Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

ASEAN VÀ VĂN HÓA ĐÔNG NAM Á.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.47 KB, 16 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ ASEAN VÀ VĂN HÓA ĐÔNG NAM Á.
1. Khái quát về Asean.
2. Khái quát về văn hóa Đông Nam Á.
II. THỰC TIỄN VỀ HỢP TÁC VĂN HÓA - XÃ HỘI TRONG KHUÔN KHỔ
ASEAN TỪ 1976 ĐẾN NAY.
III. TRỤ CỘT VỀ HỢP TÁC VĂN HÓA - XÃ HỘI THEO HIẾN CHƯƠNG
ASEAN.
1. Những thành tựu đã đạt được tiền đề cho việc xây dựng cộng đồng văn hóa - xã
hội Asean
2. Những thách thức đặt ra trong quá trình xây dựng cộng đồng văn hóa - xã hội
Asean.
IV. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VIỆT NAM ĐỐI VỚI QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
CỘNG ĐỒNG VĂN HÓA - XÃ HỘI ASEAN.
KẾT LUẬN
MỞ ĐẦU
Trong quá trình hội nhập với quốc tế, Đông Nam Á (ĐNA) là khu vực lịch sử văn hóa riêng
đồng thời cũng là khu vực chiến lược, phát triển năng động. Để có được sự hòa hợp giữa các
quốc gia trong khu vực bất chấp sự khác biệt về chế độ chính trị, trình độ phát triển cần phải
xem xét sự phát triển và gắn kết của ĐNA dưới góc độ văn hóa. Việc xây dựng ASEAN mang
tính xã hội cộng đồng trước hết phải đầu tư xây dựng cộng đồng văn hóa – xã hội ASEAN. Xã
hội càng phát triển nhu cầu về văn hóa xã hội của con người càng được nâng cao. Cùng với sự
hợp tác trên các lĩnh vực kinh tế chính trị, sự hợp tác trong văn hoá đang ngày một được các
nước ASEAN xúc tiến mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Việc thành lập Cộng đồng ASEAN nói chung
và cộng đồng văn hóa nói riêng là một thích ứng trước tình hình quốc tế. Bằng khả năng và sự
cố gắng nỗ lực của mình, Việt Nam cũng đã có nhứng đóng góp đáng kể trong quá trình xây
dựng và phát triển cộng đồng văn hóa - xã hội ASEAN.
NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT VỀ ASEAN VÀ VĂN HÓA ĐÔNG NAM Á


1. Khái quát về Asean.
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam á (Association of Southeast Asian Nations-ASEAN) được
thành lập ngày 8-8-1967 sau khi Bộ trưởng Bộ ngoại giao các nước Indonesia, Malaysia,
Philipines, Singapore và Thái lan ký bản tuyên bố ASEAN (Tuyên bố Bangkok) đánh dấu một
mốc quan trọng trong tiến trình phát triển của khu vực. Ra đời trong thời kỳ chiến tranh lạnh và
chịu tác động mạnh mẽ bởi môi trường địa - chính trị của thời kỳ này, phạm vi hợp tác của
ASEAN trong hơn hai thập kỷ đầu chỉ bó hẹp trong một số lĩnh vực và ít hiệu quả. Các thành
viên của Hiệp hội gắn kết được với nhau nhờ một "chất keo dính", đó là những nguy cơ, thách
thức chung có nguồn gốc từ chiến tranh lạnh đối với hòa bình, ổn định và phát triển của mỗi
nước trong khu vực. Sự kết thúc chiến tranh lạnh đã mở ra triển vọng to lớn để triển khai mạnh
mẽ những ý tưởng hợp tác toàn ĐNA, nhằm xây dựng một khu vực hòa bình, ổn định và phát
triển phồn vinh. Với nỗ lực to lớn, sự hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau trong sự đa dạng, các nước
thành viên ASEAN trong những năm qua đã xây dựng ASEAN trở thành một trong những tổ
chức khu vực hoạt động thành công nhất trên thế giới và tạo được uy tín lớn trong và ngoài khu
vực. Mở đầu bằng việc Việt Nam gia nhập Hiệp hội vào tháng 7-1995, giờ đây ASEAN bao
gồm cả 10 nước Đông Nam Á: Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan, Brunei,
Việt Nam, Lào, Myanmar, Campuchia và có trụ sở chính đặt tại Jakarta (Indonesia).
Khu vực ASEAN có diện tích hơn 4.3 triệu km2 với dân số khoảng 500 triệu người; (GDP
khoảng hơn 700 tỷ đô la Mỹ) và tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm 339,2 tỷ USD.
Mặc dù ở trong cùng một khu vực địa lý, song các nước ASEAN rất khác nhau về diện tích
và dân số, tôn giáo cũng như thể chế chính trị hoàn toàn khác nhau. Trình độ phát triển kinh tế,
xã hội cũng không đồng đều. Điều này đã tạo nên một sự phong phú đa dạng cho hiệp hội và đó
cũng là một đặc điểm rất quan trọng đòi hỏi "sự thống nhất trong đa dạng" (Unity in diversity).
2
Tuy nhiên, sau hơn 42 năm hình thành và phát triển, cuộc khủng hoảng kinh tế – tài chính
khu vực năm 1997 và cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng năm 2009 đã để lại cho các nước
ASEAN những hậu quả nặng nề và ASEAN hiện đang cố gắng vượt qua những khó khăn, thách
thức, phục hồi kinh tế, văn hóa, xã hội và tăng cường hợp tác để lấy lại đà phát triển.
2. Khái quát về văn hóa Đông Nam Á.
ĐNA đã là một trong những cái nôi hình thành loài người .Đây chính là địa bàn hình thành

