Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

pHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM VỀ ĐÃI NGỘ TỐI HUỆ QUỐC, ĐỐI XỬ QUỐC GIA, VỀ TỰ VỆ, VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG TRỢ CẤP TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (352.22 KB, 45 trang )


www.trungtamwto.vn

1


Trung tâm WTO - VCCI
PHÁP LUẬT CỦA VIỆT NAM VỀ ĐÃI NGỘ TỐI HUỆ QUỐC, ĐỐI XỬ
QUỐC GIA, VỀ TỰ VỆ, VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ VÀ
CHỐNG TRỢ CẤP TRONG THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

I- PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ ĐÃI NGỘ TỐI HUỆ QUỐC (MFN) VÀ ĐỐI
XỬ QUỐC GIA (NT)
1. Văn bản quy phạm pháp luật về MFN và NT
Pháp luật Việt Nam về vấn đề đãi ngộ tối huệ quốc (Most-favored nation - MFN)
và đối xử quốc gia (National treatment - NT) bao gồm các văn bản sau đây:
- Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 41/2002/PL-
UBTVQH10 ngày 25/5/2002 về đối xử tối huệ quốc và đối xử
quốc gia trong thương mại quốc tế (sau đây gọi là Pháp lệnh
MFN-NT): Đây là văn bản chủ yếu và quy định tập trung nhất về
vấn đề này;
- Quy định về MFN và NT trong cam kết gia nhập WTO của Việt
Nam và trong các Hiệp định thương mại song phương và đa
phương mà Việt Nam ký kết (theo nguyên tắc ưu tiên áp dụng
điều ước quốc tế, các nguyên tắc được thừa nhận trong các văn
bản này sẽ được ưu tiên áp dụng trong trường hợp có mâu thuẫn
giữa các văn bản này với các quy định pháp luật nội địa của Việt
Nam).
2. Bối cảnh ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về MFN và NT
Đối xử Tối huệ quốc (Most Favour Nation treatment) và Đối xử Quốc gia
(National Treatment) là 2 nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt của thương mại quốc tế


và đều có chung bản chất là sự không phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ
trong nước với hàng hoá, dịch vụ nước ngoài và giữa hàng hoá, dịch vụ của các
nước khác nhau. Đây là nguyên tắc trụ cột của các Hiệp định của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) và là nguyên tắc quan trọng trong quan hệ hợp tác kinh tế-
thương mại khu vực cũng như trong các hiệp định thương mại song phương.

www.trungtamwto.vn

2


Trung tâm WTO - VCCI
Lợi ích quan trọng nhất mà chúng ta có được khi hội nhập đầy đủ vào nền
kinh tế khu vực, thế giới và gia nhập WTO chính là hàng hoá, dịch vụ của chúng
ta sẽ được hưởng sự đối xử bình đẳng với hàng hoá, dịch vụ của các thành viên
khác và với hàng hoá dịch vụ nội địa trên các thị trường xuất khẩu. Đây là điều
kiện cực kỳ quan trọng để tăng cường sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ Việt
nam trong thương mại quốc tế. Tuy nhiên, song song với điều này, Việt Nam cũng
phải thực hiện nghĩa vụ tương ứng là trao cho hàng hoá, dịch vụ các nước khác
quyền được đối xử bình đẳng với nhau khi tiếp cận thị trường Việt Nam cũng như
quyền được đối xử ngang bằng với hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam trên thị trường
Việt Nam. Pháp luật về MFN và NT của Việt Nam là công cụ để thể chế hoá nghĩa
vụ này của Việt Nam.
Cho đến thời điểm ban hành Pháp lệnh MFN-NT, hệ thống pháp luật Việt
Nam chưa có một quy định tập trung nào về vấn đề này. Trước đó, nguyên tắc
MFN chỉ được quy định trong một số các hiệp định kinh tế-thương mại song
phương với nước ngoài của Việt Nam và trong một số văn bản pháp luật nội địa.
Đối với trường hợp nguyên tắc NT, trừ một số quan điểm định hướng tại các Nghị
quyết của Đảng và Hiến pháp 1992 về việc tạo điều kiện kinh doanh bình đẳng cho
nhà đầu tư nước ngoài với nhà đầu tư trong nước, không có văn bản pháp luật nào

chính thức thừa nhận nguyên tắc này. Việc soạn thảo và ban hành Pháp lệnh MFN-
NT là một nỗ lực lập pháp nhằm pháp điển hoá một cách chính thức các nguyên tắc
quan trọng này vào hệ thống pháp luật Việt Nam, tạo điều kiện cho việc đưa các
nguyên tắc này vào các chế định pháp luật khác một cách thống nhất. Đây cũng là
một biểu hiện cho sự chủ động của Việt Nam trong việc chủ động vận dụng các
nguyên tắc thương mại quốc tế đã được thừa nhận chung vào việc xây dựng chính
sách và pháp luật nội địa.
Sau khi Pháp lệnh MFN-NT được ban hành, một loạt các văn bản pháp luật
nội địa trong các lĩnh vực thương mại quan trọng đã chuyển hoá các nguyên tắc
này vào nội dung các điều khoản cụ thể (ví dụ Luật Thương mại 2005, Luật Đầu
tư 2005, Luât Cạnh tranh ). Có thể nói, các văn bản pháp luật của Việt Nam về cơ
bản đã ghi nhận tương đối đầy đủ nguyên tắc không phân biệt đối xử (đặc biệt là

www.trungtamwto.vn

3


Trung tâm WTO - VCCI
nguyên tắc NT) giữa các chủ thể thương mại trong nước và nước ngoài bằng các
điều cụ thể (mặc dù có thể không tuyên bố một cách tường minh các nguyên tắc
này).
Về các điều ước quốc tế, tính đến cuối năm 2005, Việt Nam đã ký Hiệp
định thương mại với 86 nước và vùng lãnh thổ, trong đó Việt Nam dành cho 77
đối tác quy chế MFN về thuế nhập khẩu (thực chất là thuế suất thuế nhập khẩu ưu
đãi) trên cơ sở Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế xuất khẩu, Thuế
nhập khẩu và có 76 đối tác dành quy chế MFN cho Việt Nam (trừ Mỹ). Hầu hết
các hiệp định song phương này đều chỉ quy định chung là dành cho nhau MFN,
một số hiệp định có quy định cụ thể hơn nhưng mức độ dành cho nhau MFN
không giống nhau. Cho đến thời điểm đó, chỉ có Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ

quy định tương đối chi tiết về MFN và NT trên cơ sở tuân thủ chặt chẽ các quy
định của WTO.
Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức gia nhập WTO và có nghĩa vụ thực
hiện các cam kết gia nhập tổ chức này. Như vậy, 149 thành viên khác trong WTO
(tính đến thời điểm Việt Nam gia nhập) sẽ có nghĩa vụ thực hiện nguyên tắc MNF
và NT với hàng hoá, dịch vụ của Việt Nam. Ngược lại, kể từ thời điểm này, Việt
Nam phải dành sự đối xử không phân biệt cho hàng hoá, dịch vụ đến từ 149 nước
thành viên khác của WTO (với các mức độ và điều kiện như trong các cam kết cụ
thể của Việt Nam).
3. Bố cục và nội dung Pháp lệnh MFN và NT
Về cơ bản, Pháp lệnh MFN và NT là văn bản quy định tường minh, đầy đủ
và bao quát nhất về chế định MFN và NT trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Việc
phân tích văn bản này, do đó, sẽ cho phép hiểu một cách phổ quát về các nguyên
tắc này.
3.1 Về hình thức:
Do tính chất phức tạp của vấn đề, Pháp lệnh được xây dựng theo mô hình
một văn bản quy phạm pháp luật hình thức, nghĩa là: Pháp lệnh chỉ quy định về
nguyên tắc, điều kiện, trình tự thủ tục cho hưởng hoặc không cho hưởng MFN

