Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

553 Kinh doanh đa cấp ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.21 KB, 31 trang )

Lêi më ®Çu
1_ Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu đề tài.
Thời gian qua, tình hình kinh doanh bán hàng đa cấp hay còn gọi là kinh
doanh theo mạng của Việt Nam đã gây rất nhiều sự chú ý từ phía Bộ Thương
mại, các cơ quan chức năng, dư luận báo chí, những người tham gia và cả
người tiêu dùng. Đã có rất nhiều ý kiến xung quanh vấn đề về kinh doanh
bán hàng đa cấp. Những ý kiến phản bác cũng như những ý kiến đồng tình
với cách bán hàng này ngày càng được xã hội Việt Nam quan tâm rất nhiều.
Thực ra, trên thế giới bán hàng đa cấp đã có từ năm 1940. Đây là hình thức
kinh doanh của nền kinh tế thị trường. Việc nhìn nhận một cách đúng đắn
hình thức bán hàng đa cấp là yêu cầu thiết yếu đối với các nước đang phát
triển trong giai đoạn hiện nay. Nước ta đang trong thời kỳ đầu gia nhập
WTO, việc áp dụng hình thức kinh doanh bán hàng đa cấp trên thực tế vẫn
còn gây ra nhiều tranh cãi thậm chí là gay gắt nhưng tôi nghĩ, được ra đời
như một nhu cầu phát triển tất yếu, được thừa nhận và áp dụng như một
phương pháp hữu hiệu cần thiết đối với một nền kinh tế mở và với cách nhìn
ở góc độ chuyên môn của những nhà kinh tế học, họ rất tán đồng hoạt động
kinh doanh theo mạng và khẳng định giá trị tồn tại của nó như phương thức
kinh doanh hiện đại. Thế thì không biết lý do gì và định kiến như thế nào mà
thời gian qua dư luận luôn gán ghép cho nó là hình thức kinh doanh lừa đảo?
Phải chăng, do cách kinh doanh này vẫn rất còn mới lạ đối với người dân
Việt Nam và sự hiểu biết của nó về vấn đề này còn có nhiều hạn chế? Thông
qua công việc nghiên cứu đề tài, tôi muốn làm rõ hơn về kinh doanh đa cấp,
từ đó có thể thấy rõ được sự cần thiết của hình thức bán hàng này đối với
Việt Nam, nhất là trong thời kỳ đầu gia nhập WTO, khi mà các nhà kinh
doanh nước ngoài bắt đầu nhảy vào Việt Nam gây ra những cuộc cạnh tranh
khốc liệt.
1
Tôi hi vọng thông qua đề tài mọi người sẽ hiểu được rõ hơn và nhìn nhận
một cách đúng đắn về kinh doanh đa cấp.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn GS.TS Nguyễn Kế Tuấn, trưởng khoa