đầu tiên của đại chủng phương nam. Trước đó người ta gọi là Indo - china, bởi lẽ nó nằm lọt
giữa hai nền văn hoá Ấn Độ và Trung Hoa.
Văn hoá ĐNA thống nhất da dạng với một dân cư nông nghiệp trồng lúa nước và nền văn
minh này được sinh ra từ một thể văn hoá bao gồm 3 yếu tố: văn hoá núi, văn hoá đồng bằng và
văn hoá biển .Trong đó yếu tố đồng bằng tuy có sau nhưng chiếm vai trò chủ đạo .
Với những nét đặc trưng văn hóa của riêng mình mỗi dân tộc góp phần tạo dựng nên sự đa
dạng của lịch sử, văn hóa ĐNA. Chính vì vậy người ta không bao giờ nhầm lẫn giữa khái niệm
hòa hợp (intergration) và hòa tan (disolution). Dù hòa nhập để tìm và phát huy sức mạnh của cả
khu vực các dân cư ở đây vẫn luôn giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc của mình.
Một nét đặc trưng khái quát nhất của văn hóa ĐNA là khả năng tiếp nhận, thâu hóa những
yếu tố văn hóa từ bên ngoài vào để làm giàu thêm, phong phú thêm những bản sắc của văn hóa
ĐNA.
Bao trùm tất cả đời sống tinh thần của cư dân ĐNA là chu trình của đời sống nông nghiệp
lúa nước. Do vậy từ những truyện thần thoại đến lễ hội, phong tục tập quán đến âm nhạc nghệ
thuật kể cả múa hát đều là của cư dân nông nghiệp lúa nước. Cho đến ngày nay biểu tượng
chung của các nước ASEAN vẫn là bó lúa.
Trong lịch sử hình thành các tôn giáo hiện đại của vùng này đã từng có nhiều tôn giáo cùng
tồn tại. Từ phật giáo, ấn độ giáo, hồi giáo, thiên chúa giáo đã thích nghi không chỉ trong phạm
vi từng quốc gia mà còn trên phạm vi khu vực. Các tôn giáo này thích nghi theo lối “trầm tích”
cái sau phủ lên cái trước cùng song song phát huy ảnh hưởng. Chính vì tính thích nghi, tính mở,
uyển chuyển của ĐNA mà các tôn giáo ở đây chấp nhận cùng tồn tại, nhìn chung không có
xung đột chiến tranh tôn giáo.
Những nét văn hóa đặc trưng của một xã hội nông nghiệp như: tục thờ cũng tổ tiên, thờ thần
núi, thần sông, thần lúa, đặc biệt là thần đất, tín ngưỡng phồn thực với những nghi thức cầu
mùa…
3
Bên cạnh đó văn học nghệ thuật là cũng là một trong những nét đặc trưng của văn hóa ĐNA.
Cùng với kho tàng văn học dân gian hết sức phong phú đa dạng của các dân tộc ĐNA, văn học
viết ĐNA dược hình thành trên cơ sở văn học dân gian và văn học nước ngoài (đặc biệt là
Trung Quốc và Ấn Độ).

