Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (283.76 KB, 37 trang )

ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Giáo viên hướng dẫn: Ths. Đoàn Phương Thảo
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Đề tài:
“GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM”
Sinh viên thực hiện: Trịnh Chiêu Minh
Mã sinh viên: BH191527
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
1
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU 3
Chương 1: Chính sách tiền tệ và các công cụ của chính sách tiền tệ 4
1.1. Chính sách tiền tệ 4
1.2. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ 5
1.3. Công cụ của chính sách tiền tệ 9
1.3.1. Công cụ tái cấp vốn 9
1.3.2. Công cụ dự trữ bắt buộc 10
1.3.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở 11
1.3.4. Công cụ hạn mức tín dụng 12
1.3.5. Công cụ lãi suất 14
1.3.6. Công cụ tỷ giá 15
Chương 2: Thực trạng sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam 16
2.1. Những đổi mới về điều hành chính sách tiền tệ từ năm 1986 đến nay 16
2.2. Thực trạng sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước 18
2.2.1. Công cụ tái cấp vốn 20
2.2.2. Công cụ dự trữ bắt buộc 21
2.2.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở 22
2.2.4. Công cụ hạn mức tín dụng 23


2.2.5. Công cụ lãi suất 24
2.2.6. Công cụ tỷ giá 24
2.2. Đánh gía chung về hiệu quả các công cụ chính sách tiền tệ 26
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam 27
3.1. Định hương điều hành công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước 27
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. .27
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện các công cụ chính sách tiền tệ 27
3.2.1.1. Công cụ tái cấp vốn 27
3.2.1.2. Công cụ dự trữ bắt buộc 28
3.2.1.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở 29
3.2.1.4. Công cụ hạn mức tín dụng 30
3.2.1.5. Công cụ lãi suất 31
3.2.1.6. Công cụ tỷ giá 32
3.2.2. Các giải pháp khác 32
3.3. Kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả công cụ chính sách tiền tệ 33
KẾT LUẬN 36
TÀI LIỆU THAM KHẢO 37
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
2
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
LỜI GIỚI THIỆU
Trên thế giới hiện nay chính sách tiền tệ ngày càng tỏ rõ vai trò quan trọng của
mình trong điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Một chính sách tiền tệ hoàn hảo sẽ giúp cho mỗi
quốc gia theo đuổi các mục tiêu kinh tế vĩ mô như ổn định tiền tệ, tạo công ăn việc làm,
tăng trưởng kinh tế một cách có hiệu quả hơn. Mặt khác việc điều hành chính sách tiền
tệ của mỗi quốc gia không chỉ ảnh hưởng tới quốc gia đó mà còn ảnh hưởng theo cơ chế
lan truyền tới thị trường tiền tệ thế giới. Việc điều hành và thực thi chính sách tiền tệ là
một vấn đề quan trọng trong xây dựng phát triển và hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách
của mỗi nước.

Chính sách tiền tệ là một chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô cực kỳ quan trọng của
nhà nước trong nền kinh tế thị trường vì nó ảnh hưởng lớn đến các biến số vĩ mô như:
công ăn việc làm, tốc độ tăng trưởng, lạm phát… Để đạt được các mục tiêu của chính
sách tiền tệ thì việc sử dụng các công cụ của nó có vai trò cơ bản, quyết định.
Đối với nước ta, ngay từ khi chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung sang cơ chế thị trường, Đảng và Nhà nước đã nhận thức được vai trò của chính sách
tiền tệ trong phát triển kinh tế. Vì vậy ngay từ những ngày đầu Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam đã chú trọng trong việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ sao cho phù hợp
với nền kinh tế. Việt Nam đã thu được những kết quả đáng khích lệ như đẩy lùi lạm phát,
tạo công ăn việc làm, nâng cao mức sống của người dân góp phần không nhỏ vào sự
phát triển kinh tế của đất nước.
Tuy vậy nền kinh tế thị trường luôn biến động nên các mục tiêu của chính sách tiền
tề cũng phải luôn biến đổi theo cho phù hợp với các giai đoạn phát triển của đất nước.
Việc xây dựng một chính sách tiền tệ linh hoạt là cần thiết cho sự phát triển kinh tế.
Nhưng trên thực tế chính sách tiền tệ của nước ta sau một thời gian dài thực thi vẫn còn
bộc lộ nhiều thiếu sót và hạn chế. Việc tìm ra những thiếu sót và hạn chế đó để khắc phục
và xây dựng hoàn thiện chính sách tiền tệ là điều quan trọng nhất cần phải làm.
Với mục đích trau dồi kiến thức đã học và góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về chính
sách tiền tệ, em quyết định chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao hiệu quả công cụ chính
sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam”. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng
dẫn, chỉ bảo tận tình của Thạc sỹ Đoàn Phương Thảo đã giúp em hoàn thành đề án này.
Vì sự hiểu biết còn hạn chế, em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo của cô giáo và
bạn đọc.
Một lần nữa, xin chân thành cảm ơn!
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
3
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Chương 1
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỂN TỆ
1.1. Chính sách tiền tệ

Hoạt động của ngân hàng liên quan đến sự ổn định hay thay đổi của tiền tệ về lưu
thông, chi phí và giá trị, dẫn đến sự tác động vào giá cả hàng hoá và giá trị tài sản, thu
nhập của nhân dân, làm chuyển biến mức sống của họ theo hai hướng: khó khăn, đắt đỏ
hay thuận lợi tiện nghi. Vì vây, để đạt được sự biến động về đời sống và sinh hoạt kinh tế
của cả cộng đồng, người ta có thể bắt đầu bằng tác động tiền tệ. Mối quan hệ đó đã làm
cho những biến động về tiền tệ được gọi là: “Chính sách tiền tệ”.
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống các chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của Chính phủ, nó là tổng hoà các phương
thức mà Ngân hàng Trung ương thông qua các hoạt động của mình tác động đến khối
lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội
của đất nước.
Chính sách tiền tệ hay chính sách lưu thông tiền tệ là quá trình quản lý hỗ trợ đồng
tiền của Chính phủ hay Ngân hàng Trung ương để đạt được những mục đích đặc biệt như:
kiềm chế lạm phát; duy trì ổn định tỷ giá hối đoái; đạt được tăng trưởng kinh tế. Chính
sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi suất nhất định, có thể trực tiếp
hay gián tiếp thông qua các công cụ như nghiệp vụ thị trường mở; quy định các mức dự
trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối…
Chính sách tiền tệ, một mặt là cung cấp đủ phương tiện thanh toán cho nền kinh tế
(lượng tiền cung ứng), mặt khác phải giữ ổn định giá trị đồng bản tệ. Để thực hiện được
điều đó, thông thường trên thế giới, việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ được
giao cho Ngân hàng Trung ương. Có một số nước, việc xây dựng chính sách tiền tệ có thể
do một cơ quan khác, nhưng thực hiện chính sách tiền tệ vẫn là Ngân hàng Trung ương.
Tuy nhiên, trong lĩnh vực này, Ngân hàng Trung ương cần được độc lập ở một mức độ
nhất định với Chính phủ.
Kinh tế thị trường về thực chất là một nền kinh tế tiền tệ. Ở đó, bao giờ chính sách
tiền tệ cũng là một trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô quan trọng nhất của Nhà
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
4
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
nước, bên cạnh chính sách tài khoá, chính sách phân phối thu nhập, chính sách kinh tế đối

