1 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
Phần 2: Văn học sử - VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Đặc điểm của Văn học trung đại Việt Nam
1. Chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa nhân đạo- hai dòng chủ lưu của VHTÐVN.
a. Chủ nghĩa yêu nước:
Văn hóa Ðại Việt, văn chương Ðại Việt khởi nguồn từ truyền thống sản xuất và chiến đấu của tổ tiên, từ những thành tựu văn hóa và
từ chính thực tiễn hàng nghìn năm đấu tranh chống giặc ngoại xâm phương Bắc.
Hiếm thấy một dân tộc nào trên thế giới lại phải liên tục tiến hành những cuộc chiến tranh chống giặc ngoại xâm như dân tộc Việt
Nam. Nhà Tiền Lê, nhà Lý chống Tống. Nhà Trần chống Nguyên Mông. Nhà Hậu Lê chống giặc Minh. Quang Trung chống giặc
Thanh. Những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại được tiến hành trong trường kỳ lịch sử nhằm bảo vệ nền độc lập, thống nhất của Tổ
quốc không những tôi luyện bản lĩnh dân tộc, nâng cao lòng tự hào, tự tin, khí thế hào hùng của dân tộc mà còn góp phần làm nên một
truyền thống lớn trong văn học Việt Nam: Chủ nghĩa yêu nước.
Ðặc điểm lịch sử đó đã quy định cho hướng phát triển của văn học là phải luôn quan tâm đến việc ca ngợi ý chí quật cường, khát vọng
chiến đấu, chiến thắng, lòng căm thù giặc sâu sắc, ý thức trách nhiệm của những tấm gương yêu nước, những người anh hùng dân tộc
quên thân mình vì nghĩa lớn. Có thể nói, đặc điểm này phản ánh rõ nét nhất mối quan hệ biện chứng giữa lịch sử dân tộc và văn học
dân tộc.
Quá trình đấu tranh giữ nước tác động sâu sắc đến sự phát triển của văn học, bồi đắp, phát triển ý thức tự hào dân tộc, tinh thần độc lập
tự chủ. Cho nên, chế độ phong kiến có thể hưng thịnh hay suy vong nhưng ý thức dân tộc, nội dung yêu nước trong văn học vẫn phát
triển không ngừng.
Các tác phẩm văn học yêu nước thời kỳ này thường tập trung thể hiện một số khía cạnh tiêu biểu như:
- Tình yêu quê hương
- Lòng căm thù giặc
- Yï thức trách nhiệm
- Tinh thần vượt khó, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc
- Ý chí quyết chiến, quyết thắng
- Ðề cao chính nghĩa của người Việt Nam trong những cuộc kháng chiến.
b. Chủ nghĩa nhân đạo
Văn học do con người sáng tạo nên và tất yếu nó phải phục vụ trở lại cho con người. Vì vậy, tinh thần nhân đạo là một phẩm chất cần
có để một tác phẩm trở thành bất tử đối với nhân loại. Ðiều này cũng có nghĩa là, trong xu hướng phát triển chung của văn học nhân
loại, VHTÐVN vẫn hướng tới việc thể hiện những vấn đề của chủ nghĩa nhân đạo như:
- Khát vọng hòa bình
- Nhận thức ngày càng sâu sắc về nhân dân mà trước hết là đối với những tầng lớp thấp hèn trong xã hội phân chia giai cấp
- Ðấu tranh cho hạnh phúc, cho quyền sống của con người, chống lại ách thống trị của chế độ phong kiến.
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
2 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
- Ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động
- Tố cáo mạnh mẽ và đấu tranh chống những thế lực phi nhân.
2. Văn học viết phát triển dựa trên những thành tựu của văn học dân gian
- Văn học viết Việt Nam hay bất kỳ một nền văn học dân tộc nào khác đều phải phát triển trên cơ sở kế thừa những tinh hoa của văn
học dân gian. Trong tình hình cụ thể của VHTÐVN, mối quan hệ giữa văn học viết và văn học dân gian chủ yếu là do các nguyên nhân
sau:
+ Sau khi nước nhà độc lập, nhu cầu thiết yếu mà nhà nước phong kiến Việt Nam cần phải chú ý là việc xây dựng một nền văn hóa
mang đậm bản sắc dân tộc, chống lại âm mưu bành trướng, đồng hóa của kẻ thù phương Bắc và nâng cao lòng tự hào dân tộc.
+ Những tác phẩm bằng chữ Hán trong thời kỳ này thường dễ xa lại với quần chúng bình dân, tác phẩm ít được truyền tụng rộng rãi.
Vì vậy, càng về sau, nhu cầu quần chúng hóa, dân tộc hóa tác phẩm ngày càng mạnh mẽ. Trong quá trình giải quyết vấn đề này, chỉ có
văn học dân gian là nhân tố tích cực nhất.
Quá trình kế thừa, khai thác VHDG là một quá trình hoàn thiện dần các yếu tố tinh lọc từ VHDG bắt đầu từ thơ ca Nguyễn Trãi về sau
(Thời Lý- Trần, việc tiếp thu nguồn VHDG chưa được đặt ra đúng mức).
+ Văn học viết tiếp thu từ văn học dân gian chủ yếu là về đề tài, thi liệu, ngôn ngữ, quan niệm thẩm mỹ, chủ yếu là khía cạnh ngôn
ngữ và thể loại.
+ Trong quá trình phát triển, hai bộ phận luôn có mối quan hệ biện chứng, tác động, bổ sung lẫn nhau để cùng phát triển (Những tác
động trở lại của văn học viết đối với văn học dân gian.
3. Văn học viết phát triển dựa trên cơ sở tiếp thu, tinh lọc những yếu tố tích cực của hệ ý thức nước ngoài
- Sự du nhập của các học thuyết vào Việt Nam chủ yếu do các nguyên nhân sau:
+ Vấn đề giao lưu văn hóa giữa các dân tộc là một vấn đề mang tính quy luật. Từ xưa, nước ta và các vùng phụ cận đã có sự giao lưu
văn hóa nhưng chỉ trong phạm vi hẹp, chủ yếu là từ Trung Quốc sang.
+ Hơn 1000 năm bắc thuộc, dân tộc ta không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi sự bành trướng văn hóa và nhất là âm mưu đồng hóa của kẻ
thù. Những tên quan lại phương Bắc sang đô hộ Việt Nam không chỉ bóc lột, vơ vét tài nguyên mà còn truyền bá rộng rãi các học
thuyết triết học có nguồn gốc từ Trung Quốc vào Việt Nam một cách khéo léo và thâm hiểm.
+ Khi nhà nước phong kiến VN bắt đầu hình thành, giai cấp thống trị không có mẫu mực nào khác hơn là nhà nước PK TQ đã tồn tại
trước đó hàng nghìn năm và có rất nhiều kinh nghiệm trong việc lợi dụng các học thuyết triết học như một công cụ đắc lực trong việc
củng cố ngai vàng, thống trị nhân dân.
- Các học thuyết Nho- Phật- Lão đều có những điểm tích cực nhất định nên các nhà tư tưởng lớn của Việt Nam thời Trung đại đã chú ý
khai thác, tinh lọc, vận dụng sao cho nét tích cực đó phát huy tác dụng trong hoàn cảnh cụ thể của từng giai đoạn lịch sử.
4. Văn học chữ Hán phát triển song song với văn học chữ Nôm
Ngay từ khi được các nhà văn mạnh dạn đưa vào sáng tác văn học, chữ Nôm ngày càng khẳng định vị trí của mình bên cạnh chữ Hán
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
3 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
vốn đã có ảnh hưởng sâu sắc trong văn học thời Lý Trần.
Sự phát triển của Văn học chữ Nôm khẳng định ý thức dân tộc phát triển ngày càng cao, biểu hiện lòng tự hào, ý thức bảo vệ ngôn
ngữ, văn hóa dân tộc chống lại âm mưu đồng hóa của kẻ thù.
Ở thời Lý, Trần, việc sử dụng chữ Nôm trong sáng tác văn học chưa được phổ biến.
Từ thế kỷ XV về sau, Nguyễn Trãi đã mạnh dạn đưa chữ Nôm vào sáng tác văn học. Thơ ông tuy chưa được trau chuốt nhưng đậm đà
bản sắc dân tộc.Thành công của Nguyễn Trãi chính là tiền đề cho con đường phát triển của văn học chữ Nôm đến đỉnh cao Truyện
Kiều.
5. Thơ phát triển sớm và mạnh hơn văn xuôi.
Ở thời trung đại, văn chính luận mang tính quan phương chủ yếu là công cụ của nhà nước phong kiến. Mặt khác, những đặc thù trong
tư duy nghệ thuật, truyền thống sáng tác dẫn đến một thực tế là các tác phẩm văn xuôi hình tượng chỉ chiếm một số lượng khiêm tốn
so với các tác phẩm thơ ca.
Thể thơ thường sử dụng nhất trong VHTÐ là thơ Ðường luật. Ðây là hệ quả của quá trình giao lưu văn hóa lâu dài và nằm trong quan
niệm thẩm mỹ của các nhà thơ cổ điển. Trong thời kỳ này, thơ Ðường luật đã được chính quy hóa trong văn chương trường ốc và văn
chương cử tử. Cho nên, sự thống trị văn đàn của thơ Ðuờng luật trong bất kỳ một tập thơ nào thời trung đại là một điều dễ hiểu.
Tuy nhiên, việc sử dụng thơ Ðường luật với tư cách là một thể thơ chính thống trong các kỳ thi và trong sáng tác đã gây không ít trở
ngại trong nội dung thể hiện do bị chi phối bởi sự ngặt nghèo của luật thơ chặt chẽ.
Ở thời Nguyễn Trãi, thơ luật Ðường biến thể thành thơ thất ngôn xen lục ngôn đầy sáng tạo, độc đáo, phóng khoáng, rất phù hợp với
cách nghĩ, cách nói, tâm lý của dân tộc nên được một số nhà thơ đời sau tiếp tục sử dụng (Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm).
6. Việc sử dụng điển tích và các hình ảnh tượng trưng ước lệ- những thủ pháp nghệ thuật được sử dụng phổ biến trong văn
chương trung đại.
Ðể miêu tả, người ta cho rằng cần phải có những mẫu mực mà qua nhiều thời kỳ đã được mặc nhiên chấp nhận sử dụng. Quan điểm
ước lệ không chú ý đến logic đòi sống, đến mối quan hệ thực tế của các hình ảnh mang tính chất mẫu mực, công thức. Vì thế, khi phân
tích các hình ảnh ước lệ, chúng ta không cần đặt vần đề có lý hay không có lý, đúng hay không đúng thực tế mà chỉ xem xét sức mạnh
khơi gợi của hình tượng có sâu sắc hay không, hình tượng có được dùng đúng tình đúng cảnh và thể hiện được tư tưởng tình cảm của
nhà thơ hay không.
Thơ trung đại Việt Nam với cảm hứng yêu nước
Văn học trung đại Việt Nam nếu hình dung như một thứ màu vàng, một vụ quả bội thu thì mảnh đất gieo trồng của nó đầy máu, mồ
hôi và cả ước mơ của người gieo hạt. Thế hệ ông cha chúng ta đãcần mẫn xới vun bằng tình yêu của mình với mảnh đất ấy. Sự nghiệp
giữ nước gian khổ mà vinh quang, và ý thức trách nhiệm của người cầm bút đã đem đến văn học trung đại một cảm hứng lớn:cảm
hứng yêu nước.
Có thể nói, cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại Việt Nam thể hiện trước hết ở lòng tự hào dântộc. Chúng ta đã từng thấy dõng dạc
vang lên trong bài thơ thần của Lý Thường Kiệt là tiếng nói đầutiên như âm vang từ khí thiêng sông núi dội về: đất nước Việt Nam do
vua Nam làm chủ. Nước làcủa vua, vua là tượng trưng cho chủ quyền của nước:
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Rành rành định phận ở sách trời
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm?
