) đã mở ra cho nền kinh tế nước nhà nhiều cơ hội cũng như thách
thức mới. Và dưới tác động của nó, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và cả đô thị hóa cũng diễn ra ngày càng sâu rộng trên phạm vi cả nước. Cùng
với xu hướng đó, quá trình xây dựng các khu công nghiệp, khu đô thị, xây
dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, nhu cầu công cộng và lợi ích quốc gia
cũng đang diễn ra rất nhanh chóng, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà
Nội, Thành phố Hồ Chí Minh.
Quận Cầu Giấy là một bộ phận hợp thành của Thủ đô Hà Nội. Tuy là Quận
mới được thành lập từ các xã, thị trấn (năm 1997) nhưng quá trình đô thị hóa lại
diễn ra rất nhanh chóng trong những năm qua. Quá trình đó đi liền với việc thu
hồi đất, mà chủ yếu là đất nông nghiệp của một bộ phận dân cư. Đây là một quá
trình tất yếu, có tính quy luật trong thời kỳ đầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta. Quá trình đó đã và đang kéo theo hàng loạt khó khăn trong
việc giải quyết việc làm cho người lao động bị mất đất, để có thể ổn định an ninh
– xã hội, chính trị…Tất cả đang trở thành vấn đề bức xúc, đòi hỏi sự nỗ lực của
đội ngũ cán bộ lãnh đạo cũng như quần chúng nhân dân để có thể đảm bảo được
đời sống của người dân trên địa bàn Quận.
Để có thể đánh giá đúng thực trạng việc thu hồi đất cũng như ảnh hưởng
của nó tới việc làm, đời sống của lao động nông nghiệp bị thu hồi đất, qua đó
đề ra một số giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp bị
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thu hồi đất trên địa bàn quận Cầu Giấy, tôi đã triển khai nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng và phương hướng tiếp tục giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp sau khi bị thu hồi đất ở quận Cầu Giấy”.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ
tận tình của:
-Phòng Kinh tế Kế hoạch quận Cầu Giấy.
-PGS. TS. Phạm Văn Khôi - Phó Chủ nhiệm khoa Kinh tế Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Đề tài có ba mục tiêu chủ yếu sau:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận về việc làm nói chung, việc làm cho
lao động nông nghiệp bị thu hồi đất nói riêng trên địa bàn quận Cầu Giấy.
- Đánh giá thực trạng đời sống và việc làm của lao động nông nghiệp bị
thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa.
- Đề xuất các quan điểm, phương hướng và giải pháp để tiếp tục giải
quyết việc làm, ổn định cuộc sống cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu
hồi đất trong quá trình đô thị hóa trong những năm tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Như tên đề tài đã chỉ rõ, đề tài tập trung nghiên cứu, đánh giá thực trạng
việc làm của lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi trong quá trình đô thị hóa
và ảnh hưởng của nó tới thu nhập và đời sống.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài được giới hạn như sau:
- Về phạm vi không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc
làm cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi trên địa bàn quận Cầu Giấy
- Về phạm vi thời gian:
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng, việc làm cho lao động nông
nghiệp có đất bị thu hồi từ năm 2001 đến nay (2006). Đây là thời kỳ đô thị
hóa diễn ra rất nhanh chóng. Đồng thời, nhiều vấn đề bức xúc trong quá trình
thu hồi đất cũng nảy sinh chủ yếu trong thời gian này.
+ Phạm vi thời gian cho các đề xuất trong đề tài là thời kỳ 2007 – 2010,
đặt trong tầm nhìn đến năm 2020.
4. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, phụ lục, kết luận, đề tài gồm các phần lớn sau đây:
- Chương I: Việc làm và giải quyết việc làm cho lao động nông nghiệp
bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa.
- Chương II: Thực trạng việc thu hồi đất nông nghiệp và vấn đề giải
quyết việc làm cho lao động nông nghiệp có đất bị thu hồi ở quận Cầu Giấy.
- Chương III: Những giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục giải quyết việc
làm cho lao động nông nghiệp sau khi bị thu hồi đất chuyển đổi mục đích sử
dụng.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 1
VIỆC LÀM VÀ GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG
NGHIỆP BỊ THU HỒI ĐẤT TRONG QUÁ TRÌNH
ĐÔ THỊ HÓA
1.1. Khái niệm và vai trò của việc làm
1.1.1. Khái niệm về việc làm
Việc làm là phạm trù kinh tế xã hội biểu hiện khả năng kết hợp giữa sức lao
động với tư liệu sản xuất nhằm tạo ra thu nhập, tạo ra của cải vật chất hoặc thỏa
mãn những yêu cầu nào đó, phù hợp với những quy định của pháp luật.
Để hiểu rõ hơn khái niệm việc làm, cần phân biệt rõ 2 thuật ngữ: việc
làm và làm việc. Đây là 2 thuật ngữ có sự biểu hiện khác nhau ở một số
phương diện. Về nội hàm của thuật ngữ làm việc: có thể hiểu làm việc, đó
chính là quá trình lao động, vì vậy có thể hiểu đó là sự kết hợp giữa sức lao
động với tư liệu sản xuất. Trong khi đó, thuật ngữ việc làm chỉ phản ánh về
khả năng của sự kết hợp đó. Ví dụ như một doanh nghiệp thiếu vốn sản xuất,
khi doanh nghiệp được vay vốn sẽ mở ra khả năng thu hút thêm việc làm,
hoạt động vay vốn đó đã tạo ra việc làm. Doanh nghiệp đó có thu hút được
lao động và có triển khai được các hoạt động đó hay không, đặc biệt người
lao động có triển khai các hoạt động đó hay không lại thuộc về phạm trù làm
việc. Về ngữ pháp: Việc làm là danh từ, còn làm việc là động từ. Vì vậy, việc
làm phản ánh ở dạng tiềm năng và làm việc biểu hiện sự khai thác của tiềm
năng đó. Trên thực tế, người ta thường quan tâm nhiều đến kết quả cuối cùng,
vì vậy sự thống nhất trên một phương diện nào đó giữa việc làm và làm việc
là vấn đề cần lưu ý khi tạo việc làm. Bởi vì, tạo ra việc làm nhưng người lao
động không làm việc hoặc làm việc không hiệu quả thì tạo việc làm sẽ không
có ý nghĩa.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Khái niệm về người có việc làm: Người có việc làm là những người từ
đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt động kinh tế đang làm công việc để
nhận tiền lương, tiền công hoặc lợi nhuận bằng tiền hay hiện vật hoặc đang
làm công việc không được hưởng tiền lương, tiền công hay lợi nhuận trong
các công việc sản xuất kinh doanh của hộ gia đình. Khái niệm người có việc
làm còn bao gồm những người có sức lao động, có việc làm nhưng chưa chấp
nhận làm việc, hoặc chưa sẵn sàng làm việc, thậm chí không chịu làm việc.