ngoại…
Ngân hàng Trung ương sử dụng chính sách tiền tệ nhằm gây ra sự mở rộng hay
thắt chặt lại trong việc cung ứng tiền tệ, để ổn định giá trị đồng bản tệ, đưa sản lượng và
việc làm của quốc gia đến mức mong muốn.
Trong một quãng thời gian nhất định nào đó, chính sách tiền tệ của một quốc gia
có thể được hoạch định theo một trong hai hướng sau đây:
- Chính sách tiền tệ mở rộng nhằm tăng lượng tiền cung ứng, khuyến khích đầu tư,
mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo việc làm. Trong trường hợp này, chính sách tiền tệ
nhằm chống suy thoái kinh tế, chống thất nghiệp.
- Chính sách tiền tệ thắt chặt nhằm giảm lượng tiền cung ứng, hạn chế đầu tư, kìm
hãm sự phát triển quá đà của nền kinh tế. Trường hợp này, chính sách tiền tệ nhằm chống
lạm phát.
Chính sách tiền tệ là hoạt động cơ bản, chủ yếu nhất của Ngân hàng Trung ương.
Có thể coi chính sách tiền tệ là linh hồn, xuyên suốt trong mọi hoạt động của Ngân hàng
Trung ương. Các hoạt động khác của Ngân hàng Trung ương đều nhằm thực thi chính
sách tiền tệ đạt được các mục tiêu của nó.
1.2. Các mục tiêu của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ cũng như mọi chính sách kinh tế vĩ mô khác đều có mục tiêu
riêng của nó, đó là mục tiêu: ổn định giá cả, ổn định lãi suất, ổn định hệ thống tài chính,
thị trường ngoại hối, tăng trưởng kinh tế
Mỗi quốc gia đều có chính sách tiền tệ riêng, phù hợp với nền kinh tế đặc thù của
mình. Nhưng các chính sách tiền tệ đều hướng vào những mục tiêu chủ yếu giống nhau.
Tuy nhiên tuỳ từng giai đoạn khác nhau và tuỳ điều kiện thực tế của nền kinh tế để lựa
chọn mục tiêu trọng tâm.
* Kiểm soát lạm phát, ổn định giá trị đồng bản tệ
Các nhà kinh tế học cho rằng, lạm phát là căn bệnh kinh niên của nền sản xuất
hàng hoá, đặc biệt là nên sản xuất hàng hoá phát triển ở mức độ cao (nền kinh tế thị
trường).
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
5

ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Tuỳ theo quan điểm và góc độ nghiên cứu của mình, các nhà kinh tế học đã đưa ra
những khái niệm riêng về lạm phát. Tuy nhiên, nhìn chung có thể hiểu: lạm phát là sự gia
tăng giá cả trung bình của hàng hoá theo thời gian.
Lạm phát tác động đến nền kinh tế - xã hội theo cả hai hướng tích cực và tiêu cực.
Khi lạm phát gia tăng, nó tác động đến mọi mặt của nền kinh tế - xã hội, làm sai
lệch các chỉ tiêu kinh tế, làm phân phối lại thu nhập; kích thích tâm lý đầu cơ tích trữ
hàng hoá, bất động sản, vàng… gây tình trạng khan hiếm hàng hoá giả tạo; giảm sức mua
thực tế của dân chúng về hàng hoá tiêu dùng. Do đó, đời sống của người lao động sẽ khó
khăn hơn; gây khó khăn cho hoạt động của hệ thống ngân hàng vì ngân hàng sẽ không thu
hút được các nguồn tiền nhàn rỗi cho hoạt động của mình.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác hại mà lạm phát gây ra cho nền kinh tế, trong
chừng mực nào đó, với một tỷ lệ lạm phát vừa phải, lạm phát lại là yếu tố để kích thích
kinh tế tăng trưởng. Khi đó lạm phát trở thành công cụ điều tiết. Các nhà kinh tế học còn
gọi đó là liều thuốc bổ cho tăng trưởng kinh tế. Do vậy, cần chấp nhận sự tồn tại của lạm
phát trong nền kinh tế để có những quyết sách kiềm chế chứ không phải là triệt tiêu nó.
Vấn đề quan trọng là cần phải kiểm soát được lạm phát, ổn định tiền tệ, tạo điều kiện cho
nền kinh tế phát triển, đảm bảo đời sống cho người lao động… Trách nhiệm này thuộc về
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
* Tạo việc làm, giảm thất nghiệp
Như chúng ta đã biết, ngày nay thất nghiệp là nỗi quan tâm của mọi quốc gia trên
thế giới. Việc giảm tỷ lệ thất nghiệp còn đồng nghĩa với việc giữ gìn an ninh trật tự trong
xã hội. Nhưng vấn đề đặt ra phải làm sao xác định được một tỷ lệ thất nghiệp cho phù
hợp? Theo các nhà kinh tế, chúng ta phải duy trì tỷ lệ thất nghiêp bằng tỷ lệ thất nghiệp tự
nhiên. Do vậy trong xã hội luôn có người thất nghiệp tự nhiên, tạo ra cơ hội tìm việc làm
tốt hơn.
Việc làm cho người lao động cũng là một trong các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Chúng ta cũng đã biết rằng nơi nào sức lao động là hàng hoá thì thất nghiệp là một căn
bệnh kinh niên. Để đạt được mục tiêu này, chính sách tiền tệ hướng vào việc khuyến
khích đầu tư → gia tăng sản xuất, việc làm sẽ tăng lên; mặt khác, khi các hoạt động kinh

Trịnh Chiêu Minh - BH191527
6
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
tế được mở rộng, sẽ có tác dụng chống suy thoái, nhất là suy thoái chu kỳ, để đạt được
mức tăng trưởng ổn định.
Nhìn tổng quát, giữa các mục tiêu vĩ mô: lạm phát, tăng trưởng kinh tế và việc làm
có mâu thuẫn đối nghịch nhau, đó là:
Khi kiềm chế được lạm phát thì có nguy cơ tăng trưởng kinh tế giảm, dễ đẫn đến
suy thoái và thất nghiệp.
Ngược lại, khi mở rộng đầu tư, khắc phục suy thoái kinh tế, tạo việc làm và
khuyến khích tăng trưởng kinh tế thì lại khó kiềm chế được lạm phát.
Rõ ràng công ăn việc làm cao là điều ai cũng mong muốn. Thông qua chính sách
tiền tệ có thể tác động đến công ăn việc làm, tức đến tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế.
Nếu chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương nhằm mở rộng cung ứng tiền tệ thì tạo
điều kiện mở rộng đầu tư sản xuất, các doanh nghiệp và nền kinh tế cần nhiều lao động
hơn, công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thấp. Ngược lại, cung ứng tiền tệ giảm xuống
sẽ thu hẹp các hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp và Nhà nước cần ít lao
động hơn, công ăn việc làm giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng.
Tuy nhiên, theo đuổi mục tiêu công ăn việc làm cao không đồng nghĩa với tỷ lệ
thất nghiệp bằng không, mà ở mức tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Bởi lẽ, trong thực tế có một
số người thất nghiệp là có lợi cho nền kinh tế. Đó là khi người lao động quyết định đi tìm
một công việc khác tốt hơn, phù hợp hơn, thì người lao động đó bị thất nghiệp trong thời
gian đang tìm việc làm. Hoặc một số người lao động tự nguyện rời bỏ công việc của mình
để theo đuổi các hoạt động khác như học tập, du lịch… và khi họ quyết định gia nhập trở
lại thị trường lao động, họ phải mất một thời gian để tìm đúng công việc mà họ mong
muốn. Mặt khác, thông thường để có một tỷ lệ công ăn việc làm cao thì phải chấp nhận
một tỷ lệ lạm phát gia tăng nhất định nào đó. Hai mục tiêu này luôn triệt tiêu nhau trong
quá trình thực thi chính sách tiền tệ.
* Tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế là mục tiêu vĩ mô của bất kỳ một quốc gia nào. Tuy nhiên thực