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
4 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời
Đến vơi Nam quốc sơn hà, người đọc không khỏi ngỡ ngàng như đứng trước một công trình nhỏ bé,bến chắc mà tài hoa. Bài thơ hoàn
toàn không có vũ khí binh đao mà kì lạ thay ta vẫn nhận ra tiếngquân reo, ngựa hí…Sự liên tưởng nhiều tầng ấy phải chăng được gợi
lên từ tiếng nói tự hào dân tộc của một con người giau lòng yêu nước và tinh thần tự chủ. Ở đây, ý thức tinh thần độc lập, tự chủkhá rõ
nét. Bài thơ xứng đáng là một bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta. Nếu không cólòng tự hào dân tộc thì khó có thể viết ra
được những câu thơ đầy hoành tráng như thế.
Trong thơ trung đại, cảm hứng yêu nước còn thể hiện ở tinh thần quyết chiến, quyết thắng quân xâmlược. Chúng ta có thể nhận thấy rõ
điều này qua thơ các thi sĩ thời Trần, thơ Nguyễn Trãi…Một trongnhững thành tựu quan trọng của thơ thời Trần là đã thể hiện được
chủ nghĩa yêu nước, ý chí quậtcường chống quân xâm lược của dân tộc ta. Chính cảm hứng này đã tạo ra Hào khí Đông Á trong lịch
sử chống xâm lược của dân tộc. Hào khí ấy vang lên hùng tráng mà tha thiết qua khúc ca khảihoàn Tụng giá hoàng kinh sư của Trần
Quang Khải:
Đoạt sóc Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang sơn.
Bài thơ làm sống dậy một không gian trận mạc chiến trường, đao kiếm với ngựa thét quân reo ngấttrời tráng khí. Một trong hai trận ấy
do đích thân Trần Quang Khải chỉ huy. Chương Dương, Hàm Tửnằm trong hệ thống chiến thắng mở màn có ý nghĩa chiến lược cho
cuộc phản công thắng lợi, mạnhvà nhanh, cường độ lớn và tốc độ phi thường đã tạo cho lời thơ khí thế hùng tráng, thiêng liêng.
Yêu nước, căm thù giặc tất yếu phải chiến đấu đến cùng cho lí tưởng ấy. Trong thơ trung đại ViệtNam dường như vẫn còn văng vẳng
tiếng mài giáo dưới ánh trăng của Đặng Dung (Cảm hoài), cáimúa giáo đầy thách thức của Phạm Ngũ Lão. Sự mất còn của non sông
đã đặt gánh nặng lên vai conngười thời cuộc với thử thách nặng nề: giết giặc cứu nước. Vậy nên trong Thuật hoài Phạm Ngũ Lão đã
xây dựng được hình tượng một con người tràn đầy khí thế, tầm vóc. Ở đó có cả sức mạnh củatướng sĩ ba quân trong cuộc kháng chiến
chống Nguyên Mông, đồng thời đó cũng là sức mạnh củacả dân tộc. Từ suy ngẫm khái quát về tư thế, tầm vóc và sức mạnh của dân
tộc chuyển sang suyngẫm về bổn phận và trách nhiệm của cá nhân trước cộng đồng, Phạm Ngũ Lão đã có cách khơikhơi thật khéo léo:
nếu đấng nam nhi còn vương nợ tức là chưa có công trạng gì với núi sông thì sẽhuống thẹn khi nghe chuyện Vũ Hầu. Đúng là cái thẹn
của một của một nhân cách lớn, cái xấu hổlớn lao rất đáng trân trọng của Phạm Ngũ Lão. Ông xấu hổ với bản thân, với cộng đồng nhất
là vớimột nam nhi thời loạn. Đến như Gia Cát Lượng, một con người đã từng xuất thế để quên đi sự đờinhưng cũng dời liều cỏ giúp
Lưu Bị chấn hưng nhà Hán thời Tam Quốc, còn với sĩ phu đời Trần,trước tình thế Tổ quốc ngàn cân treo sợi tóc há chỉ đứng nhìn và
bình thản hay sao?
Múa giáo non sông trải mấy thâu
Ba quân hùm khí nuốt Sao ngưu
Công danh nam tử còn vương nợ
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ hầu.
Đến khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, tinh thần yêu nước của con người Việt Nam lại bật lênmạnh mẽ. Không thể cầm gươm tham
gia nghĩa quân như các sĩ phu yêu nước khác, Nguyễn ĐìnhChiểu đã đánh giặc bằng ngòi bút:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không thẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà
Nỗi lo lắng và niềm đau xót cho ách nước, nạn dân ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Mỗi bữa thấy,mỗi ngày trông kẻ thù trước mắt lấn
thêm một bước, Đồ Chiểu đau đớn như bị cắt đi một phần máuthịt. Cảm hứng bao trùm bài chạy tây là sự xửng sốt, nỗi bàng hoàng, lo
lắng cho vận nước nạn dân:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
5 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
Một bàn cờ thế phút sa tay….
Cho nên tinh thần quyết chiến, quyết thắng không chỉ biểu hiện nơi trận mạc sa trường. Nó còn là lẽsống, một hạnh phúc được sẵn
sàng xả thân cho Tổ quốc. Tư thế của Đặng Dung là tư thế của mộtkẻ anh hùng, một chí trai thời loạn:
Vai khiêng trái đất mong phù chúa
Giáp gột sông trời khó vạch mây
Trong thơ, chúng ta nhận thấy dường như còn có những nỗi buồn sâu kín của con người trước sựđổi thay của đất nước, những cảnh trớ
trêu trong xã hội, nạn chiến tranh, cát cứ, xâm lựơc. Đó làtrường hợp Sông lấp (Tú Xương), Hội Tây (Nguyễn Khuyến)…Nghe tiếng
ếch vẳng bên tai mà TúXương giật mình. Cái giật mình của Tú Xương là cái giật mình chứa bao đau xót trước hiện thực phũ phàng.
Đó là cái giật mình của lòng yêu nước của tinh thần dân tộc sâu kín được ấp ủ, nung nấunhưng không có cách nào giải tỏa đựơc:
Sông kia rày đã nên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ trồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò
(Sông lấp)
Còn với Nguyễn Khuyến thì sao? Ông xót xa trước những trò lố lăng, xúc phạm đến danh dự dân tộcdo thực dân Pháp bày ra. Bên Hội
Tây đã thể hiện sâu sắc nỗi đau đó:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu.
Không chỉ có vậy, cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại còn thể hiện ở việc các nhà thơ ca ngợicảnh đẹp của quê hương đất nước.
Trong thơ, thiên nhiên đất nứớc Việt Nam hiện lên thật đẹp đẽ,tráng lệ giàu đường nét, màu sắc. Với thơ thời Trần, qua cảnh trí thiên
nhiên các thi sĩ đã gửi vào đótình yêu quê hương đất nước của mình. Nguyễn Trung Ngạn khi đi sứ cũng đã viết nên những vầnthơ xúc
động về tình yêu quê hương đất nước với những phong vị riêng của một vùng đồng bằngBắc Bộ:
Dâu già lá rụng tằm vừa chín
Lúa sớm bông thơm cua béo ghê
Nghe nói ở nhà nghèo vẫn tốt
Dẫu vui đất khách chẳng bằng về
(Quy Hứng)
Kể cả một chiếc lá đỏ thưa, một cánh cò chao liệng, một tiếng chuông vẳng trong mây trời, một tiếngsáo, thuyền câu ngoài bến đậu…
Tất cả đều trở thành nguồn thi hứng cho các thi sĩ thời Trần:
Tiếng sáo thuyền câu ngoài bến đậu
Trăng rơi đầy nước, móc đầy sông
Còn Nguyễn Trãi, cảnh đẹp thiên nhiên, khí trời lúc sang xuân thật huyền hồ đầy âm thanh, màu sắc.
Xuân về mang theo sự tươi tốt với những làn mưa. Cỏ ở bến xanh như màu khói bao la bát ngát:
Cỏ xanh như khói bến xuân tươi
Lại có mưa xuân nước vỗ trời
(Bến đò xuân đầu trại)
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
6 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
Như vậy cảm hứng yêu nước trong thơ trung đại Việt Nam đã thể hiện ở nhiều khía cạnh phong phúvà sâu sắc. Đất nước, dân tộc là
nỗi niềm khắc khỏai không nguôi trong tâm hồn con người Việt Namnói chung và các thi sĩ nói riêng. Vậy nên, ở mỗi nhà thơ có cách
khai thác, cảm nhận khác nhau song lại là vẫn sự thống nhất và làm nên một cảm hứng yêu nước lớn. Chính cảm hứng ấy đã làmnên
cái độc đáo riêng và giá trị của thơ Việt Nam thời trung đại.
Cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại Việt Nam
Văn học trung đại Việt Nam trải qua mười hai thế kỉ từ thế kỉ Xuân Hương đến hết thế kỉ XIX. Đây làthời kì dân tộc ta đã thoát khỏi
ách thống trị nặng nề của phong kiến phương Bắc hơn một ngàn năm.Nền văn học trung đại Việt Nam gắn liền với quá trình đấu tranh
dựng nước và giữ nước của dântộc. Về nội dung văn học thời kỳ này mang hai đặc điểm lớn đó là: Cảm hứng yêu nước và cảm hứng
nhân đạo.
Cảm hứng yêu nước và cảm hứng nhân đạo thực ra không hoàn toàn tách biệt nhau. Bởi yêu nước cũng là phương diện cơ bản của
nhân đạo.Tuy vậy cảm hứng nhân đạo cũng có những đặc điểm riêng. Nó bao gồm những nguyên tắc đạo lílàm người, những thái độ
đối xử tốt lành trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, những khát vọng sống, khát vọng về hạnh phúc. Đó còn là tấm lòng
cảm thương cho mọi kiếp người đau khổ,đặc biệt là với trẻ em, với phụ nữ và những người lương thiện bị hãm hại, những người hồng
nhanmà bạc mệnh, những người tài hoa mà lận đận…Những nội dung nhân đạo đó đã được thể hiện ởtrong toàn bộ văn học trung đại,
những biểu hiện tập trung nhất là ở trong các tác phẩm văn học nửasau thế kỉ XVIII và nửa đầu thế kỉ XIX, đặc biệt là trong những tác
phẩm thơ.
Nội dung cảm hứng nhân đạo của văn học trung đại có ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng từ bi bác áicủa đạo phật và học thuyết nhân
nghĩa của đạo Nho.
Trong thơ trung đại Việt Nam có thể kể ra rất nhiều những tác phẩm mang nội dung nhân đạo như:Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi,
Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của NguyễnGia Thiều, Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Văn tế nghĩa sĩ Cần
Giuộc của Nguyễn ĐìnhChiểu,
Trong Bình ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đó là tư tưởng nhân nghĩa gắn liền với tư tưởngyêu nước và độc lập tự do của Tổ quốc:
Từng nghe:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhà nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Trước hết đó là tấm lòng cảm thông của tác giả dành cho những con người nhỏ bé bất hạnh trong xã hội đã bị bọn giặc ngoại xâm đàn
áp dã man:
Nướng dân đen lên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Ở Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc của Nguyền Gia Thiều đó là việc lên án chế độphong kiến chà đạp lên quyền
sống cảu người phụ nữ, lên những số phận tài hoa. Xã hội đó đã tướcđoạt đi những quyền sống thiêng liêng mà lẽ ra con người phải
có. Đặc biệt các tác giả nói lên tiếngnói bênh vực người phụ nữ những người chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội.
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người mà các tác giả còn cất lên tiếngnói nhân đạo phản đối những
cuộc chiến tranh phi nghĩa đã cướp đoạt đi những quyền sống thiêngliêng mà lẽ ra con người phải có. Đặc biệt các tác giả nói lên tiếng
nói bênh vực người phụ nữ nhữngngười chịu nhiều thiệt thòi trong xã hội.