Trên thực tế, do phân biệt người có việc làm không chịu làm việc và người
không có việc làm thực sự có những khó khăn nên những đối tượng này được
liệt kê vào những người không có việc làm. Cách thức này tuy có tiện về
thống kê, nhưng không phản ánh chính xác thực tiễn.
Trong số người có việc làm, căn cứ vào số giờ thực tế làm việc và nhu
cầu làm thêm của người được coi là có việc làm, người ta lại chia ra thành
người đủ việc làm và người thiếu việc làm.
Người đủ việc làm gồm những người có số giờ làm việc trong tuần lễ lớn
hơn hoặc bằng 40 giờ; hoặc những người có số giờ nhỏ hơn 40, nhưng không
có nhu cầu làm thêm; hoặc những người có số giờ làm việc nhỏ hơn 40,
nhưng bằng hoặc lớn hơn giờ quy định đối với những người làm các công
trình nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành.
Người thiếu việc làm là những người có tổng số giờ làm việc trong 1 tuần
dưới 48 giờ đến 8 giờ, hoặc có số giờ làm việc nhỏ hơn quy định đối với những
người làm công việc nặng nhọc, độc hại theo quy định hiện hành của nhà nước,
có nhu cầu làm thêm giờ và đã sẵn sàng làm việc nhưng không có việc để làm.
Thất nghiệp là sự tồn tại của một bộ phận lực lượng lao động có khả
năng và sẵn sàng làm việc nhưng không tìm được việc làm.
Người thất nghiệp là người từ đủ 15 tuổi trở lên trong nhóm dân số hoạt
động kinh tế không có việc làm nhưng có nhu cầu làm việc đang tích cực tìm
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
việc làm hoặc đang chờ được trở lại làm việc trong khoảng thời gian quy định
(thường là 4 tuần).
1.1.2. Vai trò của việc làm
Việc làm có vai trò quan trọng quyết định đến sự phát triển kinh tế xã
hội ở vùng nông thôn. Qua việc làm ta có thể đánh giá được sự phát triển của
nông thôn về nhiều nghành nhiều lĩnh vực cụ thể như an ninh xã hội, trình độ
phát triển của dân cư, trình độ học hành…Ở vùng nông thôn có tỷ lệ người có
việc làm thường xuyên thì góp phần ổn định cuộc sống của người dân, giảm
bớt các tệ nạn xã hội mang lại do lao động không có việc làm gây ra như chơi
bời cờ bạc, nghiện hút ma tuý… Vì thế mà việc giải quyết việc làm cho người
lao động nông thôn sau khi bị thu hồi đất càng trở nên cần thiết. Giải quyết tốt
vấn đề này không những góp phần phát triển kinh tế xã hội mà còn giúp
người dân lao động nông thôn giảm bớt vào việc bị lôi kéo vào các hoạt động
không lành mạnh của xã hội.
Việc làm thường xuyên giúp cho người dân có đời sống thu nhập ổn
định, giúp cho họ có khả năng dễ dàng tiếp cận với khoa học công nghệ hiện
đại, đồng thời nâng cao khả năng nhận thức của người dân.
Việc làm cho lao động nông thôn sẽ góp phần thúc đẩy cơ sở hạ tầng
ngày càng phát triển theo hướng ngày càng hoàn thiện. Tạo ra sự thu hẹp
khoảng cách giữa thành thị và nông thôn.
1.2. Sự cần thiết phải giải quyết việc làm cho lao động nông
nghiệp sau khi bị thu hồi đất trong quá trình đô thị hóa
1.2.1. Đô thị hóa và tính tất yếu của đô thị hóa
1.2.1.1. Đô thị hóa
Đô thị là khu dân cư tập trung với mật độ cao, cơ sở hạ tầng thích hợp, là
trung tâm chuyên ngành có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của
một huyện, tỉnh hoặc một vùng, miền lãnh thổ, cả nước.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Như vậy, một vùng, lãnh thổ được công nhận là đô thị khi nó là thành
phố, thị xã, thị trấn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập.
Để đánh giá trình độ của đô thị, ta có thể thông qua một số chỉ tiêu như:
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ là chủ yếu
- Tổng thu ngân sách trên địa bàn
- Thu nhập bình quân đầu người/năm
- Mức tăng trưởng kinh tế trung bình/năm
- Cân đối thu – chi ngân sách…
Đô thị hóa được xem như một quá trình đa dạng về các mặt kinh tế - xã
hội, dân số, địa lý, v.v…dựa trên cơ sở của các hình thức phân công lao động
xã hội theo ngành và phân công lao động xã hội theo lãnh thổ. Đây là quá
trình tập trung, tăng cường, phân hóa các họat động trong đô thị và nâng cao
tỷ lệ số dân thành thị trong các vùng, các quốc gia cũng như trên toàn thế
giới. Đồng thời, đô thị hóa cũng là quá trình phát triển của các thành phố lớn
và phổ biến rộng rãi lối sống thành thị trong dân cư. Trước kia, đô thị hóa chỉ
tiến hành trong phạm vi các thành phố. Ngày nay, quá trình này bắt đầu phổ
biến và xâm nhập vào các vùng nông thôn.
Đô thị hóa là một tiến trình rất đa dạng, chứa đựng nhiều hiện tượng và
biểu hiện khác nhau trong quá trình phát triển.
Trên quan điểm một vùng, đô thị hóa là quá trình hình thành, phát triển
các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Trên quan điểm kinh tế quốc dân, đô thị hóa là một quá trình biến đổi về
phân bố các lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân cư
những vùng những vùng không phải đô thị thành đô thị, đồng thời phát triển
các đô thị hiện có theo chiều sâu. Đô thị hóa là quá độ từ hình thức sống nông
thôn lên hình thức sống đô thị của các nhóm dân cư, gắn liền với những biến
đổi sâu sắc về kinh tế - xã hội của đô thị và nông thôn trên cơ sở phát triển
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
công nghiệp, giao thông vận tải, xây dựng, dịch vụ, v.v…Đô thị hóa gắn liền
với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong các loại đô thị hóa thì vấn đề đô thị hóa nông thôn là vấn đề được
quan tâm nhiều nhất, vì đô thị hóa nông thôn là xu hướng bền vững và mang
tính quy luật không thể tránh khỏi. Thực chất, đô thị hóa nông thôn là quá
trình phát triển nông thôn và phổ biến lối sống thành phố cho các vùng nông
thôn (cách sống, hình thức nhà cửa, phong cách sinh hoạt…). Hay nói cách
khác, đó là sự tăng trưởng đô thị theo hướng bền vững.