Quản trị kinh doanh, trường Đại học kinh tế quốc dân đã có những ý kiến
đóng góp giúp đỡ tôi rất nhiệt tình trong việc hoàn thành đề tài.
2_ Giới hạn phạm vi nghiên cứu.
Do khả năng còn hạn chế như kinh nghiệm còn trẻ, nên việc phân tích
thông tin có thể còn rất nhiều những sai sót và do kinh phí và thời gian eo
hẹp nên tôi chỉ có thể nghiên cứu đề tài ở phạm vi sách, báo, internet, và tôi
có lấy thực tế ở công ty Thiên Ngọc Minh Uy ở Cầu Diễn Hà Nội, sử dụng
những kiến thức tiếp thu thực tế được ở đó để thực hiện đề tài.
3_ Khái quát kết cấu đề tài.
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung đề án được chia làm hai phần:
Phần 1: Những vấn đề chung về kinh doanh đa cấp.
Phần 2: Thực tế của Việt Nam và kiến nghị.
2
Phần 1: Những vấn đề chung về kinh doanh đa cấp.
1.1_ Quan niệm về kinh doanh đa cấp.
1.1.1_ Thế nào là kinh doanh đa cấp?
Nếu chúng ta xem nhà sản xuất là nhà sáng tạo số một vì họ tạo ra của cải
vật chất cho xã hội, thì nhà phân phối là nhà sáng tạo số hai vì họ là người
giúp lưu thông của cải vật chất đó. Trong kinh doanh truyền thống, nhà sản
xuất xây dựng hình tháp các tổng đại lý, đại lý buôn bán lẻ và hỗ trợ rất
nhiều cho các chương trình khuyến mại. Còn kinh doanh theo mạng, người
sản xuất theo hình tháp người tiêu dùng, dựa vào chính sách thưởng để
khuyến khích người tiêu dùng tìm kiếm người tiêu dùng khác. Theo đánh giá
của các chuyên gia về quảng cáo, quảng cáo truyền miệng là loại quảng cáo
hữu hiệu nhất, kinh doanh theo mạng sử dụng ưu thế này trong việc truyền
bá sản phẩm của mình.
Trong quyển “ Làn sóng thứ ba” của Richard Poe do nhà xuất bản Văn hoá
thông tin cung cấp có nói, khái niệm “kinh doanh theo mạng” không được
ghi nhận trong bất kỳ một cuốn từ điển thuật ngữ thương mại chuẩn mực
nào. Chính các nhà hoạt động trong kinh doanh theo mạng còn chưa đi đến

thống nhất khái niệm này là thế nào. Vì thiếu chuẩn mực đó nên Richard Poe
đưa ra định nghĩa sau:
“Kinh doanh theo mạng là bất kỳ một phương pháp kinh doanh nào mà
cho phép một cá thể kinh doanh độc lập tiếp nhận vào công việc của mình
các cá thể kinh doanh khác và lấy ra được các khoản tiền hoa hồng từ các
công việc kinh doanh của các cá thể mà họ thu hút được”.
Vì lí do đó, kinh doanh theo mạng thường được gọi là “kinh doanh đa cấp”
hoặc được gọi tắt là MLM (Multi Level Marketing).
1.1.2_ Các chủ thể tham gia vào kinh doanh đa cấp.
3
Nghị định số 110/2005/NĐ- CP ban hành ngày 20-8-2005 quy định về
hoạt động bán hàng đa cấp đã thừa nhận tính hợp pháp của hoạt động bán
hàng đa cấp chân chính, đồng thời tạo hành lang pháp lý để xiết chặt quản lý
đối với mô hình kinh doanh này. Theo nghị định, mọi công dân Việt Nam
đều có quyền tham gia kinh doanh bán hàng đa cấp, trừ những người đang
chấp hành hình phạt tù hoặc có tiền án về các tội sản xuất, buôn bán hàng
giả, quảng cáo gian dối, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng,
các tội về lừa đảo chiếm đoạt tài sản, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản,
chiếm giữ trái phép tài sản. Người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài không có giấy phép lao động ở Việt Nam do cơ quan thẩm quyền
cấp cũng không được phép tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp tại Việt
Nam.
Mọi hàng hoá đều được kinh doanh theo hình thức bán hàng đa cấp, trừ
những trường hợp thuộc danh mục hàng hoá cấm lưu thông, hạn chế kinh
doanh, hàng giả, hàng nhập lậu. Hàng hoá là thuốc phòng, chữa bệnh cho
người; các loại văcxin, sinh phẩm; trang thiết bị y tế và dụng cụ y tế; các loại
thuốc thú y (bao gồm cả thuốc thú y thuỷ sản), thuốc bảo vệ thực vật; hoá
chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y
tế; nguyên liệu làm thuốc chữa bệnh; các loại hoá chất độc hại và sản phẩm
có hoá chất độc hại theo quy định của pháp luật không được kinh doanh theo

