Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Báo cáo sáng kiến Giáo dục kỹ năng sống đối với học sinh trong trường Phổ thông dân tộc nội trú

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.7 MB, 15 trang )

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
Bảo Thắng, ngày 10 tháng 3 năm 2012
Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bảo Thắng
Họ và tên tác giả: PHÙNG THỊ THU HIỀN
Sinh ngày 03 tháng 01 năm 1968
Chức vụ: Phó Hiệu trưởng
Nơi công tác: Trường Phổ thông Dân tộc nội trú Bảo Thắng
Trình độ chuyên môn: Đại học Văn
I. TÊN SÁNG KIẾN
“Giáo dục kỹ năng sống đối với học sinh trường PTDT Nội trú”.
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP
1. Nhận thức chung
Sự nghiệp xây dựng, phát triển con người mới Việt Nam phải được đặc biệt
quan tâm từ lứa tuổi thiếu niên, nhi đồng. Tuổi thơ các em là thời kỳ quyết định
đến việc hình thành phẩm chất và phát triển nhân cách con người. Mọi dấu ấn
cuộc sống, mọi hình ảnh tương lai đều được khắc họa trong tâm hồn trẻ thơ.
Giáo dục kĩ năng sống đối với học sinh được các nhà trường được cụ thể
hóa thông qua phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh
tích cực”. Trước hết, mỗi thầy cô giáo phải là tấm gương sáng về đạo đức để
các em học tập noi theo. Thầy cô giáo không những dạy tri thức văn hóa mà còn
dạy cách sống làm người. Việc dạy tốt không chỉ là dạy qua sách vở, nói cho các
em nghe, chỉ cho các em làm, mà hướng dẫn các em tự tìm hiểu, tự khám phá,
phát huy khả năng sáng tạo, thực hành kỹ năng sống, tìm hiểu cuộc sống hiện tại
và lịch sử dân tộc. Dạy các em từ lời ăn, tiếng nói đến cách cư sử văn hóa trong
cuộc sống đời thường thông qua các bài giảng, những buổi hoạt động tập thể
ngoại khóa. Các em học sinh không chỉ là đối tượng cần được giáo dục mà
thông qua hoạt động tích cực, các em chính là những người nuôi dưỡng và phổ
biến văn hóa dân tộc, truyền thống cách mạng của đất nước.
Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh được xác định là một trong năm
nội dung cơ bản trong phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện,


học sinh tích cực” giai đoạn 2008-2013 do Bộ Giáo dục và đào tạo chỉ đạo.
Mục đích của việc giáo dục kĩ năng sống là đáp ứng mục tiêu giáo dục toàn
diện; phù hợp với 4 trụ cột của giáo dục theo quan niệm của UNESCO: học để
biết, học để làm, học để tồn tại và học để chung sống. Giúp học sinh thích ứng
được với cuộc sống đầy những biến động khôn lường (những tác động của tự
nhiên và xã hội hiện đại). Thúc đẩy những hoạt động mang tính xã hội, phát huy
các nhân tố tích cực, hạn chế nhân tố tiêu cực, xây dựng môi trường trường học
thân thiện, học sinh tích cực. Góp phần tích cực cho việc đổi mới phương pháp
học tập của học sinh. Nhằm giáo dục toàn diện “ Đức – Trí - Thể - Mĩ”, mai sau
1
lớn lên trở thành những công dân vừa “ hồng” vừa “chuyên”, những chủ nhân
tương lai của đất nước.
2. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong
nhà trường phổ thông
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh là một nhiệm vụ hết sức quan trọng
trong nền giáo dục nước nhà. Việc rèn kỹ năng sống cho học sinh là việc làm
không mới vì từ xa xưa cha ông ta đã đúc kết rất nhiều kinh nghiệm quý báu.
Qua những câu ca dao, tục ngữ mà ông bà, cha mẹ vẫn nói hàng ngày với các
em như “ Tiên học lễ, hậu học văn”, “Ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, “
Người nói phải có kẻ nghe, lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” Không chỉ vậy
ngay trong các chương trình học kiến thức hàng ngày các em đã được học thông
qua các bộ môn: Ngữ văn, giáo dục công dân hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các trường phổ thông là rất
cần thiết và có tầm quan trọng đặc biệt, điều đó được thể hiện ở những nội dung
sau:
Thứ nhất, kĩ năng sống thúc đẩy sự phát triển cá nhân và xã hội. Có
thể nói kĩ năng sống chính là nhịp cầu giúp con người biến kiến thức thành thái
độ, hành vi và thói quen tích cực lành mạnh. Người có kĩ năng sống phù hợp sẽ
luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách; biết ứng xử, giải quyết vấn đề

một cách tích cực, phù hợp; họ thường thành công hơn trong cuộc sống của
chính mình. Ngược lại, người thiếu kĩ năng sống thường bị vấp váp, dễ bị thất
bại trong cuộc sống
Không những thúc đẩy cá nhân, kĩ năng sống còn góp phần thúc đẩy sự
phát triển của xã hội, giúp ngăn ngừa các vấn đề xã hội và bảo vệ quyền con
người. Việc thiếu kĩ năng sống của cá nhân là một nguyên nhân làm nảy sinh
nhiều tệ nạn xã hội.
Thứ hai, giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ.
Điều đó cho thấy các em chính là chủ nhân tương lai của đất nước, là những
người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Việc giáo
dục kĩ năng sống giúp các em rèn luyện hành vi và có trách nhiệm đối với bản
thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc; giúp các em có khả năng ứng phó tích cực
trước các tính huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình,
bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hòa và lành mạnh.
Thứ ba, giáo dục kĩ năng sống nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo
dục phổ thông. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, với bản chất là hình thành
và phát triển cho các em khả năng làm chủ bản thân, khả năng ứng xử phù hợp
với những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình
huống của cuộc sống rõ ràng là phù hợp với mục tiêu giáo dục phổ thông, nhằm
thực hiện mục tiêu giáo dục phổ thông.
Thứ tư, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các nhà trường phổ
thông là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới.
Giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường có tầm quan trọng đặc biệt và để
nhằm mục tiêu: trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng
phù hợp. Trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành
2
mạnh, tích cực; loại bỏ những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ,
các tình huống và hoạt động hành ngày. Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực
hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển hài hòa về thể chất, trí tuệ, tinh
thần và đạo đức.