Không chỉ lên tiếng đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho con người mà các tác giả còn cất lên tiếngnói nhân đạo phản đối những
cuộc chiến tranh phi nghĩa đã cướp đi biết bao nhiêu cảnh sống yênvui, chia lìa bao nhiêu đôi lứa. Qua lời của người chinh phụ trong
tác phẩm Chinh phụ ngâm - ĐặngTrần Côn muốn lên án cuộc chiến tranh phong kiến phi nghĩa đó là nỗi nhớ người chồng nơi chiến
trường gian khổ.
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.
Gà eo éc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Nỗi sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Những cuộc chiến tranh này thực chất chỉ là việc tranh quyền đoạt lợi của các tập đoàn phong kiếnvà phủ lên nó là một bầu trời đầy
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
7 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
tang thương. Thế lực đồng tiền cũng đã phủ mờ đi những néttruyền thống tốt đẹp của xã hội đó là với trường hợp nàng Kiều. Trong xã
hội trung đại, thế lực đồngtiền cũng rất đáng lên án vì nó đã vùi lấp và nhấn chìm đi biết bao những con người tài hoa, những con
người có khát vọng hoài bão lớn muốn đem sức lực nhỏ bé của mình cống hiến cho sự nghiệpcủa dân tộc.
Văn học trung đại đã chứng minh cho tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộc Việt Nam. Đó là mộtdân tộc có những truyền thống tốt
đẹp. Quay trở lại với bài Đại cáo bình Ngô sau khi đánh thắngquân xâm lược nhà Minh, quân và dân ta đã mở đường hiếu sinh cho kẻ
thù chứ không phải đuổicùng giết tận, việc làm nhân đạo đó chẳng những đã thể hiện tinh thần nhân đạo cao cả của dân tộcmà còn thể
hiện niềm khát vọng được sống trong hòa bình của nhân dân.
Nhìn chung cảm hứng nhân đạo trong thơ trung đại chủ yếu được thể hiện qua những nét chủ yếu sau:
Trước hết đó là tiếng nói của tác giả, đó là tình cảm của tác giả dành cho những con người nhỏ béchịu nhiều thệit thòi trong xã hội qua
đó mà đòi quyền sống, quyền hạnh phúc cho họ, có được tìnhcảm như vậy, các tác giả thơ thời kì này mới viết được những dòng thơ,
trang thơ xúc động đến nhưthế.
Thơ trung đại còn thể hiện ở tiếng nói bênh vực giữa con người với con người, đề cao tình bạn, tìnhanh em, tình cha con, thể hiện
mong muốn được sống trong hòa bình.
Thơ trung đại đã thể hiện bước đi vững chắc của mình trong hơn mười thế kỉ, đó là sự tiếp nối bướcđi của nền văn học dân gian. Tuy
văn học dân gian thời kì này vẫn phát triển nhưng dấu ấn khôngcòn như trước. Thơ trung đại đã thể hiện những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc đó là chủ nghĩa yêunước và tinh thần nhân đạo qua đó mà làm tiền đề cho sự phát triển văn học các thời kì tiếp theo.
Mấy đặc điểm văn học Lý - Trần
Tìm hiểu đặc điểm văn học, thiết nghĩ không thể không nhắc đến một luận điểm tưởng đã cũ nhưng cực kỳ quan trọng: Văn học là tấm
gương phản chiếu trung thành cuộc sống, là sản phẩm văn hoá tinh thần của thời đại. Văn học Lý – Trần cũng vậy, không ngoài quy
luật trên.
Hơn một ngàn năm nô lệ phong kiến phương Bắc (111 TCN – (938 SCN), với ý chí ngoan cường bền bỉ đấu tranh, với ý thức độc lập
tự chủ, hễ có cơ hội, dân tộc ta đã vùng dậy đấu tranh đánh đuổi kẻ thù và đã có lúc giành lại nền độc lập tự chủ dù còn ngắn ngủi.
Phát huy truyền thống ấy, mùa đông năm 938 bằng mưu lược tài ba, Ngô Quyền đã đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đưa
nước ta sang một kỷ nguyên mới: kỷ nguyên độc lập tự chủ. Từ cái mốc lịch sử này, đất nước ta chuyển sang một thời đại mới: thời
trung đại. Đây là thời kỳ Nhà nước phong kiến được thành lập, ngày càng hùng mạnh và phát triển qua các triều đại: Ngô (939-967),
Đinh (968-980), Tiền Lê (980-1009), Lý (1009-1225), Trần (1225-1400), Hồ (1400-1407) và mấy năm đầu của cuộc kháng chiến
chống giặc Minh vào thời hậu Trần (1407-1418). Giai đoạn lịch sử kéo dài ngót năm trăm năm ấy với những thành tựu tổng hợp của
các triều đại trên trong đó có hai triều đại Lý và Trần là xứng đáng tiêu biểu hơn cả về nhiều phương diện nên các nhà nghiên cứu đã
gọi chung cho cả giai đoạn lịch sử này là thời đại Lý – Trần. Có thể nói đây là thời đại hào hùng và oanh liệt, rực rỡ và đẹp đẽ nhất
trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam. Đặc trưng cơ bản của thời đại này có thể nêu lên ba nét lớn như sau:
- Một là, thời đại độc lập dân tộc thống nhất đất nước, cộng đồng.
- Hai là, thời đại phục hưng dân tộc và phát triển đất nước.
- Ba là, thời đại khoan giản, an lạc nhân thứ, rộng mở và dân chủ([1]).
Văn học Lý – Trần đã phản ánh sắc nét những đặc trưng cơ bản trên của thời đại.
Điều muốn lưu ý ở đây, văn học Lý – Trần là thời kỳ văn học chính thức mở đầu, có nhiệm vụ khai phá, mở đường cho văn học Việt
Nam kể từ sau khi nước nhà giành lại độc lập ở thế kỷ thứ X (năm 938). Nói thế không có nghĩa là văn học Lý – Trần không có một
tiền đề nào từ trước. Nền văn học này đã biết kế thừa những gì đã có tuy chưa nhiều của văn học thai nghén trong thời Bắc thuộc([2]).
Tuy vậy, những gì đã có ấy chưa thể coi là chính thức mở đầu của văn học thành văn Việt Nam, mà chỉ có thể coi là mầm mống phôi
thai tạo tiền đề cho văn học Lý – Trần phát triển. Từ bước mở đầu có tính chất mở đường này, dù muốn hay không, văn học Lý – Trần
một mặt chịu sự tác động của một thời đại khoan giản, nhân thứ, hào mại mà dũng liệt; mặt khác, nó cũng tự xác định cho mình một
trách nhiệm cao cả mà lịch sử đã giao phó là góp phần tích cực vào sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vì thế, có thể thấy văn học thời
kỳ đầu này nổi lên mấy đặc điểm cơ bản sau đây:
Một là, văn học Lý – Trần hình thành trong sự lệ thuộc, ảnh hưởng có thể nói là nặng nề bởi nhiều yếu tố ngoại lai, đặc biệt là yếu tố
Hán nhưng cố gắng vận động để phát triển theo hướng dân tộc hoá.
Trước hết là sự lệ thuộc, ảnh hưởng. Vấn đề này có nguyên nhân là nước ta bị lệ thuộc phong kiến Trung Quốc thống trị cả nghìn năm.
Bấy giờ, văn hoá Hán đã xâm nhập vào Việt Nam bằng nhiều con đường, trong đó con đường áp đặt do các quan cai trị Trung Quốc
bảo trợ. Vì thế, khi nước nhà giành lại độc lập, văn học Lý – Trần có mặt đã chịu ảnh hưởng sâu sắc, thậm chí là nặng nề những yếu tố
của văn hoá Hán, văn học Hán trên các phương diện ngôn ngữ văn tự, hệ thống thể loại và cả những học thuyết, tư tưởng, tôn giáo.
Về mặt ngôn ngữ văn tự, văn học Lý Trần chủ yếu vay mượn văn tự Hán để sáng tác (mãi đến thế kỷ thứ XIII, dưới đời Trần, mới sử
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
8 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
dụng chữ Nôm để viết tác phẩm văn học). Bên cạnh việc vay mượn văn tự, văn học Lý – Trần còn vay mượn thi văn liệu, điển cố, điển
tích lấy từ sử sách, từ thánh kinh hiền truyện của Trung Quốc. Sự vay mượn đó nhiều đến nỗi trở thành những mô – típ quen thuộc, tạo
nên tính quy phạm, ước lệ, tượng trưng trong văn học. Hồi ấy, những sáng tác văn chương có như thế mới được xem là bác học, cao
nhã, cao quý. Chẳng hạn, nói đến cây và hoa, người đọc sẽ bắt gặp tùng, trúc, cúc, mai, sen… Đây là những biểu tượng để chỉ phẩm
chất, khí tiết của bậc trượng phu, người quân tử; nói đến vật thì thường là long, ly, quy, phụng; nói đến người thì ngư, tiều, canh, mục;
tả cảnh mùa thu phải là rừng phong lá rụng, sen tàn giếng ngọc, mây đùn cửa ải, lá ngô đồng vàng rơi; nói hoa bốn mùa thì thường là
xuân lan, thu cúc, hạ sen, đông mai… Vì thế, người đọc không lấy làm lạ là một kiệt tác như Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ)
của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, để khích lệ lòng yêu nước của các tướng sĩ dưới quyền xông lên đánh quân xâm lược, tác giả
lại nêu lên những tấm gương trung thần nghĩa sĩ ở sách vở Trung Quốc như Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Vương Công Kiên.
Về mặt thể loại, văn học Lý – Trần vay mượn những thể loại của văn học Trung Quốc để sáng tác, bao gồm vận văn, biền văn và tản
văn: Vận văn có các thể thơ cổ phong, thơ luật Đường (bát cú, tứ tuyệt), từ khúc, ca, ngâm; biền văn thì mượn các thể như hịch, phú,
cáo; tản văn thì mượn các thể chiếu, chế, biểu, tấu, tự, bạt, bi ký, sử ký, luận thuyết, các thể truyện… (riêng thể chiếu, chế, biểu, tấu có
nhà nghiên cứu xếp vào loại biền văn([3]). Tất cả các thể loại được sử dụng trong văn học Lý – Trần đều là những thể loại của văn học
Trung Quốc. Khi vay mượn để sáng tác, các tác giả đã tuân thủ một cách nghiêm ngặt theo những yêu cầu có tính quy phạm của từng
thể loại đó. Theo như kết quả nghiên cứu hiện nay thì văn học Lý – Trần chưa có thể loại văn học tự thân, nội tại của dân tộc như ở
giai đoạn văn học sau. Điều lưu ý là trong các thể loại trên, về số lượng và chất lượng thì vận văn nổi trội hơn tản văn; các thể loại trữ
tình đạt nhiều thành tựu hơn thể loại tự sự.
Bên cạnh vay mượn văn tự ngôn ngữ và thể loại, văn học Lý – Trần còn chịu ảnh hưởng sâu đậm những tư tưởng tôn giáo, những học
thuyết của nước ngoài như Phật, Lão, Nho, Bách gia chư tử… Đây là những tư tưởng, những học thuyết có ảnh hưởng lớn ở khu vực
Đông Nam Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Triều Tiên, Việt Nam) thời trung đại. Tư tưởng Tam giáo đã in đậm dấu ấn trong tâm lý, trong
đời sống con người Việt Nam thời bấy giờ. Đối với các tầng lớp trên thì họ chịu ảnh hưởng những tư tưởng, học thuyết đó nặng nề
hơn.
Tiếp theo, tuy chịu ảnh hưởng sâu đậm như trên nhưng văn học Lý – Trần đã cố gắng vận động để phát triển theo hướng dân tộc hoá.