Đô thị hóa ngoại vi được hiểu là quá trình phát triển mạnh vùng ngoại vi
của thành phố do kết quả phát triển công nghiệp, kết cấu hạ tầng…tạo ra các
cụm đô thị, liên đô thị…góp phần đẩy nhanh đô thị hóa nông thôn.
Cần phân biệt được đô thị hóa thật sự với đô thị hóa giả tạo. Đô thị hóa
giả tạo là sự phát triển thành phố do tăng quá mức dân cư đô thị và do dân cư
từ các vùng khác đến, đặc biệt là từ nông thôn…dẫn đến nảy sinh các vấn đề
xã hội như thất nghiệp, thiếu nhà ở, ô nhiễm môi trường, giảm chất lượng
cuộc sống…
Từ các khái niệm trên, ta có thể thấy rằng, đô thị hóa mang tính xã hội
và lịch sử; đó là sự phát triển về quy mô, số lượng dân số, tăng trưởng và phát
triển kinh tế, nâng cao vai trò của đô thị trong khu vực và hình thành hệ thống
các đô thị.
Tóm lại, đô thị hóa là quá trình phức tạp có thể định nghĩa từ nhiều góc
độ khác nhau nhưng chung lại một cách tổng quát: Đô thị hóa là quá trình
biến đổi và phân bố lực lượng sản xuất trong nền kinh tế quốc dân, bố trí dân
cư, hình thành và phát triển các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị,
đồng thời phát triển đô thị hiện có theo chiều sâu trên cơ sở hiện đại hóa cơ sở
vật chất kỹ thuật và tăng quy mô dân số.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Vai trò của đô thị hóa: Đô thị hóa có vai trò đặc biệt quan trọng thúc
đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội
Bên cạnh nông thôn, đô thị là hình thái quần cư cơ bản thứ hai của xã hội
loài người. Trên thế giới, đô thị ra đời rất sớm, nhưng chỉ thật sự phát triển
mạnh mẽ từ cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20 cho đến nay, đô thị đã trở thành
một hiện tượng xã hội, một hiện tượng kinh tế có ảnh hưởng hết sức quan
trọng tới mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống kinh tế xã hội.
Đô thị là một bộ phận của nền kinh tế quốc dân, có vai trò thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Sự phát triển đô thị kích thích tăng
trưởng và phát triển của các vùng lãnh thổ xung quanh và toàn bộ nền kinh tế
thông qua quá trình phân bố lại các cơ sở kinh tế, lan truyền tiến bộ công
nghệ, văn hóa, xã hội. Với sự phát triển của hệ thống các đô thị , nhiều nước
đã từng bước hình thành được những vùng, lãnh thổ phát triển không chỉ đảm
nhận chức năng động lực thúc đẩy sự phát triển toàn bộ nền kinh tế - xã hội
đất nước mà còn đảm nhận chức năng hợp tác và hội nhập quốc tế, vừa đảm
nhận vai trò tiếp nhận thông tin, các thành tựu về phát triển khoa học, công
nghệ, kinh tế, văn hóa của thế giới rồi lan rộng ra các vùng xung quanh. Vai
trò và tác động tích cực của phát triển đô thị được thể hiện cụ thể như sau:
- Các đô thị có vai trò to lớn trong việc tạo ra thu nhập, tích lũy của nền
kinh tế và nguồn thu cho ngân sách quốc gia. Theo số liệu thống kê năm
2004, chỉ tính riêng bốn thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng chiếm khoảng 14% dân số, tạo ra 36,4% GDP, 45,7% giá
trị sản lượng công nghiệp, và gần 50% giá trị xuất khẩu của cả nước. Các đô
thị này đã trở thành những vùng động lực có tốc độ tăng trưởng cao và có
đóng góp quan trọng vào việc tăng quy mô của nền kinh tế, tăng giá trị công
nghiệp, dịch vụ và xuất khẩu của cả nước.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Với quy mô sản xuất, diện tích, dân số lớn và không ngừng gia tăng,
sự tập trung lớn các năng lực sản xuất, các đô thị cũng có khả năng cung cấp
một khối lượng đáng kể các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ với chất lượng
tốt đáp ứng nhu cầu của nhiều vùng trong nước và nguồn hàng cho xuất khẩu.
- Các đô thị lớn thực sự là các trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa,
khoc học kỹ thuật, thương mại của các vùng và cả nước. Các hoạt động dịch
vụ quan trọng như xuất nhập khẩu, tài chính, tiền tệ, vận tải, du lịch, khoa học
công nghệ từ các đô thị lớn bắt đầu có sức lan tỏa và thúc đẩy sự phát triển
chung của các lãnh thổ trên phạm vi cả nước.
- Các đô thị có ưu thế về nhân lực được đào tạo chất lượng cao, có khả
năng nhanh chóng tiếp cận trình độ công nghệ tiên tiến, trên cơ sở đó tạo ra
các công nghệ và các trang thiết bị hiện đại không chỉ phục vụ cho sự phát
triển của bản thân đô thị mà còn đáp ứng cho nhu cầu của các vùng lãnh thổ
khác trên toàn quốc.
- Sự phát triển của đô thị góp phần nâng cao năng suất và chất lượng
lao động cho toàn bộ nền kinh tế. Tại các đô thị của Việt Nam đã bước đầu
hình thành đội ngũ lao động và cán bộ quản lý có trình độ và tác phong lao
động công nghiệp hiện đại. Hầu hết lực lượng lao động có trình độ từ cao
đẳng và đại học trở lên của cả nước tập trung tại các đô thị. Tay nghề của
người lao động được nâng cao cùng các kinh nghiệm quản trị kinh doanh…
được tiếp tục lan tỏa sang các lãnh thổ còn lại của đất nước thông qua việc
phát triển các chi nhánh, các cơ sở sản xuất kinh doanh đặt tại các địa phương
khác, góp phần từng bước nâng cao trình độ và hiệu quả quản lý kinh doanh,
nâng cao năng suất và chất lượng lao động cho toàn bộ nền kinh tế nói chung,
các vùng kém phát triển nói riêng.
- Các đô thị lớn tập trung số lượng lớn các cơ sở đào tạo và khoa học,
giữ vai trò đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước, góp phần
từng bước nâng cao chất lượng nguồn lao động cho nền kinh tế.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Các đô thị còn là nơi tiêu thụ hàng nông sản chất lượng cao, tác động
đến sự phát triển các cơ sở cung cấp nguyên liệu và dịch vụ, góp phần chuyển
đổi tập quán sản xuất truyền thống của nhiều vùng nông thôn, mở ra khả năng
nâng cao chất lượng và giá trị nông sản, mở rộng thị trường…Như vậy, sự
phát triển của các đô thị sẽ tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
nông nghiệp – nông thôn và của cả nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa.
