Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Hoàn thiện quá trình lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 103 trang )


1
LỜI MỞ ĐẦU

Kế hoạch kiểm toán đúng đắn là cơ sở để kiểm toán viên thu thập bằng
chứng có giá trị góp phần đƣa ra các nhận xét xác đáng về thực trạng hoạt
động đƣợc kiểm toán, giữ vững và nâng cao uy tín cũng nhƣ hình ảnh của
Công ty kiểm toán đối với khách hàng.
Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, hoạt động kiểm toán nói chung cũng
nhƣ hoạt động kiểm toán độc lập nói riêng là hoạt động mới mẻ. Trong khi đó
hành lang pháp lý cho hoạt động kiểm toán chƣa đầy đủ, nội dung, quy trình
cũng nhƣ phƣơng pháp đƣợc vận dụng trong các cuộc kiểm toán ở Việt Nam
mới ở giai đoạn đầu, nguồn tài liệu thiếu cả về số lƣợng và chất lƣợng. Do
vậy, việc lập kế hoạch kiểm toán cần đƣợc coi trọng để đảm bảo chất lƣợng
và hiệu quả của cuộc kiểm toán.
Với ý nghĩa đó, qua quá trình học tập tại trƣờng và đƣợc sự hƣớng dẫn
của Thạc sỹ Phan Trung Kiên, em đã quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện quá
trình lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài chính
do Công ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam thực hiện” để làm chuyên đề
thực tập tốt nghiệp.
Chuyên đề thực tập bao gồm ba phần chính nhƣ sau:
Phần I: Cơ sở lý luận về quá trình lập kế hoạch kiểm toán trong quy
trình kiểm toán Báo cáo tài chính.
Phần II: Thực trạng lập kế hoạch kiểm toán Báo cáo tài chính do Công
ty Hợp danh Kiểm toán Việt Nam – CPA VIETNAM thực hiện.
Phần III: Một số ý kiến đề xuất nhằm hoàn thiện công tác lập kế hoạch
kiểm toán Báo cáo tài chính do CPA VIETNAM thực hiện.






2


PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUÁ TRÌNH LẬP KẾ HOẠCH KIỂM TOÁN
TRONG QUY TRÌNH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

1. Khái niệm và vai trò của Lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán Báo
cáo tài chính.
1.1. Khái niệm về kế hoạch và lập kế hoạch kiểm toán trong kiểm toán Báo
cáo tài chính.
Các cách tiếp cận với khái niệm “Kế hoạch”: Theo từ điển tiếng Việt,
“Kế hoạch” đƣợc giải nghĩa là: “ Sự sắp đặt hoặc hoạch định đƣờng lối có hệ
thống về những công việc dự định làm”. Trên góc độ quản lý, với các cách
tiếp cận khác nhau có thể đƣa ra những khái niệm cụ thể về kế hoạch; sau đây
là ba cách tiếp cận chủ yếu:
Thứ nhất: Tiếp cận kế hoạch với tính cách là một quá trình thực hiện
mục tiêu của một hoạt động thì kế hoạch là trình tự tiến hành hoạch định, tổ
chức thực hiện nhằm đạt đƣợc mục tiêu đề ra. Với cách tiếp cận này sẽ có
khái niệm về kế hoạch hoá.
Thứ hai: Tiếp cận kế hoạch với tính cách là quá trình cân đối nguồn lực
cho một hoạt động thì kế hoạch là quá trình cân đối tích cực giữa yêu cầu của
hoạt động với các nguồn lực thực hiện để đạt đƣợc mục tiêu đề ra.
Thứ ba: Tiếp cận kế hoạch với tính cách là cách thức tổ chức thực hiện
hoạt động thì kế hoạch là các phƣơng án tổ chức thực hiện hoạt động để đạt
đƣợc mục tiêu đề ra.
Khái niệm “Kiểm toán” theo quan niệm hiện đại: Ở nƣớc ta, thuật ngữ
“Kiểm toán” mới chỉ thực sự xuất hiện và đƣa vào sử dụng trong những năm
đầu của thập kỷ 90. Vì vậy cách hiểu và cách dùng về khái niệm “Kiểm toán”

chƣa đƣợc thống nhất. Tuy nhiên, theo quan điểm hiện đại: “Kiểm toán là

3
việc xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng hoạt động đƣợc kiểm toán bằng
hệ thống phƣơng pháp kiểm toán chứng từ và ngoài chứng từ do các kiểm
toán viên có trình độ nghiệp vụ tƣơng xứng thực hiện trên cơ sở hệ thống
pháp lý có hiệu lực”.
Từ đó, có thể hiểu khái niệm “Kế hoạch kiểm toán” là sự sắp đặt hoặc
hoạch định đƣờng lối có hệ thống về những công việc kiểm toán dự định sẽ
làm để xác minh và bày tỏ ý kiến về thực trạng đƣợc kiểm toán.
Yêu cầu của mỗi cuộc kiểm toán là phải đảm bảo tính hiệu quả, tính kinh
tế và tính hiệu lực thông qua thu thập bằng chứng kiểm toán đầy đủ và có giá
trị làm căn cứ cho kết luận kiểm toán về tính trung thực và hợp lý của các số
liệu trên Báo cáo tài chính. Để đạt đƣợc các yêu cầu trên, kế hoạch kiểm toán
phải đƣợc xây dựng một cách khoa học.
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên cần thực hiện trong mỗi
cuộc kiểm toán nhằm tạo ra các điều kiện pháp lý cũng nhƣ các điều kiện cần
thiết khác cho kiểm toán. Việc lập kế hoạch kiểm toán đã đƣợc quy định rõ
trong các chuẩn mực kiểm toán hiện hành, Chuẩn mực thứ tƣ trong mƣời
Chuẩn mực Kiểm toán đƣợc chấp nhận rộng rãi (GAAS) đòi hỏi công tác
kiểm toán phải đƣợc lập kế hoạch đầy đủ và các trợ lý nếu có phải đƣợc giám
sát đúng đắn. Trong Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam Số 300 - Điểm 2 cũng
nêu rõ “Kiểm toán viên và Công ty kiểm toán cần lập kế hoạch kiểm toán để
đảm bảo cuộc kiểm toán đã được tiến hành một cách có hiệu quả”.
Kế hoạch kiểm toán phải đƣợc lập cho mọi cuộc kiểm toán. Kế hoạch
kiểm toán phải đƣợc lập một cách thích hợp nhằm bao quát hết các khía cạnh
trọng yếu của cuộc kiểm toán; phát hiện gian lận, rủi ro và những vấn đề tiềm
tàng; đảm bảo cuộc kiểm toán đƣợc hoàn thành đúng thời hạn. Việc lập kế
hoạch kiểm toán không chỉ xuất phát từ yêu cầu của cuộc kiểm toán nhằm
chuẩn bị cho hoạt động kiểm toán mà còn là nguyên tắc cơ bản trong công tác

kiểm toán đã đƣợc quy định thành Chuẩn mực.

4
Nhƣ vậy, lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên của một cuộc
kiểm toán cần phải tiến hành để đảm bảo cho toàn bộ cuộc kiểm toán đƣợc
thực hiện thành công. Tuy nhiên, lập kế hoạch kiểm toán không phải là một
hoạt động đơn lẻ mà bao gồm rất nhiều các bƣớc công việc nối tiếp nhau. Bởi
vì lập kế hoạch kiểm toán là một công việc không đơn giản, một mặt đòi hỏi
kiểm toán viên phải có trình độ chuyên môn cao, mặt khác nó đòi hỏi phải có
sự phối hợp giữa các bộ phận chức năng khác nhau.