Văn học Việt Nam tất yếu phải mang bản sắc tư tưởng, tâm hồn Việt Nam. Văn học Lý – Trần cũng vậy. Trên đường hình thành và
phát triển, cùng với việc tiếp thu những cái hay, cái đẹp của văn hoá, văn học nước ngoài, văn học Lý – Trần vừa phải từ bỏ, vừa phải
chống lại sự lấn áp, áp đảo của những yếu tố ngoại lai đó để ngày càng nâng cao tính dân tộc. Quá trình vận động và phát triển theo
hướng dân tộc hoá diễn ra không chỉ ở hình thức mà còn biểu hiện ở nội dung văn học. Trên phương diện hình thức, biểu hiện đó trước
hết là văn tự. Nếu ban đầu văn học Lý – Trần sử dụng chữ Hán thì từ đầu thế kỷ XIII, các tác giả còn sử dụng chữ Nôm để sáng tác.
Việc chữ Nôm ra đời và được sử dụng đã chứng tỏ ý thức độc lập dân tộc ngày càng được khẳng định, nâng cao; văn hoá, văn hiến đã
được phát triển, đang cố gắng để thoát khỏi sự lệ thuộc văn hoá phương Bắc. Đồng thời, sự ra đời của chữ Nôm còn cắm cái mốc cho
sự phát triển văn học, làm tiền đề để cho giai đoạn sau kết tinh nên những kiệt tác văn chương bởi những tác giả ưu tú như Nguyễn
Trãi, Lê Thánh Tông (thế kỷ XV), Nguyễn Bỉnh Khiêm (thế kỷ XVI), Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương (thế kỷ XVIII –
nửa đầu thế kỷ XIX)… Điều đáng tiếc là, theo thư tịch cổ cho biết, thời Lý – Trần có nhiều tác giả sáng tác văn học bằng chữ Nôm
nhưng qua thời gian, binh hoả, thiên tai, những tác phẩm đó hiện chẳng còn là bao.
Về điển cố, điển tích, văn thi liệu, bên cạnh sự vay mượn của văn học Trung Quốc thì văn học Lý – Trần còn sử dụng văn thi liệu của
Việt Nam, lấy ngay đề tài ở Việt Nam để viết về cuộc sống con người Việt Nam, ca ngợi cảnh đẹp thiên nhiên của đất nước Việt Nam,
phần nào biểu lộ niềm tự hào dân tộc.
Về thể loại, văn học thời kỳ này chưa có dấu hiệu gì về dân tộc hoá hình thức thể loại văn học như ở văn học giai đoạn sau.
Trên phương diện nội dung, văn học Lý – Trần đã biết “hút nhuỵ tinh hoa”([4]), biết tiếp thu có chọn lọc rồi dung hợp, chuyển hoá cái
của người thành cái của mình, phục vụ cho cuộc sống của mình, phù hợp với dân tộc mình. Nền văn học ấy đã thể hiện được tâm hồn,
tình cảm, tâm tư nguyện vọng của người Việt Nam. Chẳng hạn, cũng là văn tự, thể loại nước ngoài nhưng những bài thơ như Nam
quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt ?), Tụng giá hoàn Kinh sư (Trần Quang Khải), Thuật hoài (Phạm Ngũ Lão) đọc lên nghe hào sảng, hả hê
biết bao, bừng bừng khí thế và đậm đà tính dân tộc biết dường nào! Bài Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn cũng vậy. Tuy nêu những
tấm gương nước người nhưng tác phẩm đã khích lệ, động viên được tinh thần yêu nước, khơi dậy ý chí chiến đấu và quyết chiến thắng
quân xâm lược của các tướng sĩ đời Trần để góp phần làm nên hào khí Đông A của thời đại. Ngay cả những tư tưởng tam giáo: Nho,
Phật, Lão khi vào Việt Nam cũng đã được dân tộc tiếp thu, dung hợp rồi Việt hoá để phục vụ cho đời sống tâm linh của mình. Lý
tưởng trung quân ái quốc, lý tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh; tư tưởng từ bi bác ái của Phật khi vào Việt Nam đã có sự chuyển
hoá nên có khác Trung Quốc, Ấn Độ là nơi sản sinh ra chúng.
Hai là, văn học Lý – Trần đã vận động và phát triển trên cơ sở ý thức dân tộc, kết hợp với cảm hứng thời đại, mở ra một dòng văn học
yêu nước trong văn chương Việt Nam.
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
9 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
Ở thời trung đại, trong đó có thời Lý – Trần, yêu nước gắn liền với lý tưởng trung quân. Yêu nước và trung quân là một. Trên cơ sở ý
thức độc lập dân tộc được củng cố và phát triển, kết hợp với âm hưởng của thời đại phục hưng mà cảm hứng yêu nước trong văn học
Lý – Trần được thể hiện ở nhiều khía cạnh, sắc thái, cung bậc, giọng điệu khác nhau bởi những thời điểm lịch sử khác nhau.
Trong điều kiện đất nước hoà bình thì cảm hứng yêu nước được bộc lộ trong thơ văn thường là ý thức tự cường, tự tôn dân tộc; là niềm
khát vọng xây dựng đất nước hoà bình hạnh phúc; là yêu giống nòi, tiếng nói, cảnh trí của non sông gấm vóc và yêu cả nền văn hoá
của dân tộc. Câu thơ của Đỗ Pháp Thuận “Vô vi cư điện các, Xứ xứ tức đao binh” khi trả lời vua Lê Đại Hành đã chứng tỏ niềm tin
vào vận mệnh đất nước. Bài Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) thể hiện sự nhìn xa trông rộng của Lý Thái Tổ về tương lai đất nước, vì
Thăng Long không chỉ đẹp ở thế đất “rồng cuộn hổ ngồi” mà còn là nơi trung tâm để có thể “mưu toan việc lớn, tính kế lâu dài cho
con cháu đời sau”, điều mà cố đô Hoa Lư không còn phù hợp với yêu cầu của thời đại lịch sử bấy giờ. Bài Bạch Đằng giang phú của
Trương Hán Siêu không chỉ đưa lại cho người dọc một tình yêu thiên nhiên với cảnh trí tươi đẹp của non sông gấm vóc, mà còn đem
đến một niềm tự hào lớn về truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc trong lịch sử chống ngoại xâm. Bài phú từng được xem là
kiệt tác văn chương. Lê Quý Đôn thế kỷ XVIII đã so sánh bài phú này với bài Xích Bích phú của Tô Đông Pha (đời Tống – Trung
Quốc) rồi ngợi khen “văn thể phú triều Trần phần lớn khôi kỳ, hùng vĩ, lưu loát, đẹp đẽ, âm vận, cách điệu giống như thể văn nhà
Tống”([5]).
Cũng là con sông Bạch Đằng lẫy lừng chiến tích, nửa thế kỷ sau cuộc kháng ch iến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai (1285), thứ
ba (1287), Trần Minh Tông và Trương Hán Siêu cùng cảm nhận một màu máu tanh hôi trên dòng sông: “Ngỡ rằng máu giặc hãy còn
đây”, dù theo thời gian, nước vẫn trôi nhưng dấu vết, chiến tích lịch sử thì vẫn còn lưu lại mãi. Thật tự hào biết bao! Cũng với cảm
hứng ấy, Phạm Sư Mạnh khi nhìn dòng sông cuộn sóng, cảm thấy lòng bồi hồi tưởng nhớ chiến tích oai hùng năm xưa của Ngô Quyền
phá tan quân Nam Hán trên dòng Bạch Đằng giang:
Hung hăng Bạch Đằng đào,
Tưởng tượng Ngô Vương thuyền.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 3, tr.79)
Dịch:
Bạch Đằng cuồn cuộn sóng,
Tưởng thuyền chiến Ngô Vương.
Để hơn trăm năm sau, thi hào Nguyễn Trãi khi đến dòng sông này cũng đã có cảm xúc và niềm tự hào như thế trong bài thơ Bạch
Đằng hải khẩu.
Khi Tổ quốc bị xâm lăng thì yêu nước là lòng căm thù giặc, là tinh thần quyết chiến thắng kẻ thù, bảo vệ đến cùng chủ quyền của dân
tộc. Yêu nước còn là lòng biết ơn và ca ngợi những con người dám xả thân cứu nước; những con người thà hy sinh chứ không hàng
giặc, không hợp tác với kẻ thù. Bài thơ thần (Nam quốc sơn hà) tương truyền của Lý Thường Kiệt vẻn vẹn chỉ hai mươi tám tiếng, gói
gọn trong bốn câu mà ít nhất đã mang hai tầng ý nghĩa: vừa là lời hịch lại vừa là lời tuyên ngôn, vì đã khích lệ, cổ vũ tinh thần quyết
chiến đấu và chiến thắng quân Tống xâm lược vào năm 1076 trên trận tuyến sông Cầu; đồng thời khẳng định cương vực bờ cõi chủ
quyền của đất nước với sự phân biệt rạch ròi “Nam quốc” với “Bắc quốc” và “Nam đế” với “Bắc đế”. Do thế, xưa nay nhân dân ta đã
coi bài thơ như là lời tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm?
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 1, tr.322)
Dịch:
Núi sông Nam Việt vua Nam ở,
Vằng vặc sách trời chia xứ sở.
Giặc dữ cớ sao phạm đến đây?
Chúng mày nhất định phải tan vỡ.
Hay như lòng căm thù, sự căm tức của chủ tướng Trần Quốc Tuấn “tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đằm
đìa”, với ước muốn “xẻ thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù” thì đó cũng là lòng căm thù sôi sục của tướng sĩ trong thời điểm ấy.
Còn đây là khí phách hào hùng cùng niềm tin vào vận nước nghìn thu được thể hiện trong bài thơ ngắn với giọng điệu hả hê của Trần
Quang Khải:
Đoạt sóc Chương Dương độ,
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
10 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
Cầm hồ Hàm Tử quan.
Thái bình tu trí lực,
Vạn cổ thử giang san.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 2, tr.424)
Dịch:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức,
Non nước ấy nghìn thu.
Cảm hứng yêu nước của thời đại Đông A còn vút lên giọng hào sảng của kẻ nam nhi quyết lập công để lưu danh hậu thế trong thơ của
Phạm Ngũ Lão:
Hoàng sóc giang sơn cáp kỷ thu,
Tam quân tỳ hổ khí thôn ngưu.
Nam nhi vị liễu công danh trái,
Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 2, tr. 562)
Dịch:
Múa giáo non sông trải mấy thu,
Ba quân hùng khí át sao Ngưu.
Công danh nam tử còn vương nợ,
Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu.
Một thời đại văn học đầy chất tráng ca. Hào khí thời đại ấy đã làm cho Trần Phu, một sứ thần nhà Nguyên, vào thời điểm đó đi sứ sang
ta, khi về lại Trung Quốc vẫn còn “giật mình kinh sợ” đến nỗi “tóc bạc”. Cái cảm giác này ông có ghi trong bài Sứ hoàn cảm sự:
Kim qua ảnh lý đan tâm khổ,
Đồng cổ thanh trung, bạch phát sinh.
Dĩ hạnh quy lai thân kiện tại,
Mộng hồi do giác chướng hồn kinh.
Dịch:
Bóng lè binh khí lòng đau khổ,
Vang vọng trống đồng, tóc bạc sinh.
Mừng được về nhà, thân khoẻ mạnh,
Ngủ dài, trở dậy, thấy còn kinh.
Cảm hứng yêu nước ấy còn thể hiện qua giọng điệu uất hận, dồn nén của người anh hùng lỡ vận trong bài Cảm hoài của Đặng Dung.
Đây là hai câu kết:
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ long tuyền đái nguyệt ma.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 3, tr.517)
Dịch:
Thù trả chưa xong đầu đã bạc.
Gươm mài bóng nguyệt đã bao rày.
Ba là, văn học Lý – Trần đã hình thành những giá trị nhân bản, trong đó lòng nhân ái, nhân đạo trở thành cảm hứng chủ đạo trong văn
chương.