hình thức này.
1.1.3_ Nội dung của kinh doanh đa cấp.
Kinh doanh theo mạng là một hoạt động bán hàng thông qua hình thức giới
thiệu trực tiếp về những tính năng, công dụng của sản phẩm cho người khác
biết. Công ty kinh doanh sẽ trả tiền cho người giới thiệu khi họ giới thiệu
những sản phẩm, dịch vụ của họ cho người khác. Thay vì trả tiền cho quảng
cáo trên tivi, quảng cáo trên đài, báo thì các công ty này trả tiền cho quảng
4
cáo truyền miệng. Ngoài lợi thế mô hình kinh doanh đơn giản, kinh doanh
theo mạng còn đem lại một khả năng tài chính rất độc đáo. Khi làm kinh
doanh theo mạng, doanh số của người tham gia sẽ phát triển theo cấp số
nhân. Họ chỉ cần giới thiệu sản phẩm và cơ hội kinh doanh cho vài người
khác nữa… Chẳng bao lâu số người sẽ tăng lên rất lớn.
Thực tế cho thấy, bán hàng đa cấp là một phương thức kinh doanh mới,
đem lại hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên cũng như các phương thức kinh doanh
khác, nó cũng tiềm ẩn trong mình những rủi ro nhất định. Các công ty kinh
doanh theo mạng thường quảng cáo, tuyên truyền khuyếch trương quá mức
với những người có ý định tham gia vào mạng lưới bán hàng về những lợi
ích kinh tế hấp dẫn mà phương thức kinh doanh này có thể đem tới cho
người tham gia như họ có thể kiếm được rất nhiều tiền trong một thời gian
ngắn mà không cần phải đầu tư vốn nhiều, công việc dễ dàng không tốn
nhiều sức lực. Tuy nhiên, người có dự định tham gia vào hình thức này cần
phải có đầu óc thật tỉnh táo để phán đoán xem công ty mình dự định tham
gia có làm ăn chân chính hay là một công ty lừa đảo. Thực tế đã chứng
minh, số lượng tiền mà người tham gia kiếm tỷ lệ thuận với nỗ lực mà họ bỏ
ra, do đó người tham gia không nên ảo tưởng về những viễn cảnh mà những
người tuyên truyền của các công ty bán hàng đa cấp đã nêu.Tuy nhiên, cũng
không thể phủ nhận là có những người thành đạt nhờ vào phương thức bán
hàng đa cấp và có những công ty bán hàng đa cấp thành công trên phạm vi
toàn cầu (tập đoàn Amway của Hoa kỳ). Nhưng sự thành công nói trên là

dựa vào những nỗ lực bản thân không mệt mỏi cùng với chính sách kinh
doanh đúng đắn, chân chính của công ty chứ không chỉ dựa trên những lời
quảng cáo hoa mỹ. Sau đây là mô hình kinh doanh hình tháp ảo:
Mô hình này tồn tại dựa trên tuyển dụng người tham gia mới vào mạng
lưới và tiền của người tham gia sau sẽ trở thành tiền của người tham gia
5
trước theo tỷ lệ quy định. Thông thường người tham gia sẽ phải trả một
khoản tiền để trở thành người phân phối. Tiền thù lao mà người phân phối
nhận được chủ yếu dựa trên số lượng người tham gia mới mà người này
tuyển dụng được chứ không dựa trên doanh số bán hàng. Nguyên tắc cơ bản
của mô hình này là số tiền mà người phân phối kiếm được tỷ lệ thuận với vị
trí của người đó trong mạng lưới, càng ở vị trí cao càng được nhiều tiền. Do
thu nhập của người phân phối chủ yếu dựa trên việc tuyển dụng người tham
gia mới vào mạng lưới chứ không dựa trên doanh số bán hàng nên mô hình
này sẽ sụp đổ khi những người phân phối cấp dưới không tuyển dụng đủ
những người tham gia mới.
Nên ta có thể phân biệt mô hình kinh doanh hình tháp ảo và mô hình kinh
doanh theo mạng dựa trên bốn yếu tố sau:
Chất lượng của hình tháp ảo là trung bình hoặc kém, giá cả thường cao
hơn nhiều so với chất lượng sản phẩm. Trong khi đó, kinh doanh theo mang
lại có sản phẩm có chất lượng rất tốt, giá cả tương xứng với chất lượng sản
phẩm.
Về nguồn thù lao, hình tháp ảo chủ yếu lấy từ việc tuyển mộ người tham
gia mới vào mạng lưới.Còn ở mô hình kinh doanh theo mạnh thì lại dựa vào
doanh số bán hàng của chính người tham gia và của những người phân phối
cấp dưới do chính họ tuyển dụng.
Trong hình tháp ảo sẽ dùng những thủ đoạn bán hàng lừa dối và không
lành mạnh. Còn ở kinh doanh theo mạng sẽ cung cấp đầy đủ thông tin, chính
xác về kế hoạch bán hàng và tiền thù lao.
Và ở mô hình tháp ảo không có chính sách mua lại sản phẩm, trong khi đó