Ba giai đoạn của một cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính:
Giai đoạn I: Lập kế hoạch và thiết kế phƣơng pháp kiểm toán.
Giai đoạn II: Thực hiện kế hoạch kiểm toán.
Giai đoạn III: Hoàn thành kiểm toán và công bố Báo cáo kiểm toán.
Để hiểu rõ hơn về quy trình lập kế hoạch kiểm toán, đồng thời có thể lập
kế hoạch kiểm toán một cách khoa học và thống nhất theo một chuẩn mực
chung đƣợc thừa nhận rộng rãi, ngƣời ta lại chia lập kế hoạch kiểm toán thành
ba bộ phận:
 Kế hoạch chiến lƣợc.
 Kế hoạch tổng thể.
 Chƣơng trình kiểm toán.
Các bộ phận của kế hoạch kiểm toán phụ thuộc vào đặc trƣng của từng cuộc
kiểm toán.
Kế hoạch chiến lƣợc là định hƣớng cơ bản, nội dung trọng tâm và
phƣơng pháp tiếp cận chung của cuộc kiểm toán do cấp chỉ đạo lập ra dựa
trên hiểu biết về tình hình hoạt động và môi trƣờng kinh doanh của đơn vị
đƣợc kiểm toán.
Theo những hƣớng dẫn của Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 300 - từ
điểm 14 đến điểm 17:


5
 Cuộc kiểm toán lớn về quy mô là cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính tổng
hợp ( hoặc báo cáo tài chính hợp nhất) của Tổng công ty, trong đó có nhiều
công ty đơn vị trực thuộc cùng loại hình hoặc khác loại hình kinh doanh.
 Cuộc kiểm toán có tính chất phức tạp là cuộc kiểm toán có dấu hiệu tranh
chấp, kiện tụng hoặc nhiều hoạt động mới mà kiểm toán viên và Công ty kiểm
toán chƣa có nhiều kinh nghiệm.
 Cuộc kiểm toán địa bàn rộng là cuộc kiểm toán của đơn vị có nhiều đơn vị
cấp dƣới nằm trên nhiều tỉnh, thành phố khác nhau, kể cả các chi nhánh ở
nƣớc ngoài.
 Kiểm toán Báo cáo tài chính nhiều năm là khi Công ty kiểm toán ký hợp
đồng kiểm toán cho một số năm tài chính liên tục, ví dụ từ năm 2005 đến
2007.
Kế hoạch chiến lƣợc là cơ sở lập kế hoạch kiểm toán tổng thể, là cơ sở
chỉ đạo thực hiện và soát xét kết quả của cuộc kiểm toán.
Việt Nam đã ra nhập WTO, xuất phát từ các quy định của nhà nƣớc về
các đối tƣợng kiểm toán bắt buộc mà số lƣợng khách hàng của các Công ty
kiểm toán ngày càng tăng theo. Để đảm bảo chất lƣợng của cuộc kiểm toán,
bắt buộc phải có những hƣớng dẫn cụ thể hơn trong việc lập kế hoạch kiểm
toán cho những đối tƣợng phức tạp, quy mô lớn, địa bàn rộng… Do đó, khái
niệm và nội dung lập kế hoạch chiến lƣợc ra đời nhằm thoả mãn những yêu
cầu đó.
Kế hoạch kiểm toán tổng thể là việc cụ thể hoá kế hoạch chiến lƣợc và
phƣơng pháp tiếp cận chi tiết về nội dung, lịch trình và phạm vi dự kiến của
các thủ tục kiểm toán. Mục tiêu của việc lập kế hoạch kiểm toán tổng thể là để
có thể thực hiện công việc kiểm toán một cách có hiệu quả và đúng thời hạn.
Dựa vào khái niệm trên, có thể thấy rằng kế hoạch kiểm toán tổng thể
trƣớc hết phải đảm bảo đƣợc chức năng cơ bản của nó là cụ thể hoá, chi tiết
hoá kế hoạch chiến lƣợc đã đƣợc lập ban đầu. Tuy nhiên, đối với những

khách hàng mà công ty kiểm toán không lập kế hoạch chiến lƣợc (vì xét thấy

6
không cần thiết), thì lập kế hoạch tổng thể là bƣớc công việc đầu tiên cần thực
hiện. Do đó, kế hoạch kiểm toán tổng thể cũng phải cung cấp đƣợc những
hiểu biết về tình hình kinh doanh của khách hàng, những vấn đề liên quan đến
Báo cáo tài chính (chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán mà khách hàng áp
dụng), vùng rủi ro chủ yếu của đơn vị khách hàng, hệ thống kiểm soát nội bộ.
Từ đó, xác định mục tiêu kiểm toán phƣơng pháp tiếp cận, dự kiến nhân sự và
thời gian tiến hành….
Về khái niệm chƣơng trình kiểm toán: Theo Từ điển Tiếng Việt, chƣơng
trình là “ những dự kiến hoạt động đƣợc kê ra từng việc, từng khoản theo thứ
tự”. Nhƣ vậy, xét về mức độ chi tiết thì chƣơng trình chi tiết hơn so với kế
hoạch. Có thể hiểu chƣơng trình kiểm toán là toàn bộ những chỉ dẫn cho kiểm
toán viên và trợ lý kiểm toán tham gia vào công việc kiểm toán và là phƣơng
tiện ghi chép theo dõi, kiểm tra tình hình thực hiện kiểm toán. Chƣơng trình
kiểm toán chỉ dẫn mục tiêu kiểm toán từng phần hành, nội dung, lịch trình và
phạm vi của các thủ tục kiểm toán cụ thể và thời gian ƣớc tính cần thiết cho
từng phần hành.
1.2. Vị trí của lập kế hoạch kiểm toán trong quy trình kiểm toán Báo cáo tài
chính.
Kế hoạch kiểm toán là giai đoạn không thể thiếu và chi phối tới chất
lƣợng, hiệu quả chung của toàn bộ cuộc kiểm toán. Ý nghĩa này đƣợc thể hiện
ở một số điểm sau:
 Kế hoạch kiểm toán giúp kiểm toán viên thu thập đƣợc các bằng chứng
kiểm toán đầy đủ và có giá trị. Các bằng chứng này chính là cơ sở để kiểm
toán viên đƣa ra các ý kiến xác đáng về tính trung thực và hợp lý của Báo cáo
tài chính đƣợc kiểm toán. Từ đó kiểm toán viên sẽ hạn chế đƣợc những sai
sót, giảm thiểu trách nhiệm pháp lý, nâng cao hiệu quả công việc và giữ đƣợc
uy tín nghề nghiệp với khách hàng.

 Kế hoạch kiểm toán giúp các kiểm toán viên phối hợp hiệu quả với nhau
cũng nhƣ phối hợp hiệu quả với các bộ phận có liên quan khác nhƣ kiểm toán