- Sự phát triển của các đô thị đã tạo điều kiện để bổ sung nguồn vốn
đầu tư cho sự phát triển của các vùng nông thôn, vùng kém phát triển. Thông
qua việc thu hút lao động tới các đô thị, một phần đáng kể trong thu nhập của
người lao động được đưa trở về các vùng nông thôn, vùng kém phát triển để
giúp đỡ gia đình xây dựng, sửa sang nhà cửa, đường sá, phát triển kinh tế
nông hộ, v.v…
Tóm lại, đô thị tượng trưng cho thành quả kinh tế, văn hóa, xã hội của mỗi
quốc gia, là sản phẩm mang tính kế thừa của nhiều thế hệ cả về cơ sở vật chất
kỹ thuật và văn hóa. CNH, HĐH tạo điều kiện để tiến hành quá trình đô thị
hóa, ngược lại đô thị hóa cũng có tác động tích cực trở lại thúc đẩy quá trình
CNH, HĐH diễn ra nhanh hơn. Bên cạnh đó, đô thị hóa diễn ra tạo ra sự đa
dạng các ngành nghề, từ đó việc làm được tăng lên đáng kể, điều này tác động
tích cực đến thu nhập và đời sống của người dân. Tác động lan tỏa của các đô
thị được mở rộng cả về phạm vi không gianvà biến đổi về chất. Nhiều đô thị đã
thực sự trở thành các hạt nhân động lực cho sự phát triển của nhiều vùng.
Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, những tác động tích cực mà đô thị
hóa đem lại thì các đô thị cũng là nguyên nhân chính gây ảnh hưởng đáng kể
đến môi trường và tài nguyên thiên nhiên, đến cân bằng sinh thái do tài
nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, ô nhiễm các chất thải
công nghiệp và sinh hoạt, giảm diện tích cây xanh và mặt nước, bùng nổ giao
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông cơ giới…Bên cạnh đó, qua thực tế phát triển cho thấy khoảng cảnh giữa
nông thôn và thành thị ngày càng tăng. Thành phố sẽ có những ảnh hưởng
mạnh mẽ đến nông thôn và trực tiếp là khu vực ngoại thành trong quá trình
tiến hành đô thị hóa.
1.2.1.2. Tính tất yếu của đô thị hóa
Tiền đề cơ bản để tiến hành công cuộc đô thị hóa là sự phát triển công
nghiệp, hay nói cách khác, công nghiệp hóa là cơ sở phát triển của đô thị hóa.
Trên thế giới, đô thị hóa được coi là bắt đầu từ khi tiến hành cách mạng thủ
công nghiệp, mà tiếp sau đó là cách mạng công nghiệp, mà điển hình nhất là sự
thay thế lao động thủ công bằng lao động máy móc với năng suất lao động cao
hơn và sự thay đổi về cơ cấu lao động xã hội trên cơ sở phân công lao động xã
hội. Đồng thời, cách mạng công nghiệp đã tập trung hóa lực lượng sản xuất ở
mức độ cao hơn dẫn đến hình thành đô thị hóa, mở rộng quy mô đô thị cũ.
Bên cạnh tiền đề phát triển công nghiệp thì sự phát triển của trung tâm
dịch vụ, thương mại và du lịch cũng là tiền đề cho sự hình thànhh và phát
triển của một số khu đô thị mới, cho sự mở rộng các khu đô thị hiện có, và sự
hoàn thiện hơn các khu đô thị cũ.
Những vấn đề có tính quy luật thường phát sinh và đồng hành với quá
trình CNH, HĐH và đô thị hóa là:
- Hình thành nhanh chóng các điểm dân cư đô thị lớn, thậm chí cực lớn,
gây mất cân đối trong sự phát triển hệ thống dân cư
- Gia tăng áp lực đối với quy hoạch sử dụng đất đai đô thị
- Thay đổi cơ cấu dân cư theo nhiều tiêu chí: độ tuổi, giới tính, nghề
nghiệp, trình độ học vấn, tầng lớp xã hội
- Gia tăng khoảng cách chênh lệch về mức sống và thu nhập giữa các
tầng lớp dân cư, hình thành các khi nhà ổ chuột và tầng lớp dân nghèo thành
thị, gia tăng tình trạng vô gia cư và nạn thất nghiệp.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Áp lực thay đổi lối sống đô thị do sự du nhập lối sống của nhiều địa
phương, nhiều vùng khác nhau.
- Gia tăng stress và các tệ nạn xã hội, ảnh hưởng tới tất cả các tầng lớp
dân cư trong đô thị.
- Kết cấu hạ tầng và các vấn đề môi trường (tắc nghẽn giao thông, ô
nhiễm không khí, nước, chất thải rắn, thiếu nước sạch…)
- Gia tăng áp lực về khối lượng và tính chất phức tạp của quản lý đô thị
trong tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…
Ở Việt Nam, quá trình đô thị hóa nhanh chóng và mạnh mẽ cả về chiều
rộng và chiều sâu trong thời gian qua đã làm phát sinh những vấn đề cần giải
quyết:
- Mở rộng diện tích đất đô thị và thu hẹp diện tích đất nông nghiệp.
Thực chất của quá trình này là sự thay đổi mục đích sử dụng đất từ đất nông
nghiệp sang xây dựng nhà ở, sản xuất công nghiệp, kinh doanh thương mại,
dịch vụ. Quá trình này góp phần làm tăng hiệu quả sử dụng đất nhưng cũng
gây ra không ít các vấn đề xã hội.
- Việc làm cho nông dân nói chung, cho những hộ nông dân bị thu hồi
đất do phát triển công nghiệp và xây dựng các công trình công cộng nói riêng,
là vấn đề cần quan tâm và có những giải pháp nhanh chóng giải quyết.
- Các vấn đề về môi trường, tài nguyên thiên nhiên và cân bằng sinh
thái. Tài nguyên đất bị khai thác triệt để cho xây dựng đô thị, làm giảm diện
tích cây xanh và mặt nước, gây ra ngập úng; Nhiều nhà máy, xí nghiệp gây ô
nhiễm môi trường lớn trước đây nằm ở ngoại thành, nay rơi vào đúng khu dân
cư đông đúc; Vấn đề tắc nghẽn giao thông trong những năm qua gây nhiều
bức xúc, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh…
- Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở khu vực ngoại thành. Trong quá
trình đô thị hóa, cơ cấu các ngành kinh tế thay đổi theo xu hướng tích cực và
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tiến bộ: Tỷ trọng các hoạt động nông nghiệp giảm, tỷ trọng các hoạt động
công nghiệp, thương mại và dịch vụ tăng mạnh. Vấn đề nảy sinh ở đây là chất
lượng lao động tại chỗ thường không đáp ứng được yêu cầu của chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, gây ra những khó khăn và cản trở nhất định đối với quá trình
này.