Như vậy, giáo dục kĩ năng sống cho học sinh ở trường Phổ thông dân tộc
nội trú có thể xem là một nhiệm vụ và có ý nghĩa sâu xa nhằm đảm bảo chất
lượng của mục tiêu đào tạo cán bộ người dân tộc thiểu số trong toàn huyện.
3. Thực trạng về giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường hiện nay
Đối với học sinh trường phổ thông dân tộc nội trú huyện, các em là những
học sinh dân tộc được hưởng chế độ học bổng và các chế độ khác như trang bị
những thứ cần thiết ban đầu, sách giáo khoa, bút giấy, được ở nội trú Các em
được nhà trường quản lý 24/24 giờ, được nhà nước nuôi, được học hai
buổi/ngày. Tuy nhiên, các em hầu hết là con em các dân tộc thiểu số, từ vùng
sâu vùng xa xuống học tập và sinh hoạt tập thể, mang theo rất nhiều tập tục lạc
hậu, nhiều thói quen trong sinh hoạt còn chưa văn minh, thiếu kỹ năng thực
hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng đối phó với những
khó khăn trong cuộc sống và khả năng tự phục vụ bản thân… Hơn thế nữa trong
nền kinh tế tri thức, cuộc sống hiện đại (về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá,
khoa học kĩ thuật, môi trường khí hậu, ) vận động hết sức khẩn trương và chứa
đựng nhiều yếu tố khôn lường đòi hỏi thế hệ trẻ là người dân tộc không chỉ làm
chủ tri thức, rút ngắn khoảng cách về chênh lệch tri thức giữa các vùng miền mà
còn phải thực sự tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một
số kỹ năng: sống khỏe, sống lành mạnh, cập nhật thông tin nhanh nhạy và hội
nhập với thế giới, góp phần tích cực cho cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp
hơn, nhằm thích ứng với mọi biến động của hoàn cảnh.
Thực tế, việc giáo dục kỹ năng sống trong nhà trường đã được chú trọng;
song nội dung giáo dục chưa được phong phú, phương pháp giảng dạy chưa thật
hấp dẫn, trong khi giáo dục kỹ năng sống cho học sinh là việc rất quan trọng,
ảnh hưởng tới quá trình hình thành phát triển nhân cách cho các em.
Với vai trò và trách nhiệm của mình, người thầy giáo luôn cố gắng nâng
cao chất lượng dạy và học, gắn liền với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức và
luôn tâm niệm không chỉ dạy kiến thức mà phải rèn luyện kĩ năng sống, tìm
hiểu bản sắc các dân tộc, hướng cho học sinh đi đúng trên con đường hình thành
nhân cách của mình. Và trên tất cả, cố gắng để xứng đáng với phẩm chất của

người làm giáo dục, học theo tấm gương Bác Hồ cả trong công việc lẫn cuộc
sống.
Vì thế, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát qua một số lớp để
tìm hiểu thêm về kĩ năng sống của học sinh, phỏng vấn giáo viên cũng như đi dự
giờ thăm lớp và rút ra kết luận như sau:
Thứ nhất, so với năm học 2010-2011, giáo viên đã chủ động hơn trong
việc lồng ghép giáo dục kĩ năng sống trong giảng dạy, tuy nhiên việc thực hiện
mới chỉ tập trung ở một số giáo viên, còn một số giáo viên nhận thức về văn hóa
dân tộc, giáo dục kĩ năng sống còn chưa sâu sắc; trong các hoạt động ngoài giờ
lên lớp, đã tổ chức các hoạt động thu hút học sinh tham gia song vẫn còn học
3
sinh còn nhút nhát, e ngại. Nội dung hoạt động chưa thật phong phú, chưa phát
huy hết vai trò, khả năng của các em.
Thứ hai, qua khảo sát 273 học sinh, với các thành phần dân tộc khác nhau,
kết quả cho thấy: 102/273 học sinh còn nhút nhát, e ngại thiếu hiểu biết, hạn chế
giao tiếp với bạn bè, với thầy cô giáo, ngại nói lên ý kiến của mình, không dám
phát biểu. Đặc biệt là các em học sinh lớp 6 mới tuyển vào trường.
4. Nhiệm vụ của trường PTDT nội trú Bảo Thắng
Trường phổ thông dân tộc nội trú huyện là trường tạo nguồn đào tạo cán
bộ người dân tộc thiểu số. Năm học 2011-2012 nhà trường có 273 học sinh
thuộc 11 dân tộc: Kinh, Dao, Tày, Nùng, H.Mông, Dáy, Phù Lá, Xa Phó,
Mường, Pa cô, Hoa. Mỗi học sinh đến trường đã mang theo bản sắc văn hóa của
tộc người mình góp chung vào văn hóa nhà trường.
Với đặc điểm đa dân tộc, mỗi học sinh đến trường phải học làm quen, học
cách sống để thích nghi với mọi biến động. Đây là kĩ năng sống đầu tiên mà học
sinh cần được trang bị. Nhà trường cần quan tâm, rèn cho các em một nếp sống
mới ở nội trú, vượt qua những bỡ ngỡ ban đầu khi từ các thôn, bản vùng cao,
vùng sâu, vùng xa về mái trường nội trú sinh hoạt và học tập.
Để phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích
cực” đạt hiệu quả cao, đặc biệt là nhiệm vụ giáo dục kĩ năng sống cho học sinh.