7
nội bộ, các chuyên gia bên ngoài… Qua đó, kiểm toán viên có thể tiến hành
cuộc kiểm toán theo đúng chƣơng trình đã lập với các chi phí ở mức hợp lý,
tăng cƣờng sức cạnh tranh cho Công ty kiểm toán của mình và giữ uy tín với
khách hàng.
 Trên cơ sở kế hoạch kiểm toán đã lập, kiểm toán viên thống nhất với
khách hàng về nội dung công việc sẽ đƣợc thực hiện, thời gian tiến hành kiểm
toán cũng nhƣ trách nhiệm của mỗi bên… Do đó, một kế hoạch kiểm toán
phù hợp sẽ giúp Công ty kiểm toán tránh đƣợc những bất đồng với khách
hàng.
 Ngoài ra, căn cứ vào kế hoạch kiểm toán đã đƣợc lập, kiểm toán viên có
thể kiểm soát và đánh giá chất lƣợng công việc kiểm toán đã và đang thực
hiện, góp phần nâng cao chất lƣợng và hiệu quả của cuộc kiểm toán, từ đó
thắt chặt mối quan hệ giữa Công ty kiểm toán với khách hàng.
2. Trình tự lập kế hoạch kiểm toán.
2.1. Lập kế hoạch chiến lƣợc.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 300 - Kế hoạch kiểm toán: “
Kế hoạch chiến lƣợc phải đƣợc lập cho mọi cuộc kiểm toán lớn về quy mô,
tính chất phức tạp, địa bàn rộng hoặc kiểm toán Báo cáo tài chính của nhiều
năm”.
Nội dung và các bƣớc công việc của kế hoạch chiến lƣợc: Đối với khách
hàng kiểm toán mà Công ty kiểm toán xét thấy cần phải lập kế hoạch chiến
lƣợc, thì có thể coi kế hoạch chiến lƣợc chính là cơ sở đầu tiên có ảnh hƣởng
tới toàn bộ quy trình lập kế hoạch kiểm toán sau này. Kế hoạch kiểm toán
tổng thể sau đó sẽ đƣợc lập dựa trên kế hoạch chiến lƣợc, chƣơng trình kiểm
toán sẽ đƣợc lập dựa trên kế hoạch kiểm toán tổng thể. Do đó, kế hoạch chiến
lƣợc phải đảm bảo cung cấp những hiểu biết tối thiểu về khách hàng để từ đó

đề ra những bƣớc công việc cơ bản nhất cần tiến hành và thời gian thực hiện
cuộc kiểm toán.
Tám bƣớc công việc của kế hoạch chiến lƣợc:

8
Thứ nhất: Tìm hiểu tình hình kinh doanh của khách hàng: Tổng hợp
thông tin về lĩnh vực hoạt động, loại hình doanh nghiệp, hình thức sở hữu,
quy trình công nghệ, tổ chức bộ máy quản lý và thực tiễn hoạt động của đơn
vị. Đặc biệt lƣu ý đến những nội dung chủ yếu nhƣ: Động lực cạnh tranh,
phân tích thái cực kinh doanh của các doanh nghiệp cũng nhƣ các yếu tố về
sản phẩm, thị trƣờng tiêu thụ, giá cả và các hoạt động hỗ trợ sau bán hàng…
Thứ hai: Xác định những vấn đề liên quan đến Báo cáo tài chính nhƣ:
chế độ kế toán, chuẩn mực kế toán áp dụng, yêu cầu về lập Báo cáo tái chính
và quyền hạn của Công ty.
Thứ ba: Xác định những vùng rủi ro chủ yếu của doanh nghiệp và ảnh
hƣởng của nó tới Báo cáo tài chính (đánh giá ban đầu về rủi ro tiềm tàng và
rủi ro kiểm soát).
Thứ tư: Đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ.
Thứ năm: Xác định các mục tiêu kiểm toán trọng tâm và phƣơng pháp
tiếp cận kiểm toán.
Thứ sáu: Xác định nhu cầu về sự hợp tác của các chuyên gia nhƣ:
Chuyên gia tƣ vấn pháp luật, kiểm toán viên nội bộ, kỹ sƣ xây dựng, kỹ sƣ
nông nghiệp…
Thứ bảy: Dự kiến nhóm trƣởng và thời gian thực hiện.
Thứ tám: Giám đốc duyệt và thông báo kế hoạch chiến lƣợc đã đƣợc
phê duyệt, trƣởng nhóm kiểm toán lập kế hoạch kiểm toán tổng thể và chƣơng
trình kiểm toán.
2.2. Lập kế hoạch kiểm toán tổng thể.
“Kế hoạch kiểm toán tổng thể phải đƣợc lập cho mọi cuộc kiểm toán,
trong đó mô tả phạm vi dự kiến và cách thức tiến hành công việc kiểm toán”.

Nhƣ vậy, kế hoạch kiểm toán bắt buộc phải lập cho mọi cuộc kiểm toán. Nói
cách khác, kế hoạch kiểm toán đƣợc lập và đƣợc duyệt chính là kim chỉ nam
cho hoạt động của nhóm kiểm toán sau này.

9
Tuy nhiên, mỗi Công ty kiểm toán có một hệ thống phƣơng pháp luận
riêng, mỗi khách hàng lại có đặc trƣng riêng cho từng thời điểm kinh doanh
nhất định. Do đó, không có một khuôn mẫu cụ thể về lập kế hoạch kiểm toán
tổng thể của mọi Công ty kiểm toán, áp dụng cho tất cả các khách hàng tại
mọi thời điểm. Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam một mặt quy định rằng kế
hoạch kiểm toán tổng thể phải đầy đủ, chi tiết làm cơ sở để lập chƣơng trình
kiểm toán, mặt khác cũng chỉ ra rằng hình thức và nội dung của kế hoạch
kiểm toán tổng thể thay đổi tuỳ theo quy mô của khách hàng, tính chất phức
tạp của công việc kiểm toán, phƣơng pháp và kỹ thuật kiểm toán đặc thù do
kiểm toán viên sử dụng.
Lập kế hoạch kiểm toán (Bao gồm kế hoạch kiểm toán tổng thể và
chƣơng trình kiểm toán) gồm sáu bƣớc công việc đƣợc miêu tả theo sơ đồ
sau:
Sơ đồ 01. Lập kế hoạch kiểm toán và thiết kế chương trình kiểm toán.

















Chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán

Thu thập thông tin cơ sở
Đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm
toán
Thu thập thông tin về nghĩa vụ
pháp lý của khách hàng và thực
hiện các thủ tục phân tích.

10











2.2.1. Chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán.
Quy trình kiểm toán đƣợc bắt đầu khi kiểm toán viên và Công ty kiểm
toán thu nhận một khách hàng. Có thể hiểu một cách khái quát quá trình thu
nhận khách hàng bao gồm hai giai đoạn: Thứ nhất, liên lạc với khách hàng;

thứ hai, khi khách hàng này đã có nhu cầu kiểm soát, xem xét khả năng chấp
nhận yêu cầu. Trên cơ sở đã chấp nhận khách hàng mới tiến hành lập kế
hoạch kiểm toán.
Chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán bao gồm các công việc sau:
Thứ nhất: Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán.
Kiểm toán viên phải đánh giá xem việc chấp nhận một khách hàng mới
hay tiếp tục kiểm toán cho một khách hàng cũ có làm tăng rủi ro cho hoạt
động của kiểm toán viên hay làm hại đến uy tín của Công ty kiểm toán hay
không. Để có đƣợc nhận định chính xác, cần tiến hành các công việc sau đây:
 Xem xét hệ thống kiểm soát chất lƣợng.
Vì bản thân sự ra đời của kiểm toán ngay từ đầu đã chứa đựng những
yếu tố hƣớng tới sự chuẩn mực, do đó việc kiểm soát chất lƣợng kiểm toán là
một yêu cầu không thể thiếu. Vai trò của kiểm toán Báo cáo tài chính trƣớc
hết là cung cấp cho các bên hữu quan và những ngƣời quan tâm đến ý kiến
Tìm hiểu hệ thống kiểm soát nội bộ
và đánh giá rủi ro kiểm soát.