- Vấn đề phát triển kết cấu hạ tầng. Một thực tế ở hầu hết các đô thị
Việt Nam, các yếu tố kết cấu hạ tầng thường không được hình thành đồng bộ
và phát triển chậm hơn so với nhu cầu thực tế của đô thị.
- Vấn đề văn hóa – xã hội. Đô thị hóa góp phần nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa tinh thần cho dân cư, hình thành lối sống công nghiệp, xây
dựng xã hội mới. Tuy vậy, phân hóa giàu nghèo cũng diễn ra ngày càng
nhanh chóng hơn, tỷ lệ thất nghiệp và các vấn đề xã hội khác (trộm cướp,
nghiện hút, mại dâm…) cũng gia tăng.
- Thay đổi hình thái kiến trúc. Các tòa nhà thiết kế hiện đại, đầy đủ tiện
nghi, các khu chung cư cao tầng đang dần thay thế các nhà mái ngói truyền
thống. Tuy vậy, vẫn không tránh được tình trạng xây dựng manh mún, lấn
chiếm không gian đô thị và các kiểu thiết kế nhà ở pha tạp nhiều loại hình
kiến trúc làm ảnh hưởng xấu đến bộ mặt đô thị.
- Những vấn đề về quản lý hành chính. Đô thị hóa theo chiều rộng dẫn
đến sự biến động liên tục về ranh giới các đơn vị hành chính, gây khó khăn
đối với bộ máy quản lý đô thị vẫn còn nhỏ yếu.
1.2.2. Những vấn đề có tính quy luật trong chuyển biến KT – XH của
một quận mới thành lập từ các xã, thị trấn
Đô thị hóa là sự tăng lên tỷ lệ tổng dân số sống tại các khu đô thị. Nó
bao gồm sự thay đổi cân bằng giữa dân số nông thôn và thành thị do sự di
chuyển dòng người từ nông thôn ra thành thị và do sự khác nhau trong tỷ lệ
tăng dân số tự nhiên giữa hai vùng này.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Đô thị hóa là một quá trình phát triển tất yếu của việc chuyển xã, thị trấn
ven nội thành quận nội thành. Nó đồng thời có tác động hai mặt tới bản thân
đời sống kinh tế - xã hội của Quận. Một mặt, đô thị hóa đem lại những nhân
tố mới, tạo điều kiện phát triển thị trường, phát triển kinh tế, ổn định xã hội,
không những cải thiện đời sống vật chất mà văn hóa tinh thần của người dân
cũng được nâng lên đáng kể. Mặt khác, nội dung và tiến trình đô thị hóa nếu
không được định hướng và kiểm soát chặt chẽ, không có công tác quản lý,
chính sách phát triển phù hợp sẽ dẫn đến tình trạng tự phát, gây hậu quả
không lường trước được về quy hoạch và kiến trúc đô thị, về giải quyết việc
làm của dân cư cũng như nảy sinh các vấn đề xã hội và môi trường.
Sự chuyển biến đầu tiên trong tiến trình chuyển xã, thị trấn ven nội thành
quận nội thành là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đô thị hóa đòi hỏi phải có sự
mở rộng quy mô đô thị làm cho diện tích đất nông nghiệp ngày càng giảm. Vì
thế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp là điều tất
yếu. Đây là quá trình thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện
đại.
Cùng với quá trình đô thị hóa, các trung tâm kinh tế, khu công nghiệp
tập trung, quy mô lớn được hình thành dẫn đến sự phát triển ngày càng cao
của khu vực công nghiệp. Các nhà máy cần có một kết cấu hạ tầng dịch vụ,
giao thông vận tải, phân phối, thông tin liên lạc, tài chính, bảo hiểm…rất rộng
lớn. Các dịch vụ này phát triển rộng rãi, tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển
công nghiệp. Ngoài ra, các dịch vụ như xử lý thông tin, quảng cáo…trước đây
được thực hiện trong nội bộ doanh nghiệp nay dần dần được đưa ký kết thực
hiện với các doanh nghiệp trong khu vực dịch vụ. Do vậy, lĩnh vực dịch vụ
phát triển mạnh.
Đối với các xã, thị trấn trong quá trình chuyển lên phường, quận, đô thị
hóa diễn ra rất nhanh bởi đô thị hóa tạo điều kiện cho phát triển sản xuất và
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giao lưu hàng hóa, góp phần mở rộng các đô thị trên cơ sở đô thị hóa các
phường, xã ven đô thị.
Những tác động tích cực của đô thị hóa đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế
sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quận thành lập từ các xã, thị trấn ven nội thành
phát triển kinh tế - xã hội ổn định, theo kịp tiến trình phát triển của Thành phố
và cả nước, với một cơ cấu kinh tế hiện đại, phù hợp với xu thế phát triển
chung của khu vực kinh tế thành thị.
Chuyển từ các thị trấn, xã ven nội thành quận nội thành là quá trình
chuyển biến toàn diện cả về kinh tế - xã hội từ hình thái này sang hình thái
khác. Sự khác biệt đó được biểu hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất, nông thôn là vùng sinh sống và làm việc của một cộng đồng
bao gồm chủ yếu là nông dân, là vùng lấy sản xuất nông nghiệp (trồng trọt,
chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản) là chủ yếu. Ngược lại, đô thị là vùng sinh
sống và làm việc của cộng đồng bao gồm một tập hợp các tầng lớp: công
nhân, trí thức, công chức, tiểu thương, tiểu chủ, thợ thủ công, các nhà doanh
nghiệp…, là vùng phát triển công nghiệp, thương mại, dịch vụ và là trung tâm
phát triển kinh tế, văn hóa, chính trị.
Thứ hai, đô thị so với nông thôn là vùng có cơ sở hạ tầng kinh tế, hạ tầng
xã hội, trình độ tiếp cận thị trường, trình độ sản xuất hàng hóa cao hơn.
Thứ ba, đô thị là vùng có thu nhập và đời sống, trình độ văn hóa, trình độ
khoa học – công nghệ cao hơn nông thôn. Trong một chừng mực nào đó, trình
độ dân chủ, tự do và công bằng xã hội cũng cao hơn nông thôn.