www.trungtamwto.vn

4


Trung tâm WTO - VCCI
và NT. Pháp lệnh không quy định nội dung cụ thể về mức độ cho hưởng, lĩnh vực
ngành nghề cho hưởng (những nội dung này sẽ do các văn bản quy phạm pháp luật
nội dung quy định như Luật Thuế Xuất khẩu, Thuế Nhập khẩu; Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp, Luật Thương mại và các văn bản hướng dẫn các Luật này quy
định). Các nhà soạn thảo Pháp lệnh đã lựa chọn phương án này bởi đây dường như

là cách tốt nhất để tránh vấn đề xung đột pháp luật trong nước, tránh được các mâu
thuẫn với các quy định của các văn bản pháp luật đã hoặc sẽ ban hành. Hơn nữa,
vào thời điểm ban hành Pháp lênh, quá trình đàm phán WTO mới bắt đầu đi vào
thực chất và còn nhiều nội dung mở cửa chưa đàm phán ngã ngũ, vì thế chưa thế
biết một cách chính xác về nội dung áp dụng MFN và NT cụ thể trong từng lĩnh
vực như thế nào.

Tại sao không có văn bản hướng dẫn Pháp lệnh MFN-NT?
Mặc dù là văn bản “gốc” trong hệ thống pháp luật Việt Nam về chế định
MFN và NT (hai chế định trụ cột của thương mại quốc tế hiện đại và khá phức
tạp) và lại tương đối ngắn gọn và giản lược, Pháp lệnh MFN-NT không có văn bản
hướng dẫn thi hành. Điều này được giải thích chủ yếu bởi các lý do sau đây:
- Pháp lệnh là văn bản “hình thức” về MFN và NT, các văn bản pháp luật
thương mại chuyên ngành mới là các văn bản quy định về nội dung MFN và/hoặc
NT trong lĩnh vực tương ứng; vì vậy nếu ban hành một văn bản hướng dẫn Pháp
lệnh để quy định về nội dung MFN và NT thì sẽ tạo ra hiện tượng chồng chéo với
các văn bản pháp luật chuyên ngành;
- Sau thời điểm ban hành Pháp lệnh này, Việt Nam tiếp tục thực hiện một
loạt đàm phán song phương và đa phương gia nhập WTO, vì vậy sẽ là không khả
thi và bất lợi cho đàm phán nhượng bộ nếu Việt Nam đã quy định trước trong một
văn bản cụ thể hướng dẫn Pháp lệnh về mức độ và nội dung MFN và/hoặc NT
- Vào thời điểm hiện tại, việc cho hưởng MFN và/hoặc NT trong lĩnh vực
nào, ở mức độ nào phụ thuộc vào từng cam kết cụ thể, kết quả của các đàm phán
thương mại giữa Việt Nam và các nước khác (trong đó quan trọng nhất là cam kết

www.trungtamwto.vn

5



Trung tâm WTO - VCCI
gia nhập WTO); vì thế, khó có thể bằng một văn bản hướng dẫn mà quy định về
nội dung MFN và NT cụ thể đối với tất cả nhóm đối tượng hàng hoá, dịch vụ
3.2 Về bố cục:
Pháp lệnh MFN, NT bao gồm 5 Chương, 24 Điều:
- Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 5);
- Chương II: Những quy định về MFN (từ Điều 6 đến Điều 14);
- Chương III: Những quy định về NT (từ Điều 15 đến Điều 17);
- Chương IV: Quản lý Nhà nước về MFN và NT (từ Điều 18 đến Điều 22);
- Chương V: Điều khoản thi hành (từ Điều 23 đến Điều 24).
3.3. Về nội dung:
3.3.1 Phạm vi áp dụng:
Pháp lệnh quy định về phạm vi, nguyên tắc, trường hợp áp dụng MFN và
NT trong thương mại quốc tế, gồm các lĩnh vực thương mại hàng hoá, thương mại
dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ.
3.3.2 Đối tượng áp dụng:
- Hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam và hàng hoá xuất khẩu từ Việt Nam;
- Dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài;
- Đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài;
- Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là tổ chức, cá nhân nước ngoài.
3.3.3 Nguyên tắc áp dụng:
Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế của Việt
Nam được áp dụng trên cơ sở bình đẳng, có đi có lại và cùng có lợi. Đây là
nguyên tắc quan trọng nhất, là điều kiện để Việt Nam đàm phán với các đối tác
(đặc biệt là các đàm phán gia nhập WTO sau khi thông qua Pháp lệnh này).
3.3.4 Nội dung cụ thể
3.3.4.1. Quy định về MFN

www.trungtamwto.vn


6


Trung tâm WTO - VCCI
Về các trường hợp áp dụng MFN (để trả lời cho câu hỏi “Khi nào thì Việt
Nam áp dụng MFN”), Điều 6 Pháp lệnh quy định nguyên tắc MFN được áp dụng
(một phần hoặc toàn bộ) trong các trường hợp sau đây:
- Pháp luật Việt Nam quy định áp dụng MFN (tức là trong những văn bản
pháp luật cụ thể có quy định áp dụng MFN cho từng vấn đề/lĩnh vực
thương mại cụ thể);
- Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định áp dụng MFN
(WTO hoặc các Hiệp định thương mại - đầu tư mà Việt Nam tham gia có
quy định về nghĩa vụ MFN cho các thành viên);
- Quốc gia hoặc vùng lãnh thổ trên thực tế đã áp dụng MFN đối với Việt
Nam (thực chất là các trường hợp “có đi có lại”, các nước áp dụng cho hàng
hoá dịch vụ Việt Nam thì Việt Nam cũng áp dụng MFN trở lại cho hàng
hoá dịch vụ của họ);
- Các trường hợp khác do Chính phủ quyết định (đây là quy định mở cho
phép Chính phủ có thể linh hoạt cho áp dụng MFN cho những trường hợp
đặc biệt không thuộc 03 trường hợp nói trên)

Việt Nam đã cam kết đối xử MFN với bao nhiêu nước?
Theo danh sách cập nhật tại Công văn của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công
Thương) số 0622/BTM-PC ngày 26/1/2007 thực hiện ngay sau khi Việt nam gia
nhập WTO thì tổng số các nước và vùng lãnh thổ đã có thoả thuận đối xử tối huệ
quốc với Việt Nam là 164 nước và vùng lãnh thổ (trong đó 149 nước và vùng lãnh
thổ là thành viên WTO).