Soạn thảo chương trình kiểm toán

11
của kiểm toán về mức độ trung thực, hợp lý của Báo cáo tài chính đã đƣợc
kiểm toán; thứ nữa là giúp cho doanh nghiệp và Nhà nƣớc chấn chỉnh công
tác kế toán và quản lý. Nhƣ vậy, bản thân hoạt động kiểm toán bắt buộc phải
tuân theo những chuẩn mực để bảo đảm chất lƣợng của chính nó trƣớc khi trở
thành thƣớc đo cho các hoạt động khác.
Thế nào là chất lƣợng hoạt động kiểm toán? Đâu là thƣớc đo để đánh giá
hoạt động kiểm toán? Thực chất, đây là khái niệm có tính tƣơng đối, rất phứp
tạp. Ở mỗi quốc gia khác nhau sẽ có một hệ thống các tiêu thức đánh giá chất
lƣợng kiểm toán khác nhau, bởi vì những chuẩn mực kiểm toán giữa các quốc
gia có thể khác nhau. Tuy nhiên, hệ thống Chuẩn mực kiểm toán của từng

quốc gia đều có một cơ sở chung là hệ thống các chuẩn mực kiểm toán đƣợc
chấp nhận rộng rãi trên toàn thế giới. Nên có thể khái quát chất lƣợng kiểm
toán: ”Là mức độ thoả mãn các đối tƣợng sử dụng kết quả kiểm toán về tính
khách quan và độ tin cậy vào ý kiến kiểm toán của kiểm toán viên, đồng thời
thoả mãn mong muốn của đơn vị đƣợc kiểm toán về những ý kiến đóng góp
của kiểm toán viên nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, trong thời
gian định trƣớc và giá phí hợp lý”. (Trích Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số
220 - Kiểm soát chất lƣợng hoạt động kiểm toán).
 Tính liêm chính của Ban giám đốc khách hàng.
Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm
soát nội bộ, tính liêm chính của Ban giám đốc là bộ phận cấu thành then chốt
của môi trƣờng kiểm soát, đây là nền tảng cho tất cả các bộ phận khác của hệ
thống kiểm soát nội bộ. Môi trƣờng kiểm soát có ảnh hƣởng trực tiếp tới hiệu
quả của các thủ tục kiểm soát.
Kiểm toán thƣờng dựa vào kinh nghiệm chuyên môn của bản thân để
đánh giá rủi ro tiềm tàng dựa trên phƣơng diện Báo cáo tài chính, số dƣ tài
khoản và loại nghiệp vụ cụ thể. Trong đó, tính liêm chính của Ban giám đốc
khách hàng đóng vai trò chủ yếu trong phƣơng diện Báo cáo tài chính. Ví dụ
nhƣ sự liêm khiết, kinh nghiệm và sự hiểu biết của Ban giám đốc, trình độ

12
chuyên môn của kế toán trƣởng, những áp lực bất thƣờng đối với Ban giám
đốc thúc đẩy họ phải trình bày Báo cáo tài chính không trung thực… Khi Báo
cáo tài chính đƣợc trình bày không trung thực thì không thể dựa vào bất kỳ
bản giải trình nào của Ban giám đốc hay các sổ sách kế toán để đƣa ra những
đánh giá về rủi ro tiềm tàng, hệ thống kiểm soát nội bộ. Từ đó, không thể lập
đƣợc kế hoạch kiểm toán thích hợp.
Do đó, những nghi ngại về tính liêm chính của Ban giám đốc khách hàng
có thể nghiêm trọng đến nỗi đƣa ra kết luận rằng cuộc kiểm toán không thể
thực hiện đƣợc.

 Liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm.
Mục đích của việc liên lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm là để kiểm toán
viên và công ty kiểm toán kế nhiệm có đầy đủ cơ sở để đánh giá khả năng
chấp nhận cuộc kiểm toán.
 Đa số những Công ty kiểm toán có những khách hàng truyền thống. Với
sự phát triển của ngành kiểm toán trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói
riêng, số lƣợng khách hàng kiểm toán ngày càng tăng. mỗi năm những công
ty kiểm toán lại có thêm khách hàng mới có nhu cầu kiểm toán Báo cáo tài
chính. Có thể phân chia số lƣợng khách hàng mới này thành hai loại: khách
hàng tiềm năng (trƣớc đây khách hàng này đã đƣợc kiểm toán bởi một Công
ty kiểm toán khác), khách hàng mới (khách hàng chƣa từng đƣợc kiểm toán
bởi Công ty kiểm toán nào).
 Đối với khách hàng tiềm năng: Một trong những phƣơng pháp hiệu quả
nhất để kiểm toán viên kế nhiệm tìm hiểu về khách hàng mới là liên lạc với
kiểm toán viên tiền nhiệm. Thông qua kiểm toán viên tiền nhiệm kiểm toán
viên kế nhiệm sẽ thu thập đƣợc những thông tin tƣơng đối chính xác về tính
liêm chính của Ban giám đốc, hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng,
các nguyên tắc kế toán thủ tục kiểm soát đƣợc áp dụng… và lý do thay đổi
kiểm toán viên của khách hàng. Tất cả những yếu tố này sẽ hỗ trợ cho việc
lập kế hoạch kiểm toán, trƣớc hết là xem xét có chấp nhận kiểm toán hay

13
không. Tuy nhiên, theo Chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp về tính bảo mật thì
kiểm toán viên kế nhiệm phải đƣợc sự đồng ý của khách hàng trƣớc khi liên
lạc với kiểm toán viên tiền nhiệm.
 Đối với khách hàng mới: Đây là một khách chƣa từng đƣợc kiểm toán bởi
bất kì Công ty kiểm toán nào. Do đó, để thu thập những hiểu biết về khách
hàng này, có thể sử dụng nguồn thông tin thông qua việc nghiên cứu sách báo
chuyên ngành, xin ý kiến chuyên gia, cố vấn pháp lý, thuê những nhà điều tra
tài chính chuyên nghiệp để điều tra về công ty khách hàng…

Ngoài ra, khách hàng cũ của Công ty kiểm toán năm nay cũng có thể
đƣợc kiểm toán bởi những kiểm toán viên mới so với những năm trƣớc. Các
kiểm toán viên kế nhiệm này cũng có thể liên lạc với kiểm toán viên tiền
nhiệm cùng Công ty để thu thập thông tin về khách hàng năm nay mình phụ
trách hoặc có thể dựa hồ sơ kiểm toán của những năm trƣớc đƣợc lƣu trữ lại
Công ty. Hàng năm kiểm toán viên và Công ty kiểm toán cập nhật những
thông tin mới nhất về khách hàng. Dựa trên những hiểu biết đã có từ trƣớc và
những thông tin cập nhật đó, kiểm toán viên kế nhiệm sẽ xem xét khả năng
chấp nhận cuộc kiểm toán.
 Xác định khả năng có thể kiểm toán ở khách hàng.
Khả năng có thể kiểm toán ở khách hàng là một nhân tố quan trọng khi
xem xét việc chấp nhận kiểm toán. Khả năng có thể kiểm toán đƣợc xác định
dựa trên một vài yếu tố chi phối. Chẳng hạn, tính thận trọng nghề nghiệp đòi
hỏi kiểm toán viên phải đánh giá tính liêm chính của Ban giám đốc và hệ
thống kế toán của khách hàng. Hệ thống kế toán của khách hàng phải đảm bảo
cung cấp đầy đủ bằng chứng chứng minh cho các nghiệp vụ kinh tế phát sinh
và đảm bảo tất cả các nghiệp vụ cần đƣợc ghi chép thì đã đƣợc ghi lại. Những
nghi ngại về hệ thống kế toán có thể dẫn đến kết luận rằng khó có đƣợc bằng
chứng tin cậy và đầy đủ để làm căn cứ cho ý kiến của kiểm toán viên.
Thứ hai: Nhận diện lí do kiểm toán của công ty khách hàng.

14
Thực chất của việc nhận diện lí do kiểm toán của công ty khách hàng
chính là việc xác định những đối tƣợng sẽ sử dụng Báo cáo tài chính và mục
đích của họ. Đây là hai yếu tố chính có ảnh hƣởng đến số lƣợng bằng chứng
thích hợp phải thu thập trong suốt quá trình kiểm toán và mức độ chính xác
của ý kiến trong Báo cáo kiểm toán. Để có đƣợc sự hiểu biết này, có thể
phỏng vấn hoặc trao đổi trực tiếp với Ban giám đốc khách hàng. Trong quá
trình thực hiện kiểm toán, sẽ giúp tiếp tục thu thập thêm thông tin để hiểu biết
về lý do kiểm toán của khách hàng.