kinh doanh theo mạng thì vẫn có chính sách mua lại sản phẩm.
Còn yêu cầu về tích trữ sản phẩm, hình tháp ảo tích trữ với số lượng lớn,
kinh doanh theo mạng không khuyến khích việc tích trữ sản phẩm.
6
Nói tóm lại, có thể hiểu một cách đơn giản là kinh doanh đa cấp thực chất
là kinh doanh theo mạng lưới mà người ở trên ăn hoa hồng từ sản phẩm bán
cho người cấp dưới trong hệ thống của mình. Và cứ thế mạng lưới ngày càng
toả rộng.
Trong cuốn sách “ Giúp bạn giàu có - Những bí quyết đơn giản và ít rủi
ro” của Nhà xuất bản văn hoá thông tin có những ví dụ về kinh doanh theo
mạng. Sau đây là một ví dụ điển hình:
Một bức thư của một siêu thị Mr. Food gửi cho một khách hàng của họ có
nội dung như sau:
Siêu thị Mr. Food
Phố chính, ỰSA
Gửi quý khách hàng!
Cảm ơn quý khách đã mua hàng của chúng tôi trong tháng!
Tổng số tiền của quý khách được nhận từ siêu thị chúng tôi sẽ là 400$.
Bao gồm:
Số tiền được giảm giá 40$
Tiết kiệm chí phí quảng cáo 40$
Thu nhập do giới thiệu Ệ20$
Tổng cộng 400$
Hình thức kinh doanh của siêu thị này chính là phát phiếu giảm giá cho
khách hàng trong những lần họ tham gia mua hàng tại siêu thị. Đặc biệt là
những khách hàng thường xuyên.
Tất cả những khách hàng mua hàng ở siêu thị đã làm tăng doanh thu và lợi
nhuận cho siêu thị đó. Những khách hàng thường xuyên chính là những đối
tác làm ăn quan trọng nhất của siêu thị. Sẽ rất bất lợi khi một trong những
đối tác làm ăn đó bỗng dưng mua hàng ở nơi khác. Siêu thị sẽ mất một phần