Về nội dung cụ thể của nguyên tắc MFN, Pháp lệnh có quy định riêng về
nội dung nguyên tắc này đối với các lĩnh vực cụ thể như thương mại hàng hoá,

thương mại dịch vụ, đầu tư và sở hữu trí tuệ. Điều này cũng xuất phát từ tính khác
biệt đặc thù của từng lĩnh vực cụ thể được áp dụng MFN.
MFN trong thương mại hàng hoá

www.trungtamwto.vn

7


Trung tâm WTO - VCCI
Nguyên tắc MFN trong thương mại hàng hoá được định nghĩa là việc “đối
xử không kém thuận lợi hơn đối xử mà Việt Nam dành cho hàng hoá nhập khẩu có
xuất xứ từ một nước so với hàng hoá tương tự nhập khẩu có xuất xứ từ một nước
thứ ba hoặc hàng hoá xuất khẩu đến một nước so với hàng hoá tương tự xuất khẩu
đến một nước thứ ba” (Điều 3.1 Pháp lệnh). Hiểu một cách đơn giản, với nguyên
tắc này, Việt Nam không được phân biệt đối xử giữa hàng hoá từ các nước khác
nhau nhập khẩu vào Việt Nam, cũng không được phân biệt đối xử giữa hàng hoá
từ Việt Nam xuất khẩu đi các nước.
Về phạm vi áp dụng của nguyên tắc này, theo quy định tại Điều 7 Pháp
lệnh thì việc không phân biệt đối xử MFN được áp dụng đối với:
- Thuế (ví dụ như thuế nhập khẩu đánh vào hàng hoá nhập khẩu hoặc
thuế xuất khẩu đánh vào hàng xuất khẩu)
- Các khoản phí đánh vào hàng nhập khẩu hoặc xuất khẩu (ví dụ như phụ
thu nhập khẩu, các khoản thu thay đổi theo từng thời kỳ, thuế tiêu thụ
hoặc phí xuất khẩu)
- Các khoản phí thuộc bất kỳ loại nào có liên quan tới hàng nhập khẩu
hoặc xuất khẩu (ví dụ như phí hải quan, phí lãnh sự, phí kiểm tra chất
lượng)
- Các khoản phí đánh vào việc chuyển khoản thanh toán quốc tế đối với
hàng xuất khẩu, nhập khẩu (ví dụ như phí do nhà nước thu khi thực hiện

chuyển khoản)
- Các biện pháp đánh các khoản thuế và phí (ví dụ như biện pháp đánh
giá giá trị cơ sở để tính thuế hoặc phí hoặc hình thức tìm thông tin để
tính lượng thuế/phí phải thu hoặc quyết định mức độ thiệt hại để sử
dụng thuế chống phá giá hoặc thuế đối kháng)
- Tất cả các quy định và thủ tục liên quan đến việc xuất khẩu và nhập
khẩu (ví dụ yêu cầu cung cấp thông tin cụ thể hoặc thông báo khi xuất
khẩu hoặc nhập khẩu)

www.trungtamwto.vn

8


Trung tâm WTO - VCCI
- Các khoản thuế nội địa và phí nội địa (thu trực tiếp hoặc gián tiếp) (ví
dụ như thuế bán hàng, phí do các cơ quan địa phương thu)
- Các luật lệ, quy định và yêu cầu ảnh hưởng tới việc bán hàng trong
nước đối với việc tiêu thụ, mua hàng, vận chuyển, phân phối hoặc sử
dụng bất kỳ sản phẩm nào (ví dụ như yêu cầu về chứng nhận chất
lượng, các hạn chế có liên quan tới việc chuyên chở, lưu kho hoặc các
kênh bán lẻ, yêu cầu đóng gói đặc biệt hay việc hạn chế sử dụng).
Về các ngoại lệ, mặc dù đã có quy định chung về các trường hợp áp
dụng MFN, Pháp lệnh có quy định về những trường hợp ngoại lệ mà MFN sẽ
không áp dụng trong thương mại hàng hoá, bao gồm:
- Các ưu đãi dành cho các thành viên của thoả thuận về liên kết kinh tế
mà Việt Nam là thành viên (ví dụ Việt Nam tham gia AFTA trong
khuôn khổ ASEAN với các mức cam kết giảm thuế nhập khẩu mạnh
hơn so với cam kết giảm trong khuôn khổ WTO; và ưu đãi này được
xem là ngoại lệ của nguyên tắc MFN chung - tức là Việt Nam chỉ áp

dụng mức thuế nhập khẩu thấp theo AFTA cho các nước ASEAM mà
không có nghĩa vụ áp dụng chung mức thuế này cho các nước ngoài
ASEAN);
- Các ưu đãi dành cho các nước có chung đường biên giới với Việt Nam
trên cơ sở các hiệp định song phương (ví dụ ưu đãi mà hiện Việt Nam
đang áp dụng với hàng hoá từ Lào);
- Các ưu đãi dành cho các nước đang phát triển hoặc kém phát triển
(ngoại lệ này thường biết tới dưới tên quy tắc GSP mà nước nhập khẩu
có thể áp dụng trong từng trường hợp cụ thể - quy định này hiện nay ở
Việt Nam đến nay vẫn chưa có tiền lệ);
- Các ưu đãi theo các hiệp định quá cảnh mà Việt Nam là thành viên;
- Hoạt động đấu thầu mua sắm hàng hoá đối với các dự án sử dụng nguồn
vốn tài trợ của các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài và các dự án
khác theo quy định của Chính phủ;

www.trungtamwto.vn

9


Trung tâm WTO - VCCI
MFN trong thương mại dịch vụ
Nguyên tắc MFN trong thương mại dịch vụ được định nghĩa là việc “đối xử
không kém thuận lợi hơn đối xử mà Việt Nam dành cho dịch vụ và nhà cung cấp
dịch vụ của một nước so với dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ tương tự của nước
thứ ba”. Với nguyên tắc này, Việt Nam phải dành cho các nhà cung cấp dịch vụ và
các dịch vụ tương tự nhau nhưng đến từ các nước khác nhau sự đối xử bình đẳng.
Như vậy điểm khác biệt đầu tiên giữa MFN trong hàng hoá và MFN trong dịch vụ
là đối với trường hợp thứ nhất đối tượng nhắm tới là chỉ là hàng hoá (không bao
gồm chủ thể sản xuất ra hàng hoá) thì ở trường hợp thứ hai MFN lại áp dụng đối

với cả dịch vụ lẫn chủ thể cung cấp dịch vụ (điều này được lý giải là trong hầu hết
các trường hợp, không thể tách rời dịch vụ với người cung cấp dịch vụ).
Điểm khác biệt thứ hai là MFN trong thương mại dịch vụ có phạm vi áp
dụng là các biện pháp điều chỉnh hoạt động thương mại dịch vụ có sự tham gia của
nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trên lãnh thổ Việt Nam (mà không liệt kê cụ thể
các biện pháp như trong trường hợp MFN đối với thương mại hàng hoá). Bởi các
vấn đề về dịch vụ bao hàm cả nhà cung cấp dịch vụ nên các biện pháp áp dụng có
thể rất đa dạng, và không chỉ dừng lại ở các loại thuế, phí như đối với hàng hoá
nên khó có thể liệt kê hết (ví dụ các biện pháp áp dụng cho người cung cấp dịch vụ
như giấy phép hành nghề, chứng chỉ ).
Các trường hợp ngoại lệ không áp dụng MFN trong lĩnh vực dịch vụ cũng
đa dạng hơn so với ngoại lệ đối với MFN trong thương mại hàng hoá (do mức độ
cam kết nhượng bộ về dịch vụ giữa các nước còn hạn chế hơn rất nhiều so với
thương mại hàng hoá), cụ thể bao gồm:
- Các ngoại lệ ghi nhận trong bản thân các điều ước quốc tế (song phương
hoặc đa phương) mà Việt Nam là thành viên;
- Các ưu đãi dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của các nước có
chung đường biên giới với Việt Nam;
- Các ưu đãi dành cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài trong
các thoả thuận khu vực hoặc các thoả thuận thương mại tự do (về