Trên thực tế, do sự phát triển của nền kinh tế, số lƣợng khách hàng tìm
đến với Công ty kiểm toán ngày càng tăng. Không chỉ những doanh nghiệp có
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, các doanh nghiệp muốn tham gia thị trƣờng chứng
khoán mà cả các doanh nghiệp cổ phần hoá, các doanh nghiệp nhà nƣớc, các
doanh nghiệp chuẩn bị giải thể, sát nhập hoặc phá sản, các doanh nghiệp
muốn tìm đối tác kinh doanh… cũng có nhu cầu kiểm toán. Tóm lại, do kiểm
toán hết sức đa dạng nên Công ty kiểm toán cần nhận diện đƣợc lý do kiểm
toán để ƣớc lƣợng quy mô phức tạp của cuộc kiểm toán, từ lập kế hoạch tổng
thể phù hợp (lựa chọn đội ngũ nhân viên thích hợp, sử dụng các thủ tục kiểm
toán hợp lý… ).
Thứ ba: Lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán.
Sau khi đã xem xét khả năng chấp nhận khách hàng, nhận diện lý do
kiểm toán của khách hàng, vấn đề tiếp theo là lựa chọn đội ngũ nhân viên
kiểm toán. Muốn thực hiện thành công một cuộc kiểm toán thì nhân tố con
ngƣời là quan trọng nhất. Kiểm toán viên là ngƣời lập kế hoạch kiểm toán,
thực hiện kế hoạch kiểm toán, xem xét lại kết quả của cuộc kiểm toán và đƣa
ra ý kiến kiểm toán.
Tóm lại, kiểm toán viên là ngƣời trực tiếp tham gia vào tất cả các giai
đoạn của cuộc kiểm toán. Nếu kiểm toán viên có chuyên môn nghề nghiệp
cao thì sẽ lập đƣợc kế hoạch kiểm toán chuẩn xác và phù hợp, tạo thuận lợi
cho việc lập chƣơng trình kiểm toán sau này. Việc thực hiện kiểm toán và đƣa

15
ra ý kiến kiểm toán cũng sẽ đạt đƣợc chất lƣợng cao nếu đội ngũ kiểm toán
viên phù hợp. Do đó, việc lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán
luôn đƣợc đặt ra ngay từ khâu chuẩn bị kiểm toán.
Lựa chọn đội ngũ nhân viên kiểm toán thích hợp cho cuộc kiểm toán sẽ
góp phần giúp cho Công ty kiểm toán thực hiện cuộc kiểm toán có chất lƣợng
và hiệu quả. Bên cạnh đó, nó còn thể hiện sự tuân thủ các Chuẩn mực Kiểm
toán chung đƣợc thừa nhận (GAAS). Chuẩn mực kiểm toán chung đầu tiên

nêu rõ quá trình kiểm toán phải đƣợc thực hiện bởi một hoặc nhiều ngƣời đã
đƣợc đào tạo đầy đủ và thành thạo nhƣ một kiểm toán viên.
Việc lựa chọn đội ngũ kiểm toán viên cho từng cuộc kiểm toán cụ thể
thƣờng do Ban giám đốc Công ty kiểm toán hoặc các kiểm toán viên cao cấp
quyết định dựa trên yêu cầu về số ngƣời và yêu cầu chuyên môn. Tuy nhiên,
hầu hết các Công ty kiểm toán đều chú ý đảm bảo những yêu cầu sau:
 Nhóm kiểm toán thƣờng bao gồm những ngƣời có khả năng giám sát và
hƣớng dẫn những nhân viên mới chƣa có kinh nghiệm. Ngoài ra, trong nhóm
kiểm toán phải có những kiểm toán viên có kiến thức và kinh nghiệm về
ngành nghề kinh doanh của khách hàng.
 Công ty kiểm toán thƣờng tránh thay đổi kiểm toán viên trong các cuộc
kiểm toán cho một khách hàng trong nhiều năm. Việc tham gia kiểm toán cho
một khách hàng trong nhiều năm giúp kiểm toán viên tích luỹ đƣợc nhiều
kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc về ngành nghề kinh doanh của khách hàng
đang đƣợc kiểm toán. Tuy nhiên, để đảm bảo tính khách quan, một kiểm toán
viên thƣờng chỉ đƣợc kiểm toán Công ty khách hàng trong hai năm liên tiếp.
 Số lƣợng và chất lƣợng của đội ngũ kiểm toán viên thƣờng đƣợc tính toán
sao cho hiệu quả nhất để giúp Công ty kiểm toán tiết kiệm đƣợc chi phí về
nhân lực và thời gian. Trong lĩnh vực kiểm toán, việc thực hiện kiểm toán
vƣợt qua yêu cầu không phải là một điều đƣợc khuyến khích với cả Công ty
kiểm toán và Công ty khách hàng.
Thứ tư: Hợp đồng kiểm toán.

16
Khi đã quyết định chấp nhận kiểm toán cho khách hàng và xem xét các
vấn đề nêu trên, bƣớc cuối cùng trong giai đoạn chuẩn bị cho kế hoạch kiểm
toán là ký hợp đồng kiểm toán. Hợp đồng kiểm toán là một sự thoả thuận
chính thức giữa Công ty kiểm toán và khách hàng về việc thực hiện kiểm toán
và các dịch vụ liên quan khác. Theo Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 210
- Hợp đồng kiểm toán: ”Hợp đồng kiểm toán phải đƣợc lập và ký chính thức

trƣớc khi tiến hành công việc kiểm toán nhằm bảo vệ quyền lợi của Công ty
khách hàng và Công ty kiểm toán“. Nhƣ vậy, hợp đồng kiểm toán không chỉ
là một thoả thuận chính thức về các dịch vụ mà Công ty kiểm toán sẽ cung
cấp cho khách hàng mà còn là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp
phát sinh giữa Công ty kiểm toán và khách hàng.
Ở Việt Nam, các Công ty kiểm toán thƣờng gặp gỡ trực tiếp khách hàng
và ký hợp đồng kiểm toán. Hiện nay, trong quy chế quản lý của nƣớc ta có sự
tồn tại của Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ban hành ngày 25/09/1989. Trong
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 210 cũng quy định: ”Việc ký Hợp đồng
kiểm toán phải tuân thủ Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế ban hành ngày
16/01/1990 quy định chi tiết về việc thi hành Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế”.
Ở các quốc gia có nền kinh tế phát triển, ngƣời ta có thể sử dụng Thƣ
hẹn kiểm toán thay cho hợp đồng kiểm toán. Thƣ hẹn kiểm toán thƣờng do
kiểm toán viên soạn thảo và gửi cho khách hàng, nếu khách hàng chấp nhận
các điều khoản thì họ sẽ ký vào Thƣ hẹn kiểm toán và gửi một bản sao đã ký
cho kiểm toán viên. Trong xu hƣớng hội nhập với thế giới, việc sử dụng Thƣ
hẹn kiểm toán thay cho Hợp đồng kiểm toán là tất yếu. Hiện nay, để tạo điều
kiện cho các Công ty kiểm toán quốc tế tại Việt Nam trong quá trình kiểm
toán các công ty, các dự án có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài, Chuẩn mực Kiểm toán
Việt Nam - Số 210 cũng nêu rõ là khách hàng kiểm toán và Công ty kiểm
toán có thể sử dụng văn bản cam kết thay cho Hợp đồng. Văn bản cam kết
phải đảm bảo các điều kiện cơ bản của Hợp đồng kiểm toán.