Xét đến cùng, cảm hứng yêu nước không hoàn toàn tách biệt với cảm hứng nhân bản, bởi yêu nước cũng là một phương diện cơ bản
của nhân bản. Yêu nước bao giờ cũng gắn với vận mệnh, cuộc sống con người. Việc đấu tranh chống áp bức thống trị, sự chiến đấu
chống ngoại xâm, giải phòng đất nước đều xuất phát từ sự mưu cầu hạnh phúc cho con người. Tuy vậy, nội dung nhân bản vẫn có
những điểm riêng. Nội dung đó không chỉ hiểu theo nghĩa đạo đức học mà còn phải hiểu theo nghĩa triết học. GS. Nguyễn Đình Chú
đã giới thuyết ngắn gọn thuật ngữ nhân bản như sau “Tinh thần nhân bản không chỉ là tình thương con người, đặc biệt là con người
đau khổ, thiệt thòi trong cuộc sống, mà còn là sự khám phá, biểu dương tất cả mọi giá trị làm nên vẻ đẹp con người trong mối quan hệ
với vũ trụ, với tự nhiên, với xã hội, với gia đình, với chính nó trong hành động và trong tâm linh”([6]).
Từ giới thuyết trên, nếu triển khai và vận dụng vào văn học Lý – Trần sẽ có rất nhiều vấn đề cụ thể, phong phú và khá phức tạp. Ở đây,
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
11 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
chỉ xin điểm qua giá trị nhân bản với hai cấp độ: thứ nhất, văn học Lý – Trần đã xây dựng và giải quyết được mối quan hệ giữa con
người với vũ trụ, tự nhiên; thứ hai, văn học Lý – Trần đã nêu được mối quan hệ giữa con người với con người; con người với cuộc
sống.
Ở cấp độ thứ nhất, có thể xem mối quan he giữa con người với vũ trụ, tự nhiên chính là vũ trụ quan thì văn học Lý – Trần đã hoàn
thành nhiệm vụ của mình. Xuất phát từ cảm thức trung đại, con người Lý – Trần chưa nhận thức tự nhiên như một khách thể. Hồi ấy,
con người nhận thức và phản ánh tự nhiên không chỉ ở cấp ý thức hệ mà ở cấp tâm lý xã hội; không chỉ ở cầu trường cảm quan về thế
giới như A. Gurevich đã phát biểu([7]). Với cảm thức ấy, con người đã tự xem mình là một phần tử của vũ trụ, bởi quan niệm thiên
nhân tương dữ, thiên nhân hợp nhất. Vì thế, giữa con người với vũ trụ, tự nhiên có sự gắn bó hoà đồng, có mối quan hệ tương giao. Có
được điều này, như đã đề cập, là nhờ sự gặp gỡ giữa chất phóng khoáng, dân chủ, cởi mở, phá chấp, cùng xuất phát từ tư duy tổng hợp,
nhất nguyên, vạn vật nhất thể, tâm pháp nhất như của Phật với chất phiêu diêu, phóng nhiệm, tinh thần biện chứng khúc tắc toàn, uổng
tắc trực, oa tắc doanh và tư tưởng hoà quang đồng trần của Lão – Trang với đức tính dung dị, mềm dẻo, linh hoạt, sống phụ thuộc vào
thiên nhiên của người Việt. Vì thế, văn học Lý – Trần, đặc biệt là văn học Phật giáo Lý – Trần đã đem lại cho người đọc nhiều tác
phẩm thể hiện sự gắn bó tương giao ấy, tạo nên hình ảnh con người vũ trụ thật đẹp.
Ở cấp độ thứ hai, văn học Lý – Trần đã nêu được mối quan hệ giữa con người với con người, con người với cuộc sống. Đây là những
nguyên tắc đạo lý làm người, là thái độ ứng xử tốt đẹp trong các mối quan hệ giữa con người với nhau, là khát vọng về hạnh phúc, về
quyền sống của con người, là lòng thiết tha vun đắp những giá trị nhân bản ngày càng hoàn thiện hơn. Về góc độ này, văn học trung
đại Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX phản ánh rõ nét và có nhiều thành tựu xuất sắc. Riêng trong văn học Lý –
Trần thì vấn đề trên cũng đã được các tác giả đề cập đến tuy không nhiều bằng giai đoạn văn học sau.
Có thể nêu lên đây vài tác phẩm tiêu biểu thể hiện cảm hứng nhân bản ở cấp độ này như bài thơ Ai phù lỗ của Huyền Quang:
Khoá huyết như thành dục ký âm,
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm.
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 2, tr. 642)
Dịch:
Chích máu thành thư muốn gởi lời,
Lẻ loi nhạn lạnh, ải mù khơi.
Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ?
Xa cách, nhưng lòng chỉ một thôi.
Bài thơ là nỗi lòng thương cảm sâu xa của Thiền gia thi sĩ đối với tên giặc bị bắt. Nhà thơ hiểu được tâm trạng nhớ quê nhà, nhớ người
thân của tù nhân và ghi lại những dòng thơ đầy xúc động. Thật hiếm gặp những bài thơ như thế trong văn chương đời Trần. Còn đây là
nỗi niềm trăn trở, day dứt của quan tư đồ Trần Nguyên Đán khi nghĩ về nhân dân sống trong cảnh mất mùa đói kém, mà mình thì
chẳng giúp ích được gì trong bài thơ Nhâm Dần lục nguyệt tác:
Niên lai hạ hạn hựu thu lâm,
Hoà cảo miêu thương hại chuyển thâm.
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ,
Bạch đầu không phụ ái dân tâm.
(Thơ văn Lý – Trần, tập 3, tr.208)
Dịch:
Năm nay hạ hạn lại thu mưa,
Đau nỗi mùa màng, những thiệt thua.
Ba vạn sách đầy đành xếp xó,
Yêu dân còn nợ, mái đầu phơ.
Trong một bài thơ khác, Trần Nguyên Đán cũng nhắc đến đầu bạc: “Ba phần tóc bạc tấm lòng son”. Bạc đầu vì dân. Một nỗi lo thật
cao cả, cũng chỉ vì muốn cho con người sống đầy đủ hơn, hạnh phúc hơn.
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
12 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
Có được nhân sinh quan đẹp đẽ, ấm áp tình người ấy, có lẽ là nhờ sự bắt gặp giữa lòng Thương người như thể thương thân của dân tộc
với tư tưởng từ bi bác ái của Phật và học thuyết nhân nghĩa của Khổng – Mạnh. Nhờ sự gặp gỡ này mà văn học Lý – Trần mới có được
những tư thế nhân sinh lành mạnh và khoẻ khoắn.
Tóm lại, văn học Lý – Trần với những đặc điểm cơ bản vừa trình bày chính là sản phẩm tinh thần của thời đại Lý – Trần. Nó chi phối
các bộ phận văn học thời đại này, cho dù đó là văn học của các nhà Nho hay văn học được sáng tác theo cảm hứng Phật giáo, cảm
quan Thiền học; đồng thời còn ảnh hưởng đến các giai đoạn sau của văn học trung đại Việt Nam.
Giá trị văn chương của "Bình ngô đại cáo"
Đã nhiều thập kỷ nay, Bình Ngô đại cáo được đưa vào chương trình dạy-học môn Văn (sau gọi là môn Ngữ văn) ở cấp cuối trường
phổ thông.
Thường thì người ta cứ mặc nhiên dạy- học nó như một văn bản văn chương mà không mấy người đặt ra vấn đề phải chăng nội dung
dạy- học đó phù hợp với tính chất môn học hay đã lấn sân sang môn học khác, môn Lịch sử chẳng hạn, và cùng với điều đó lại có thể
bỏ sót một số giá trị văn chương nào đó bởi trước tác này mang tính chất nguyên hợp, không chỉ là “văn sử bất phân” mà ngay ở phần
văn cũng là tổng hoà của nhiều loại văn: văn nghị luận, văn tự sự, văn trữ tình… Và mặc dầu bản hùng văn này đã được nhiều người
nghiên cứu dưới các góc độ, đạt được nhiều thành tựu, song vẫn có những vấn đề cần phải nhận thức lại.
Bình Ngô đại cáo trước hết là một văn kiện lịch sử. Cuối năm 1427 (cũng có những tài liệu cổ cho rằng đầu năm 1428) được lệnh của
Lê Lợi, Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo và văn bản này được công bố tháng 4 năm 1428 bố cáo cho toàn quân dân biết sự nghiệp
bình Ngô đã hoàn toàn thắng lợi, quân thù đã thảm bại và phải cút khỏi nước ta, một vận hội mới đã mở ra cho giang sơn xã tắc. Chỉ
với tư cách văn bản quan phương Bình Ngô đại cáo mới được đưa vào bộ quốc sử Đại Việt sử ký toàn thư(1) chứ không phải vì nó là
tác phẩm văn chương xuất sắc của một bề tôi. Tuy nhiên, các thể loại văn chương Việt Nam thời trung đại-như viện sĩ Đ.X. Likhatsôp
nhận thấy ở thể loại văn học Nga cổ- “là để phục vụ nhằm thoả mãn cả một kết hợp phức tạp những nhu cầu xã hội và tồn tại gắn liền
với điều đó trong một sự lệ thuộc với nhau rất chặt chẽ”(2), nên từ khi ra đời, Bình Ngô đại cáo không phải chỉ được tiếp nhận chủ yếu
như một văn bản hành chính mà còn như một kiệt tác văn chương.
Cáo là một thể trong loại văn chiếu lệnh, loại văn được người xưa coi trọng nhất. Luận ngữ ghi lời của đức Khổng Tử khen nước Trịnh
cẩn trọng khi soạn thảo loại văn bản này: Tử viết: “Vi mệnh, Tỳ Thầm thảo sáng chi. Đông Lý Tử Sản nhuận sắc chi Thế Thúc thảo
luận chi. Hành nhân Tử Vũ tu sức chi” (Đức Khổng Tử nói rằng: “Khi nước Trịnh làm tờ từ mệnh gửi cho nước khác, ông Tỳ Thầm
khởi thảo, ông Thế Thúc khảo cứu bàn bạc, quan hành nhân là ông Tử Vũ sửa chữa thêm bớt, ông Tử Sản ở đất Đông Lý trau chuốt
lại”). Tỳ Thầm, Thế Thúc, Tử Vũ, Tử Sản là những người tài nổi tiếng đương thời, cả bốn người hợp sức lại để viết cho thấy thái độ
của người đương thời về loại văn liên hệ trực tiếp với chính sự này. “Chính giả, chính dã” (Chính trị là chính nghĩa - Luận ngữ). Một
phương tiện để làm rõ chính nghĩa của các đế vương và các triều đại chính là văn chiếu lệnh. Văn chương thẩm mỹ để ngâm ngợi, chỉ
cho thấy tài năng của cá nhân trong khi văn chiếu lệnh phục vụ đắc lực cho chính sự, gắn bó với sự hưng vong của vương triều và
quốc thể. Văn chương thời trung đại khác văn chương hiện nay ở nhiều phương diện, trong đó bộ phận khác biệt lớn nhất là những thể
loại chức năng, bởi như Đ.X. Likhatsôp đã chỉ rõ những thể loại này nhằm đáp ứng đồng thời nhiều nhu cầu xã hội, khác với hiện nay
đã có sự khu biệt về thuộc tính và chức năng của các hình thái ý thức. Tìm hiểu những văn bản loại này cần kết hợp linh động giữa tư
duy lịch đại và tư duy đồng đại. Hiển nhiên người ngày nay tiếp nhận chúng không giống người thời trung đại, nếu không có quan
điểm lịch sử cụ thể sẽ bỏ qua hoặc không đánh giá đúng những giá trị đặc thù, mà đây lại là một trong những nguyên cớ để chúng có
mặt trong chương trình dạy-học ngữ văn ngày nay.