Nhà trường đã xây dựng quy tắc ứng xử văn hóa cho giáo viên và học sinh. Đẩy
mạnh nền nếp sinh hoạt tập thể, tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao tạo môi trường sư phạm thân thiện, an toàn và gắn bó như gia đình
thứ hai của mỗi em học sinh dân tộc. Tích cực đẩy mạnh công tác giáo dục toàn
diện cho học sinh các dân tộc, rèn luyện kĩ năng tự học, tính tự lập, tích cực chủ
động sáng tạo, phát triển tư duy trong học tập; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, giáo viên có phẩm chất chính trị tốt, có chuyên môn nghiệp vụ vững vàng và
không ngừng đổi mới phương pháp giảng dạy.
Tăng cường tổ chức các hoạt động trao đổi về một số kỹ năng hay nhóm
kĩ năng sống chủ yếu: giao tiếp, ứng xử văn hoá và quan hệ với mọi người; kĩ
năng tư duy tích cực và có quyết định đúng đắn; kĩ năng ứng phó trong mọi tình
huống và biết kiềm chế; giúp các em biết xây dựng kế hoạch; bảo vệ và tự bảo
vệ trong đó có tính mạng và sức khoẻ trước những hiểm hoạ về tai nạn, về ma
tuý, về bạo lực, về xâm hại đời sống tinh thần và thể chất Vì vậy, ngay từ đầu
năm học nhà trường đón học sinh lớp 6, tổ chức tuần sinh hoạt tập thể với chủ
đề: “Truyền thống nhà trường”, giới thiệu cho các em học sinh có những hiểu
biết về đặc điểm nhà trường, xa cha mẹ, gia đình, nhà trường chính là tổ ấm, là
nơi nương tựa, thầy cô giáo chính là người thân của các em.

4
Một số hình ảnh hoạt động của nhà trường
Với học sinh dân tộc nội trú việc giáo dục kỹ năng sống là một quá trình
và là sự kết hợp của tất cả tập thể hội đồng cán bộ, giáo viên trong nhà trường.
Từ khi các em mới nhập trường, các em
đã được giáo dục những kỹ năng tối thiểu
nhất từ các thầy cô giáo chủ nhiệm: cách
chào hỏi, cách xưng hô, cách giao tiếp
không nói trống không, không dùng từ
địa phương, tiếng lóng, cách sắp xếp chỗ
ăn, chỗ ở khoa học, sạch sẽ, gọn gàng

ngăn nắp, cách hòa mình trong cuộc sống
tập thể, cách tự học tập thể và đặc biệt
cách tôn trọng bản sắc của mỗi dân tộc
trong cuộc sống cộng đồng đa sắc màu
dân tộc.
5. Đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường
Đổi mới phương pháp giảng dạy cũng đang là một hướng đi nhằm tăng
cường lồng ghép giáo dục kỹ năng sống trong trường học: Sử dụng giáo án điện
tử, giáo cụ trực quan sinh động, các hình thức tổ chức thảo luận, trò chơi vận
động ngoài trời. Với các bộ môn văn hóa giáo viên có thể giúp các em tìm ra
khái niệm bài học dựa trên cảm nhận các bài hát, truyện cười, các tác phẩm văn
học, nghệ thuật, đóng kịch, đố vui, thực hành giải quyết tình huống…các em sẽ
tự suy ngẫm rút ra ý nghĩa bài học. Các em
được học các giá trị cơ bản trước, sau đó học
các kĩ năng dựa trên các giá trị này. Đổi mới
phương pháp giảng dạy nhằm hình thành cho
các em cách tư duy linh hoạt, phong thái tự tin
khi hòa nhập với cộng đồng, đồng thời giúp
các em sống nhân văn, biết yêu thương và có
trách nhiệm hơn với những người xung quanh
và với chính bản thân mình.
Giáo viên cần nắm vững nguyên tắc đổi mới phương pháp dạy học, cách
thức hướng dẫn học sinh lựa chọn phương pháp học tập, coi trọng tự học và biết
xây dựng các tài liệu chuyên môn phục vụ đổi mới phương pháp dạy học; Tích
cực học hỏi đồng nghiệp, những giáo viên dạy giỏi và tranh thủ sự giúp đỡ mình
trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Biết cách tiếp nhận những thông tin
phản hồi từ sự đánh giá nhận xét của học sinh về phương pháp dạy học của
mình, kiên trì phát huy mặt tốt, khắc phục mặt yếu, tự tin, không tự ti hoặc chủ
quan thỏa mãn. Hướng dẫn học sinh về phương pháp học tập và biết cách tự học,
tiếp nhận kiến thức và rèn luyện kĩ năng tự đánh giá kết quả học tập. Ngoài ra,

việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học thực sự đã tạo được sự chuyển
biến về nhận thức và thay đổi phong cách làm việc của giáo viên, học sinh.
Công nghệ thông tin đã trở thành phương tiện giúp nhà trường nâng cao chất
lượng dạy và học.
5
Giờ ăn tập thể của các em học sinh
Giờ học ứng dụng CNTT
6. Nội dung giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua các môn
học trong nhà trường
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong nhà trường phổ thông được
thực hiện thông qua dạy học các môn học và tổ chức các hoạt động giáo dục
nhưng không phải là lồng ghép, tích hợp thêm kĩ năng sống vào nội dung các
môn học và hoạt động giáo dục; mà theo một cách tiếp cận mới, đó là sử dụng
các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học
sinh được thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình học tập. Với cách
tiếp cận này, sẽ không làm nặng nề, quá tải thêm nội dung các môn học và hoạt
động giáo dục; mà ngược lại, còn làm cho các giờ học và hoạt động giáo dục trở
nên nhẹ nhàng hơn, thiết thực và bổ ích hơn đối với học sinh.
Một bài giáo dục kĩ năng sống thường được thực hiện theo 4 bước/giai
đoạn: khám phá, kết nối, thực hành/luyện tập, vận dụng. Trong chương trình
THCS việc giáo dục kĩ năng sống được thực hiện ở nhiều bộ môn: Ngữ văn,
GCCD, Thể dục, Âm nhạc, Sinh học
Đặc trưng của môn Ngữ văn là môn học về khoa học xã hội và nhân văn,
bên cạnh việc hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp
nhận văn bản văn học và các loại văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp học sinh
có được những hiểu biết về xã hội, văn hóa, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm
của con người. Với tính chất là môn học công cụ, môn Ngữ văn giúp học sinh có
năng lực ngôn ngữ để học tập, giao tiếp và nhận thức về xã hội và con người.
Với tính chất giáo dục thẩm mĩ, môn Ngữ văn giúp học sinh bồi dưỡng năng lực
tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ và định hướng thị hiếu để hoàn thiện nhân

cách.
Vì thế, Ngữ văn là môn học có những khả năng đặc biệt trong việc giáo
dục các kĩ năng sống cho học sinh, nhằm giúp học sinh nâng cao hiểu biết về các
giá trị truyền thống của dân tộc cũng như những giá trị tốt đẹp của nhân loại;
góp phần củng cố, mở rộng và bổ sung khắc sâu kiến thức đã học về quyền và
trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội. Giáo dục kĩ năng sống trong
môn Ngữ văn theo đặc trưng môn học là giáo dục theo con đường “Mưa dầm
thấm lâu” nhẹ nhàng, tự nhiên, không gượng ép. Giáo dục kĩ năng sống khá rõ
rệt về cả 2 phương diện: nội dung giáo dục và phương pháp dạy học. Mỗi bài
học đưa ra một số kĩ năng sống cơ bản có thể triển khai giáo dục cho học sinh và
những phương pháp/kĩ thuật dạy học tích cực có thể sử dụng trong các nội dung
của bài học.
Cụ thể khi dạy chương trình Ngữ văn THCS giáo viên cần bám sát tài liệu
giáo dục kĩ năng sống với các địa chỉ thích hợp, ví dụ:
Dạy các bài: Sọ Dừa, Thạch Sanh, Em bé thông minh, Cây bút thần,
Ông lão đánh cá và con cá vàng (ngữ văn 6): kĩ năng sống được giáo dục là
nhận thức giá trị của lòng nhân ái, sự công bằng trong cuộc sống. Suy nghĩ sáng
tạo và trình bày suy nghĩ về ý nghĩa và cách ứng xử thể hiện tinh thần nhân ái,
sự công bằng; kĩ năng giao tiếp, trình bày suy nghĩ ý tưởng, cảm nhận của bản
thân về ý nghĩa tình tiết trong tác phẩm.
Khi dạy các bài "Mẹ tôi", "Cuộc chia tay của những con búp bê"
học sinh tự nhận thức và xác định được giá trị của lòng nhân ái, tình thương và
6
trách nhiệm cá nhân với hạnh phúc gia đình. Qua đó, giáo dục cho học sinh kĩ
năng giao tiếp, cảm nhận của bản thân về cách ứng xử thể hiện tình cảm của các
nhân vật. Các phương pháp, kĩ thuật dạy học: Động não, thảo luận nhóm, cặp
đôi chia sẻ suy nghĩ về lòng nhân ái.
Hoặc dạy dạng bài Luyện nói, Phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm văn
học, kĩ năng sống cơ bản được giáo dục là kĩ năng giao tiếp, trình bày cảm nghĩ
trước tập thể, thể hiện sự tự tin.

Hay dạy bài "Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới" (ngữ văn 9), giáo
dục cho học sinh kĩ năng làm chủ bản thân, tự xác định được mục tiêu phấn đấu
khi bước vào thế kỉ mới; thảo luận bày tỏ suy nghĩ của mình về điểm mạnh,
điểm yếu của con người Việt Nam và những hành trang thanh niên Việt Nam
cần chuẩn bị để bước vào thế kỉ mới.
Ngoài ra, đối với các bộ môn khác giáo viên cũng sử dụng linh hoạt các
phương pháp và kĩ thuật dạy học với nội dung giáo dục kĩ năng sống thể hiện
qua các bài giảng trong chương trình. Như tổ chức hoạt động nhóm giúp cho
từng thành viên được bộc lộ ý kiến, suy nghĩ, hiểu biết, thái độ của mình qua đó
được tập thể uốn nắn, phát triển tình bạn,
ý thức cộng đồng, nâng cao ý thức tổ
chức kỷ luật, tinh thần tương trợ, hợp
tác Phương pháp trực quan, vấn đáp,
tìm tòi người học phát hiện lại những tri
thức mà loài người đã khám phá bằng
nghiên cứu khoa học đó là rèn kỹ năng
tự học. Được sự hướng dẫn của người
dạy, học sinh hiểu sâu, nhớ lâu, phát
triển kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng
trình bày, tạo hứng thú trong học tập.
7. Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Thực tế, có nhiều phương pháp, nhiều cách thức để thực hiện giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh. Một trong những phương pháp hữu ích và thân thiện
nhất để rèn kĩ năng sống cho học sinh đó là giáo dục thông qua hoạt động ngoài
giờ lên lớp.
Hoạt động ngoài giờ lên lớp có ba nhiệm vụ, đó là: củng cố tăng cường
nhận thức; bồi dưỡng thái độ, tình cảm và hình thành hệ thống kỹ năng, hành vi.
Với nhiệm vụ hình thành hệ thống kỹ năng, hành vi. Đây là nhiệm vụ nhằm rèn
cho học sinh những kỹ năng thực hiện các công việc lao động đơn giản, các kỹ
năng sáng tạo nghệ thuật, thực hiện các bài thể dục, các trò chơi, các hành vi