Cũng như nhiều loại hình nghệ thuật khác kiến trúc ĐNA chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của kiến
trúc Ấn Độ và kiến trúc hồi giáo. Trong đó kể đến các công trình nổi tiếng như: khu di tích Mỹ
Sơn của người Chăm (Việt Nam), tổng thể kiến trúc Bô-rô-bu-đua ở Indonexia. Di tích kiến
trúc và điêu khắc nổi tiếng nhất ĐNA đó là khu đền Ăng co vát. Hay chùa Vàng là biểu tưởng
của đất nước Mianma. Cùng với nghệ thuật tạo hình, bao gồm điêu khắc và tạc tượng thần phật.
II. THỰC TIỄN VỀ HỢP TÁC VĂN HÓA - XÃ HỘI TRONG KHUÔN KHỔ
ASEAN TỪ 1976 ĐẾN NAY.
Trong lĩnh vực giao lưu văn hoá, toàn cầu hoá luôn là một con dao hai lưỡi. Một mặt nó tạo
điều kiện cho các dân tộc ngày càng xích lại gần nhau, qua đó tăng thêm sự hiểu biết đối với
các nền văn hoá khác nhau, nhưng mặt khác nó cũng tạo nên nguy cơ về “sự đồng nhất hoá các
hệ thống giá trị, đe doạ làm suy kiệt khả năng sáng tạo của các nền văn hoá, nhân tố hết sức
quan trọng đối với sự tồn tại lâu dài của nhân loại” (UNESCO). Do vậy, hợp tác vì một nền văn
hoá ASEAN đầy bản sắc, đa dạng trong thống nhất là một mục tiêu cao cả mà Chính phủ và
nhân dân các nước ASEAN đã và đang tiến hành.
Ngay từ khi thành lập, ASEAN đã chú trọng tăng cường các hoạt động giao lưu văn hoá,
nâng cao hiểu biết về các nền văn hoá trong ASEAN và ngoài khu vực. Ngày nay, ASEAN
đang xây dựng một Cộng đồng Văn hoá - Xã hội, do đó ASEAN càng cần đẩy mạnh các hoạt
động giao lưu văn hoá, cần huy động các nguồn lực khác nhau, bao gồm các nguồn lực của giới
kinh doanh và các tổ chức quốc tế để cùng với Quỹ Văn hoá ASEAN duy trì và làm phong phú
thêm hoạt động văn hoá quan trọng này.
Quan hệ văn hoá đa phương Việt Nam - ASEAN thực sự sẽ làm tăng thêm vốn hiểu biết,
giúp đỡ nhau cho sự hợp tác giữa các nước đạt được hiệu quả cao hơn.
Ngay từ năm 1976, những người đứng đầu Nhà nước và chính phủ ASEAN đã ký “Tuyên bố
ASEAN Hoà hợp” nhằm xây dựng bản sắc ASEAN thông qua các hoạt động hợp tác nghiên cứu
văn hoá - xã hội và tăng cường trao đổi, giao lưu trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và văn hoá -
thông tin. Đây được coi là bản “Tuyên bố ASEAN Hoà hợp I”. Năm 2003, nguyên thủ các nước
ASEAN đã ký “Tuyên bố ASEAN Hoà hợp II” nhằm thể hiện ước vọng lớn lao của ASEAN về
4
một Cộng đồng ASEAN với ba trụ cột về an ninh, chính trị; kinh tế và văn hoá - xã hội trong
“Tầm nhìn ASEAN 2020” và sau đó, các nước ASEAN đã quyết định rút ngắn thời gian thực

hiện xây dựng “Cộng đồng ASEAN” vào năm 2015 với một ASEAN hoà bình, ổn định, cùng
chia sẻ phồn vinh và quan tâm chăm sóc lẫn nhau.
Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, các nước ASEAN đã thành lập hai Uỷ Ban Thường
trực: Uỷ ban về hoạt động văn hoá - xã hội năm 1971 và Uỷ ban về thông tin đại chúng năm
1973.
Năm 1978, Uỷ ban Văn hoá - Thông tin chính thức được thành lập và bắt đầu từ đây các
hoạt động của việc hợp tác Văn hoá - Thông tin giữa Việt Nam và các quốc gia ASEAN tiến
hành thông qua Uỷ ban này gọi tắt là ASEAN – COCI (ASEAN Committee on Culture and
Information ).
Hội nghị thượng đỉnh lần thứ năm họp tại Băng Cốc (Thái Lan) vào tháng 12/1995 đã thảo
luận và các nước thành viên nhất trí đưa các hợp tác chuyên ngành lên một tầm cao mới, trong
đó có hợp tác Văn hoá - Thông tin .
Tháng 7/2000 tại Băng Cốc, tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN (AMM), Bộ trưởng
Ngoại giao Nguyễn Dy Niên cùng các Ngoại trưởng ASEAN ký bản Tuyên bố ASEAN về Di
sản văn hoá ASEAN. Đây là một văn kiện quan trọng và rất có ý nghĩa trong việc tăng cường
nhận thức về ASEAN, tăng cường sự hợp tác khu vực để bảo tồn và phát huy các di sản văn
hoá các nước ASEAN.
Năm 2003 Hội nghị bộ trưởng văn hóa và nghệ thuật đầu tiên trong khối ASEAN và
ASEAN +3 (Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc) đã diễn ra tại Kuala Lumpur, Malaysia, trong hai
ngày 14 và 15-10 Tại hội nghị, các bộ trưởng văn hóa - nghệ thuật trong khu vực đồng ý phải
tăng cường đầu tư vào nguồn nhân lực nhằm bảo đảm các kỹ năng và giá trị trong lĩnh vực văn
hóa - nghệ thuật được bảo tồn ổn định. Hội nghị còn bàn đến tương lai tự do hóa việc mua bán
các sản phẩm văn hóa trong khu vực. Các bộ trưởng tin rằng ASEAN và cả ASEAN +3 là tập
hợp những nước giàu màu sắc văn hóa, đều có những nét lôi cuốn và đóng góp riêng vào sự
phát triển của khu vực. Đây là cuộc họp đầu tiên thể hiện bước đi cụ thể trong việc thực hiện
các mục tiêu của "Cộng đồng xã hội - văn hóa ASEAN" - một trong ba trụ cột được đề cập
trong Tuyên bố Bali Concord II.
5
Như vậy hợp tác về văn hoá xã hội trong khuôn khổ ASEAN không chỉ dừng lại ở các tuyên
bố trong các hội nghị mà còn trong cả những hoạt động thiết thực trong và thiết lập cả cơ chế để