Thứ tư, đối với một số ngành của nông thôn còn tồn tại trong các đô thị,
tính chất đô thị hóa đã tạo nên sắc thái, đặc trưng mới, đặt ra những yêu cầu
mới cho chúng. Trên thực tế, ngay cả những đô thị hiện đại đôi khi vẫn còn sự
tồn tại của ngành nông nghiệp, nhưng tính chất và yêu cầu phát triển nông
nghiệp đã khác hẳn. Đó là ngành nông nghiệp với các loại sản phẩm sản xuất
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cao cấp, giá trị kinh tế cao như: hoa sinh vật cảnh, các loại rau, quả cao cấp;
Là ngành nông nghiệp với kỹ thuật sản xuất cao hơn, đảm bảo nghiêm ngặt về
yêu cầu sạch của sản phẩm và môi trường sinh thái…
Những điểm khác biệt giữa nông thôn và thành thị như vậy đặt ra những
khó khăn cho quá trình chuyển đổi. Đặc biệt đối với quận mới được thành lập
từ các xã, thị trấn thì những khác biệt này càng rõ nét hơn. Thực tế, việc
chuyển đổi kinh tế - xã hội trong quá trình đô thị hóa nằm trong sự vận động
chung của nền kinh tế đất nước; Chuyển đổi theo hướng CNH, HĐH. Song,
đối với một Quận mới được thành lập từ các xã, thị trấn ven nội sẽ có nhiều
điều kiện kinh tế - xã hội thuận lợi cho phép quá trình đó diễn ra với tốc độ
nhanh hơn so với các vùng khác trên phạm vi cả nước.
Bên cạnh đó, quá trình đẩy nhanh việc xây dựng các cơ sở hạ tầng: Giao
thông, hệ thống cung cấp nước sạch và xử lý nước, các trung tâm thương mại, các
cơ sở công nghiệp, các khu dân cư tập trung…theo những đặc trưng của một đô
thị là một quy luật tất yếu khi chuyển từ xã, thị trấn thành phường, quận.
Ngoài ra, khi chuyển lên phường, quận thì việc đẩy mạnh phát triển sản
xuất, giao lưu hàng hóa, mở rộng các hoạt động dịch vụ, tăng cường nâng cao
dân trí, đẩy mạnh việc xây dựng các cấp chính quyền cơ sở cho tương xứng
với vị trí, vai trò cấp Quận là đặc trưng chung của quá trình chuyển đổi.
Như vậy có thể thấy rằng, quá trình biến chuyển kinh tế - xã hội từ xã,
thị trấn thành phường, quận gắn liền với các đặc điểm của quá trình chuyển
đổi từ xã, thị trấn ven nội thành quận nội thành.
1.2.3. Sự cần thiết phải thu hồi đất nông nghiệp trong quá trình đô thị
hóa
Quá trình mở cửa nền kinh tế hội nhập với khu vực và thế giới đã và
đang có những tác động đáng kể tới nền kinh tế, làm chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, kéo theo sự thay đổi về cơ cấu lao động của các ngành, các lĩnh vực trong
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp tới đời sống của người lao động nước ta. Đặc
biệt, ngày 7/11/2006, nước ta đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức Thương mại Thế giới WTO. Đây là một sự kiện trọng đại mang tính
lịch sử, mở ra cho nước ta những thời cơ mới, thuận lợi mới, tạo điều kiện
thúc đẩy quá trình CNH, HĐH của đất nước.
Như đã trình bày ở trên, CNH, HĐH tất yếu kéo theo đô thị hóa. Tốc độ
CNH càng nhanh thì trình độ đô thị hóa càng cao. Sự hình thành các vùng
kinh tế trọng điểm, các khu công nghiệp tập trung với quy mô lớn, khu kinh tế
mở, các công trình công cộng, các cơ sở hạ tầng…đòi hỏi phải dành một bộ
phận lớn đất đai, trong đó chủ yếu là đất nông nghiệp. Như vậy, cùng với sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo hướng CNH, HĐH, đô thị hóa thì
sự giảm sút một bộ phận khá lớn đất nông nghiệp là một tất yếu khách quan.
Hơn nữa, thực hiện theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng ta là
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng lao động nông nghiệp,
tăng tỷ trọng lao động công nghiệp và dịch vụ, do vậy diện tích đất nông
nghiệp phải thu hẹp để mở rộng các ngành khác. Bởi vậy, thu hồi đất nông
nghiệp chính là để phục vụ cho sự phát triển của các ngành khác.
Đối với Việt Nam, quá trình đô thị hóa tuy đã và đang được đẩy mạnh,
song so với thế giới thì vẫn còn thấp. Việc mở rộng quy mô diện tích các đô thị
hiện có trên cơ sở hình thành các khu đô thị mới, các quận, phường mới là hình
thức khá phổ biến đối với các đô thị của Việt Nam tỏng điều kiện kinh tế còn
nhiều hạn chế. Việc hình thành các khu đô thị mới, các quận, phường mới được
xem như là hình thức đô thị hóa theo chiều rộng và là sự mở đường của quan hệ
sản xuất nhằm tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Với hình thức đô
thị hóa theo chiều rộng như trên thì dân số và diện tích đô thị sẽ tăng lên một
cách nhanh chóng. Mật độ dân cư ngày càng cao như vậy yêu cầu đòi hỏi phải
có đất để xây dựng nhà ở. Vì vậy, thu hồi đất nông nghiệp là tất yếu.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
1.2.4. Những vấn đề đặt ra của đô thị hóa đối với việc làm của những
người bị thu hồi đất
1.2.4.1. Tác động của CNH, HĐH, đô thị hóa đối với lao động, việc làm
của người có đất bị thu hồi.
Trong quá trình đô thị hóa, kinh tế ở các đô thị mới tăng trưởng nhanh
chóng nhờ sự tập trung lực lượng sản xuất, tạo ra năng suất lao động cao,
cách tổ chức lao động hiện đại. Thực chất quá trình tăng trưởng kinh tế đô thị
là quá trình tăng việc làm ở các đô thị. Quá trình đó vừa làm tăng việc làm,
vừa làm chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong đô thị. Ngược lại, việc chuyển đổi cơ
cấu các ngành kinh tế đô thị làm tăng trưởng kinh tế đô thị theo chiều sâu,
tăng năng suất lao động xã hội, tăng GDP bình quân đầu người tại đô thị.
Từ góc độ lao động và việc làm, đô thị hóa là quá trình chuyển đổi cơ
cấu lao động và việc làm từ các hoạt động nông nghiệp sang các hoạt động
công nghiệp và thương mại, dịch vụ. Khi đô thị mở rộng ra các vùng ngoại vi
nhằm giải quyết vấn đề quá tải dân số, các khu dân cư đô thị ở ngoại vi hình
thành và các hoạt động thương mại, dịch vụ sẽ phát triển. Ngoại thành là nơi
có sự thay đổi mạnh mẽ về các hoạt động thương mại và dịch vụ, một phần để
đáp ứng yêu cầu của phát triển công nghiệp, một phần để đáp ứng các nhu cầu
dịch vụ giải trí cho dân cư nội thành.