ứng xử đối với mọi người trong gia đình, trong nhà trường và ngoài xã hội.
Thông qua các hoạt động, học sinh được rèn những kỹ năng tham gia tổ chức
hoạt động tập thể, biết phối hợp với mọi người cùng thực hiện hoạt động chung,
nâng cao ý thức tự chủ, tự tin, chủ động và giao tiếp với mọi người.
Trường PTDT nội trú là môi trường để giáo dục đạo đức lối sống cho các
em, rèn luyện cho các em những kĩ năng sống cấn thiết. Tăng cường giáo dục kỹ
7
Tổ chức hoạt động nhóm trong giờ học
năng sống cho học sinh dân tộc thiểu số; giáo dục tinh thần đoàn kết dân tộc
sống hòa nhập với tập thể trong trường và cộng đồng nơi học sinh ăn, ở, sinh
hoạt tại trường, khuyến khích học sinh tham gia và bày tỏ ý kiến. Tổ chức các
diễn đàn giáo dục với hoạt động phong phú và phù hợp, phát huy vai trò chủ thể
của học sinh nhằm giúp các em tự tin, mạnh dạn hơn trong các hoạt động tập
thể, giao tiếp hằng ngày.

Hoạt động tập thể ngoài giờ lên lớp giúp các em xây dựng tinh thần đoàn
kết, giúp các em tự thiết lập, xây dựng các chương trình, hòa đồng và tự tin
trong cuộc sống. Các em sẽ được học một số kỹ năng để tham gia vào hoạt động
tập thể dễ dàng hơn như thi nét đẹp các dân tộc, tuyên truyền các lễ hội: Tết của
người dân tộc Mông, lẽ hội xuống đồng, hội diễn văn nghệ, các chương trình thi
trình diễn trang phục các dân tộc, thi tìm hiểu kiến thức lịch sử, thi vẽ tranh với
chủ đề thầy cô và mái trường, thi tiếng hát dân ca và các trò chơi dân gian,
khuyến khích mỗi học sinh biết sử dụng thành thạo một loại nhạc cụ dân tộc,
một bài hát mang âm hưởng dân ca, dân tộc mình. Tổ chức các chuyên đề về
giáo dục giới tính vị thành niên, phòng chống dịch bệnh, phòng chống các tệ nạn
xã hội ; tổ chức các hoạt động thể dục thể thao: đẩy gậy, điền kinh, bắn nỏ, cờ
vua, đá cầu để thu hút học sinh tham gia, tạo sân chơi bổ ích cho các em.
Tổ chức tết Trung thu cho học sinh toàn trường (thi mâm cỗ đẹp), thi lồng
ghép các kĩ năng sống, thi nét đẹp đội viên nhân dịp các ngày lễ lớn.Từ đó đã
tạo một sân chơi lành mạnh giúp các em có điều kiện bộc lộ năng lực, kĩ năng

sống, sự hiểu biết, khả năng ứng xử tình huống, tăng cường sự gắn bó đoàn kết
trong lớp, trong trường.

Chương trình ngoại khóa còn giúp xây dựng cho các em giá trị của cuộc
sống là: tôn trọng, hòa bình, hợp tác, hạnh phúc, chân thật, nhân đạo, tình
thương, trách nhiệm, giản dị, khoan dung, tự do và đoàn kết; học tập và làm theo
8
Hoạt động ngoại khóa “Em yêu Lịch sử dân tộc”
Thi vẽ tranh chủ đề “Thầy cô và mái trường” chào mừng ngày 20/11
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh; chăm sóc gia đình thương binh, liệt sĩ, như
gia đình mẹ Đỗ Thị Chính thôn Phú Thịnh 1, thị trấn Phố Lu, huyện Bảo Thắng
là mẹ liệt sĩ. Chính những hoạt động này đã tăng thêm hứng thú học tập cho các
em, Các em hiểu thêm về giá trị của các di tích lịch sử, tăng thêm tình yêu quê
hương đất nước, tình bạn chân thành, tình đoàn kết dân tộc

8. Sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và xã hội
Đối với gia đình: Gia đình là cái nôi giáo dục đầu tiên của mỗi con
người; môi trường giáo dục gia đình là rất quan trọng trong mối quan hệ phối
hợp với nhà trường và xã hội. Gia đình là tế bào hạnh phúc suốt đời của mỗi con
người. Giáo dục giá trị gia đình, văn hóa gia đình là rất cần thiết hiện nay, bên
cạnh giáo dục lòng yêu nước và truyền thống văn hóa dân tộc. Đối với học sinh
trường dân tộc nội trú, bản thân gia đình học sinh cũng cần phải hiểu rõ nhiệm
vụ của người làm cha, mẹ cùng với nhà trường để rèn cho con, em mình kĩ năng
sống tự lập, biết tự lo, tự chăm sóc cho bản thân khi không có cha mẹ ở cạnh.
Động viên các em học tập và rèn luyện theo đúng bổn phận của người con và
nhiệm vụ của người học sinh.
Đối với nhà trường: Có kế hoạch cụ thể để nuôi dưỡng và dạy dỗ học
sinh ngay từ đầu năm học, nhất là đối với học sinh đầu cấp. Lúc này thì vai trò
của giáo viên chủ nhiệm, của gia đình cũng sẽ được phát huy tốt hơn. Với những
kết quả tốt đẹp đầu tiên của phong trào thi đua, với sự chung tay góp sức của