17
Hợp đồng kiểm toán (hay các cam kết khác) đƣợc ký kết giữa bên cung
cấp dịch vụ kiểm toán và bên sử dụng dịch vụ kiểm toán ngoài các điều khoản
chủ yếu bắt buộc nhƣ của một hợp đồng kinh tế, còn bao gồm các nội dung
sau đây:
 Mục đích, phạm vi và nội dung kiểm toán hoặc các dịch vụ khác: Mục tiêu
của cuộc kiểm toán thƣờng là xác định tính trung thực hợp lý của các thông

tin trên Báo cáo tài chính. Phạm vi kiểm toán là sự giới hạn về không gian,
thời gian của đối tƣợng kiểm toán. Trong cuộc kiểm toán Báo cáo tài chính
phạm vi thƣờng là Báo cáo tài chính trong thời gian một năm tài chính.
 Trách nhiệm của Ban giam đốc đơn vị đƣợc kiểm toán và kiểm toán viên:
Ban giám đốc khách hàng có trách nhiệm trong việc lập và trình bày trung
thực các thông tin trên Báo cáo tài chính, cung cấp các thông tin liên quan đến
Báo cáo tài chính. Kiểm toán viên có trách nhiệm đƣa ra ý kiến độc lập về
Báo cáo tài chính dựa trên kết quả của cuộc kiểm toán.
 Hình thức thông báo kết quả kiểm toán: Kết quả kiểm toán thƣờng đƣợc
trình bày dƣới hình thức Báo cáo kiểm toán có kèm theo Thƣ quản lý. Thƣ
quản lý thực chất là những góp ý của kiểm toán viên đối với khách hàng về
những mặt yếu kém trong kiểm soát nội bộ và gợi ý để khắc phục những hạn
chế này.
 Thời gian tiến hành cuộc kiểm toán: Trong Hợp đồng kiểm toán (hay các
cam kết khác), Công ty và khách hàng cùng nhau thoả thuận thời gian tìm
hiểu sơ bộ, thời gian tiến hành cuộc kiểm toán, thời gian kết thúc công việc
kiểm toán và cuối cùng là thời gian phát hành Báo cáo kiểm toán.
 Căn cứ tính giá phí của cuộc kiểm toán và hình thức thanh toán: Mỗi Công
ty kiểm toán có một cơ sở để dùng làm căn cứ tính giá phí cho từng đối tƣợng
khách hàng cụ thể, cũng nhƣ phƣơng thức và thời gian thanh toán khác nhau.
2.2.2. Thu thập thông tin cơ sở.
Sau khi ký Hợp đồng kiểm toán, việc tiếp theo là lập kế hoạch kiểm toán
tổng thể. Trong giai đoạn này, chủ yếu đánh giá rủi ro, đánh giá khả năng có

18
những sai sót trọng yếu, đƣa ra đánh giá ban đầu về mức độ trọng yếu và thực
hiện các thủ tục phân tích. Nhƣ vậy, trƣớc hết cần tiến hành thu thập thông tin
cơ sở về khách hàng vì đó là cơ sở để kiểm toán viên lập kế hoạch kiểm toán
tổng thể.
Trong giai đoạn chuẩn bị lập kế hoạch kiểm toán, cũng đã tiến hành tìm

hiểu về khách hàng. Tuy nhiên, đó là sự tìm hiểu có tính chất khái quát và sơ
bộ để xác định khả năng chấp nhận cuộc kiểm toán. Trong giai đoạn này,
những nội dung công việc cần thực hiện khi thu thập thông tin cơ sở bao gồm:
Thứ nhất: Tìm hiểu về ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách
hàng.
Một công ty kiểm toán thƣờng có khách hàng hoạt động trong nhiều lĩnh
vực sản xuất kinh doanh khác nhau. Mỗi lĩnh vực có đặc thù riêng, mỗi ngành
nghề sản xuất kinh doanh có những hệ thống kế toán riêng, áp dụng những
nguyên tắc kế toán nhất định. Tất cả đều có ảnh hƣởng tới Báo cáo tài chính,
đến việc kiểm tra của kiểm toán hoặc đến việc phát hành Báo cáo tài chính.
Ví dụ: Kiểm toán viên sử dụng những hiểu biết về tình hình kinh doanh để
xác định rủi ro tiềm tàng, rủi ro kiểm soát và xác định nội dung, lịch trình,
phạm vi của các thủ tục kiểm toán. Điều này rất cần thiết khi kiểm toán viên
thực hiện kiểm toán với tính thận trọng nghề nghiệp đúng mực.
Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế ISA 310 – Tìm hiểu hoạt động kinh
doanh quy định tìm hiểu hoạt động kinh doanh và ngành nghề của khách hàng
là một bƣớc công việc không thể thiếu khi lập kế hoạch kiểm toán. Trong
Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam Số 300 – Lập kế hoạch kiểm toán cũng quy
định những vấn đề chủ yếu kiểm toán viên phải xem xét và trình bày trong kế
hoạch kiểm toán tổng thể bao gồm hiểu biết về hoạt động của đơn vị đƣợc
kiểm toán. Những hiểu biết về hoạt động của đơn vị đƣợc kiểm toán. Những
hiểu biết này bao gồm:

19
 Hiểu biết chung về nền kinh tế, thực trạng nền kinh tế, các tỷ lệ lãi suất và
khả năng tài chính của nền kinh tế; mức độ lạm phát và giá trị đơn vị tiền
tệ…
 Hiểu biết về môi trƣờng và lĩnh vực hoạt động của đơn vị đƣợc kiểm toán,
thị trƣờng và cạnh tranh, rủi ro kinh doanh, đặc điểm hoạt động kinh
doanh, các thay đổi trong công nghệ sản xuất kinh doanh, Chuẩn mực Kế

toán và các vấn đề liên quan.
 Hiểu biết về các nhân tố nội tại của đơn vị đƣợc kiểm toán: loại hình
doanh nghiệp, lĩnh vực kinh doanh, thời hạn đƣợc phép hoạt động, tình
hình kinh doanh của đơn vị, khả năng tài chính của đơn vị…
Những thông tin trên có thể đƣợc thu thập từ kinh nghiệm thực tiễn, hồ
sơ kiểm toán năm trƣớc, trao đổi trực tiếp với Ban giám đốc và nhân viên của
đơn vị đƣợc kiểm toán, hoặc tham khảo các ấn phẩm chuyên ngành có liên
quan đến lĩnh vực hoạt động của khách hàng.
Thứ hai: Xem xét lại kết quả kiểm toán trước và hồ sơ kiểm toán chung.
Các Công ty kiểm toán đều lƣu trữ hồ sơ kiểm toán thƣờng xuyên đối
với mỗi khách hàng. Hồ sơ kiểm toán thƣờng chứa đựng rất nhiều tin về
khách hàng nhƣ: công việc kinh doanh, cơ cấu tổ chức , điều lệ công ty, chính
sách tài chính, kế toán… Qua đó, kiểm toán viên có thể tìm thấy những thông
tin hữu ích về công việc kinh doanh của khách hàng, cập nhật và xem xét các
sổ sách của công ty để hiểu đƣợc bản chất của các số liệu cũng nhƣsự biến
động của chúng trên Báo cáo tài chính đƣợc kiểm toán.