www.trungtamwto.vn

10


Trung tâm WTO - VCCI
nguyên tắc các thoả thuận kiểu như vậy có giá trị ưu tiên áp dụng so với
nguyên tắc MFN trong khuôn khổ WTO);
- Đấu thầu cung cấp dịch vụ cho các dự án sử dụng nguồn vốn tài trợ của

các tổ chức quốc tế hoặc của nước ngoài và các dự án khác theo quy
định của chính phủ.
Danh sách các ngoại lệ này cũng để mở cho Chính phủ có thể bổ sung các
trường hợp khác phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh từng thời kỳ.
Nguyên tắc là vậy nhưng trên thực tế thế giới cũng như Việt Nam, việc áp
dụng MFN trong dịch vụ hạn chế rất nhiều so với MFN trong thương mại hàng
hoá bởi có rất nhiều lĩnh vực dịch vụ chưa có cam kết hoặc không cam kết MFN
hoặc cam kết MFN nhưng với rất nhiều điều kiện. So với thương mại hàng hoá,
mức độ mở cửa thị trường của thương mại dịch vụ còn rất hạn chế.
MFN trong đầu tư
MFN trong đầu tư được định nghĩa là việc “đối xử không kém thuận lợi hơn
đối xử mà Việt Nam dành cho đầu tư và nhà đầu tư của một nước so với đầu tư và
nhà đầu tư của nước thứ ba trong những điều kiện tương tự”. Điều này được hiểu
là các khoản đầu tư, hoạt động đầu tư và các nhà đầu tư đến Việt Nam từ các nước
khác nhau nhưng có các điều kiện tương tự nhau sẽ được đối xử bình đẳng ở Việt
Nam.
Phạm vi áp dụng của nguyên tắc MFN được quy định tại Điều 11 Pháp lệnh
bao gồm:
- Thủ tục, điều kiện thành lập, bán, mua lại, mở rộng cơ sở kinh doanh và
các khoản đầu tư
- Quy tắc quản lý, điều hành, vận hành cơ sở sản xuất, kinh doanh và các
khoản đầu tư;
- Các biện pháp định đoạt bằng các hình thức khác.
Các ngoại lệ đối với nguyên tắc MFN trong đầu tư không được liệt kê cụ
thể, và chỉ phải tuân thủ điều kiện “phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên”. Điều này cũng có nghĩa phạm vi ngoại lệ

www.trungtamwto.vn

11



Trung tâm WTO - VCCI
của MFN trong đầu tư là rất rộng (so với MFN trong thương mại hàng hoá, dịch
vụ).
MFN đối với quyền sở hữu trí tuệ
MFN đối với quyền sở hữu trí tuệ được định nghĩa là việc “đối xử không
kém thuận lợi hơn đối xử mà Việt Nam dành cho việc xác lập, bảo hộ và thực thi
các quyền sở hữu trí tuệ và mọi lợi ích có được từ các quyền đó của tổ chức, cá
nhân một nước so với tổ chức, cá nhân nước thứ ba”. Có thể hiểu ngắn gọn là với
nguyên tắc này, các quy trình, thủ tục và nội dung về xác lập, bảo hộ và thực thi
các quyền sở hữu trí tuệ của các chủ thể đến từ các nước khác nhau tại Việt Nam
sẽ như nhau, không có khác biệt.
Đối tượng áp dụng của nguyên tắc là tất cả các quyền sở hữu trí tuệ được
Việt Nam bảo hộ theo pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là
thành viên, cụ thể:
- Quyền tác giả và quyền liên quan;
- Quyền sở hữu công nghiệp đối với sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu
dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, chỉ dẫn địa lý bao gồm cả tên
gọi xuất xứ hàng hoá, tên thương mại, bí mật kinh doanh, thiết kế bố trí
mạch tích hợp, giống cây trồng;
- Quyền chống cạnh tranh không đúng pháp luật liên quan đến quyền sở
hữu công nghiệp và các quyền sở hữu trí tuệ khác.
Các trường hợp ngoại lệ không áp dụng MFN trong lĩnh vực này bao gồm:
- Các ngoại lệ quy định tại điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên;
- Các biện pháp (bằng quy định hoặc biện pháp thực tế) để đảm bảo thực
thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ tại Việt Nam (bao gồm cả
các yêu cầu về đại diện và địa điểm giao dịch tại Việt Nam của các chủ
thể nước ngoài trong các thủ tục hành chính hoặc xét xử tư pháp);
3.3.4.2. Quy định về NT

Khác với phần MFN, Pháp lệnh MFN-NT chỉ quy định các trường hợp áp
dụng và ngoại lệ không áp dụng NT mà không quy định cụ thể nội dung, mức độ

www.trungtamwto.vn

12


Trung tâm WTO - VCCI
được hưởng NT cũng như phạm vi áp dụng nguyên tắc này. Điều này được lý giải
bởi mục tiêu và tính chất của nguyên tắc NT chính là việc bảo đảm bình đẳng về
cơ hội cạnh tranh giữa hàng hoá dịch vụ nước ngoài với hàng hoá. dịch vụ trong
nước tại thị trường Việt Nam, mà đây lại là một vấn đề rất phức tạp và còn nhiều
tranh cãi bởi nó liên quan đến mức độ và quan điểm bảo hộ sản xuất trong nước
tới đâu để vừa bảo đảm hội nhập kinh tế quốc tế vừa tránh được những đổ vỡ lớn
đối với sản xuất trong nước. Nội dung, mức độ cụ thể được hưởng NT sẽ tuỳ thuộc
vào quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật khác điều chỉnh các lĩnh vực có
liên quan. Cho đến nay, khi đã là thành viên WTO, mức độ cho hưởng NT của
Việt Nam chủ yếu căn cứ trên những cam kết mở cửa của Việt Nam về hàng hoá,
dịch vụ khi gia nhập WTO.
Về các trường hợp áp dụng NT (nói chung), Pháp lệnh quy định tương tự
như các trường hợp áp dụng MFN (xem Mục 3.3.4.1).
Các trường hợp ngoại lệ đối với nguyên tắc NT được quy định trong Pháp
lệnh bao gồm:
- Việc mua sắm của Chính phủ Việt Nam nhằm mục đích tiêu dùng của
Chính phủ (lưu ý là khái niệm “chính phủ” được hiểu theo nghĩa rộng, bao
gồm các
3.3.5 Cơ quan quản lý nhà nước về MFN và NT:
Để có thể thực hiện một cách có hiệu quả các nội dung quản lý nhà nước về
MFN và NT, Pháp lệnh giao Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về MFN và

NT. Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương) là cơ quan đầu mối chịu trách
nhiệm trước Chính phủ thực hiện việc thống nhất quản lý nhà nước về MFN và
NT.
Bộ Công Thương và các Bộ, ngành đều có thể đề xuất và trình Chính phủ
quyết định (hoặc trình tiếp lên các cơ quan có thẩm quyền quyết định) việc áp
dụng hoặc không áp dụng MFN và/hoặc NT trong các lĩnh vực quản lý nhà nước
của mình. Trường hợp Bộ Công Thương đề xuất, phải có ý kiến bằng văn bản của

www.trungtamwto.vn

13


Trung tâm WTO - VCCI
các Bộ, ngành liên quan; ngược lại, nếu các Bộ, ngành đề xuất thì phải có ý kiến
bằng văn bản của Bộ Công Thương.
Thẩm quyền trong việc ký kết, gia nhập và thực hiện các điều ước quốc tế
liên quan đến MFN và/hoặc NT sẽ thực hiện theo Luật ký kết, gia nhập và thực
hiện điều ước quốc tế và các văn bản hướng dẫn Luật này.