hiện mục tiêu này không có nghĩa là chỉ khuyến kích tăng trưởng kinh tế mà còn thực
hiện việc kìm hãm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nếu nền kinh tế phát triển quá nóng.
Điều này có nghĩa là mỗi quốc gia phải xác định một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế dự kiến phù
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
7
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
hợp với điều kiện nội tại của nền kinh tế nước đó. Trên cơ sở đó, căn cứ vào tốc độ tăng
trưởng kinh tế hiện tại là thấp hay cao để sự điều tiết của chính sách tiền tệ sẽ hướng vào
khuyến kích hay kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Trường hợp cần khuyến kích tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Trung ương sẽ thực
hiện chính sách tiền tệ mở rộng nhằm tăng khối lượng tiền tệ → lãi suất giảm xuống, do
vậy sẽ kích thích đầu tư, mở rộng sản xuất, tăng tổng sản phẩm quốc nội. Mặt khác, tăng
khối lượng tiền tệ sẽ làm tăng tổng cầu, sức mua hàng hoá trên thị tăng lên, hàng hoá tồn
đọng của các doanh nghiệp tiêu thụ được, là tiền đề cho các doanh nghiệp gia tăng sản
xuất dẫn đến tổng sản phẩm quốc nội tăng. Nếu mức gia tăng của tổng sản phẩm quốc nội
cao hơn nhịp độ gia tăng dân số thì nền kinh tế sẽ thật sự có tăng trưởng.
Trường hợp cần kìm hãm tốc độ tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng Trung ương sẽ
thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ. Khi đó, khối lượng tiền tệ trong lưu thông giảm
xuống → lãi suất có xu hướng tăng lên, đồng vốn đầu tư đắt lên → đầu tư giảm, dẫn đến
tổng sản phẩm quốc nội giảm xuống. Mặt khác khi giảm khối lượng tiền tệ, sẽ làm giảm
tổng cầu, sức mau sẽ giảm, làm tăng hàng hóa tồn đọng của các doanh nghiệp, do đó các
doanh nghiệp không có cơ sở để mở rộng sản xuất, vì vậy tổng sản phẩm quốc nội giảm.
Việc gia tăng khối lượng tiền tệ cho nền kinh tế trong thời kỳ đầu thường được các
quốc gia sử dụng công cụ hạn mức tín dụng. Nhưng khi nền kinh tế thị trường vận động
một cách thuần thục thì việc cung ứng tiền chủ yếu được thực hiện thông qua các công cụ:
tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất, tỷ giá…
Các nhà kinh tế đã thừa nhận rằng, nền kinh tế thị trường luôn có những thăng
trầm, biến động mang tính chu kỳ của nó: Từ tăng trưởng kinh tế quá mức, đến kinh tế
phát triển quá nóng dễ dẫn đến lạm phát cao; từ lạm phát cao dễ rơi vào trạng thái ngưng
trệ rồi suy thoái kinh tế; một khối lượng tiền tệ cung ứng tăng thêm để cứu vãn tình thế có

thể chuyển nền kinh tế sang giai đoạn phục hưng, rồi từ phục hưng lại có khả năng
chuyển qua giai đoạn tăng trưởng mạnh…
Vấn đề đặt ra là đối với từng giai đoạn cụ thể, chính sách tiền tệ phải tìm giải pháp
để vừa có thể đạt được mục tiêu trọng tâm, vừa dung hoà được các mục tiêu trên.
Mối quan hệ giữa các mục tiêu, có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau không tách
rời. Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn với
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
8
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
nhau thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu trên một cách hài hoà thì
Ngân hàng Trung ương trong khi thực hiện chính sách tiền tệ cần phải có sự phối hợp với
các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
Chính vì vậy, nghiên cứu chính sách tiền tệ và những công cụ của nó để hướng tới
mục tiêu nào trong nền kinh tế hiện nay là vấn đề cần được quan tâm, chúng ta đã nghiên
cứu chính sách tiền tệ và những mục tiêu chính sách tiền tệ. Vậy hoạt động của các công
cụ chính sách tiền tệ đó như thế nào để dẫn tới những mục tiêu phù hợp với tình hình của
mỗi quốc gia. Ngày nay hoạt động của các công cụ đó như thế nào, thực trạng của việc
vận dụng các công cụ của chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong
thời gian qua và các giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng công cụ đó. Chúng ta sẽ
nghiên cứu ở các chương tiếp theo.
1.3. Công cụ của chính sách tiền tệ
Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn và điều kiện thực tiễn của
nền kinh tế, Ngân hàng Trung ương sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để điều
tiết lượng tiền cung ứng. Nghĩa là, Ngân hàng Trung ương sẽ thực hiện việc đưa tiền vào
lưu thông là thiếu hụt hay dư thừa. Các công cụ mà Ngân hàng Trung ương thường sử
dụng là: Tái cấp vốn; Dự trữ bắt buộc; Nghiệp vụ thị trường mở; Hạn mức tín dụng; Lãi
suất và Tỷ giá.
1.3.1. Công cụ tái cấp vốn
Tái cấp vốn là hình thức cấp tín dụng của Ngân hàng Trung ương đối với các tổ
chức tín dụng. Khi cấp một khoản tín dụng cho tổ chức tín dụng, một mặt, Ngân hàng

Trung ương đã tăng lượng tiền cung ứng, mặt khác tạo cơ sở cho các tổ chức tín dụng tạo
bút tệ cũng như khai thông được năng lực thanh toán cho họ.
Tuỳ từng quốc gia mà công cụ này được áp dụng dưới các hình thức khác nhau.
Đối với các nước có nền kinh tế thì trường phát triển, tái cấp vốn được thực hiện dưới
hình thức tái chiết khấu. Vì vậy đối với các quốc gia này, công cụ này được gọi là tái
chiết khấu. Tại nhiều quốc gia khác, hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Trung ương đối
với các tổ chức tín dụng được thực hiện không chỉ được thực hiện dưới hình thức tái chiết
khấu mà còn dưới nhiều hình thức khác nữa, như: Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu
và các giấy tờ có gía ngắn hạn khác; Cho vay dưới hình thức cầm cố, thế chấp các chứng
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
9
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
từ có giá ngắn hạn; Cho vay trong thanh toán bù trừ; Cho vay theo hình thức chỉ định;
Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng.
Ưu điểm:
Qua công cụ tái cấp vốn, Ngân hàng Trung ương là người cho vay cuối cùng, kiểm
tra chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng, bơm tiền ra lưu thông theo mức độ đã
được khống chế để kìm chế lạm phát hoặc kính thích tăng trưởng kinh tế. Đối với các tổ
chức tín dụng, với tư cách là người đi vay để cho vay, khi vốn khả dụng bị đe doạ thì
Ngân hàng Trung ương là chỗ dựa, là cứu tinh của họ. Bởi vì, với số tiền Ngân hàng
Trung ương cung ứng, họ có khả năng điều tiết được vốn khả dụng, phục hồi khả năng
sẵn sàng thanh toán.
Nhược điểm:
Ngân hàng Trung ương không thể nắm chắc được kết quả của sự điều tiết. Trong
trường hợp này, quyền lực của Ngân hàng Trung ương và tổ chức tín dụng là ngang nhau.
Ngân hàng Trung ương có quyền cho vay và để khuyến khích vay, họ hạ lãi suất tái cấp
vốn xuống. Nhưng tổ chức tín dụng lại có quyền quyết định vay hoặc không vay và nếu tổ
chức tín dụng không vay thì mục đích điều tiết của công cụ tái cấp vốn không thực hiện
được.
1.3.2. Công cụ dự trữ bắt buộc

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phương tiện thanh toán cần vô hiệu hoá
trên tổng số tiền gửi huy động, nhằm điều chỉnh khả năng thanh toán (cho vay) của các tổ
chức tín dụng. Nếu khả năng thanh toán quá lớn (tổ chức tín dụng đang dư thừa tiền) thì
việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm giảm quy mô tín dụng từ đó giảm khối lượng tiền tệ.
Ngược lại, nếu khả năng thanh toán thấp thì giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm tăng khả
năng cho vay của các tổ chức tín dụng (bành trướng khối tiền tệ)
Ưu điểm:
Tác động đầy quyền lực đến lượng tiền cung ứng.
Tạo nên mối quan hệ máy móc giữa tạo tiền do tổ chức tín dụng thực hiện và nhu
cầu tái cấp vốn tại Ngân hàng Trung ương.
Tăng cường quyền lực cho Ngân hàng Trung ương vì tuỳ theo mục đích của chích
sách tiền tệ và tuỳ theo mức vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Trung
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
10
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
ương có quyền điều chỉnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các tổ chức tín dụng có trách nhiệm
thực hiện.
Tôn trọng sự cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng vì nó áp dụng không phân biệt
mọi tổ chức tín dụng trong toàn hệ thống tài chính.
Đảm bảo khả năng thanh toán cho tổ chức tín dụng, giúp tổ chức tín dụng tránh
được rủi ro do mất khả năng thanh toán.
Nhược điểm:
Mặc dù có thể đạt những thay đổi trong cung ứng tiền tệ bằng những thay đổi nhỏ
trong dự trữ bắt buộc nhưng lại khá tốn kém về phí quản lý.
Việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối
với một tổ chức tín dụng có dự trữ vượt mức thấp.
Việc không ngừng thay đổi dự trữ bắt buộc cũng gây ra tình trạng kém ổn định cho
các tổ chức tín dụng và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của những tổ chức tín
dụng đó khó khăn hơn.
1.3.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở

Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua, bán giấy tờ có
giá chủ yếu là ngắn hạn (Tín phiếu Kho bạc, Tín phiếu Ngân hàng Trung ương, Chứng
chỉ tiền gửi ) trên thị trường tiền tệ, điều hoà cung - cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng
đến khối dự trữ của các tổ chức tín dụng, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng
của các tổ chức tín dụng dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ, cụ thể :
- Bằng cách bán các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, Ngân hàng Trung ương có thể
thu hẹp tín dụng, giảm khối lượng tiền tệ theo ý muốn để ngăn chặn lạm phát.
- Ngược lại, khi Ngân hàng Trung ương mua các loại giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng
khối lượng tiền tệ, mở rộng tín dụng, thúc đẩy đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tăng khả
năng thanh khoản của các tổ chức tín dụng.
Công cụ thị trường mở đã được các nước có nền kinh tế tiên tiến như Anh, Mỹ và
Thuỵ Sĩ áp dụng từ những năm đầu của thế kỷ XX. Cho đến nay nó đã trở thành công cụ
quan trọng bậc nhất để điều hoà lưu thông tiền tệ.
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
11
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Ưu điểm:
Công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã thể hiện tính ưu việt của nó so với các công
cụ khác của chính sách tiền tệ :
- Ngân hàng Trung ương có thể chủ động can thiệp vào thị trường tiền tệ từ đó tác
động trực tiếp vào khả năng cung ứng tín dụng của các tổ chức tín dụng.
- Độ linh hoạt và chính xác cao, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Mong muốn
mức thay đổi của dự trữ hoặc cơ số tiền tệ dẫu lớn hay nhỏ thế nào, Ngân hàng Trung
ương cũng có thể thực hiện được bằng cách mua, bán một khối lượng lớn, nhỏ chứng
khoán.
- Ngân hàng Trung ương dễ dàng đảo ngược tình thế khi có một quyết định sai về
việc sử dụng công cụ này bằng cách lập tức đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Thí
dụ, nếu Ngân hàng Trung ương thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua quá
nhiều giấy tờ có giá trên thị trường mở thì nó có thể sửa chữa ngay bằng cách tiến hành
nghiệp vụ bán trên thị trường mở.

- Việc thực hiện có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm
trễ về mặt hành chính. Khi muốn thay đổi cơ số tiền tệ hoặc dự trữ, Ngân hàng Trung
ương có thể quyết định và thực hiện ngay trong phiên giao dịch.
Nhược điểm:
Ngân hàng Trung ương có thể không đạt được mục tiêu đã đề ra do nghiệp vụ thị
trường mở chỉ thực sự hữu hiệu khi nền kinh tế đã phát triển rất cao, cơ chế thanh toán
không dùng tiền mặt đã phát triển.
1.3.4. Công cụ hạn mức tín dụng
Hạn mức tín dụng được sử dụng khống chế tổng dự nợ tín dụng, qua đó khống chế
tổng lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế. Do vậy có chế tác động của nó mang tính áp
đặt đối với hệ thống tài chính.
Qua sử dụng hạn mức tín dụng, Ngân hàng Trung ương nhằm điều chỉnh khả năng
tạo tiền của các tổ chức tín dụng phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế. Tránh
tình trạng tổng khối lượng tiền tăng quá mức trong lưu thông, Ngân hàng Trung ương quy
định hạn mức tín dụng tối đa cho từng tổ chức tín dụng. Trong phần lớn các trường hợp
những hạn mức riêng được xác định căn cứ vào tỷ trọng cho vay của nó trong quá khứ so
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
12
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
với tổng mức cho vay của hệ thống tài chính, tổ chức tín dụng chỉ được cấp tín dụng cho
nền kinh tế tối đa bằng hạn mức tín dụng quy định. Lúc này, Ngân hàng Trung ương phải
theo dõi hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, nếu tổ chức tín dụng cho vay vượt
quá hạn mức tín dụng quy định sẽ bị xử phạt.
Ưu điểm:
Hạn mức tín dụng là một công cụ trực tiếp điều tiết lượng tiền trong lưu thông.
Bằng việc quy định hạn mức tín dụng, Ngân hàng Trung ương có thể kiểm soát khá chặt
chẽ tổng lượng tiền cung ứng. Công cụ này thực sự phát huy hiệu quả khi tổng phương
tiện thanh toán trong nền kinh tế tăng cao. Khi đó, nó được Ngân hàng Trung ương sử
dụng nếu các công cụ gián tiếp khác tỏ ra kém hiệu quả.
Nhược điểm:

Bên cạnh các ưu điểm, kiểm soát trực tiếp hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế có
một số bất lợi sau :
- Hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất tăng lên, bởi vì cung về vốn bị giới hạn
không thỏa mãn nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
- Hạn mức tín dụng có xu hướng làm giảm cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng.
Bởi vì, một khi đã cho vay hết hạn mức tín dụng thì tổ chức tín dụng đó không còn muốn
huy động vốn nữa, nếu huy động thêm sẽ gây đọng vốn và thiệt hại cho tổ chức tín dụng.
- Hạn mức tín dụng có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư của các tổ chức tín dụng, ảnh
hưởng đến cơ cấu nền kinh tế.
- Khi thị trường tiền tệ hoạt động chưa có hiệu quả thì hạn mức tín dụng có thể làm
cho các khoản tín dụng được cấp ra nhỏ hơn so với tổng hạn mức tín dụng đã được xác
định từ trước. Bởi những tổ chức tín dụng có khả năng huy động nhiều vốn thì việc cho
vay ra đã bị hạn chế trong khi các tổ chức tín dụng không có khả năng huy động vốn sẽ
cho vay ít hơn so với hạn mức đã được phân bổ. Điều này nguy hiểm hơn là sẽ làm phát
sinh các tổ chức tài chính mới thực hiện nghiệp vụ tín dụng ngoài phạm vi kiểm soát của
Ngân hàng Trung ương. Kết quả cuối cùng là làm cho chính sách tiền tệ dựa trên hạn mức
tín dụng mất đi hiệu lực của nó bởi một số lượng tín dụng ngày càng thoát khởi hạn mức
đó.
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
13
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
1.3.5. Công cụ lãi suất
Lãi suất được xem là một công cụ gián tiếp thực hiện chính sách tiền tệ trong việc
điều khiển mức cung ứng tiền cho nền kinh tế. Sở dĩ nói rằng lãi suất là công cụ gián tiếp,
bởi lẽ lãi suất không trực tiếp làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông.
Nhưng sự tăng, giảm lãi suất có thể kính thích sản xuất hoặc kìm hãm sản xuất. Vì vậy,
nó là một công cụ rất lợi hại, có sức phản công ghê gớm. Cơ chế điều hành lãi suất được
hiểu là tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung
ương nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng từng thời kỳ nhất
định.