Những người nông dân trước đây gắn bó với ruộng vườn, sau khi trở
thành dân cư đôt thị, họ bị mất phần lớn đất canh tác. Với số tiền được Nhà
nước đền bù hoặc tiền bán đất cho các cư dân mới, họ dùng để tạo nghề mới,
tìm việc làm mới … Tuy vậy, lao động trong đô thị đòi hỏi có trình độ chuyên
môn hóa cao hơn và do vậy, giá cả lao động ở đô thị cũng cao hơn so với ở
nông thôn.
Sự phát triển của các đô thị một mặt tạo ra một lượng lớn việc làm cho
lao động tại đô thị, đồng thời thu hút và làm giảm đáng kể lượng lao động
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nông nhàn ở các vùng nông thôn, kém phát triển, góp phần làm tăng năng suất
lao động tại các vùng này. Chỉ riêng 4 thành phố lớn là Hà Nội, TP Hồ Chí
Mính, Đà Nẵng và Hải Phòng trong năm 2004 đã giải quyết việc làm cho
khoảng 363.000 lao động. Ngoài số lao động làm việc chính thức tại các cơ sở
sản xuất, kinh doanh, còn phải kể đến một lực lượng lớn lao động làm việc
trong các ngành dịch vụ, xây dựng cơ bản… và các khu vực phi chính thức
khác phục vụ cho phát triển các đô thị này.
Tuy nhiên, nhìn từ góc độ khác thì khi gia tăng quy mô thành phố bằng
các giải pháp mở rộng không gian, hình thành các quận, phường mới sẽ làm
cho một lực lượng đáng kể lao động nông nghiệp bị mất việc làm, gây khó
khăn cho đời sống của họ. Bởi thời gian trung bình để người lao động có việc
làm mới sau khi bị thu hồi đất là 11 tháng đối với nghề sản xuất công nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp; 10 tháng đối với nghề buôn bán dịch vụ; 6 tháng đối với
nghề chăn nuôi; 4 tháng đối với nghề xây dựng và 8 tháng đối với các hoạt
động dịch vụ khác.
Bên cạnh đó, dòng di chuyển quá lớn của lao động nông thôn ra thành
phố trong khi số lượng việc làm tại các khu đô thị không thể tăng nhanh để có
thể thu hút hết sự tăng lên của dân số trong độ tuổi lao động và do di dân cũng
là một nguyên nhân gây ra tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm với tỷ lệ
khá cao.
Vấn đề lao động và việc làm được quan tâm thường xuyên bởi vì quá
trình đô thị hóa diễn ra thường xuyên và với tốc độ ngày càng nhanh. Dự kiến
đến năm 2010, diện tích đất đô thị toàn quốc sẽ là 243.200 ha, chiếm khoảng
0,74% diện tích đất tự nhiên của cả nước. Đến năm 2020, con số này tương
ứng sẽ là 460.000 ha và 1,4% diện tích cả nước. Diện tích đất đô thị tăng lên
chủ yếu là do chuyển đổi mục đích sử dụng từ đất nông nghiệp sang. Điều
này chắc chắn sẽ dẫn đến gia tăng nhu cầu về lao động và việc làm cho dân
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
cư đô thị. Vấn đề đào tạo, tạo việc làm mới, chuyển đổi nghề và giải quyết
thất nghiệp cần trở thành một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta trong
giai đoạn hiện tại và thời kỳ tới.
1.2.4.2. Một số vấn đề bức xúc trong việc giải quyết việc làm cho những
người bị thu hồi đất
Mặc dù đã có tác động rất tích cực đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
như đã nêu khái quát ở trên, nhưng cho đến nay, thu hồi đất đang là vấn đề
“nóng”, bức xúc ở nhiều địa phương. Bên cạnh những kết quả đạt được thì
việc thu hồi đất ở nước ta đang còn tồn tại rất nhiều vấn đề cần được giải
quyết một cách đồng bộ.
Thu hồi đất đã đẩy hàng triệu người, trong đó chủ yếu là nông dân lâm
vào cảnh không có việc làm, đời sống gặp nhiều khó khăn.
Phải nói rằng chủ trương thu hồi đất của Đảng và Nhà nước ta là đúng
đắn, tuy nhiên, đã làm cho diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp lại, yêu cầu
chuyển đổi nghề nghiệp cho lao động nông nghiệp cần thiết hơn bao giờ hết.
Trong giai đoạn 2001 – 2005, tại 14 tỉnh, thành phố kể trên, diện tích đất
nông nghiệp bị thu hồi là 20.361,4 ha, tương ứng số lao động bị mất việc làm
trong nông nghiệp là 265.709 người.
Đại bộ phận những hộ dân, những người lao động bị thu hồi quyền sử
dụng đất đều là những hộ thuần nông, cuộc sống chủ yếu dựa vào nguồn thu
từ canh tác trên đất nông nghiệp và chăn nuôi quy mô nhỏ. Việc thu hồi đất
đã khiến cho nhiều người nông dân bị mất một phần hoặc toàn bộ tư liệu sản
xuất dẫn đến mất việc làm, gặp phải khó khăn trong tìm và tạo việc làm mới.
Có thể tìm được việc làm mới nhưng thu nhập thấp, không đảm bảo được đời
sống hoặc việc làm không phù hợp với khả năng và tay nghề. Người nông dân
khi chuyển sang làm việc trong ngành nghề phi nông nghiệp không phải là
điều có thể thực hiện được ngay trong một sớm một chiều bởi trình độ hầu
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
như không có. Ở Hà Nội, khi một số huyện ngoại thành được chuyển thành
quận ngoại thành và diện tích đất nông nghiệp bị thu hồi càng nhiều thì số
người nông dân trở thành “thị dân thất nghiệp” cũng ngày càng đông đảo.