www.trungtamwto.vn

14


Trung tâm WTO - VCCI
II - PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ TỰ VỆ
1. Văn bản quy phạm pháp luật về Tự vệ
- Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 42/2002/PL-UBTVQH10
ngày 25/5/2002 về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt

Nam;
- Nghị định của Chính phủ số 150/2003/NĐ-CP ngày 8/12/2003 quy định
chi tiết thi hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước
ngoài vào Việt Nam;
- Nghị định của Chính phủ số 04/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 về việc
thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức
của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ;
- Nghị định của Chính phủ số 06/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 về việc quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý
cạnh tranh;
2. Bối cảnh ban hành văn bản quy phạm pháp luật về Tự vệ
Trong thời gian qua, Việt Nam đã tiến hành chủ động từng bước hội nhập
vào nền kinh tế khu vực và thế giới: tham gia ASEAN, APEC, ASEM, ký kết Hiệp
định Thương mại Việt-Mỹ, Hiệp định khung với EU, và đặc biệt là việc hoàn
thành đàm phán và chính thức gia nhập WTO ngày 11/1/2007. Hội nhập kinh tế
quốc tế giúp ta tận dụng được thị trường quốc tế để gia tăng xuất khẩu, mặt khác
đáp ứng được các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế. Tuy nhiên, hội nhập cũng
đồng thời là quá trình mở cửa thị trường trong nước cho hàng hoá và dịch vụ nước
ngoài và một điều không tránh khỏi là quá trình này cũng làm cho nền kinh tế
nước ta chịu ảnh hưởng nhiều hơn của các biến động trên thị trường thế giới.
Bên cạnh những mặt tích cực, thị trường quốc tế cũng tiềm ẩn nhiều ảnh
hưởng tiêu cực khó có thể dự đoán trước được. Khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở
một số nước Đông Á, sự biến động của giá cả một số mặt hàng nông sản và
nguyên nhiên liệu trong thời gian qua là minh chứng rõ rệt của các tác động bất lợi
của thị trường quốc tế đến nền kinh tế Việt Nam. Ngoài ra, việc mở cửa thị trường

www.trungtamwto.vn

15



Trung tâm WTO - VCCI
trong nước cũng khiến các ngành sản xuất trong nước trở nên nhạy cảm hơn trước
luồng hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài (ở tất cả các yếu tố từ sản xuất, giá cả
đến tái đầu tư, khả năng phát triển ). Vì vậy, nhu cầu tất yếu của tất cả các nền
kinh tế là cần có công cụ điều tiết vĩ mô hiệu quả để giảm thiểu ảnh hưởng bất lợi
do các biến động trên thị trường quốc tế và hàng hoá nhập khẩu gây ra. Các biện
pháp tự vệ chính là một trong những công cụ quan trọng đáp ứng mục tiêu trên.
Trong khi đó, các biện pháp can thiệp trực tiếp vào lưu lượng nhập khẩu
hàng hoá lại phải giảm thiểu theo các nghĩa vụ của Việt Nam trong WTO (giảm và
loại bỏ các hàng rào phi thuế quan như cấm nhập khẩu, cấp phép, hạn ngạch , chỉ
sử dụng thuế nhập khẩu để bảo vệ sản xuất nội địa, giảm dần thuế nhập khẩu ),
Việt Nam cần xây dựng các công cụ quản lý thương mại mới nhằm bổ sung tính
linh hoạt trong công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động nhập khẩu. Bên
cạnh các công cụ bảo vệ sản xuất trong nước trước các hành vi thương mại quốc tế
không lành mạnh như thuế chống bán phá giá và thuế chống trợ cấp, chúng ta cần
có một cơ chế để áp dụng các biện pháp tự vệ nhằm khắc phục tình trạng mất
ổn định trên thị trường trong nước do diễn biến bất thường của nhập khẩu một
hàng hóa cụ thể gây ra.
Nói cách khác, các biện pháp tự vệ là cái van an toàn cho các ngành sản
xuất hàng hoá trong nước mà Nhà nước Việt Nam có thể sử dụng khi cần thiết
(theo yêu cầu của ngành sản xuất liên quan) nhằm ngăn ngừa, hạn chế hoặc điều
chỉnh các tác động bất lợi do việc nhập khẩu hàng hoá ồ ạt và bất thường gây ra,
dù cho sự tăng nhập khẩu đó xuất phát từ những hoạt động thương mại lành mạnh.
Thực tiễn thương mại quốc tế cho thấy các biện pháp tự vệ là một trong
những công cụ hiệu quả để bảo hộ sản xuất trong nước. Hiệp định Tự vệ của
WTO thừa nhận các biện pháp tự vệ là một công cụ hỗ trợ các nhà sản xuất trong
nước khi có hiện tượng gia tăng nhập khẩu hàng hoá một cách bất thường gây ra
hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Đây là
một trong những công cụ quản lý nhập khẩu hiệu quả, linh hoạt, được sử dụng ở

nhiều nước nhằm giúp các nhà sản xuất trong nước có điều kiện từng bước thích
ứng với môi trường cạnh tranh quốc tế.

www.trungtamwto.vn

16


Trung tâm WTO - VCCI
Tuy nhiên, để tránh việc các nước lạm dụng công cụ này để bảo hội một
cách bất hợp lý sản xuất trong nước, Hiệp định về tự vệ của WTO đã đưa ra những
hạn chế nhất định thông qua các nguyên tắc, thủ tục và trình tự chung nêu tại Hiệp
định này. Các thành viên WTO phải tuân thủ những nguyên tắc này khi ban hành
pháp luật nội địa về tự vệ (các nước chưa phải thành viên WTO cũng được khuyến
khích áp dụng các nguyên tắc này). Ngoài ra, điểm cần đặc biệt lưu ý là các biện
pháp tự vệ không phải là một công cụ “miễn phí” – các nước thành viên WTO khi
sử dụng công cụ này phải trả giá cho việc này. Hiệp định Tự vệ của WTO quy
định nước thành viên WTO quyết định áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi thường
thương mại cho các nước thành viên khác bị ảnh hưởng bởi các biện pháp này
(thường là thông qua biện pháp giảm thuế quan đối với các mặt hàng khác);
trường hợp nước áp dụng không bồi thường, các nước khác có thể áp dụng các
biện pháp trả đũa (ngừng việc thực hiện một số cam kết và nghĩa vụ WTO đối với
nước áp dụng biện pháp tự vệ) với một số điều kiện nhất định.
Tại sao việc áp dụng biện pháp tự vệ lại kéo theo nghĩa vụ “bồi thường thương
mại”?
Về hình thức, đây là một quy định “mâu thuẫn”. Áp dụng biện pháp tự vệ là để
bảo vệ ngành sản xuất nước nhập khẩu khỏi thiệt hại từ hàng hoá nhập khẩu ồ ạ
(tức là để bảo vệ một số lợi ích thương mại). “Bồi thường thương mại” lại tước đi
những lợi ích thương mại (ở mức độ tương ứng) của nước đã áp dụng biện pháp tự
vệ.