doanh thu và lợi nhuận, mà chính phần doanh thu và lợi nhuận đó có thể sẽ
7
kéo theo rất nhiều phần doanh thu và lợi nhuận khác. Do đó, hình thức phát
phiếu giảm giá chính là việc mà siêu thị làm để khuyến khích, thu hút tất cả
các đối tượng khách hàng.
Theo ví dụ trên, 40$ tiết kiệm cho chi phí quảng cáo chính là phần mà siêu
thị không phải bỏ ra cho việc quảng cáo để thuyết phục những khách hàng
thường xuyên mua hàng của họ. Chi phí quảng cáo đó của siêu thị Mr. Food
đã được chuyển đến cho khách hàng thường xuyên.
Còn 320$ thu nhập do giới thiệu là gì? Khi khách hàng thường của siêu thị
kể với bạn bè, hàng xóm… của họ rằng họ thật sự rất hài lòng khi mua hàng
tại Mr. Food. Khi đó sẽ kéo theo rất nhiều khách hàng mới tới Mr. Food để
mua hàng thay vì mua hàng ở những siêu thị khác. Như vậy là chính những
khách hàng của siêu thị đã quảng cáo truyền miệng về siêu thị Mr. Food. Do
đó, hàng tháng, họ nhận được những khoản thu nhập từ Mr. Food, vì nếu
không có những khách hàng đó thì bạn bè, hàng xóm… của họ sẽ mua hàng
ở những siêu thị khác.
Đây là kiểu chia sẻ chi phí quảng cáo với cá nhân trong việc khai thác
khách hàng mới.
Kinh doanh theo mạng là sự tăng trưởng theo cấp số nhân.
Các nhà hoạt động theo mạng đã sử dụng hình thức kinh doanh này trong
vòng chục năm. Họ đã đặt câu hỏi: “Khách hàng thích kiểu gì hơn -
100.000$ hay một xu mà cứ mỗi ngày cứ tăng lên gấp đôi trong vòng một
tháng?”. Câu trả lời đúng tất nhiên là thích một xu hơn, vì sau 31 ngày nó đã
biến thành 21 triệu đô la nhờ có sự tích luỹ theo cấp số nhân. Trong kinh
doanh theo mạng, “downline” (tầng dưới) của nhọng người tham gia kinh
doanh theo mạng, tức là những nhà phân phối phía dưới của các nhà phân
phối, là mạng lưới mà về mặt lý thuyết sẽ phát triển theo cấp số nhân. Ví dụ,
người tham gia kinh doanh theo mạng thu hút được năm người trong tháng
8

đầu tiên và một người trong số họ lại lôi kéo thêm năm người trong tháng
tiếp theo v.v… Sau sáu tháng mạng lưới của người này sẽ bao gồm 19.530
người.
Công ty kinh doanh theo mạng điển hình sẽ cho phép ngườii tham gia nhận
được các khoản hoa hồng từ tất cả các sản phẩm được bán ra bằng kinh
nghiệm của 19.530 nhà phân phối. Nêu mỗi tháng một khách hàng mua một
sản phẩm chỉ với giá 100 đôla, và nếu như khoản tiền hoa hồng của người
tham gia từ mỗi nhà phân phối là 10%, điều đó có nghĩa là họ sẽ kiếm được
195.300 đôla trong một tháng.
Tất nhiên, đa số các nhà hoạt động theo mạng không làm ra được nhiều
tiền như vậy. Mệt mỏi thường đánh bại 90% các nhà phân phối trước khi họ
có thể nhận được một khoản thu nhập đáng kể nào đó. Cấp số nhân có
khuynh hướng kết thúc ở tầng thứ ba hoặc tầng bốn. Và trong hầu hết các sự
vụ kinh doanh, các nhà phân phối phải đổ ra rất nhiều tiền của và sức lực để
duy trì khả năng cạnh tranh và có được các khoản thu nhập cao.
Nói ngắn gọn, kinh doanh theo mạng - đó chính là ngành thương mại thực
sự. Nó có những vấn đề và sự mạo hiểm như một ngành kinh doanh thực sự.
Đây không phải là trò chơi may rủi. Thành công chính là ở sự lao động cần
cù, số lượng tiền nhất định huy động ra và lòng kiên trì cao độ.
Thành công không đến sau một đêm. Nhưng nếu người kinh doanh hoàn
toàn hiến mình cho công việc, họ sẽ tìm thấy cái mà họ đang tìm kiếm.
Khi nói về phương thức kinh doanh này, tiến sỹ Nguyễn Đức Trí - Đại học
Kinh tế Tp.HCM có viết: “Nhu cầu về sản phẩm của khách hàng thường
được hình thành từ sự tiếp xúc với các thông tin quảng cáo và nhà cung cấp.
Một số lại đến từ sự giới thiệu của bạn bè hay người xung quanh… Nhưng
nếu thị trường phân tán trên quy mô rộng lớn và sản phẩm chỉ có giá trị vừa
phải thì lối tiếp xúc như trên sẽ gặp khó khăn. Thứ nhất, người bán hay công
9
ty sẽ không có đủ thời gian để tiếp xúc với tất cả mọi người. Thứ hai, chi phí
tổ chức (như phòng ốc, địa điểm, mạng lưới tiếp xúc…) có thể vượt xa thu