Thứ ba: Tham quan nhà xưởng.
Việc tham quan nhà xƣởng, quan sát trực tiếp hoạt động sản xuất kinh
doanh của khách hàng sẽ cung cấp những điều mắt thấy tai nghe về quy trình
sản xuất kinh doanh của khách hàng. Qua đó cũng cho kiểm toán viên một cái
nhìn tổng thể về công việc kinh doanh của khách hàng (đặc biệt là đối với

20
doanh nghiệp sản xuất hoặc thƣơng mại). Đây là cơ sở cho việc thuyết minh
số liệu kế toán, phát hiện những vấn đề quan tâm nhƣ sản xuất trì trệ, sản
phẩm ứ đọng, máy móc lạc hậu hay không đƣợc phát huy hết công
suất…Ngoài ra, thông qua việc thăm quan, kiểm toán viên có đƣợc những
nhận định ban đầu về phong cách quản lý của giám đốc, tính hệ thống trong

việc tổ chức, sắp đặt công việc…
Thứ tư: Nhận diện các bên hữu quan.
Theo nguyên tắc kế toán đã đƣợc thừa nhận (ISA), bản chất mối quan hệ
giữa các bên hữu quan phải đƣợc tiết lộ trên sổ sách, báo cáo và qua mô tả các
nghiệp vụ kinh tế. Do vậy, các bên hữu quan và các nghiệp vụ giữa các bên
hữu quan có ảnh hƣởng lớn đến Báo cáo tài chính và sự nhận định của ngƣời
sử dụng Báo cáo tài chính. Ngoài ra, độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán thu
thập đƣợc trong quá trình thực hiện kiểm toán phụ thuộc vào nguồn gốc (ở
bên trong hay bên ngoài) và từng trƣờng hợp cụ thể. Tóm lại, các bên hữu
quan có thể ảnh hƣởng tới phạm vi, mục tiêu và các thủ tục của cuộc kiểm
toán.
Do đó, phải xác định các bên hữu quan và nhận định sơ bộ về mối quan
hệ này ngay trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán. Trên cơ sở đó bƣớc đầu
có thể dự đoán các vấn đề có thể phát sinh giữa các bên hữu quan để có thể
hoạch định một kiểm toán phù hợp.
Các bên hữu quan có thể là các công ty chi nhánh, các chủ sở hữu của
công ty khách hàng, hoặc có thể bất kỳ thành phần nào khác mà công ty kháh
hàng có quan hệ có thể gây ảnh hƣởng đáng kể cho ban quản trị hoặc quá
trình điều hành chính sách của bên kia.
Việc xác định sự tồn tại của các bên hữu quan và trình bày các thông tin
về các bên hữu quan thông qua một số những thủ tục: Xem xét lại giấy tờ làm
việc năm trƣớc để kiểm tra danh sách các bên hữu quan đã đƣợc lập, phỏng
vấn Ban giám đốc và thành viên hội đồng quản trị để thẩm tra mối liên hệ với

21
các đơn vị khác, kiểm tra số đăng kí thành viên góp vốn hoặc sổ đăng kí cổ
đông…
Thứ năm: Dự đoán nhu cầu về chuyên gia bên ngoài.
Trong một số lĩnh vực ngành nghề kinh doanh đặc biệt, muốn kiểm toán
thành công phải có những kiến thức chuyên môn. Ví dụ nhƣ kiểm toán Báo

cáo tài chính của một hãng chuyên kinh doanh kim cƣơng, hoặc các ấn phẩm
nghệ thuật… Trong những trƣờng hợp nhƣ vậy, những kinh nghiệm nghề
nghiệp và trình độ chuyên môn của một kiểm toán viên cao cấp cũng có thể
chƣa đầy đủ để đảm bảo cho sự thành công của cuộc kiểm toán. Do đó, Công
ty kiểm toán phải xem xét mời chuyên gia từ bên ngoài để trợ giúp.
Cần phải có một hiểu biết đầy đủ về công việc kinh doanh của khách
hàng để có thể dự đoán đƣợc nhu cầu sử dụng chuyên gia trong trƣờng hợp
cần thiết. Một kế hoạch kiểm toán đƣợc coi là hoàn thiện khi kiểm toán viên
đã bao quát hết đƣợc các tình huống xảy ra. Kiểm toán viên phải đánh giá
đƣợc khả năng chuyên môn, mục đích cũng nhƣ phạm vi công việc của
chuyên gia. Một điểm nữa cần lƣu ý là tính độc lập của chuyên gia đƣợc mời
đối với công ty khách hàng.
Thu thập thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng.
Nếu các thông tin cơ sở đƣợc thu thập ở trên cung cấp những hiểu biết về
các hoạt động kinh doanh của khách hàng, thì việc thu thập các thông tin về
nghĩa vụ pháp lý của khách hàng giúp nắm bắt đƣợc các quy trình mang tính
pháp lý có ảnh hƣởng đến các mặt hoạt động kinh doanh này. Từ đó, giúp cho
việc lập kế hoạch kiểm toán đƣợc thành công. Những thông tin này đƣợc thu
thập trong quá trình tiếp xúc với Ban giám đốc công ty khách hàng, bao gồm
các loại sau:
 Giấy phép thành lập và điều lệ công ty.
 Biên bản các cuộc họp cổ đông, hội đồng quản trị và Ban giám đốc.
 Các báo cáo tài chính, Báo cáo kiểm toán, các biên bản thanh tra, kiểm tra
của năm hiện hành hay trong vài năm trƣớc.

22
 Các hợp đồng và cam kết quan trọng.
Thực hiện thủ tục phân tích.
Các thủ tục phân tích đƣợc áp dụng trong tất cả các giai đoạn của mọi
cuộc kiểm toán.

Trong giai đoạn lập kế hoạch kiểm toán, sau khi đã thu thập các thông tin
cơ sở và thông tin về nghĩa vụ pháp lý của khách hàng kiểm toán viên thƣờng
tiến hành các thủ tục phân tích đối với các thông tin đã thu thập để hỗ trợ cho
việc lập kế hoạch các thủ tục kiểm toán sẽ sử dụng để thu thập bằng chứng
kiểm toán.
Mục đích của việc sử dụng các thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán là để thu thập hiểu biết về nội dung Báo cáo tài chính, những
thay đôỉ trong chính sách kế toán hay hoạt động kinh doanh của khách hàng
trong năm vừa qua; tăng cƣờng sự hiểu biết về hoạt động kinh doanh của
khách hàng và giúp xác định các vấn đề nghi vấn về khả năng hoạt động liên
tục của công ty khách hàng; đánh giá sự hiện diện của sai số có thể trên Báo
cáo tài chính của doanh nghiệp.
Nhƣ vậy, qua việc thực hiên các thủ tục phân tích trong giai đoạn lập kế
hoạch kiểm toán, kiểm toán viên xác định đƣợc nội dung cơ bản của cuộc
kiểm toán Báo cáo tài chính. Mức độ, phạm vi, thời gian áp dụng các thủ tục
phân tích thay đổi tùy thuộc vào quy mô và tính chất phức tạp trong hoạt động
kinh doanh của khách hàng.
Các thủ tục phân tích đƣợc kiểm toán viên áp dụng gồm hai loại cơ bản
sau:
 Phân tích ngang (phân tích xu hƣớng) : Là việc phân tích dựa trên cơ sở so
sánh các trị số của cùng một chỉ tiêu trên Báo cáo tài chính. Các chỉ tiêu
phân tích ngang đƣợc sử dụng bao gồm so sánh số liệu kì này với số liệu
kì trƣớc hoặc giữa các kì với nhau, so sánh các số liệu thực tế với số liệu
dự đoán hoặc số liệu ƣớc tính của kiểm toán viên, so sánh dữ kiện của
công ty khách hàng với dữ kiện chung của ngành.