toàn xã hội, sự nỗ lực gương mẫu của các thầy cô giáo và cán bộ quản lý đặc
biệt là sự cố gắng của 273 học sinh trong
nhà trường. Gần gũi với các em, quan tâm
đến tất cả các em học sinh, bởi các em đều
là học sinh người dân tộc thiểu số từ các
bản làng xa xôi đến mái trường nội trú.
Dạy các em từ việc ăn, ở, sinh hoạt đến kỹ
năng giao tiếp, kỹ năng sống cho các em.
Phải cho các em thấy được mái trường
Dân tộc nội trú là ngôi nhà thứ hai của các
em, các thầy cô là những người mẹ, người
cha thứ hai của mình.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, nhà trường thường xuyên gắn kết chặt
chẽ giữa dạy chữ với rèn người. Trong đó tập trung tổ chức thực hiện bốn
9
Hoạt động giúp đỡ gia đình Liệt sỹ
Một giờ chào cờ đầu tuần
chuyên đề, gồm: Giáo dục và chăm sóc sức khỏe cho học sinh; công tác vệ sinh
cá nhân và bảo vệ môi trường; công tác vệ sinh an toàn thực phẩm; công tác
giáo dục và rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh nội trú. Nhà trường tổ chức tốt
công tác nuôi dạy học sinh nội trú, đảm bảo đủ tiêu chuẩn, đúng định lượng qui
định; Giáo dục học sinh tinh thần đoàn kết, thương yêu, tôn trọng lẫn nhau giữa
các dân tộc trong một mái trường dân tộc nội trú.


Để phong trào thi đua “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”
có sức lan tỏa và đi vào thực chất, tác động tích cực hơn nữa, đến từng học sinh.
Người giáo viên chủ nhiệm cần thực sự đổi mới phương pháp giáo dục, tạo điều
kiện cho học sinh rèn luyện, coi trọng việc tự rèn luyện của học sinh, khuyến
khích và động viên kịp thời, quan tâm đến học sinh, hướng dẫn các em từ việc

chải tóc, giặt quần áo, gấp chăn màn Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh,
làm cho họ nhận thức được tầm quan trọng và cùng với nhà trường giáo dục và
rèn luyện cho con em về kĩ năng sống.

Đối với xã hội, cần có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các tổ chức đoàn thể,
các lực lượng giáo dục để giáo dục kĩ năng sống cho học sinh. Học sinh phổ
thông dân tộc trong nhà trường là đối tượng được các cấp lãnh đạo rất quan tâm,
bởi các em được đào tạo, nuôi dưỡng trở thành cán bộ nguồn cho các thôn bản,
các xã trên địa bàn. Vì vậy, sự quan tâm chỉ đạo, tổ chức các hoạt động giáo dục
thu hút các em tham gia, tạo sân chơi bổ ích cho các em. Quan tâm cả về vật
chất và tinh thần, giúp các em yên tâm học tập và tự tin, tự khẳng định mình
trước môi trường sống nội trú. Tạo điều kiện về cơ sở vật chất để trường PTDT
nội trú thực sự là trường chuyên biệt có nhiệm vụ là nuôi dưỡng và dạy dỗ, để
các em được học tập, vui chơi, tâm sự, chia sẻ và coi nhà trường là ngôi nhà
chung, ngôi nhà thứ hai của các em.
10
Học sinh các dân tộc cùng vui chơi và học tập
Các cô giáo chủ nhiệm hướng dẫn học sinh sinh hoạt nột trú
III. TÍNH MỚI CỦA GIẢI PHÁP
Cuộc sống hiện đại (về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học kĩ
thuật, môi trường khí hậu , ở trong nước và trên thế giới) vận động hết sức
khẩn trương và chứa đựng nhiều yếu tố khôn lường. Để sống, hội nhập và góp
phần tích cực cho cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn, con người nói
chung và học sinh nói riêng không thể không quan tâm đến việc rèn luyện kĩ
năng sống nhằm thích ứng với mọi biến động của hoàn cảnh.
Những kĩ năng chủ yếu cần rèn luyện là: Kĩ năng giao tiếp, ứng xử văn
hóa và quan hệ với mọi người; kĩ năng tư duy tích cực và có được quyết định
đúng đắn; kĩ năng ứng phó trong mọi tình huống và biết kiềm chế. Những nhóm
kĩ năng trên bao hàm kĩ năng hoạt động độc lập hay làm theo nhóm; xây dựng
kế hoạch; bảo vệ và tự bảo vệ trong đó có tính mạng và sức khỏe trước những

hiểm họa về tai nạn, về ma túy, về bạo lực, về xâm hại đời sống tinh thần và thể
chất Việc rèn luyện kĩ năng sống cần được tiến hành trên lớp, trong và ngoài
nhà trường, có thể được thực hiện qua các cách thức và hoạt động sau đây:
Tích hợp với nội dung các bài học ở tất cả các môn học trên lớp;
Tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp theo chủ điểm.
Sinh hoạt Đoàn, Đội của thanh thiếu niên; các giờ học mà chơi, chơi mà
học của học sinh.
Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh, đặc biệt đối với học sinh trường
PTDT nội trú là một nhiệm vụ quan trọng. Khi các em được học tập và rèn kĩ
năg sống trong môi trường giáo dục tốt sẽ đem lại nhiều lợi ích như:
Lợi ích về mặt sức khoẻ: góp phần xây dựng môi trường sống lành
mạnh, đảm bảo cho học sinh phát triển tốt về thể chất, tinh thần và xã hội.
Lợi ích về mặt giáo dục: có những tác động tích cực, thân thiện giữa thầy
và trò, bạn và bạn, giữa các dân tộc anh em với nhau; hứng thú trong học tập;
hoàn thành công việc một cách sáng tạo và có hiệu quả; đề cao chuẩn mực đạo
đức, chủ động, tự giác của học sinh trong quá trình học tập, tu dưỡng.
Lợi ích về mặt văn hoá xã hội: Giáo dục kĩ năng sống thúc đẩy những
hành vi mang tính xã hội tích cực, giúp phần xây dựng môi trường xã hội lành
mạnh, xây dựng nhà trường thân thiện.
Lợi ích về mặt kinh tế chính trị: Giải quyết một cách tích cực nhu cầu và
quyền trẻ em, xác định được nghĩa vụ của mình đối với bản thân gia đình và xã
hội, góp phần xây dựng bản làng, quê hương của mình; giữ gìn khối đoàn kết
các dân tộc trong nhà trường, trong huyện Bảo Thắng, trong tỉnh Lào Cai cũng
như trên toàn đất nước Việt Nam.
Giáo dục phổ thông trong nhà trường đã được đổi mới cả về mục tiêu,
nội dung và phương pháp dạy học theo chương trình đổi mới của Bộ GD&ĐT
gắn với bốn trụ cột của giáo dục: Học để biết, gồm các kĩ năng tư duy như: tư
duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết các vấn đề, nhận thức
được hậu quả ; Học làm người gồm các kĩ năng cá nhân như: ứng phó với
căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin ; Học để sống với các kĩ