Khi sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương (nghiệp vụ
thị trường mở, tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng) đề có tác động đến lãi suất
cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong đó, đặc biệt là lãi suất chiết
khấu của Ngân hàng Trung ương tác động mạnh đến lãi suất cho vay của các tổ chức tín
dụng. Song khi các công cụ trên đây hoạt động chưa có hiệu quả, thì Ngân hàng Trung
ương có thể trực tiếp quy định khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín
dụng. Để tránh rủi ro, bảo vệ quyền lợi của các tổ chức tín dụng, Ngân hàng Trung ương
thường quy định mức lãi suất “sàn” tối đa cho tiền gửi và lải suất “trần” tối thiểu cho
tiền vay. Nếu nhằm bảo đảm quyền lợi cho khách hàng của tổ chức tín dụng, thì Ngân
hàng Trung ương thường quy định ngược lạị: mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức
tối đa cho tiền vay. Ngân hàng Trung ương muốn kiểm soát được lãi suất, bời vì lãi suất
có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá
cả.
Tuy nhiên, kiểm soát lãi suất của các tổ chức tín dụng sẽ triệt tiêu cạnh tranh trong
quá trình hoạt động của nó. Hiện nay, các nước phát triển đã và đang chuyển sang qúa
trình tự do hoá lãi suất.
Ưu điểm:
Biện pháp này có ưu điểm là giúp các tổ chức tín dụng lựa chọn dự án kinh tế tối
ưu để cho vay, loại bỏ các dự án kém hiệu quả.
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
14
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Nhược điểm:
Tuy nhiên quy định khung lãi suất tiền gửi hay quy định lãi suất trần và sàn làm
cho tính linh hoạt của thị trường tiền tệ bị suy giảm, các tổ chức tín dụng bị động trong
kinh doanh, hạn chế đầu tư.
Trong bối cảnh đó đòi hỏi phải có sự linh động hơn trong việc sử dụng công cụ của
chính sách tiền tệ và đòi hỏi có sự sáng tạo về công cụ tiền tệ để hoàn thành các mục tiêu
kinh tế.
1.3.6. Công cụ tỷ giá

Tỷ giá là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa phản ánh
sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiện quan hệ cung - cầu ngoại hối. Đến lượt mình, tỷ
giá là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung - cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu
và hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Chính sách tỷ giá tác động một cách nhạy
bén đến tình hình sản xuất, xuất nhập khẩu hàng hóa, tình trạng tài chính, tiện tệ, cán cân
thanh toán quốc tế, thu hút vốn dầu tư, dự trữ của đất nước. Về thực chất tỷ giá không
phải là công cụ của chính sách tiền tệ vì tỷ giá không làm thay đổi lượng tiền tệ trong lưu
thông. Tuy nhiên ở nhiều nước, đặc biệt là các nước có nền kinh tế đang chuyển đổi coi tỷ
giá là công cụ hỗ trợ quan trọng cho chính sách tiền tệ.
Chế độ tỷ giá là cách thức một đất nước quản lý đồng tiền của mình liên quan đến
các đồng tiền nước ngoài và quản lý thị trường ngoại hối.
Chế độ tỷ giá ở mỗi nước và mỗi thời kỳ có thể khác nhau, song về cơ bản là chế
độ tỷ giá “thả nổ” theo đó thị trường quy định những biến động của tỷ giá, hoặc ngược
lại hoàn toàn là chế độ tỷ giá “cố định” theo đó nhà nước sẽ can thiệp để tỷ giá giữa đồng
tiền của nước mình với đồng tiền các nước khác không đổi, hoặc là một chế độ nằm giữa
hai giải pháp gốc đó.
Chế độ tỷ giá “thả nối có điều tiết” là một chế độ tỷ giá nằm giữa hai chế độ thả nổi và cố
định. Mặc dù lý thuyết nói chế độ tỷ giá thả nổi tốt hơn, nhưng trong thực tế không có một đồng
tiền nào được thả nổi hoàn toàn, vì nó quá bất ổn định. Tuy chế độ tỷ giá cố định tạo ra sự ổn
định, song việc thực hiện các biện pháp chính sách nhằm giữ cho tỷ giá cố định tương đối khó
khăn và tốn kém, và trên hết là chế độ này làm cho chính sách tiền tệ trở nên vô hiệu lực. Chính
vì thế, chỉ một số ít đồng tiền trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá cố định. Hầu hết các đồng tiền
trên thế giới sử dụng chế độ tỷ giá thả nổi, nhưng Chính phủ sẽ can thiệp để tỷ giá không hoàn
toàn phản ứng theo thị trường.
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
15
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Chương 2
THỰC TRẠNG SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

2.1. Những đổi mới về điều hành chính sách tiền tệ từ năm 1986 đến nay
Để phù hợp với quá trình đổi mới nền kinh tế đất nước, đòi hỏi phải đổi mới việc
xây dựng chính sách tiền tệ. Trước hết việc xác định và lựa chọn mục tiêu điều hành
chính sách tiền tệ đã được thực hiện phù hợp với đường lối phát triển kinh tế xã hội của
Đảng và Nhà nước. Mục tiêu của chính sách tiền tệ đã hướng vào kiểm soát lạm phát, ổn
định giá trị đồng tiền để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đảm bảo sự ổn định hệ thống tài
chính. Thực tế cho thấy sự ổn định của hệ thống tài chính là điều kiện hàng đầu cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Mặt khác, nền kinh tế Việt Nam trước những năm
1990 đã nằm trong tình trạng lạm phát gia tăng với tốc độ phi mã. Đồng tiền Việt Nam
mất giá trầm trọng, nền kinh tế suy thoái. Thêm vào đó, sự đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng
nhân dân đã làm giảm lòng tin của dân chúng vào hệ thống tài chính và giá trị của Việt
Nam đồng. Đó chính là lý do giải thích cho việc lựa chọn các mục tiêu trên của chính
sách tiền tệ. Đồng thời, chính việc lựa chọn mục tiêu cho việc điều hành chính sách tiền tệ
là bằng chứng cho sự hoà nhịp của hệ thống tài chính với tiến trình đổi mới đất nước.
Nhằm thực hiện các mục tiêu chính sách tiền tệ đã lựa chọn, một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là quản lý và điều hành khối
lượng tiền cung ứng. Đối với Việt Nam, việc quản lý, vận hành cơ chế cung ứng tiền, điều
hành, kiểm soát tiền tệ đã được đổi mới từng bước theo nội dung và nguyên tắc hoàn toàn
khác với cơ chế kế hoạch hoá tập trung. Trong thời kỳ kế hoạch hoá tập trung, chỉ tiêu
phát hành tiền do Chính phủ quy định và thường xuyên được dùng bù đắp cho thâm hụt
chi tiêu của Chính phủ. Do đó tổng mức cung ứng tiền vượt quá tổng cầu trong nền kinh
tế dẫn đến vòng xoáy lạm phát gía - lương - tiền. Việc không kiểm soát chặt chẽ khối
lượng tiền cung ứng qua kênh tín dụng; chất lượng thanh toán không dùng tiền mặt qua
ngân hàng thấp làm cho nhu cầu tiền mặt lớn, gây khó khăn cho Ngân hàng Nhà nước
trong việc điều hoà tiền mặt.
Từ năm 1990, Ngân hàng Nhà nước đã cải cách mạnh mẽ việc xây dựng và điều
hành chính sách tiền tệ. Đã xác định được khối lượng tiền cung ứng hàng năm phù hợp
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
16
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ

với mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát. Đồng thời Ngân hàng Nhà nước đã
lựa chọn sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn, chủ
động điều hành linh hoạt lượng tiền cung ứng được Chính phủ phê duyệt hàng năm. Do
vậy đã cung ứng đủ phương tiện thanh toán đảm bảo sản xuất - lưu thông không bị ách
tắc, kinh tế tăng trưởng, đẩy lùi lạm phát phi mã. Đặc biệt từ năm 1993, Ngân hàng Nhà
nước đã thực hiện quản lý, điều hành hiệu quả lượng tiền cung ứng, sử dụng linh hoạt các
công cụ của chính sách tiền tệ, góp phần duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và kiểm
soát lạm phát ở mức một con số.
Ngân hàng Nhà nước có nhiệm vụ xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, kế
hoạch cung ứng lượng tiền bổ sung cho lưu thông hàng năm trình Chính phủ để Chính
phủ trình Quốc hội. Quốc hội là cơ quan có thẩm quyền quyết định và giám sát việc thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Trên cơ sở dự án chính sách tiền tệ đã được phê chuẩn bởi Quốc hội, Chính phủ tổ
chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, quyết định lượng tiền cung ứng bổ sung cho
lưu thông hàng năm, mục đích sử dụng số tiền này và định kỳ báo cáo Uỷ ban thường vụ
Quốc hội.
Để tư vấn cho Chính phủ trong việc quyết định các vấn đề thuộc quyền hành về
xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ, Chính phủ thành lập Hội đồng tư vấn
Chính sách tiền tệ quốc gia gồm: Chủ tịch là một Phó Thủ tướng Chính phủ; Uỷ viên
thường trực là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Thứ trưởng Bộ Công thương, Chủ tịch
Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Trưởng ban vật giá Chính phủ, Tổng cục trưởng Tổng
cục Thống kê và một số chuyên gia am hiểu về lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
Vào những năm đầu thời kỳ đổi mới (1986 - 1990), nền kinh tế Việt Nam chưa
thực sự hội nhập với nền kinh tế thế thế giới. Nền kinh tế chậm phát triển, đang phải vật
lộn với lạm phát phi mã với tỷ lệ lạm phát nên tới 774,7%. Mục tiêu lúc đó được đề ra là
đẩy lùi, kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đưa nền kinh tế thoát khỏi tình trạng trì
trệ, suy thoái bởi khủng hoảng kinh tế kéo dài. Đứng trước tình hình như vậy, Việt Nam
đã mạnh dạn nâng lãi suất tiền gửi ngân hàng nên mức siêu cao để thu hút lượng tiền cung
ứng về ngân hàng, đồng thời từng bước thả nổi tỷ giá hối đoái (VNĐ/USD) nhằm tạo lập
quan hệ như vậy chỉ là tức thời. Đòi hỏi Việt Nam phải có những biện pháp khác tích cực

Trịnh Chiêu Minh - BH191527
17
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
hơn nữa để sử dụng chính sách tiền tệ là vấn đề sử dụng và thu hút nguồn vốn trong và
ngoài nước. Từ đó để hỗ trợ đầu tư, phát triển kinh tế Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
phải thực thi chính sách tiền tệ sao cho đảm bảo các nguồn tích luỹ, tiết kiệm nguồn vốn
nhàn rỗi khác trong nền kinh tế được khai thác, huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn vốn. Chiến lược huy động vốn được phát động mạnh mẽ liên tục trong suốt
thời kỳ 1993 -1997. Phương châm là hạn chế, giảm thiểu dần cung ứng tiền cơ bản qua
kênh tín dụng, buộc các tổ chức tín dụng phải đi vay để cho vay làm tốt vai trò trung gian
tài chính của nền kinh tế. Các hình thức huy động vốn cũng được đa dạng hoá, có cơ cấu
hợp lý nhằm đáp ứng yêu cầu đầu tư trung và dài hạn. Mặt khác, Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam cũng chính thức khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ khác trên
thế giới như IMF, WB, ADB Qua đó tranh thủ được sự giúp đỡ về mặt tổ chức, điều
hành của các tổ chức này. Kể từ cuối năm 1993 khi Ngân hàng Nhà nước tổ chức hình
thành thị trường nội tệ liên ngân hàng và sau đó gần một năm là thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước con phối hợp với hệ thống tài chính đến tháng 6 năm
1995, Ngân hàng Nhà nước chính thức tổ chức bán đấu giá tín phiếu kho bạc tạo nên công
cụ huy động vốn mới trên thị trường tiền tệ, góp phần lành mạnh hoá ngân sách. Ngân
hàng Nhà nước còn mở rộng đối tượng cho vay sang nhiều thành phần kinh tế khác trong
nền kinh tế làm cho nền kinh tế có sự phát triển đồng đều. Bên cạnh việc cung ứng tiền tệ
cho nền kinh tế thông qua con đường tín dụng, hàng năm Ngân hàng Nhà nước còn phải
bổ sung phần tiền cung ứng khi chuyển đổi ngoại tệ ròng kết dư nhằm phục vụ mục tiêu
ổn định sức mua đối với đồng tiền Việt Nam.
Như vậy, chính sách tiền tệ và đặc biệt là các công cụ của chính sách tiền tệ đã góp
phần rất quan trọng vào công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta. Nó góp phần tạo ra các định
hướng làm ổn định công ăn việc làm, chống lạm phát, ổn định tỷ giá từ đó làm cho nền
kinh tế phát triển.
2.2. Thực trạng sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, chính sách tiền tệ của một quốc gia,

nhất là quốc gia đang phát triển khó có thể tách khỏi xu hướng chính sách tiền tệ của các
nước lớn.
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
18
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Từ năm 1991 đến nay, cùng với công cuộc đổi mới ngân hàng, hệ thống các công
cụ chính sách tiền tệ cũng được hình thành và phát triển. Trong điều kiện thị trường tiền
tệ và thị trường tài chính chưa phát triển, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thực hiện
kiểm soát tiền tệ thông qua việc sử dụng các công cụ trực tiếp kết hợp với các công cụ
gián tiếp và từng bước đổi mới chuyền từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các
công cụ gián tiếp phù hợp với thống lệ quốc tế và xu hướng phát triển của nền kinh tế đất
nước.
Tuy nhiên, so với yêu cầu phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày
càng mạnh mẽ thì việc điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
hiện nay chưa hẳn là hoàn thiện. Vẫn còn nhiều bất cập khi điều hành chính sách tiền tệ
mà Ngân hàng Nhà nước và các Bộ hữu quan cần phải tập trung giải quyết.
Kể từ khi đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường thì quá trình thực hiện chính
sách tiền tệ cũng được xây dựng, đổi mới theo đúng ý nghĩa kinh tế của nó và phù hợp
với thực tiễn Việt Nam, thể hiện ở một số mặt sau:
Cách xác định lượng tiền cung ứng: nếu như trong thời kỳ kế hoạch hoá tâp trung
chúng ta chỉ quan niệm lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế chỉ bao gồm tiền mặt và mức
cung là bao nhiêu, ở thời kỳ nyo là do Chính phủ phê duyệt thì ngày nay việc quan niệm
về lượng tiền cung ứng để thay đổi bên cạnh lượng tiền mặt (C) còn tính đến khả năng tạo
tiền (D) của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác. Bên cạnh đó lượng tiền
cung ứng hàng năm phải dựa trên cơ sở: tỷ lệ lạm phát ước tính, tốc độ tăng trưởng kinh
tế theo kế hoạch, vòng quay tiền tệ…
Việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: được sử dụng một cách linh hoạt,
phù hợp với điều kiện Việt Nam ở các thời điểm cụ thể chứ không đông cứng, đóng băng
như thời kỳ kế hoạch hóa tập trung (lãi suất cố định nhiều năm… )
Cơ chế điều hành: năm 1988, hệ thống ngân hàng đã được phân thành hai cấp

Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại. Trong đó, Ngân hàng Nhà nước là cơ
quan quản lý Nhà nước trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng - ngân hàng; trực thuộc Chính phủ.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước có quyền chủ động hơn và chịu trách nhiệm trực tiếp
trong việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
19
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đang đi đúng hướng. Lãi
suất đã được thay đổi linh hoạt và kịp thời. Lãi suất của dự trữ bắt buộc cũng được thay
đổi linh hoạt. Tính thanh khoản của thị trường cũng được tăng lên thông qua việc Ngân
hàng Nhà nước mua lại trái phiếu đã phát hành.
Sự “chênh” giữa cung và cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối đã cản trở rất
nhiều đến sự vận hành thông suốt và việc mở rộng lĩnh vực ngoại thương một cách ổn
định. Ngân hàng Nhà nước cần phải xem lại việc quản lý hệ thống tiền tệ hiện nay để duy
trì tính thông suốt trong các giao dịch hàng ngày.
2.2.1. Công cụ tái cấp vốn
Để nâng cao hiệu quả sử dụng của công cụ này, Ngân hàng Nhà nước đã từng bước
đổi mới theo hướng tỷ trọng tái cấp vốn theo hình thức thế chấp các chứng từ có giá tăng
dần, còn tỷ trọng tái cấp vốn theo mục tiêu chỉ định ngày càng giảm. Trên thực tế, bên
cạnh hai hình thức tái cấp vốn trên, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện cho vay thanh toán
bù trừ, một hình thức tái cấp vốn ngắn hạn để bù đắp nhiều thiếu hụt thanh toán tạm thời
của các tổ chức tín dụng từ năm 1991. Với hình thức cho vay thế chấp chứng từ, chứng từ
thế chấp cũng được mở rộng. Từ ban đầu, chứng từ thế chấp chỉ bao gồm tín phiếu kho
bạc chưa đến hạn thanh toán, khế ước cho vay ngắn hạn (theo Quyết định số 285/QĐ-
NH14 ngày 10/11/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước). Đến năm 1997, Ngân hàng
Nhà nước bổ sung thêm hình thức cho vay thế chấp bằng ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi
của tổ chức tín dụng tại Ngân hàng Nhà nước. Hiện nay, theo quy định của luật Ngân
hàng Nhà nước, hoạt động tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước đối với các tổ chức tín
dụng gồm: cho vay theo hồ sơ tín dụng; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các
giấy tờ có giá ngắn hạn khác; cho vay có bảo đảm cầm cố các giấy tờ có giá ngắn hạn.