nhập mà sản phẩm có thể mang lại.
Tiếp thị mạng lưới tỏ ra đặc biệt hữu hiệu trong trường hợp này. Thay vì
các địa điểm cố định, công ty nhờ nhân viên bán hàng (thường được gọi là
người phân phối) đến chủ động với khách hàng. Thay vì dùng chuyên gia, họ
dùng tài liệu hướng dẫn cặn kẽ kèm theo huấn luyện về sản phẩm và nhờ vậy
người phân phối nào cũng có thể hiểu và giải thích cho khách hàng được.
Thay vì trả lương, họ chia hoa hồng với người phân phối căn cứ trên doanh
thu đạt được. Thay vì cung cấp đồng nghiệp, họ cho phép người phân phối
tự tìm thêm đồng nghiệp để chủ động làm việc của mình có hiệu quả.
Mô hình kinh doanh theo mạng lưới đa tầng thực chất không khác gì cơ
cấu hành chính của một công ty kinh doanh truyền thống. Người chủ trong
cơ cấu hành chính truyền thống hưởng lợi nhuận trên giá trị thặng dư do
những người nhân viên tạo ra, nhưng người chủ thông thường là phải trả
lương cho nhân viên. Mô hình kinh doanh theo mạng thì cũng tương tự, thu
thập là động cơ kích thích nỗ lực của mỗi thành viên và là cỗ máy vận hành
của cả mạng lưới. Khi một thành viên tạo ra doanh thu, anh ta tạo một khoản
thu nhập cho mình (thu nhập chủ động) và một khoản khác cho một đồng
nghiệp cấp trên của mình. Điều này cũng tương tự như khi làm việc cho một
công ty, nhân viên tạo ra thu nhập cho mình và cho cả công ty bao gồm
nhiều người.
Điều khác biệt là mỗi thành viên trong mạng lưới còn có một đồng nghiệp
cấp dưới do chính mình tuyển dụng và huấn luyện. Bởi vậy khi số đồng
nghiệp này tạo ra doanh thu thì cá nhân thành viên đó cũng được hưởng một
tỷ lệ thu thập theo quy định nào đó (thu thập thụ động). Nếu đồng nghiệp
cấp dưới càng đông thì số thu nhập này càng nhiều. Bởi vậy, các thành viên
10
càng tuyển dụng và huấn luyện đồng nghiệp cấp dưới nhiều bao nhiêu thì
thu nhập thụ động của họ càng cao bấy nhiêu và các thành viên đều không
phải trả lương cho đồng nghiệp cấp dưới.
Theo lý thuyết marketing, hình thức kinh doanh đa cấp hay hoạt động bán