Cáo là một thể của loại văn học chức năng, loại trước tác có yêu cầu đầu tiên và cao nhất là “từ nghiêm nghĩa chính” (ngôn từ chuẩn
mực, ý nghĩa chính đáng). Bình Ngô đại cáo là một tác phẩm đỉnh cao nên nó mang thuộc tính phổ quát của các hiện tượng điển hình,
là nghiên cứu nó sẽ không chỉ biết về một cá thể mà còn nhận thức được một phạm vi rộng hơn thuộc cấp độ loại - ở đây là loại văn
học chức năng. Trước tác này ra đời cách đây đã năm thế kỷ, khi ấy các thể loại văn học chức năng còn mang đậm tính chất nguyên
hợp, bởi vậy bản đại cáo còn tích hợp nhiều giá trị khác, mà ở đây chúng ta quan tâm tìm hiểu là giá trị văn chương. Với đặc điểm của
tư duy người đương thời, giá trị văn chương không ngăn trở, chế ước giá trị hành chính của văn bản, trái lại, như thực tế cho thấy, đã
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
13 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
tạo thêm sức sống cho văn bản quan phương này.
Giá trị của Bình Ngô đại cáo trước hết là ở phương diện một trước tác chính luận, loại văn bản được đánh giá cao khi có hệ thống lập
luận chặt chẽ, thể hiện sâu sắc và sinh động những vấn đề có ý nghĩa trọng đại của quốc gia dân tộc. Với Bình Ngô đại cáo, không
phải nhà chuyên môn cũng dễ nhận ra được lôgic lớn của toàn bài và sự thứ lớp trong lập luận của từng phần. Tiêu biểu cho tầm khái
quát của văn bản là đoạn đầu (Nhân nghĩa chi cử… quyết hữu minh trưng). Đoạn này như một định nghĩa rất tiêu biểu về quốc gia
phong kiến, được đánh giá là cống hiến có ý nghĩa thế giới, khiến cho các thế hệ sau thán phục, tự hào. Đây là thành tựu đột xuất của
lịch sử tư tưởng Việt Nam thời ấy, nhưng với Nguyễn Trãi, là thành tựu tất yếu vì tất cả mọi ý niệm đó đều đã có trong Quân trung từ
mệnh tập, đây chỉ là tập đại thành. Thành quả đó do ba nguyên nhân. Trước hết do tài năng siêu việt của nhà trí thức-người anh hùng
Nguyễn Trãi vì chính ông chứ không ai khác đã từ tầm cao thời đại, khái quát những giá trị to lớn của đất nước và đồng bào, của văn
hoá Việt. Nguyên nhân thứ hai thuộc thời đại đầy biến động to lớn, khiến vấn đề dân tộc dân chủ được đặt ra cực kỳ gay gắt. Người trí
thức Nguyễn Trãi đã được tôi luyện trong hoàn cảnh đó, ông nhìn thấy giang sơn và dân nước mình trong máu và nước mắt trước khi
thấy họ trong hào quang chiến thắng. Với một chút hài hước có thể nói nguyên nhân thứ ba thuộc “công” của giặc Minh. Chính vì
trong thời gian dài phải thường xuyên đương đầu với kẻ thù mạnh, thâm độc và gian xảo như giặc Minh khiến tư duy Nguyễn Trãi
thêm sắc sảo. Chẳng hạn luận điểm vĩ đại của ông Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân chính là để phản bác luận điệu xảo trá của quân
Minh, vạch rõ bộ mặt thật của chúng đằng sau chiêu bài nhân nghĩa “hưng diệt kế tuyệt”, tư tưởng này đã được bộc lộ cụ thể hơn ở
Hựu đáp Phương Chính thư (số 5)(3), Tái phục Phương Chính thư (số 8).
Giá trị văn chương của Bình Ngô đại cáo thấm nhuần ở toàn bộ tác phẩm do người viết luôn nhìn nhận sự vật, hiện tượng cùng với
một trí tuệ sắc sảo là một tâm hồn tinh nhạy, con tim giàu cảm xúc. Điều này thể hiện kín đáo nhưng mạnh mẽ ở ngay cả đoạn đầu,
đoạn chứa đựng những khái quát về lịch sử dài lâu và quang vinh của đất nước, đoạn chứa đựng những tư tưởng lớn của một bản tuyên
ngôn độc lập. Niềm tự hào to lớn, kiêu hãnh vì được làm con dân của một dòng giống anh hùng và văn hiến được tác giả thể hiện cô
đúc qua những phó từ ngắn gọn: thực (Ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang = Nước Đại Việt ta thật là nước văn hiến)(4),
ký (Sơn xuyên chi phong vực ký thù = Núi sông bờ cõi đã chia), diệc (Nam Bắc chi phong tục diệc dị = Phong tục Bắc Nam cũng
khác). Ở những đoạn sau, khi lên án tội ác quân xâm lược, kể lại những khốn khó của nghĩa quân buổi đầu dựng nghiệp, miêu tả
những bước đường thắng lợi của quân dân, đặc biệt đoạn bố cáo kết thúc chiến tranh… thì cảm xúc càng có điều kiện biểu lộ mạnh
mẽ, phong phú.
Giá trị văn chương còn biểu hiện ở sự sáng tạo hình tượng và hình ảnh, điều này liên quan, hay nói đúng hơn là hệ quả của đặc điểm
trên. Từ những năm tuổi trẻ đến những ngày tháng cuối đời, Nguyễn Trãi luôn biểu hiện một cốt cách nghệ sĩ lớn, chỉ có những điều
kiện nào đó buộc ông phải tiết chế phẩm chất đẹp đẽ này, còn khi tình huống cho phép, ông tự bộc lộ một cách tự nhiên sinh động.
Chủ nghĩa yêu nước và tinh thần nhân văn sâu sắc của Bình Ngô đại cáo có sức tác động mạnh mẽ, có sự trường tồn một phần lớn là
do điều này. Nguyễn Trãi diễn tả tư tưởng bằng những hình tượng sinh động, thật khó phân định đâu là từ nguồn sách vở, đâu là sáng
tạo riêng. Biểu hiện sức mạnh to lớn của nghĩa quân, ông không liệt kê số liệu mà dựng hình ảnh Ẩm tượng nhi hà thuỷ can; Ma đao
nhi sơn thạch khuyết (Gươm mài đá, đá núi cũng mòn; Voi uống nước, nước sông phải cạn). Diễn tả sự đồng tâm nhất trí trong quân
ngũ vì nghĩa lớn, tác giả mô tả cảnh Đầu giao hưởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm (Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu
ngọt ngào). Chú dẫn câu này có người đưa ra điển tích Trung Hoa thời Chiến Quốc, còn người đi thực địa cho biết ngày nay ở miền
tây Thanh Hoá còn di tích hòn đá Khao và suối Rượu, cũng là nêu những sự thực hiển nhiên.
Nguyễn Trãi vâng mệnh của đấng chí tôn, soạn một văn bản hành chính, điều đó đã rõ ràng, nhưng cũng không kém phần hiển nhiên
là trong tâm thế tác giả có cả hai mục đích đều lớn và không mâu thuẫn: soạn một văn bản hành chính và sáng tạo một công trình văn
chương. (Ăngghen, trong Thư gửi Stáckenbua có viết rằng con người sáng tạo ra lịch sử của mình, nhưng là sáng tạo trong những điều
kiện thực tế đương tồn tại và những quan hệ mà người ta phải thích ứng). Điều này biểu hiện ở chỗ ông sử dụng nhiều thủ pháp tu từ,
nhiều chất liệu văn chương điển phạm và nhất là rất có ý thức, có năng lực tạo nên tính nhạc cho ngôn từ. Văn biền ngẫu chỉ yêu cầu
cơ bản là mỗi câu gồm hai vế cân xứng còn độ dài câu văn, sự ngắt nhịp là do cảm quan của từng người viết. Có người chỉ thấy thuận
lợi (do “có khuôn”) mà không thấy khó khăn đối với tác giả xưa. Trong cái khuôn chung ấy mà biểu lộ được thần thái riêng của từng
nội dung và từng cá tính là điều khó khăn, tài năng lớn cộng với bản lĩnh cao mới tạo nên được. Nguyễn Trãi rất linh hoạt chính ở chỗ
đầy bó buộc này. Nhạc tính của câu văn Bình Ngô đại cáo đa dạng, phù hợp với nội dung câu văn tự sự, trữ tình hay nghị luận. Ông
tuyên ngôn bằng câu súc tích, chắc nịch Ngã Đại Việt chi quốc, thực vi văn hiến chi bang. Miêu tả tội ác quân thù, ông lại sử dụng thủ
pháp trùng điệp, như cố ghi hết tội ác to lớn, trời không dung, đất không tha của chúng.
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
14 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
Chúng tôi quả rất băn khoăn trước nhận định: “Cáo thường được viết bằng văn biền ngẫu”(5). Nhận định này có thể làm cho người
dạy- học Bình Ngô đại cáo ở trường phổ thông trung học hình dung theo hai hướng. Một là cho rằng ở nước ta, ngoài “thiên cổ hùng
văn” này còn có những bản cáo khác nữa, thực ra, trong những bộ quốc sử hiện còn đều không nói tới các bản đại cáo nào khác. Đọc
sử sách cũ đôi khi chúng ta gặp cụm từ “đại cáo thiên hạ” thì chỉ với ý nghĩa là nhà vua hoặc triều đình, hoặc người đứng đầu một
phong trào ban bố rộng rãi điều gì đó, còn không dễ mà có được những bản đại cáo như thời kỳ đầu của nhà Hậu Lê. Phải có điều kiện
song hành, bên cạnh một chiến công chính nghĩa lừng lẫy còn phải có một thiên tài văn chính luận. Ngoài thời Lê Lợi và Nguyễn Trãi,
chúng ta thấy còn có thời Quang Trung Nguyễn Huệ và Ngô Thì Nhậm. Biết đâu vị hoàng đế anh hùng và thiên tài họ Ngô từng nghĩ
đến điều này, nhưng đứng trước Bình Ngô đại cáo các vị lại có cảm nghĩ như Lý Bạch xưa lên lầu Hoàng Hạc cảm xúc dồi dào mà
ngần ngại không đề thơ vì có thơ Thôi Hiệu trên đầu! Ngoài ra người dạy- học Ngữ văn ở phổ thông trung học có thể sẽ hình dung
rằng trước Bình Ngô đại cáo, ở Trung Quốc thể văn này đã được viết bằng văn biền ngẫu và cùng với nó, đã có hình thức hoàn chỉnh,
và theo cách ứng xử của văn chương thời trung đại, Nguyễn Trãi chỉ còn “lắp” câu chữ của mình vào.
Thực ra, cho đến nay khi nói về thể cáo, ngoài Bình Ngô đại cáo các chuyên gia văn học trung đại Việt Nam cũng chỉ nhắc đến các bài
cáo trong Thượng Thư. Các văn bản trong Thượng Thư ra đời trước công nguyên nhiều thế kỷ(6) còn văn biền ngẫu xuất hiện thời
Hán, Ngụy và thịnh hành thời Lục triều. GS. Mai Quốc Liên cho rằng: “Nguyễn Trãi đã với tay ra hàng hai mươi thế kỷ để dùng lại
một thể loại cổ xưa hầu như đã chết trong văn học Trung Quốc- cáo- và đưa vào đó một nội dung hoàn toàn mới”(7). Thật vinh dự cho
Nguyễn Trãi và Bình Ngô đại cáo vì đã làm nên sự độc đáo trong văn học trung đại Việt Nam là chỉ một tác phẩm làm nên một thể
loại, và nhìn trong sự liên thông thể loại văn học Việt-Trung thời trung đại, đã làm nên đỉnh cao của một thể loại. Với những gì chúng
ta đã biết, có thể nói rằng Nguyễn Trãi chỉ kế thừa tên gọi và chức năng thể loại của thể cáo Trung Hoa.