Tuy nhiên, đạo lý của quy định này là ở chỗ hoạt động nhập khẩu bị ngăn chặn bởi
biện pháp tự vệ về nguyên tắc là hoàn toàn lành mạnh, không vi phạm quy định
thương mại nào và do đó không đáng bị trừng phạt (khác với trường hợp nhập
khẩu hàng bán phá giá hoặc hàng được trợ cấp gây bóp méo thương mại). Do đó,
không thể vì lợi ích của ngành sản xuất trong nước mà tước đi hoàn toàn lợi ích
hợp pháp liên quan của các nước xuất khẩu hàng hoá. Nước nhập khẩu sẽ phải
“bồi thường thương mại” ở lĩnh vực khác để đảm bảo không tước đi một cách thô
bạo lợi ích thương mại của các nước xuất khẩu.
Với quy định này, nước nhập khẩu trước khi áp dụng biện pháp tự vệ sẽ phải cân

www.trungtamwto.vn

17


Trung tâm WTO - VCCI
nhắc đầy đủ về việc có cần thiết phải bảo vệ ngành sản xuất nội địa liên quan
không, và lựa chọn chấp nhận hy sinh lợi ích thương mại nào.
Đối với Việt Nam, việc ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh việc áp
dụng các biện pháp tự vệ là nhằm vận dụng công cụ bảo hộ hợp pháp này. Tuy
nhiên, một trong những vấn đề gây nhiều lúng túng trong thời gian qua là việc
thực thi nên tiến hành như thế nào, ví dụ:
- Chọn ngành nào để bảo hộ và bảo hộ thế nào cho hợp lý, tránh không để
doanh nghiệp ỷ lại, lợi dụng sự bảo hộ của nhà nước. Các biện pháp tự
vệ được áp dụng dựa trên tín hiệu thị trường nên việc bảo hộ mang tính
nhanh nhạy, đúng đối tượng. Mức độ bảo hộ được tính toán kỹ càng,
dựa trên các số liệu kinh tế nên sát với thực tiễn. Thời gian bảo hộ cũng
được xác định trước, vì vậy các doanh nghiệp được bảo hộ không thể ỷ
lại vào nhà nước mà phải tự thân vận động, nâng cao năng lực cạnh
tranh của mình tương đương với tầm quốc tế.;

- Xác định mức độ sẵn sàng của Nhà nước và các lĩnh vực thương mại
khác đối với việc bồi thường thương mại cho các nước có hàng hoá bị
áp dụng biện pháp tự vệ (Chính phủ có sẵn sàng hy sinh những lợi ích
thương mại từ các lĩnh vực khác để bảo hộ cho ngành sản xuất liên quan
không, và ở mức độ nào) và khả năng đối phó với các biện pháp trả đũa,
nếu có, như thế nào.
Tóm lại, các biện pháp tự vệ là công cụ quản lý nhập khẩu cần thiết, hiệu
quả, được WTO công nhận để bảo hộ các ngành sản xuất trong nước còn non kém,
chưa đủ điều kiện cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Do đó, việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật về tự vệ là cần thiết và cấp bách, thể hiện tính chủ
động của Việt Nam trong vận dụng các chuẩn mực quốc tế chung vào nội luật và
chính sách thương mại. Tuy nhiên việc áp dụng trên thực tế có nhiều điểm nhạy
cảm nên việc đưa văn bản này vào thực tiễn còn phụ thuộc nhiều yếu tố khác
nhau.
3. Bố cục và nội dung của văn bản quy phạm pháp luật về Tự vệ

www.trungtamwto.vn

18


Trung tâm WTO - VCCI
Trong loạt các văn bản pháp luật về tự vệ, Pháp lệnh về tự vệ trong nhập
khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam (sau đây gọi là Pháp lệnh Tự vệ) là văn
bản gốc, quy định những nội dung cơ bản nhất về vấn đề này. Do đó, các phân tích
về hình thức và nội dung của văn bản này sẽ cho cái nhìn toàn cảnh về công cụ
này trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, phần trình bày chi tiết có bổ
sung các quy định hướng dẫn, làm rõ từ Nghị định 150/2003/NĐ-CP hướng dẫn
Pháp lệnh này.
3.1. Về cơ sở xây dựng

Xây dựng trong giai đoạn Việt Nam đang đàm phán gia nhập WTO, Pháp
lệnh Tự vệ được biên soạn trên cơ sở tuân thủ đầy đủ các quy định của WTO về
các biện pháp tự vệ (Hiệp định Tự vệ) mà cụ thể là Văn bản mẫu của WTO về
biện pháp tự vệ có tính đến các điều kiện cụ thể của hệ thống pháp luật Việt Nam.
Pháp lệnh quy định cả những vấn đề nội dung (điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ)
và thủ tục (trình tự, thủ tục điều tra để ra quyết định có áp dụng hay không áp
dụng biện pháp tự vệ).
Cũng tuân thủ Hiệp định Tự vệ, Pháp lệnh chỉ tập trung vào các biện pháp
tự vệ áp dụng cho hàng hoá (tức là không bao gồm dịch vụ, đầu tư ).
3.2. Về bố cục
Pháp lệnh về tự vệ gồm 8 Chương, 33 Điều:
- Chương I: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 8);
- Chương II: Điều tra để áp dụng các biện pháp tự vệ (từ Điều 9 đến Điều
19);
- Chương III: Áp dụng các biện pháp tự vệ (từ Điều 20 đến Điều 23);
- Chương IV: Rà soát các biện pháp tự vệ (từ Điều 24 đến Điều 25);
- Chương V: Gia hạn và tái áp dụng các biện pháp tự vệ (từ Điều 26 đến
Điều 27);
- Chương VI: Quản lý Nhà nước về áp dụng các biện pháp tự vệ (từ Điều 28
đến Điều 29);
- Chương VII: Khiếu nại và xử lý vi phạm (từ Điều 30 đến Điều 31 )

www.trungtamwto.vn

19


Trung tâm WTO - VCCI
- Chương VIII: Điều khoản thi hành (từ Điều 32 đến Điều 33).
Nghị định hướng dẫn Pháp lệnh về tự vệ gồm 4 Chương, 17 Điều:

- Chương I: Các quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 4);
- Chương II: Điều tra để áp dụng các biện pháp tự vệ (từ Điều 5 đến Điều
10);
- Chương III: Áp dụng các biện pháp tự vệ (từ Điều 11 đến Điều 15);
- Chương IV: Điều khoản thi hành (từ Điều 16 đến Điều 17).
3.3. Về nội dung:
3.3.1 Phạm vi áp dụng và đối tượng điều chỉnh:
Pháp lệnh tự vệ quy định cụ thể hình thức áp dụng các biện pháp tự vệ; các
điều kiện, thủ tục và tổ chức bộ máy điều hành để có thể áp dụng các biện pháp tự
vệ trong trường hợp nhập khẩu hàng hoá quá mức vào Việt Nam gây thiệt hại
nghiêm trọng cho sản xuất trong nước.
3.3.2 Hình thức của các biện pháp tự vệ:
Mục tiêu của các biện pháp tự vệ là hạn chế lượng hàng nhập khẩu vào lãnh
thổ Việt Nam, do đó, hai hình thức tự vệ phổ biến nhất được ghi nhận trong Pháp
lệnh Tự vệ là (i) Tăng thuế nhập khẩu và (ii) Áp dụng biện pháp hạn ngạch nhập
khẩu.
Riêng thuế nhập khẩu có thể áp dụng theo hai cách: tăng thuế suất thuế
nhập khẩu đang áp dụng hoặc áp dụng thuế nhập khẩu bổ sung. Nếu chọn hình
thức thuế nhập khẩu bổ sung thì cần phải sửa đổi, bổ sung Luật Thuế xuất khẩu,
Thuế nhập khẩu vì tại thời điểm ban hành Pháp lệnh chưa có quy định về việc áp
dụng thuế nhập khẩu bổ sung trong trường hợp tự vệ. Do đó, việc quy định hình
thức tăng thuế suất thuế nhập khẩu là phù hợp với hệ thống pháp luật của Việt
Nam vào thời điểm đó và cũng như hiện nay (Điều 11 Luật Thuế Xuất khẩu, Thuế
Nhập khẩu 2005 quy định biện pháp về thuế để tự vệ là “tăng mức thuế nhập khẩu
đối với hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Việt Nam theo quy định của pháp luật về
tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam”).

www.trungtamwto.vn

20



Trung tâm WTO - VCCI
Ngoài ra, có thể áp dụng các biện pháp tự vệ khác như hạn ngạch thuế
quan, thuế tuyệt đối, phụ thu, giấy phép, cấm nhập khẩu v.v đối với hàng hoá
nhập khẩu liên quan.
3.3.3 Điều kiện áp dụng các biện pháp tự vệ:
Chỉ khi điều tra chứng minh được sự hội tụ đầy đủ của các điều kiện sau
đây thì cơ quan có thẩm quyền mới được quyết định áp dụng biện pháp tự vệ:
- Có sự gia tăng đột biến về số lượng nhập khẩu của một loại hàng hoá nhất
định;
- Sự gia tăng nhập khẩu đó là nguyên nhân gây ra hoặc có nhiều khả năng sẽ
gây ra các thiệt hại nghiêm trọng đến ngành sản xuất trong nước sản xuất
loại hàng hoá tương tự với hàng hoá nhập khẩu đó. Thiệt hại phải được xem
xét từ nhiều góc độ, ví dụ ảnh hưởng bất lợi đến doanh thu, lợi nhuận, công
ăn việc làm v.v của các doanh nghiệp nói chung;
Trường hợp ngoại lệ: Biện pháp tự vệ có thể không được áp dụng dù đã hội
tủ đầy đủ 02 điều kiện trên nếu việc áp dụng biện pháp tự vệ đó dẫn đến (i) thiệt
hại cho kinh tế - xã hội trong nước hoặc (ii) thiệt hại cho lợi ích của đa số các nhà
tiêu dùng hàng hoá đó (ví dụ như không để việc bảo hộ sản xuất phân bón trong
nước làm cho nông dân phải chịu thiệt thòi khi phải mua phân bón với giá quá
cao). Chính phủ có thể quy định thêm các loại hệ quả khác.
3.3.4 Điều tra phục vụ việc áp dụng các biện pháp tự vệ:
Theo quy định tại Hiệp định Tự vệ của WTO (và được nội luật hoá trong
Pháp lệnh Tự vệ), Việt Nam sẽ chỉ áp dụng biện pháp tự vệ sau khi tiến hành thủ
tục điều tra (đảm bảo các nguyên tức về trình tự điều tra và quyền tố tụng của các
bên).
Mục tiêu chủ yếu của việc điều tra là xác minh có tồn tại hay không các
điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ.
Cụ thể việc điều tra được thực hiện theo trình tự sau:

Bước 1: Ngành sản xuất hàng tương tự trong nước nộp đơn yêu cầu áp
dụng biện pháp tự vệ lên Bộ Công Thương (Cục quản lý cạnh tranh); Đơn yêu cầu

www.trungtamwto.vn

21


Trung tâm WTO - VCCI
và chủ thể yêu cầu phải đáp ứng các điều kiện cụ thể (đơn phải có đầy đủ nội dung
yêu cầu, có bằng chứng ban đầu; chủ thể yêu cầu phải đại diện được cho ngành
sản xuất liên quan);
Bước 2: Bộ Thưong mại xem xét đơn kiện và ra quyết định điều tra hoặc
không điều tra;
Bước 3: Bộ Công Thương tiến hành điều tra về 02 vấn đề (i) có sự gia tăng
đột biến về số lượng hàng nhập khẩu không và (ii) việc gia tăng có gây thiệt hại
nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước không. Các bên liên quan được đảm
bảo quyền cung cấp thông tin, trình bày trước cơ quan điều tra để bảo vệ quyền lợi
của mình.
Bước 4: Kết luận điều tra về 02 vấn đề điều tra;
Bước 5: Quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tự vệ
Bước 6: Rà soát lại các biện pháp tự vệ để quyết định tiếp tục, chấm dứt
hoặc điều chỉnh biện pháp tự vệ.
Các biện pháp tự vệ chỉ được áp dụng sau khi cơ quan có thẩm quyền (Cục
Quản lý cạnh tranh) đã tiến hành điều tra về hàng hoá nhập khẩu và ảnh hưởng
đến các nhà sản xuất trong nước. Trong trường hợp đặc biệt khẩn cấp, có thể áp
dụng các biện pháp tự vệ tạm thời trước khi có kết quả điều tra cuối cùng để ngăn
chặn các hậu quả xấu xảy ra (các biện pháp tự vệ tạm thời phải tuân thủ các quy
định tương đối nghiêm ngặt về thời hạn và mức độ).
Cơ quan chịu trách nhiệm điều tra về các biện pháp tự vệ cũng sẽ làm rõ

mức chênh lệch giữa năng lực cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước so với
hàng nhập khẩu để đi đến quyết định về mức bảo hộ cần thiết. Mức bảo hộ này đủ
để các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh nhưng cũng không thái quá, tránh tình
trạng doanh nghiệp lợi dụng tăng giá hàng hoá, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Trong thời gian áp dụng các biện pháp tự vệ, các cơ quan chức năng sẽ luôn
luôn theo dõi sát tình hình, từng bước nới lỏng hạn chế nhằm tăng dần cạnh tranh,
giúp các doanh nghiệp làm quen dần với hội nhập kinh tế quốc tế.