hàng theo kiểu “truyền tiêu” thực chất là một dạng bán hàng trực tiếp không
thông qua cửa hàng bán lẻ. Hoạt động bán hàng trực tiếp thường diễn ra tại
các địa điểm như tại nhà của người mua. Nhân viên tiếp thị của sản phẩm
hoặc dịch vụ thường được gọi là tư vấn, đại diện, đại lý hoặc nhà phân phối
liên hệ trực tiếp với khách hàng, đa số là người quen, bạn bè, hàng xóm để
giới thiệu và bán sản phẩm. Theo thống kê của Bộ Thương mại, đã có trên
20 doanh nghiêp áp dụng hình thức kinh doanh đa cấp tại Việt Nam từ năm
2000 đến nay. Mặt hàng được kinh doanh đa cấp chủ yếu là thực phẩm bổ
dưỡng, máy masage, mỹ phẩm. Tỷ lệ hoa hồng của phương thức kinh doanh
truyền thống, khá hấp dẫn đối với những người tham gia mạng lưới. Việc
quản lý hình thức kinh doanh mới mẻ này được quy định bởi Luật cạnh
tranh, đã được Quốc hội thông qua năm 2004, và có hiệu lực từ ngày 1-7-
2005. Các nghị định hướng dẫn luật này sẽ có quy định cụ thể về hình thức
kinh doanh đa cấp. Hiện tại, việc xử lý các sai phạm đối với hoạt động kinh
doanh đa cấp được quy định tại Nghị định số 175/2004/NĐ-CP về xử phạt
hành chính trong lĩnh vực thương mại.
1.1.4_ Điều kiện bảo đảm hiệu quả của kinh doanh đa cấp và vai trò của
kinh doanh đa cấp.
1.1.4.1_ Điều kiện bảo đảm hiệu quả của kinh doanh đa cấp.
Trong kinh doanh đa cấp điều kiện để bảo đảm hiệu quả kinh doanh chính
là sản phẩm và sơ đồ kinh doanh.
11
Sản phẩm phải là hàng tiêu dùng thường xuyên, nhu cầu 100% và sản
phẩm phải đảm bảo đầy đủ bốn yếu tố là phải độc đáo, độc quyền; phải rẻ;
phải dễ dùng; và phải có tính nhu cầu.
Sơ đồ kinh doanh hay chính sách kinh doanh như chính sách trả thưởng
phải công bằng. Người gia nhập sau, nếu năng động hơn người đi trước vẫn
có thể có thu nhập cao hơn. Ngoài ra trong sơ đồ kinh doanh hàng tháng phải
có điểm năng động. Yếu tố điểm năng động rất quan trọng, nó đảm bảo
mạng lưới của người tham gia kinh doanh luôn luôn sống, tức là luôn luôn

dao động.
Trong giai đoạn hiện nay, ý thức tiêu dùng và trình độ của mọi người đã có
sự nâng cao rõ rệt. Nhu cầu đòi hỏi của con người ngày càng tăng. Những
sản phẩm có tính năng độc đáo, kích thích nhu cầu tiêu dùng mà lại rẻ sẽ tác
động một cách tích cực đến họ. Khi đó nếu sản phẩm càng dễ sử dụng càng
làm cho khách hàng càng cảm thấy thích thú.
Trước hết cần nhấn mạnh rằng hầu hết các loại sản phẩm mà công ty bán
hàng đa cấp kinh doanh đều là các loại sản phẩm tiêu dùng có tính đặc thù
và độc đáo mà không thể mô tả cặn kẽ theo phương pháp thông tin đại
chúng.
Hiện nay kinh tế Việt Nam đang trong thời kỳ phát triển của nền kinh tế
thị trường, mà kinh tế thị trường là thuận mua vừa bán, người tiêu dùng hoàn
toàn có quyền chọn lựa và quyết định mua sản phẩm hay không vì chính họ
là người có nhu cầu. Không ai có thể buộc giá bán của một chiếc xe Dream
Nhật phải bằng giá của một chiếc Dream Trung Quốc cả dù biết rằng là cả
hai loại đều có cùng phân khối như nhau, cấu trúc ngoại hình như nhau, tất
nhiên là vì chất lượng khác nhau, độ bền khác nhau, chế độ bảo hành khác
nhau. Có một điều không hợp lý đó là khi sản phẩm của doanh nghiệp có
thương hiệu độc quyền, tính năng sử dụng tốt, chất luợng bảo đảm, nhu cầu
12

×