năng xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo
nhóm, thể hiện sự cảm thông; Học để làm gồm kĩ năng thực hiện công việc và
11
nhiệm vụ như: kĩ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm; học để tự khẳng
định, học để cùng chung sống, mà thực chất là một cách tiếp cận kĩ năng sống.
Rèn luyện kĩ năng sống trong nhà trường là một nội dung hết sức quan
trọng, giúp các em học sinh tự tin hơn, ứng xử có văn hóa, ý thức chung sống
trong cộng đồng thực sự thân thiện, giải quyết hợp lý các tình huống mâu thuẫn,
xung đột. Chính các em là người biết lên tiếng, biết bảo vệ lẽ phải, có thái độ lên
án và kiên quyết bài trừ mọi hành vi bạo lực. Các em sẽ chủ động nhiều hơn
trong cuộc sống của chính mình. Tuy nhiên để giáo dục kỹ năng sống rất cần sự
chung tay, chung sức của tất cả gia đình, nhà trường và các tổ chức xã hội để các
em học sinh hôm nay sẽ là thế hệ tiềm năng của nước nhà trong tương lai.
IV. HỮU ÍCH CỦA GIẢI PHÁP
Qua việc thực hiện tốt các giải pháp trên tạo cho mỗi học sinh thấy tự tin
hơn trong quá trình giao tiếp, ứng xử có văn hoá. Nhất là qua việc được học tập
về kĩ năng sống, kĩ thuật dạy học là một công cụ thông suốt trong quá trình suy
nghĩ của các em về mọi vấn đề. Tư duy hợp lý, logic, giúp các em nhận định và
giải quyết vấn đề rõ ràng và hiệu quả hơn. Việc làm quen với các môn học về kĩ
năng sống như: giao tiếp, thuyết trình, làm việc theo nhóm, khả năng lãnh đạo,
tổ chức thậm trí là giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường, sinh hoạt…
đã giúp các em tự tin hơn, chủ động và biết cách xử lý mọi tình huống trong
cuộc sống và quan trọng hơn là khơi gợi những khả năng tư duy sáng tạo, biết
phát huy thế mạnh của các em. Thường xuyên hoạt động nhóm, đã giúp các em
tiến bộ về kỹ năng hợp tác, giao tiếp ứng xử, lắng nghe, đánh giá….có trách
nhiệm, có kỹ năng quản lý về thời gian trong học tập tốt hơn. Bằng phương pháp
khác: giúp các em làm việc với sách giáo khoa, thực hành, sưu tầm thu thập kiến
thức, rèn kỹ năng tự học, tìm kiếm xử lý thông tin tốt hơn. Biết vận dụng kiến
thức đã học để bảo vệ môi trường, bảo vệ sức khỏe, giải thích các hiện tượng
thực tiễn, biết giúp đỡ, đoàn kết, duy trì cuộc sống an toàn…

Kết quả khảo sát sau khi nghiên cứu và thực hiện đề tài đã thu được kết
quả như sau:
Thứ nhất, nhận thức của cán bộ, giáo viên, nhân viên, cha mẹ học sinh về
tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho các em học sinh được nâng
lên rõ rệt. Không có hiện tượng học sinh bị xâm hại trong và ngoài nhà trường.
Thứ hai, đa số các em học sinh nắm được các kĩ năng sống cần thiết, các
em trở nên năng động sáng tạo, tự tin hơn, môi trường trở nên thân thiện hơn,
chất lượng dạy học của thầy trò tăng lên rõ rệt, học sinh phát triển những nét
nhân cách tích cực thuận lợi cho việc thành công ở học đường và trong cuộc
sống.
Cụ thể, khi khảo sát học sinh khối 6 là khối đầu cấp, bước chân vào
trường nội trú, xa nhà, nhớ cha mẹ và người thân, lúc đầu còn nhút nhát, sợ sệt,
cha mẹ thì lo lắng, thường xuyên ra thăm con hoặc gọi điện hỏi thăm. Nhưng
sau được giáo dục qua việc rèn kĩ năng sống thì 69/69 học sinh đã hoà nhập,
quen với môi trường, biết tự lập, tự lo cho bản thân; gia đình yên tâm gửi con
cho các thầy cô giáo, cho nhà trường nuôi dạy.
Thứ ba, nhà trường nhận được sự đồng thuận, ủng hộ và đánh giá cao từ
phía cha mẹ học sinh và xã hội.
12
Nh ú m khi tõm s vi hc sinh giỏo viờn cng hiu hn hon cnh
ca tng em kp thi s chia, cú bin phỏp giỏo dc tt hn. Tiờu biu nh
cụ giỏo Ló Thu Dng, cụ Nguyn Th Hoa, cụ V Th Ngõn, cụ Lờ Th Bớch
Ngc, cụ Phm Th Hng Thu, cụ Nguyn Thanh Long ó tõm s v thc hin
tt nhim v giỏo dc k nng sng cho hc sinh. Cỏc em t tin, nng ng,
nhanh nhn, thụng minh trong giao tip, ng x, cỏc cuc thi: tỡm hiu kin thc
lch s, k chuyn hc tp v lm theo tm gng o c H Chớ Minh vo cỏc
gi cho c th hai hng tun; thi v tranh ch Thy cụ v mỏi trng ni
trỳ ca em; tham gia phong tro vn hoỏ, vn ngh, th dc th thao do cỏc
ngnh, cỏc cp phỏt ng; tham gia thi hc sinh gii cỏc cp v u t gii.
C th, n thi im ngy 10/3/2012 kt qu t c nh sau:

Thi hc sinh gii lp 9 cp huyn t 03 gii, cú 02 hc sinh chun b thi
cp tnh. Thi ting Anh trờn mng cú 01 hc sinh cp huyn v thi cp tnh.
Tham gia Hi khe Phự ng huyn Bo Thng ln th VIII, gii cỏ nhõn
cú 15 gii nht, 5 gii nhỡ, 16 gii ba; gii nhỡ kộo co, gii ba búng ỏ.
Hi khe Phự ng tnh Lo Cai ln th VI nm 2012 cú 07 em tham gia
t 04 huy chng vng, 03 huy chng bc v 03 huy chng ng.
Cú 02 hc sinh tham gia Hi khe Phự ng cp khu vc ti Phỳ Th.
V. KH NNG PH BIN V NHN RNG
Trng ph thụng dõn tc ni trỳ l trng ca nhiu dõn tc thiu s.
Hc sinh ca trng n t cỏc xó trong huyn, mi hc sinh u mang ớt nhiu
tp tớnh ca cng ng sinh ra mỡnh. Nh trng l ni dy ngi, dy ch.
Nhim v ca nh trng l giỏo dc cho cỏc em ý thc hũa nhp, ý thc dõn
tc v cú k nng sng c bn. Giỳp cỏc em hiu sõu thờm vn húa dõn tc mỡnh
v ca cỏc dõn tc khỏc trong cng ng cỏc dõn tc anh em. To mt mụi
trng giỏo dc thõn thin, on kt v an ton.
Theo đánh giá chủ quan, vn ch o nõng cao cht lng giỏo dc
ton din cho hc sinh, v vi vic giỏo dc rốn k nng sng cho hc sinh
trng Ph thụng dõn tc ni trỳ huyn Bo Thng tin li, khụng tn kộm phc
tp, cú th ỏp dng bt c trng hc no, iu kin no. Song, mun trin
khai v thc hin cú hiu qu trc ht ũi hi ngi cỏn b qun lý nh trng
phi tõm huyt, cú nng lc, cú trỡnh hiu bit v cỏc ni dung xõy dng
Trng hc thõn thin, hc sinh tớch cc, c bit l cỏc kin thc v k nng
sng. Phi lm tt tt c cỏc khõu nh tham mu, xõy dng k hoch, t chc
thc hin, kim tra ụn c, s kt, khen thng, chn chnh kp thi. Phi su
tm, xõy dng b ti liu v k nng sng cn thit cho hc sinh THCS. Phi
chn v xõy dng, tp hun tt cho i ng hc sinh ct cỏn, giỏo viờn ch
nhim nũng ct
Việc đổi mới giáo dục không chỉ diễn ra ở nội dung, chơng trình, phơng
pháp dạy học mà còn tích cực đổi mới công tác quản lý ch o ca lónh o nh
trng, i mi phng phỏp v k thut dy hc; tp trung giỏo dc rốn k nng

sng cho hc sinh. Có nhiều phơng pháp, giải pháp để thực hiện nhng trong đó
có hai giải pháp có tính đột phá là đổi mới quản lý giáo dục và xây dựng đội ngũ
nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục; i mi phng phỏp dy hc gn vi giỏo
dc k nng sng cho hc sinh. Bộ GD&ĐT thừa nhận cần phải đổi mới quản lý
13
giáo dục để đảm bảo cho hệ thống giáo dục vận hành theo đúng quy luật đi đến
mục tiêu đã định. c bit l phong tro thi ua Xõy dng trng hc thõn
thin, hc sinh tớch cc, trong ú giỏo dc k nng sng cho hc sinh trong
trng ph thụng c bit quan trng.
Túm li, vic giỏo dc k nng sng cho hc sinh ngy cng tr nờn thit
yu nhm gúp phn o to con ngi mi vi y cỏc mt c, trớ, th,
m, nhõn, l, ngha, trớ, tớn hay nhõn, ngha, trớ, dng, liờm. Ngn ng cú
cõu Gieo hnh vi, gt thúi quen; gieo thúi quen, gt tớnh cỏch. Vỡ vy, vic
giỏo dc k nng sng cho hc sinh phi phự hp vi la tui, cp hc, vn hc
ca tng vựngsao cho cỏc em cm thy gn gi vi cuc sng ca bn thõn,
gia ỡnh, nh trng v xó hi, ch khụng nờn ch trờn sỏch v hay nhng li
núi suụng.
Vi ti Giỏo dc k nng sng i vi hc sinh trng PTDT ni
trỳ, bn thõn tụi ó thc hin v ch o t 2010-2011 n nm hc 2011-2012
ti trng PTDT Ni trỳ v thu c kt qu kh quan, tụi a ra ng
nghip tham kho, vn dng v gúp thờm ý kin.
NGI VIT SNG KIN
(ký, ghi rừ h v tờn)
Phựng Th Thu Hin
XC NHN CA NH TRNG














14
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN CẤP TRÊN


































15

×