sự hợp tác này mang lại hiệu quả nhất.
• Hợp tác trong lĩnh vực văn học và nghiên cứu về ASEAN.
Tại Hội nghị “Sách vì mọi người của các nước ASEAN” từ ngày 13-15/8/1996 tại Kuala
Lumpur (Malaysia) đã thông qua những nghị quyết về việc xuất bản, thúc đẩy và phân phối
phát hành sách và việc phát triển nguồn lực con người trong đội ngũ những người làm công tác
liên quan đến sách. Trên cơ sở nhận thức rõ việc phát hành sách là dòng chảy giao lưu tự do của
thông tin, sẽ góp phần quan trọng vào sự phát triển văn hoá, xã hội, kinh tế và chính trị
Trong khuôn khổ các hoạt động văn hoá nghệ thuật chào mừng 30 năm thành lập ASEAN,
Triển lãm liên hoan ảnh các nước ASEAN lần thứ nhất được tổ chức ở Hà Nội. Đây là lần đầu
tiên có một hoạt động nhiếp ảnh quy mô của các nước ASEAN tổ chức tại Hà Nội. Việt Nam
đạt một huy chương vàng . Liên hoan ảnh trở thành một hoạt động truyền thống hàng năm của
tổ chức nhiếp ảnh các nước ASEAN, tạo ra mối quan hệ hợp tác giữa các tổ chức, các cá nhân
nghệ sĩ nhiếp ảnh, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hoá giữa các dân tộc trong cộng đồng.
Trong dịp kỷ niệm 37 năm ngày thành lập Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN),
Tuần văn hoá ASEAN đã được khai mạc tại Nhà hát lớn Hà Nội (8/8/2004) với một chương
trình nghệ thuật đặc sắc do gần 500 nghệ sĩ đến từ các nước ASEAN biểu diễn.
Tuần văn hoá ASEAN ở Việt Nam là một trong các nỗ lực để duy trì và phát huy văn hoá
ASEAN, khuyếch trương các giá trị châu Á, tạo cơ sở cho việc phát huy các nguyên tắc cơ bản
của Hiệp hội.
• Về bản sắc và sự hiểu biết lẫn nhau trong khu vực.
Đó là sự phổ biến các kênh truyền hình phát về các quốc gia ASEAN và được coi là cơ sở
thể hiện sự quan tâm đối với đời sống văn hóa và sự phát triển của các quốc gia ASEAN. Theo
đánh giá của Báo cáo tổng quan về ASEAN, có 3 quốc gia được coi là phát triển tốt việc này,
đó là: Campuchia, Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, Singapo. Có 4 quốc gia đưa thông tin qua
phim về ASEAN được chiếu ở các rạp trong nước. Bên cạnh đó, hệ thống giáo dục chính thức
đang được sử dụng như là một kênh thúc đẩy sự quan tâm tìm hiểu về ASEAN. Một số quốc
gia như Campuchia, Indonesia, Lào, Việt Nam đã trích dẫn lịch sử và văn hóa ASEAN như là
một môn học trong chương trình đào tạo ở trường học. Những thiết chế khu vực đã được thành
lập để đạt được mục đích này, bao gồm: Trung tâm về truyền thống và văn hóa khu vực được
6

×