Bình Ngô đại cáo được viết để bố cáo việc hoàn tất một chiến công vệ quốc vĩ đại, bởi vậy đương nhiên phần lớn ngôn từ sẽ dành cho
việc ghi chép lại quá trình chiến đấu gian khổ và chiến thắng của quân dân ta và quá trình thất bại dẫn đến thảm bại hoàn toàn của
quân Minh. Giá trị sử học của đoạn văn này rất nổi bật thể hiện ở sự ghi chép trung thực nhiều sự kiện lịch sử và khái quát sâu sắc
nhiều chân lý lớn của thời đại. Bên cạnh đó nghệ thuật sáng tạo văn chương của tác giả cũng hết sức xuất sắc. Những chặng đường
chính của quá trình chinh chiến hàng chục năm được kể lại tường tận mà không bề bộn vì bút pháp của tác giả rất linh hoạt: vừa kể lại
những chiến thắng của quân ta, vừa đúc kết những nguyên lý quân sự và những chân lý nhân sinh; vừa tự sự về những thất bại liên tiếp
của quân giặc vừa kết hợp luận tội chúng, đặt chúng trong sự tương phản với quân ta. Sự lúng túng, thất bại của quân xâm lược không
chỉ thấy qua những sự kiện mà còn thể hiện bằng những bức biếm họa từ vua quan đến tướng sĩ phương Bắc.
Cho đến gần đây quả là vẫn còn có vấn đề trong cách ứng xử với một câu văn của Bình Ngô đại cáo, câu Thị do thiên địa tổ tông chi
linh, hữu dĩ mặc tương âm hựu nhi trí nhiên dã (Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy). Bản chữ
Hán trong Nguyễn Trãi toàn tập tân biên (in theo Hoàng Việt văn tuyển của Bùi Huy Bích) có câu này, bản phiên âm Hán- Việt cũng
có. Toàn tập sử dụng hai bản dịch, bản dịch thứ hai không dịch nghĩa câu này. Trước đây ba thập kỷ, cuốn Lịch sử Việt Nam tập I, do
Uỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam biên soạn (Nxb. KHXH 1976) in gần như toàn bộ bản dịch Bình Ngô đại cáo (tr.258-261) chỉ lược
bỏ câu trên, thay bằng dấu ba chấm (…). Một chuyên gia văn học Việt Nam trung đại coi câu văn này là “một tỳ vết nhỏ”(8). Những
cách nhìn nhận như vậy cách đây hai, ba thập kỷ có thể hiểu được nhưng ngày nay thiết tưởng cần thay đổi cho tương xứng với các
thành quả của khoa học xã hội và mặt bằng dân trí. Chúng ta cùng nhìn lại xem trong bản đại cáo, Nguyễn Trãi thể hiện lực lượng siêu
hình như thế nào. Kết thúc bản cáo trạng quân xâm lược, tác giả viết:
Thần nhân chi sở cộng phẫn,
Thiên địa chi sở bất dung.
(Lẽ nào trời đất dung tha, Ai bảo thần nhân chịu được).
Khi nhìn lại khó khăn chồng chất của buổi đầu khởi nghĩa, Nguyễn Trãi cho rằng: Cái thiên dục khốn ngã, dĩ giáng quyết nhiệm/ Cố
dư ích lệ chí, dĩ tế vu gian (Trời thử lòng giao cho mệnh lớn, Ta gắng chí khắc phục gian nan). Ở đoạn miêu tả cảnh hai bên giao tranh
đẫm máu, tác giả viết: Phong vân vị chi biến sắc/ Nhật nguyệt thảm dĩ vô quang (Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm
thay ánh nhật nguyệt phải mờ).
Còn câu văn bị đánh giá tiêu cực, thậm chí bị lược bỏ là ở đoạn cuối, cắt nghĩa nguyên nhân của chiến công bình Ngô vĩ đại. Chúng ta
đã thấy ở cảm nhận của Nguyễn Trãi thể hiện trong suốt bản đại cáo, lực lượng siêu hình luôn song hành, tương giao với con người. Ở
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
15 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
thế kỷ XV mà không thụ cảm thế giới như vậy thì mới là lạ. Xoá bỏ hoặc đánh giá tiêu cực câu văn đó là chỉ phủ nhận một khâu trong
cả chuỗi mắt xích, hơn nữa theo chúng tôi, đây lại là trường hợp dễ được người ngày nay cảm thông nhất. Suốt bản đại cáo Nguyễn
Trãi đã trình bày một cách hệ thống và biện chứng những yếu tố vật chất và tinh thần đưa đến toàn thắng của quân ta, thảm bại của kẻ
thù, bởi vậy câu văn này không nhằm phủ nhận sự nỗ lực chiến đấu hy sinh để chiến thắng của quân dân ta trong hàng chục năm trời,
nó chủ yếu biểu lộ lòng tri ân tổ tiên, là một cách khẳng định chính nghĩa tất thắng (những điều đã trở thành nội dung đạo lý Việt
Nam). Ngày nay tất nhiên các văn bản quan phương không còn viết như thế nhưng trong rất nhiều tình huống của đời sống, người Việt
Nam thuộc nhiều tầng lớp còn trữ tình theo cách đó. Câu văn làm cho tính chất biểu cảm của văn bản thêm đậm đà, giá trị văn chương
càng nổi bật.
Đã có mấy cách giải thích về chữ Ngô trong Bình Ngô đại cáo, trong đó có người cho rằng Nguyễn Trãi sử dụng cách gọi của dân
gian, “Nguyễn Trãi đã dùng một từ mà nhân dân quen dùng”, “để chỉ quân Trung Quốc, người Trung Quốc xấu xa, tàn ác, với hàm ý
khinh bỉ, phê phán”(9). Cách hiểu này đầu tiên do một nhà nghiên cứu văn học dân gian nêu lên trong dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh
Nguyễn Trãi (1980) và được một số nhà nghiên cứu tán đồng. Bản thân chúng tôi cũng có lúc tin như thế nhưng về sau, khi có điều
kiện đọc trước tác của Nguyễn Trãi nhiều hơn, kết hợp với ngẫm nghĩ thêm thấy rằng cách giải thích đó chưa hợp lý. Trong Bình Ngô
đại cáo Nguyễn Trãi gọi kẻ thù bằng hai cách, Ngô và Minh, mỗi cách dùng một lần, Ngô dùng ở nhan đề và Minh ở câu Cuồng Minh
tứ khích, nhân dĩ độc ngã dân (Giặc Minh thừa dịp tàn hại dân ta- Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, Sđd, tr.37). Chỉ căn cứ vào Bình Ngô
đại cáo thì sự đối lập về sắc thái ý nghĩa của hai cách gọi chưa rõ, chưa đủ để kết luận, bởi vậy cần nhìn nhận thêm hai cách gọi này
trong các trước tác khác của Nguyễn Trãi, có ý nghĩa nhất là những văn bản viết trước bản đại cáo, trong Quân trung từ mệnh tập.
Chúng tôi đã khảo sát tỷ mỉ và trình bày trong một tiểu luận(10), ở đây chỉ nêu vắn tắt một số kết luận. Trong Quân trung từ mệnh tập
cả hai cách gọi đều được sử dụng nhiều lần (Những văn bản sưu tập được có lẽ chưa đầy đủ - có một khoảng trống mấy năm không
thấy có văn bản nào- bởi vậy thống kê số lần sử dụng hai từ này không phản ánh đúng tình hình). Tình trạng một văn bản dùng cả hai
tên gọi hoặc chỉ dùng một trong hai đều phổ biến. Có những trường hợp rất đáng lưu ý. Chẳng hạn nếu cách gọi là Ngô mang ý nghĩa
trên thì trong văn bản có tính chất đối nội như Tấu cáo văn (số 22) hẳn sẽ dùng cách định danh này, nhưng không, ở đây chỉ dùng cách
gọi Minh (hai lần: Minh tặc, cường Minh). Tuy nhiên trường hợp có sức nặng nhất để phản bác ý kiến cho rằng đương thời cách gọi
Ngô đã mang ý khinh bỉ chính là văn bản Tái dụ Vương Thông thư (số 35). Trong thư này Nguyễn Trãi chỉ dùng cách gọi Ngô, ba lần:
Kim Ngô chi cường bất cập Tần (Nay Ngô mạnh không bằng Tần), phi Ngô quốc sở năng đoạt dã (thì Ngô làm sao có thể cướp được),
cập Ngô quốc chi nhân (cũng như người Ngô). Vương Thông là tổng binh, là viên quan có quyền cao nhất trong đám tướng lĩnh viễn
chinh ở nước ta, là võ tướng nhưng y thuộc loại thông hiểu chữ nghĩa. Đối với tên này, Nguyễn Trãi luôn chủ trương binh vận (thư cho
Vương Thông nhiều nhất, xưng hô nhã nhặn, viết dài, dùng nhiều tri thức kinh điển để bàn bạc, thuyết phục). Bức thư này viết lúc thế
thắng đã thuộc về ta, nhưng Nguyễn Trãi vẫn giữ cách ứng xử lịch sự với một đại quan của thiên triều- một kiểu “lạt mềm buộc chặt”,
là cách khéo léo nhắc nhở hắn cách hành xử cho hợp với một đại nhân, đề phòng “chó cùng rứt dậu”. Là người hiểu sâu sắc nhân tình
thế thái, lẽ nào Nguyễn Trãi hành xử bằng cách miệt thị tổ tiên kẻ mà mình đang áp dụng chiến thuật “tâm công”? Trong Ngữ văn 10,
bức thư này được in gần kề Bình Ngô đại cáo, nếu giải thích chữ Ngô trong bản đại cáo là cách định danh biểu thị sự khinh bỉ thì
không thuyết phục được người dạy- học.
Tóm lại, chỉ căn cứ vào Bình Ngô đại cáo thì sự đối lập sắc thái ý nghĩa giữa hai cách gọi Minh và Ngô không rõ, và tìm hiểu những
văn bản trước đó được tập hợp trong Quân trung từ mệnh tập thì chưa có sự đối lập này.
Ngoài những trường hợp đã được các nhà nghiên cứu dẫn ra, chúng tôi thấy thêm vài trường hợp gọi người phương Bắc là Ngô với ý
khinh thị. Đây là một câu trong bài Dăn đời phú (khuyết danh):
Báng đầu thằng trọc, không nể đầu ông sư; cứng cổ cứng đầu, ai xá những ngu dại - Vắng mặt thằng Ngô, lúc có mặt ông sứ, sấp mày
sấp mặt vẫn nghe nhời nói xưa nay. Về đoản ngữ Vắng mặt thằng Ngô, lúc có mặt ông sứ, soạn giả Vũ Khắc Tiệp giải thích: “Khi
trước nước ta phải phục về nước Tàu, khi có quan sứ ở nước Tàu sang, thì ta phải chiều chuộng rất cung kính, nhưng khi vắng mặt thì
lại gọi đó là thằng Ngô”(11). Và đây là câu mà theo tác giả Thượng Chi văn tập, là một câu ca dao:
Ba mươi tết, tết lại ba mươi,
Vợ thằng Ngô đốt vàng cho chú Khách(12).
Ở một số nước, Trung Quốc chẳng hạn, sáng tác dân gian được văn bản hoá rất sớm (ví dụ Kinh Thi), còn ở ta những ghi chép văn học
dân gian xuất hiện muộn, tạo nên một khó khăn khi nghiên cứu mối quan hệ giữa hai bộ phận văn chương dân tộc-văn chương bác học
và văn chương dân gian, là có những giá trị rất gần gũi, có thể khẳng định được rằng có sự tiếp thụ, nhưng không thể chỉ rõ được tác
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
16 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
giả văn học viết sử dụng của dân gian hay sáng tác của họ được dân gian hoá. Riêng trường hợp chữ Ngô đang bàn, có thể phân định
được bằng phép loại trừ. Chúng tôi đã chứng minh, trong trước tác Nguyễn Trãi chữ Ngô chưa đối lập với chữ Minh về sắc thái ý
nghĩa, điều này chỉ xuất hiện về sau, bởi vậy nên khẳng định trên cơ sở những chứng cớ khách quan, “chính những trước tác của
Nguyễn Trãi mà tiêu biểu là Bình Ngô đại cáo đã góp phần quan trọng đối với việc lưu giữ ký ức lịch sử về quân Minh xâm lược thâm
độc, tàn bạo và tư thế vĩ đại của nước Việt thời ấy góp phần hình thành trong tâm thức dân gian Việt Nam cách gọi người phương Bắc
bằng từ Ngô với ý nghĩa như chúng ta đã thấy”(13). Chúng ta đều biết có nhiều cách để lưu giữ ký ức lịch sử trong đó tác phẩm văn
chương đích thực có ưu thế các lĩnh vực khác khó bì, vì ở đây có sự hài hoà giữa nhận thức và cảm xúc, là “hình thức nhuần nhị nhất
của tư tưởng”. Sức sống của chữ Ngô cũng là một cứ liệu khẳng định giá trị văn chương xuất sắc của Bình Ngô đại cáo.