Biểu 1. Tình hình lao động bị mất việc làm trong nông nghiệp do thu hồi đất
giai đoạn 2001 – 2005
Đơn vị: Người
STT Tỉnh 2001 – 2005
1 Hà Nội 104000
2 Hải Phòng 17600
3 Hà Tây 52838
4 Hải Dương 12000
5 Nam Định 8000
6 Thái Bình 17045
7 Ninh Bình 2500
8 Lào Cai 6875
9 Vĩnh Phúc 8000
10 Bắc Ninh 7500
11 Đà Nẵng 20000
12 Phú Yên 3351
13 Đồng Tháp 5000
14 Cần Thơ 1000
Cộng 265709
Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và xã hội
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Với thực tế là lao động nông thôn của nước ta gần như chưa hề được đào
tạo gì. Theo kết quả điều tra nông thôn, nông nghiệp do Tổng cục Thống kê
công bố đầu năm 2004, cả nước có 93% số lao động nông nghiệp chưa qua
đào tạo, chỉ có 2,3% lao động được đào tạo tay nghề theo trình độ sơ cấp hoặc
công nhân kỹ thuật, 2,4% có trình độ trung cấp kỹ thuật, 0,8% có trình độ cao
đẳng, 0,7% có trình độ đại học và tương đương (Thời báo Kinh tế Việt Nam,
ngày 23/3/2005). Vì vậy, các khu công nghiệp thu hút được rất ít lao động
nông thôn. Tình hình đó đặt ra vấn đề cấp thiết là cần phải đào tạo tay nghề
cho lao động nông nghiệp. Tuy vậy, thực tế thì số người được đi đào tạo
nghề, được giải quyết việc làm tại các khu công nghiệp là rất ít.
Chủ trương thu hồi đất nông nghiệp để phát triển các khu công nghiệp,
xây dựng kết cấu hạ tầng, v.v…là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Nhìn tổng thể, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu đô thị mới,
cơ sở hạ tầng, nhất là giao thông đã thu hút được nhiều lao động có tay nghề,
làm ra sản phẩm chất lượng và giá trị kinh tế cao hơn nhiều so với làm nông
nghiệp và là yêu cầu tất yếu trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH, nâng cao
sức cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng cần có chính sách và
giải pháp căn bản, có tầm chiến lược đảm bảo thu nhập, điều kiện sống và
việc làm cho người lao động nông nghiệp khi bị thu hồi đất.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chương 2
THỰC TRẠNG VIỆC THU HỒI ĐẤT NÔNG NGHIỆP VÀ VẤN ĐỀ
GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM CHO LAO ĐỘNG NÔNG NGHIỆP BỊ
THU HỒI ĐẤT Ở QUẬN CẦU GIẤY
2.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội ảnh hưởng đến việc làm của
quận Cầu Giấy
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên
2.1.1.1. Vị trí địa lý
Quận Cầu Giấy là một bộ phận hợp thành của Thủ đô Hà Nội. Đây là Quận
mới được thành lập (ngày 03/09/1997), bao gồm 4 thị trấn Nghĩa Tân, Nghĩa Đô,
Mai Dịch, Cầu Giấy và 3 xã Yên Hòa, Trung Hòa, Dịch Vọng của huyện Từ
Liêm cũ. Tổng diện tích đất tự nhiên của Quận là 1.204,5 ha với dân số 127.700
người (theo kết quả tổng điều tra dân số Quận đến ngày 31/12/1999).
Quận nằm ở cửa ngõ phía Tây, một trong những khu phát triển chính của
Thành phố Hà Nội, cách trung tâm Thành phố chừng 6 km, phía Bắc giáp
quận Tây Hồ, phía Nam giáp quận Đống Đa, phía Đông giáp quận Ba Đình và
phía Tây tiếp giáp thị trấn Cầu Diễn, huyện Từ Liêm.
Nằm trên trục đường giao thông nối sân bay Nội Bài với Hà Nội và trên
trục đường chính nối Hà Nội với chuỗi đô thị vệ tinh Hòa Lạc – Sơn Tây),
Cầu Giấy là đầu mối giao thông tạo điều kiện thuận lợi giao lưu kinh tế, lưu
thông hàng hóa và tiếp nhận các thành tựu khoa học kỹ thuật.
Tiếp giáp với quận Tây Hồ, quận Ba Đình và huyện Từ Liêm – những khu
vực có nhiều tiềm năm du lịch, những lợi thế của quận Cầu Giấy sẽ tạo thành
quần thể du lịch thu hút khách du lịch trong và ngoài nước.Vì thế, trong tương lai,
nếu được sự quan tâm đầu tư của Trung ương và Thành phố trong quá trình thực
hiện quy hoạch, khai thác các tiềm năng, lợi thế một cách hợp lý thì đây sẽ là một
hướng tạo việc làm, phát triển kinh tế khá quan trọng của Quận.
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Quận Cầu Giấy là nơi tập trung nhiều trung tâm nghiên cứu khoa học
lớn, nhiều trường Đại học, Cao đẳng và Trung học chuyên nghiệp, nhiều cơ
quan hành chính sự nghiệp của Trung ương và Quận; Là nơi có tiềm năng lớn
về trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ, cùng lực lượng cán bộ trí thức
dồi dào tiêu biểu cho thế mạnh lao động bằng chất xám.
Như vậy, xét về mặt địa lý, quận Cầu Giấy có nhiều điều kiện thuận lợi
để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó phải kể đến những điều kiện thuận lợi
để phát triển thương mại, du lịch và công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là biểu
hiện rõ nét nhất. Đây là một trong những vấn đề được quan tâm nhất, vì nếu
phát triển các ngành này sẽ thu hút được một lực lượng lớn lao động.
2.1.1.2. Đất đai và địa hình
Cầu Giấy là Quận có diện tích đứng thứ 3 trong số 9 Quận nội thành.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, diện tích đất nông nghiệp của Quận
giảm mạnh dưới tác động của quá trình đô thị hóa. Năm 2000, diện tích đất
nông nghiệp của Quận là 362 ha, nhưng đến năm 2004, chỉ còn 175 ha. Theo
thống kê của Quận ngày 31/01/2007 thì toàn Quận còn 81,67 ha đất nông
nghiệp. Trong Quận, tuy số diện tích đất chưa sử dụng không còn nhiều
nhưng đây là nguồn quý để tạo điều kiện cho Quận phát triển. Việc chuyển
đổi đất nông nghiệp sang dùng vào mục đích khác đã làm cho hàng chục
nghìn lao động trong lĩnh vực nông nghiệp và một số ngành kinh doanh dịch
vụ và sản xuất bị mất việc làm do mất đất. Không những thế, quá trình đô thị
hóa gây ra không ít khó khăn, ảnh hưởng lớn đến quá trình sản xuất nông
nghiệp do hệ thống tưới tiêu bị ách tắc, nước thải sinh hoạt từ các khu dân cư
làm chết cây trồng, chuột bọ sâu bệnh phá hoại dẫn tới năng suất cây trồng
thấp làm cho diện tích đất bỏ hoang nhiều.
Nhìn chung, chất lượng đất đai của quận Cầu Giấy thuận lợi cho sản xuất
nông nghiệp và xây dựng các cơ sở hạ tầng và các công trình đô thị. Tuy nhiên,
Website: Email : Tel : 0918.775.368