www.trungtamwto.vn

22


Trung tâm WTO - VCCI
Nhìn chung, các biện pháp tự vệ sẽ không được áp dụng tràn lan vì nước xuất khẩu
có khả năng trả đũa, gây bất lợi cho hàng xuất khẩu của ta.
3.3.5 Thời hạn áp dụng các biện pháp tự vệ:
Theo quy định, các biện pháp tự vệ được áp dụng tối đa trong vòng 4 năm.
Sau thời hạn này, các doanh nghiệp được suy đoán là sẽ biết rõ thời gian mình
được bảo hộ và sẽ có kế hoạch điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh và do
đó cần chấm dứt biện pháp tự vệ.
Tuy nhiên, trong trường hợp các doanh nghiệp thuộc một ngành kinh tế đã
cố gắng hết sức nhưng do các điều kiện khách quan vẫn không thể cạnh tranh
được với hàng hoá nhập khẩu, nhà nước có thể xem xét gia hạn các biện pháp tự
vệ bảo hộ cho ngành đó. Thời gian gia hạn các biện pháp tự vệ không vượt quá 6
năm.
Như vậy, tổng thời gian tối đa mà một ngành được bảo hộ là không quá 10
năm. Thời hạn này phù hợp với thông lệ quốc tế dành cho các nước đang phát
triển như Việt Nam và phù hợp với quy định về tự vệ của WTO. Đây là thời gian
tương đối dài. Trên thực tế ở các nước khác, thời gian này đủ để cho các doanh

nghiệp thuộc một ngành kinh tế thích nghi với cạnh tranh quốc tế. Thực tế cũng
cho thấy, nếu một ngành được bảo hộ đến 10 năm mà vẫn chưa có khả năng cạnh
tranh quốc tế thì đó là ngành ta không có lợi thế so sánh, không nên khuyến khích
phát triển.
3.3.6 Tổ chức bộ máy áp dụng các biện pháp tự vệ:
Để có thể áp dụng các biện pháp tự vệ, cần có một cơ quan chuyên trách
chịu trách nhiệm các khâu từ nhận hồ sơ, tiến hành các công việc điều tra, ra quyết
định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp tự vệ và các công tác khác như thu
thập thông tin, tổ chức nghiên cứu v.v Bộ Công Thương là cơ quan đầu mối thực
hiện các công việc trên, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được Chính
phủ giao. Để áp dụng có hiệu quả các biện pháp tự vệ, cũng cần có sự phối hợp
chặt chẽ của một số Bộ/ngành hữu quan, đặc biệt là Bộ Tài chính, các Bộ chuyên
ngành phụ trách các ngành sản xuất, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thống kê.

www.trungtamwto.vn

23


Trung tâm WTO - VCCI
Cụ thể, các cơ quan sau đây sẽ chịu trách nhiệm chủ yếu trong việc áp dụng
biện pháp tự vệ:
- Cục Quản lý cạnh tranh - Bộ Công Thương: Chịu trách nhiệm điều tra,
trình kết quả điều tra và đề xuất cách thức xử lý cho cơ quan có thẩm
quyền;
- Hội đồng xử lý - Bộ Công Thương: Xem xét, nghiên cứu kết quả điều
tra của Cục quản lý cạnh tranh, thảo luận và kiến nghị Bộ trưởng Bộ
Công Thương về cách thức xử lý;
- Bộ trưởng Bộ Công Thương: Quyết định có hoặc không áp dụng biện
pháp tự vệ



www.trungtamwto.vn

24


Trung tâm WTO - VCCI
III- PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
1. Văn bản quy phạm pháp luật về chống bán phá giá
- Pháp lệnh của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội số 20/2004/PL-UBTVQH11
ngày 29 tháng 4 năm 2004 về việc chống bán phá giá hàng hoá nhập
khẩu vào Việt Nam.
- Nghị định của Chính phủ số 90/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 7 năm 2005
hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh chống bán phá
giá hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam.
- Nghị định của Chính phủ số 04/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 về việc
thành lập và quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức
của Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ;
- Nghị định của Chính phủ số 06/2006/NĐ-CP ngày 9/1/2006 về việc quy
định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục quản lý
cạnh tranh;
- Thông tư của Bộ Tài chính số 106/2005/TT-BTC ngày 5/12/2005 hướng
dẫn thu, nộp, hoàn trả thuế chống bán phá giá, chống trợ cấp và các
khoản bảo đảm thanh toán thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp.
2. Bối cảnh ban hành văn bản quy phạm pháp luật về chống bán phá giá
Trong thương mại quốc tế, bán phá giá được hiểu là tình huống xảy ra khi
một mặt hàng được xuất khẩu từ nước này sang nước khác với giá thấp hơn giá
bán mặt hàng đó trong điều kiện thương mại thông thường ở thị trường nội địa
nước xuất khẩu (với cách hiểu này, bán phá giá trong thương mại hàng hoá hoàn

toàn khác so với khái niệm bán phá giá trong thương mại nội địa - vốn được hiểu
là việc bán hàng hoá dưới giá thành). Việc bán phá giá sẽ tạo điều kiện cho người
tiêu dùng và các ngành sản xuất sử dụng hàng nhập khẩu làm nguyên liệu đầu vào
ở nước nhập khẩu có cơ hội tiếp cận với hàng hóa/nguyên liệu rẻ hơn, nhưng lại có
thể gây thiệt hại cho ngành sản xuất hàng hóa tương tự của nước nhập khẩu.
Theo quy định của WTO, nước nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp
chống bán phá giá đối với hàng hoá nhập khẩu khi hàng hoá này bị bán phá giá và

www.trungtamwto.vn

25


Trung tâm WTO - VCCI
gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất nội địa nước nhập
khẩu. Mục đích của việc áp dụng các biện pháp này là nhằm triệt tiêu những ảnh
hưởng bất lợi do việc hàng nhập khẩu bị bán phá giá gây ra đối với ngành sản xuất
trong nước.
Thực tiễn thương mại quốc tế cho thấy các biện pháp chống bán phá giá
là một trong những công cụ hiệu quả để bảo vệ quyền lợi chính đáng của các
nhà sản xuất trong nước chống lại hành vi thương mại không lành mạnh từ
nước ngoài (mà ở đây là hành vi bán phá giá). Công cụ này được thừa nhận về
mặt pháp lý trong khuôn khổ WTO (và do đó là hợp pháp), tuy nhiên, trên thực tế
trong không ít trường hợp công cụ này đã bị các nước nhập khẩu lạm dụng nhằm
bảo hộ một cách trá hình cho các ngành sản xuất nội địa. Để hạn chế hiện tượng
này, Hiệp định về chống bán phá giá của WTO quy định một loạt các nguyên tắc,
thủ tục và trình tự chung mà các nước thành viên WTO buộc phải tuân thủ (khi
xây dựng pháp luật nội địa của mình về vấn đề này và khi thực thi pháp luật đó
trong thực tế).
Trong hoàn cảnh Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế

quốc tế với mức độ mở cửa thị trường mạnh mẽ (đặc biệt thông qua việc cắt giảm
các biện pháp phi thuế quan và giảm thuế suất), nguy cơ hàng hoá nước ngoài bán
phá giá vào Việt Nam với các mục đích khác nhau (bán tháo hàng, bán phá giá để
chiếm thị phần rồi sau đó mới nâng giá cao ) cũng theo đó mà ngày càng gia
tăng. Và nếu điều này là hiện thực, thiệt hại mà các ngành sản xuất nội địa phải
gánh chịu sẽ là rất đáng kể.
Chính vì vậy, việc ban hành một văn bản về chống bán phá giá đối với hàng
hoá nhập khẩu vào Việt Nam là cần thiết và phù hợp. Một mặt, điều này thể hiện
tính chủ động của Việt Nam trong việc áp dụng các chuẩn mực thương mại quốc
tế chung (vào thời điểm năm 2002, Việt Nam chưa phải là thành viên WTO và về
nguyên tắc chưa phải thực hịên các quy định bắt buộc tại các hiệp định của tổ chức
này; do đó việc áp dụng các quy tắc về chống bán phá giá trong WTO là hoàn toàn
tự nguyện). Mặt khác, việc pháp điển hoá công cụ này cũng là một bước chuẩn bị
tích cực để xử lý các tình huống bất lợi có thể xảy ra khi Việt Nam mở cửa thị

×