23
 Phân tích dọc (phân tích tỷ suất) : là việc phân tích dựa trên cơ sở so sánh
các tỷ lệ tƣơng quan của các chỉ tiêu và các khoản mục khác nhau trên Báo
cáo tài chính. Các tỷ suất tài chính thƣờng đƣợc sử dụng trong phân tích

chéo là: tỷ suất về khả năng thanh toán nợ ngắn hạn (tỷ suất thnah toán
hiện hành, tỷ suất thanh toán nhanh và tỷ suất thanh toán bằng tiền mặt), tỷ
suất về khả năng sinh lời…
2.2.5. Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro.
2.2.5.1. Đánh giá tính trọng yếu.
“ Trọng yếu là khái niệm về tầm cỡ hay quy mô và bản chất của các sai
phạm (kể cả bỏ sót) của các thông tin tài chính hoặc là đơn lẻ, hoặc là từng
nhóm mà trong bối cảnh cụ thể nếu dựa vào các thông tin này để xét đoán thì
không thể chính xác hoặc là sẽ rút ra những kết luận sai lầm”
Trong giai đoạn lập kế hoạch, kiểm toán viên phải đánh giá mức độ
trọng yếu dể đánh giá mức độ sai sót của Báo cáo tài chính có thể chấp nhận
đƣợc, xác định phạm vi của cuộc kiểm toán và đánh giá ảnh hƣởng của các sai
sót trên Báo cáo tài chính để tự do xác định bản chất, thời gian và phạm vi
thực hiện các khảo sát (thử nghiệm kiểm toán . Ở đây, kiểm toán viên cần
đánh giá mức độ trọng yếu của toàn bộ Báo cáo tài chính và phân bổ mức
đánh giá đó cho từng khoản mục trên Báo cáo tài chính.
 Ƣớc lƣợng ban đầu về tính trọng yếu của toàn bộ Báo cáo tài chính.
Mức ƣớc lƣợng ban đầu về tính trọng yếu là lƣợng tối đa mà kiểm toán
viên tin rằng ở mức đó các Báo cáo tài chính có thể bị sai lệch nhƣng vẫn
chƣa ảnh hƣởng đến các quyết định của ngƣời sử dụng thông tin tài chính.
Tức là những sai sót có thể chấp nhận đƣợc với toàn bộ Báo cáo tài chính.
Việc ƣớc lƣợng ban đầu về tính trọng yếu giúp thu thập bằng chứng
kiểm toán thích hợp. Cụ thể là nếu ƣớc lƣợng mức trọng yếu càng thấp, nghĩa
là độ chính xác các số liệu trên Báo cáo tài chính càng cao, thì số lƣợng bằng
chứng thu thập càng nhiều và ngƣợc lại. Ƣớc lƣợng ban đầu về tính trọng yếu
không cố định mà có thể thay đổi trong suốt cuộc kiểm toán nếu kiểm toán

24
viên thấy mức ƣớc lƣợng ban đầu là quá cao hoặc quá thấp hoặc một trong
những nhân tố dùng để xác định mức ƣớc lƣọng ban đầu về tính trọng yếu bị

thay đổi. Khi xây dựng ƣớc lƣợng ban đầu về tính trọng yếu cần lƣu ý những
yếu tố ảnh hƣởng sau:
 Tính trọng yếu là một khái niệm mang tính tƣơng đối hơn là tuyệt đối, gắn
liền với quy mô của công ty khách hàng. Một sai phạm với quy mô nhất định
có thể là trọng yếu đối với công ty nhỏ nhƣng lại không trọng yếu đối với
công ty lớn. Do vậy, việc ƣớc lƣợng một mức trọng yếu ban đầu áp dụng cho
tất cả các khách hàng là một điều không thể thực hiện.
 Yếu tố định lƣợng của tính trọng yếu: Quy mô sai phạm là một yếu tố
quan trọng để xem xét liệu các sai phạm có trọng yếu hay không. Tuy nhiên,
trọng yếu mang tính chất tƣơng đối nên việc đƣa ra các cơ sở quyết định xem
quy mô của một sai phạm có là trọng yếu hay không là một điều cần thiết.
 Yếu tố định tính của tính trọng yếu: Trong thực tế để xác định một sai
phạm là trọng yếu hay không phải xem xét đánh giá cả về mặt quy mô và bản
chất của sai sót đó. Một hành vi gian lận luôn đƣợc coi là trọng yếu bất kể quy
mô của nó là bao nhiêu.
Những yếu tố liên quan đến bản chất của sai phạm cần phải đƣợc xem
xét khi tiến hành ƣớc lƣợng ban đầu về tính trọng yếu:
 Các gian lận thƣờng đƣợc xem là trọng yếu hơn sai sót với cùng một quy
mô tiền tệ bởi các gian lận thƣờng làm ngƣời ta nghĩ tới tính trung thực và độ
liêm chính của Ban giám đốc hay những ngƣời có liên quan.
 Các sai sót với quy mô nhỏ nhƣng lặp đi lặp lại hoặc gây tác động dây
chuyền làm ảnh hƣởng nghiêm trọng đến thông tin trên Báo cáo tài chính luôn
đƣợc xem là sai phạm trọng yếu vì đây là sai phạm có tính hệ thống.
 Các sai phạm làm ảnh hƣởng đến thu nhập thì luôn là sai phạm trọng yếu.
Chẳng hạn một sai phạm khiến một khoản lỗ đƣợc báo cáo thành một khoản
lãi luôn đƣợc coi là sai phạm trọng yếu bất kể sai phạm là bao nhiêu.

25
 Phân bổ ƣớc lƣợng ban đầu về tính trọng yếu cho các khoản mục trên Báo
cáo tài chính.

Sau khi có đƣợc ƣớc lƣợng ban đầu về tính trọng yếu cho toàn bộ Báo
cáo tài chính, cần phân bổ ƣớc lƣợng này cho từng khoản mục trên Báo cáo
tài chính. Đó cũng chính là sai số có thể chấp nhận đƣợc đối với từng khoản
mục.
Mục đích của việc phân bổ này là giúp kiểm toán viên xác định đƣợc số
lƣợng bằng chứng kiểm toán thích hợp phải thu thập đối với từng khoản mục
ở mức chi phí thấp nhất. Tuy vậy, vẫn bảo đảm tổng hợp các sai sót trên Báo
cáo tài chính không vƣợt qua mức ƣớc lƣợng ban đầu về tính trọng yếu.
Do hầu hết các thủ tục kiểm toán đều tập trung vào các khoản mục trên
Bảng cân đối kế toán nên kiểm toán viên thƣờng phân bổ mức ƣớc lƣợng cho
các tài khoản trên Bảng cân đối kế toán thay vì các tài khoản trên Báo cáo kết
quả kinh doanh. Việc phân bổ đƣợc thực hiện trên cả hai hƣớng mà các sai
phạm có thể diễn ra: Đó là tình trạng khai khống (số liệu trên sổ sách lớn hơn
trên thực tế), hoặc khai thiếu (số liệu trên sổ sách nhỏ hơn thực tế).
Cơ sở để tiến hành phân bổ là: Bản chất của các khoản mục, rủi ro tiềm
tàng, rủi ro kiểm soát đánh giá sơ bộ đối với các khoản mục, kinh nghiệm của
kiểm toán viên và chi phí kiểm toán đối với từng khoản mục. Trong thực tế,
rất khó dự đoán về khả năng xảy ra sai sót cũng nhƣ chi phí kiểm toán cho
từng khoản mục nên công việc này mang tính chủ quan và đòi hỏi sự xét đoán
nghề nghiệp của kiểm toán viên. Do vậy, Công ty kiểm toán thƣờng phân
công các kiểm toán viên có trình độ chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm để
thực hiện công việc này.
2.2.5.2. Đánh giá rủi ro.
Bên cạnh việc đánh giá tính trọng yếu, trong giai đoạn lập kế hoạch
kiểm toán còn phải đánh giá rủi ro. Theo định nghĩa trong Chuẩn mực Kiểm
toán Việt Nam Số 400 – Đánh giá rủi ro và kiểm soát nội bộ:” Rủi ro kiểm
soát là rủi ro do Công ty kiểm toán và kiểm toán viên đƣa ra ý kiến nhận xét

×