Đặc biệt, việc quy định về lãi suất tái cấp vốn cũng được đổi mới: từ năm 1994 đến năm
1997, lãi suất tái cấp vốn được quy định theo tỷ lệ % trên lãi suất cho vay áp dụng đối với
dự án cho vay của tổ chức tín dụng (bằng từ 60% đến 100% lãi suất cho vay ghi trên hợp
đồng tín dụng). Nhưng từ cuối tháng 5 năm 1997 đến nay, lãi suất tái cấp vốn đã được
điều chỉnh linh hoạt phù hợp với diễn biến cung cầu vốn trên thị trường.
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
20
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
2.2.2. Công cụ dự trữ bắt buộc
Công cụ dự trữ bắt buộc được chính thức thực hiện từ năm 1992. Kể từ thời điểm
đó cho đến nay, công cụ dự trữ bắt buộc đã không ngừng được đổi mới và hoàn thiên.
Ban đầu, theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước năm 1992 dự trữ bắt buộc
được duy trì tại một tài khoản riêng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% trên toàn bộ tiền gửi
tại các tổ chức tín dụng. Theo đó, vải trò của tỷ lệ dự trữ bắt buộc là để đảm bảo khả năng
thanh toán và kiểm soát cung ứng tiền nhưng lại hạn chế Ngân hàng Nhà nước trong việc
dự báo nhu cầu tăng, giảm dự trữ của các ngân hàng thương mại và vốn của các tổ chức
tín dụng không được sử dụng linh hoạt.
Để khắc phục các hạn chế trên, năm 1995 công cụ này đã được đổi mới như sau:
tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền thanh toán được thống nhất vào một tài khoản, tỷ lệ dự trữ
bắt buộc là 10% áp dụng cho các loại tiền gửi dưới một năm và trong cơ cấu tiền dự trữ
bắt buộc có 70% phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng phải thường
xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước (duy trì
hàng ngày). Với những thay đổi này, Ngân hàng Nhà nước có thể dự báo nhu cầu dự trữ
của các tổ chức tín dụng thông qua theo dõi mức dự trữ vượt. Tuy nhiên, việc khống chế
theo ngày cùng với sự phát triển của thị trường tiền tệ ở mức độ thấp khiến cho công cụ
này trở nên cứng nhắc, các tổ chức tín dụng luôn để dự trữ vượt do có hạn chế khả năng
sử dụng vốn của các tổ chức tín dụng.
Từ năm 1999, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được áp dụng mở rộng thêm với các đối tượng:
ngân hàng hợp tác xã, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ
0% đến 20% và đặc biệt số tiền dự trữ bắt buộc được tính bình quân số dư tiền gửi tại

Ngân hàng Nhà nước trong kỳ duy trì. Với cách tính dự trữ bắt buộc mới, các tổ chức tín
dụng có thể điều hành vốn linh hoạt hơn trước đây, đồng thời Ngân hàng Nhà nước có thể
dự đoán được nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng, tăng khả năng kiểm soát tiền tệ của
Ngân hàng Nhà nước. Đặc biệt, trong năm 2000 và 2001, công cụ dự trữ bắt buộc tiếp tục
được điều hành phù hợp với diễn biến tiền tệ và mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ,
quản lý ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước. Việc điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối
với tiền gửi bằng ngoại tệ, đồng thời giảm dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng Việt Nam
đồng đã có tác dụng lớn trong việc điều hành lãi suất và tỷ giá, góp phần thu hẹp chênh
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
21
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
lệch giữa lãi suất tiền gửi ngoại tệ và tiền gửi Việt Nam đồng, do đó hạn chế dòng chuyển
đổi từ Việt Nam đồng sang đô la Mỹ. Để phù hợp với diễn biến thị trường trong nước và
quốc tế, đặc biệt là xu hướng giảm mạnh lãi suất trên thị trường quốc tế tháng 12 năm
2001, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định điều chỉnh giảm dự trữ bắt buộc đối với tiền
gửi bằng ngoại tệ xuống còn 10% năm nhằm tăng khả năng huy động ngoại tệ của các tổ
chức tín dụng.
Nhìn chung, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc thực
sự chưa được sử dụng linh hoạt, nhạy bén nên đã hạn chế chức năng vốn có của nó. Khi
nghiên cứu về bản chất của dự trữ bắt buộc thì dự trữ bắt buộc là công cụ mang tính chất
hành chính của Ngân hàng Nhà nước nhằm điều tiết mức cung tiền tệ của tổ chức tín dụng
cho nền kinh tế, thông qua hệ số tạo tiền đối với lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng
cung ứng cho nền kinh tế. Dự trữ bắt buộc là biện pháp kiểm soát cung ứng tiền tệ không
phải là cách để cho tiền ổn định.
2.2.3. Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới trong điều hành chính sách tiền tệ, sau một quá trình
chuẩn bị, ngày 12 tháng 7 năm 2000, Ngân hàng Nhà nước đã chính thức khai trương
nghiệp vụ thị trường mở. Đây là một bước tiến mới trong điều hành chính sách tiền tệ
theo hướng từ sử dụng các công cụ trực tiếp sang các công cụ gián tiếp để phù hợp với
thông lệ quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế đất nước. Hiện nay, nghiệp vụ thị

trường mở đã được tăng cường sử dụng. Đặc biệt, bên cạnh việc đưa nghiệp vụ hoán đổi
(Swap) vào hoạt động, việc Ngân hàng Nhà nước liên tục thực hiện chào mua giấy tờ có
giá với khối lượng lớn đã giúp các tổ chức tín dụng khắc phục được khó khắn về nguồn
vốn Việt Nam đồng.
Mặc dù doanh số giao dịch qua các phiên giao dịch chưa lớn, số lượng thành viên
tham gia và lượng hàng hoá có thể sử dụng trên thị trường còn hạn hẹp, nhưng kết quả
các phiên giao dịch cho thấy việc sử dụng các công cụ nghiệp vụ thị trường mở đã có
những dấu hiệu tích cực, góp phần tác động đến vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng
nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Hoạt động thị trường mở ở nước ta còn quá trầm lặng, chưa trở thành công cụ đắc
lực của chính sách tiền tệ ở nước ta. Với những thống kê cụ thể trên ta thấy được hạn chế
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
22
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
trên là do nghiệp vụ thị trường mở là một nghiêp vụ còn rất mới đối với các tổ chức tín
dụng Việt Nam. Người dân thì thiếu thống tin, có sự hiểu biết quá ít về chứng khoán cũng
như nhiều loại giấy tờ có giá khác mặt khác, thị trường liên ngân hàng chưa thực sự
phát triển, hàng hoá trên thị trường hạn hẹp về cả chủng loại và số lượng. Thường xuyên
diễn ra tình trạng khan hiếm hàng hoá làm nản lòng các nhà đầu tư. Ngoài ra việc sử dụng
tín phiếu kho bạc trên thị trường thứ cấp chưa linh hoạt. Các tổ chức tín dụng thường sử
dụng tín phiếu kho như một công cụ đầu tư hơn là công cụ của thị trường mở. Từ đó dẫn
tới việc khan hiếm hàng hoá. Như vậy, do còn hạn chế cả về cơ sở vật chất, trình độ cán
bộ nhân sự đơn sơ của thị trường tài chính, sự bất cập trong vấn đề lượng thành viên tham
gia thị trường cũng như khối lượng giấy tờ có giá do các thành viên nắm giữ nên tác
động can thiệp của Ngân hàng Nhà nước thông qua nghiệp vụ thị trường mở rất còn hạn
chế.
2.2.4. Công cụ hạn mức tín dụng
Được Ngân hàng Nhà nước áp dụng từ năm 1994, xuất phát từ những đòi hỏi thực
tế là lạm phát có xu hướng tăng cao, tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh. Trong điều
kiện thị trường thứ cấp chưa phát triển, Ngân hàng Nhà nước chưa thể sử dụng công cụ

nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng Nhà nước đã sử dụng công cụ hạn mức tín dụng để
hạn chế hệ số nhân tiền tệ, qua đó kiểm soát sự gia tăng tổng phương tiện thanh toán.
Trên thực tế, việc áp dụng công cụ hạn mức tín dụng trong các năm từ 1994 đến 1997 đã
góp phần kiểm soát mức độ gia tăng tổng phương tiện thanh toán, góp phần kiềm chế lạm
phát. Tuy nhiên, hạn mức tín dụng chỉ được phân bổ đối với một số các ngân hàng thương
mại nên phần nào hạn chế tính công bằng trong cạnh tranh. Nhất là trong các năm từ 1998
đến nay, trong điều kiện nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam rất lớn, lạm phát
có xu hướng giảm thấp, việc áp dụng công cụ này phần nào ảnh hưởng đến việc đáp ứng
vốn cho nền kinh tế. Do đó từ quý II năm 1998, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định
không sử dụng công cụ hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều
hành chính sách tiền tệ mà chỉ dùng đến hạn mức tín dụng khi cần phải hạn chế sự gia
tăng tín dụng nhanh chóng có nguy cơ lạm phát cao.
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
23
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
2.2.5. Công cụ lãi suất
Năm 1992, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện bước chuyển đổi quan trọng chuyển
từ chính sách lãi suất thực âm sang lãi suất thực dương tạo đòn bẩy cho các ngân hàng
thương mại chuyển từ hoạt động kinh doanh thua lỗ sang có lãi.
Năm 1996, Ngân hàng Nhà nước thực hiện tự do hoá lãi suất tiền gửi và quy định
trần lãi suất cho vay nhằm hoàn thiện công cụ lãi suất dần tiến tới mục tiêu tự do hoá lãi
suất.
Tháng 8 năm 2000, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện bước đổi mới oơ bản về
điều hành lãi suất. Thay thế cơ chế điều hành trần lãi suất cho vay bằng lãi suất cơ bản đối
với cho vay bằng Việt Nam đồng và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với cho vay
bằng ngoại tệ. Với cơ chế điều hành lãi suất này được coi là phù hợp với mức độ phát
triển của thị trường tiền tệ và khả năng kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước.
Năm 2001, để khuyến khích các tổ chức tín dụng mở rộng tín dụng, thực hiện chủ
trương kích cầu của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước đã bốn lần điều chỉnh lãi suất cơ
bản từ mức 0,75% /tháng xuống 0,6%/tháng.

Tháng 6 năm 2002, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành quyết
định số 546/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế cho vay theo lãi suất thoả thuận bằng
Việt Nam đồng. Theo tinh thần quyết định này, tất cả các tổ chức tín dụng được toàn
quyền quyết định lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng mình, Ngân hàng Nhà nước vẫn
công bố lãi suất cơ bản để các tổ chức tín dụng tham khảo. Việc quản lý thị trường thông
qua lãi suất cơ bản phù hợp với tình hình chung của thế giới, tiến dần tới việc tự do hoá
lãi suất, để cho cung - cầu thị trường quyết định lãi suất. Như vậy, Việt Nam có nên thực
hiện cơ chế tự do hoá lãi suất hay không? đó là câu trả lời còn để trống.
2.2.6. Công cụ tỷ giá
Trong thời gian qua, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện đổi mới mạnh mẽ cơ chế
điều hành tỷ giá. Từ năm 1994, cùng với sự ra đời của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng,
Ngân hàng Nhà nước đã bắt đầu thực hiện điều hành tỷ giá theo cơ chế mới thay cho chế
độ đa tỷ giá trước đây. Theo đó, Ngân hàng Nhà nước bắt đầu công bố tỷ giá chính thức
giữa ngoại tệ và Việt Nam đồng, tỷ giá mua bán trên thị trường được phép dao động trong
biên độ cho phép. Trên thực tế, trong những năm 1997 - 1998, việc Ngân hàng Nhà nước
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
24
ĐỀ ÁN MÔN LÝ THUYẾT TÀI CHÍNH TIỀN TỆ
chủ động điều chỉnh biên độ giao dịch và tiếp theo việc Ngân hàng Nhà nước ấn định tỷ
giá chính thức trên cơ sở tỷ giá mua bán trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng khiến cho
tỷ giá phù hợp hơn với tương quan cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Do đó đã góp phần
hạn chế ảnh hưởng bất lợi của cuộc khủng hoảng đến nền kinh tế Việt Nam, góp phần duy
trì ổn định kinh tế vĩ mô với tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 1998 ở mức 6%/năm, lạm
phát được kiềm chế ở mức 9,2%/năm. Năm 1999, Ngân hàng Nhà nước thực hiện bước
đổi mới cơ bản về điều hành tỷ giá theo các nguyên tắc thị trường bằng việc hàng ngày
công bố tỷ giá chính thức là tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng của ngày giao dịch trước đó. Các tổ chức tín dụng được quy định tỷ giá giao dịch
giữa Việt Nam đồng và đô la Mỹ không vượt quá 0,1% so với tỷ giá do Ngân hàng Nhà
nước công bố.
Năm 2001, tỷ giá được điều chỉnh linh hoạt, bám sát biến động của lái suất đô la

Mỹ trên thị trường quốc tế và cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước. Ngày 08 tháng
9 năm 2001, Ngân hàng Nhà nước đã quyết định mở rộng kỳ hạn thực hiện các giao dịch
kỳ hạn, hoán đổi của tổ chức tín dụng và điều chỉnh mức gia tăng tỷ giá hoán đổi, kỳ hạn
với trần tỷ giá giao ngay. Điều này đã giúp cho các tổ chức tín dụng có điều kiện thực
hiện linh hoạt giao dịch ngoại hối, các tổ chức tín dụng được chủ động hơn trong kinh
doanh nhưng vẫn đảm bảo vai trò kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước.
Trong bối cảnh diễn biến thị trường quốc tế có nhiều biến động, việc điều hành tỷ
giá linh hoạt và can thiệp kịp thời của Ngân hàng Nhà nước trên thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng đã góp phần ổn định tỷ giá, có tác dụng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát
nhập khẩu.
Với cơ chế điều hành tỷ giá mới, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tiến tới gần tỷ
giá thị trường tự do, do đó phản ánh chính xác hơn cung - cầu trên thị trường ngoại tệ,
phù hợp với điều kiện một nền kinh tế mở như ở nước ta hiện nay. Để ổn định được tỷ
giá, Ngân hàng Nhà nước phải kiểm soát được các luồng ngoại tệ di chuyển, thu hút thêm
ngoại tệ làm tăng nguồn dự trữ ngoại tệ quốc gia, ổn định tỷ giá thực hiện chính sách tiền
tệ quốc gia, không nên vội vã áp dụng thả nổi tỷ giá khi chưa đủ các điều kiện. Mặt khác,
những biến động tỷ giá giúp cho Ngân hàng Nhà nước quan sát được cung - cầu ngoại tệ
để từ đó có những quyết định kip thời. Vì vậy, khi sử dụng chính sách tỷ giá, Ngân hàng
Trịnh Chiêu Minh - BH191527
25

×