Trước tác này của Nguyễn Trãi đã trở thành một giá trị cổ điển, gắn với nó có một nhận định cũng đã trở thành cổ điển, rằng đây là
một “thiên cổ hùng văn” (Vũ Khâm Lân, thế kỷ XVII). Nhận định này rất tiêu biểu cho sự thụ cảm của người xưa về Bình Ngô đại
cáo, xem nó như một sáng tác văn chương.
Bình Ngô đại cáo đã được nhiều dịch giả thuộc nhiều thế hệ chuyển ra quốc ngữ và nhìn chung có thể thấy rằng người dịch đến với
nguyên tác trước hết cũng không phải như một văn kiện lịch sử, qua việc theo các chuẩn mực tín, đạt, nhã của một văn bản văn
chương. Điều này thấy rõ ở xu hướng triệt để bảo lưu tính chất biền ngẫu và nhạc tính của câu văn, ngay cả ở những trường hợp để đạt
được điều đó phải dịch đảo câu trong nguyên tác (các câu Nhân tài thu diệp, tuấn kiệt thần tinh; Ẩm tượng nhi hà thuỷ can, Ma đao nhi
sơn thạch khuyết). Có những câu dịch so với nguyên tác đã được hình tượng hoá (Tuấn sinh linh chi huyết, dĩ nhuận kiệt liệt chi vẫn
nha được dịch thành “Thằng há miệng đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán”).
Chỉ với Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã xứng đáng là nhà văn chính luận kiệt xuất, song ông còn có Quân trung từ mệnh tập- tập
văn chính luận quy mô đầu tiên của nước ta. Những trước tác này cùng với thơ của thi hào đã làm nên một hiện tượng độc đáo trong
văn học trung đại Việt Nam: Nguyễn Trãi là tác gia duy nhất có sự tương xứng kép, ở bậc cao, tương xứng giữa văn chính luận và văn
chương thẩm mỹ, tương xứng giữa trước tác bằng chữ Hán và bằng quốc âm.
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
17 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
Phần 2: VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1900-1945
Tính giao thời trong văn học Việt Nam giai đoạn 1900 – 1930
1. “Giao thời là khoảng thời gian chuyển tiếp từ thời kì này sang thời kì khác, cái mới cái cũ
đan xen lẫn nhau, thường có mâu thuẫn xung đột, chưa ổn định.” (3,378). Nói đến tính giao
thời trong văn học là đề cập đến những biến chuyển hết sức phức tạp của văn học trong một
khoảng thời gian nhất định để đưa nền văn học bước sang một thời kì mới. Giai đoạn này
đã diễn ra một quá trình đấu tranh quyết liệt giữa hai nền văn hóa cũ và mới, cuộc
đấu tranh đó chưa phân thắng bại. Đây cũng là một giai đoạn hết sức phức tạp, nội dung
và hình thức sáng tác cũ, mới đan xen nhau. Nền văn học cũ khắc phục dần những hạn
chế, từng bước canh tân. Nền văn học mới vừa phát huy những nhân tố hiện đại vừa
kế thừa những thành tựu của nền văn học cũ. Vì vậy, văn học giai đoạn này có một
diện mạo đặc biệt, tạo nên những đặc điểm riêng không thể tìm thấy ở các giai
đoạn trước và sau đó.
Trong lịch sử phát triển của văn học Việt Nam, giai đoạn 1900- 1930 là giai đoạn văn học
có tính chất giao thời. Văn học ở thời kì chuyển hóa, tập hợp để chuẩn bị cho nền văn học hiện
đại ra đời: “ Văn học của cả giai đoạn 1900 - 1930 có tính chất giao thời. Tính chất giao thời đó
được biểu hiện ở sự tồn tại song song hai nền văn học cũ và mới với hai lực lượng sáng tác, hai
công chúng với hai quan niệm văn học, hai ngôn ngữ văn học ở hai địa bàn khác nhau, ở xu thế
thắng lợi của nền văn học mới đang tiến tới thay thế nền văn học cũ đang suy yếu dần. Ở giai
đoạn giao thời này, nền văn học cũ tuy đã ở trên đà suy tàn nhưng vẫn còn giữ một vị trí đáng
kể, vẫn còn một tác dụng tích cực nhất định trong sự phát triển của văn học dân tộc.” (2,29)
Nguyễn Đình Chú cũng đã viết: “Lịch sử văn học, xét cho cùng là lịch sử cách tân văn
học” (1,15). Và, theo quan niệm của ông thì có hai mức độ cách tân: Cách tân trong nội bộ một
phạm trù văn học và cách tân có ý nghĩa chuyển từ phạm trù văn học này sang phạm trù văn
học khác. Sự thay đổi phạm trù văn học là sự cách tân có tính chất đồng bộ, toàn diện về lực
lượng sáng tác, về công chúng văn học, về phương diện văn học, về phương thức tồn tại của văn
học, về quan niệm nghệ thuật, về đề tài, về ngôn ngữ, về thể loại, thể tài cùng với hệ thống thi
pháp. Thực hiện những điều đó không thể trong một thời gian một sớm một chiều mà đòi hỏi
phải qua một quá trình khá gay go và phức tạp. Chúng ta có thể xem 30 năm đầu thế kỉ là
chặng đường đầu của sự cách tân văn học. Tính giao thời thể hiện rõ nhất trong giai đoạn này.
2. Nghiên cứu văn học giai đoạn 1900 - 1930, chúng ta sẽ dễ dàng nhận ra các biểu hiện của
tính giao thời: Sự tồn tại hai lực lượng sáng tác, hai phương pháp thể hiện, hai quan niệm sáng
tác, hai loại công chúng. Nhưng đó chỉ là những yếu tố có tính chất bề nổi.Cần phải bóc tách lớp
vỏ bề ngoài để khai thác mọi vấn đề đang ẩn trong đó mới có thể phát hiện ra được những cái
cốt lõi, nội dung của tính giao thời.
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
18 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
Trong lịch sử văn học Việt Nam, đây là giai đoạn duy nhất có hiện tượng đan xen hai yếu
tố cũ và mới trong sáng tác của một tác giả, có khi trong cùng một tác phẩm. Hai yếu tố cũ và
mới ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật được kết hợp nhuần nhuyễn và phổ biến trên
khắp các thể loại, tạo ra những giá trị đặc biệt, không thể xếp vào kho tàng văn học trung đại
mà cũng chưa thể công nhận là một tác phẩm văn học hiện đại.
2.1. Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu trường hợp nội dung mới thể hiện trong những hình
thức cũ. Đây là trường hợp phổ biến ở dòng văn học yêu nước và cách mạng. Để đạt mục đích
phục vụ cho hoạt động chính trị, các tác giả của dòng văn học này đã tập trung thể hiện những
nội dung mới trong những hình thức nghệ thuật chưa có gì thay đổi. Người ta bắt đầu nói tới
những tư tưởng yêu nước mới. Yêu nước và trung quân không còn đi đôi với nhau, yêu nước gắn
liền với hoạt động đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo tồn “nòi giống” và phát triển xã hội theo
con đường cách mạng dân chủ tư sản. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc Việt Nam, tư tưởng dân
chủ, dân quyền được đưa ra, được khẳng định, được xem là mục tiêu của phong trào cách mạng.
Vấn đề xây dựng nền học thuật mới, phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa cũng là nội dung hoàn
toàn mới mẻ. Chưa bao giờ trong văn học Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng được xác lập phổ biến
rộng rãi như giai đoạn này Tất cả những nội dung trên đều được thể hiện trong những thể loại
văn học của nhà nho trước kia. Chữ Hán là phương tiện phổ biến để chuyển tải các nội dung nói
trên. Văn xuôi nặng tính chất biền ngẫu hãy còn thông dụng đối với các nhà chí sĩ cách mạng
thời này. Người sáng tác có ý thức đưa vấn đề mới vào văn học với mục đích tuyên truyền vận
động cách mạng. Nói cách khác, họ rất chú ý việc đổi mới nội dung nhưng chưa hề quan tâm vào
việc đổi mới nghệ thuật.
Phan Bội Châu là một tác gia tiêu biểu cho dòng văn học yêu nước và cách mạng giai
đoạn này. Sáng tác của ông biểu hiện vai trò là dấu nối của hai thời đại, hai nền văn học cũ và
mới. Ông xuất thân từ một nhà nho, thông thạo lối văn cử tử, từng được mệnh danh “hay chữ
nhất nước Nam”. Ông lại là người có vốn kiến thức về văn học dân gian. Nói như thế để thấy
rằng ảnh hưởng của văn học cũ đối với ông rất sâu đậm. Khi bước vào hoạt động chính trị, ông
đã sáng tác văn chương để phục vụ cho phong trào cách mạng. Đó là những sáng tác có nội
dung mới mẻ. Ông cũng là người sáng tác nhiều, lâu dài và liên tục, hiệu quả tuyên truyền cũng
cao. Nhưng Phan Bội Châu chỉ dừng lại ở sự cách tân nghệ thuật sáng tác cũ. Ông là người rất
nhiệt tình trong việc lên án văn chương cử tử, cố gắng tìm mọi cách để tạo sự lôi cuốn, hấp dẫn
đối với quần chúng. Ông đã thể nghiệm ngòi bút trên khắp các thể loại, từ văn chương phú lục
của nhà nho đến tiểu thuyết, truyện ngắn của nền văn học hiện đại. Ông có ý thức hướng đến
nền văn học hiện đại nhưng vì chưa hiểu đầy đủ về nó nên ông không thể tiến xa hơn nữa. Văn
chương của Phan Bội Châu tiêu biểu cho thời kì chuyển biến của văn học, có tính chất giao thời.
Sáng tác của Phan Bội Châu là sự từ giã cái cũ, tìm đường đến cái mới. Phan Bội Châu chưa vượt
qua được truyền thống nghệ thuật của phương Đông. Lí tưởng thẩm mĩ của ông, ngôn ngữ văn
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
19 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
học của ông rất dân tộc, rất hợp với công chúng đương thời nhưng cũng sớm trở thành lạc hậu
trước sự ra đời và phát triển của nền văn học mới. Phan Bội Châu đã thể hiện những tư tưởng
mới trong các hình thức nghệ thuật cũ. Thơ văn ông còn ở tình trạng “bình cũ rượu mới”.
Không chỉ ở văn học cách mạng mà cả văn học hợp pháp, các hình thức nghệ thuật cũ
vẫn được sử dụng trong sáng tác. Đông Hồ, Tương Phố, Hoàng Ngọc Phách đã thổ lộ tình cảm
riêng tư, thầm kín của mình bằng những hình ảnh cũ kĩ, thông qua các bài thơ Đường cổ kính,
xen giữa những câu văn xuôi, những câu văn biền ngẫu. Họ đã thổi vào văn chương hợp pháp
bấy giờ một nỗi buồn mênh mông, da diết. Nó mới so với những nỗi buồn trong thơ trước đây
nhưng cũng chưa phải là nỗi buồn của các nhà thơ lãng mạn ở giai đoạn 30- 45. Chất sầu thảm
bi thương được gợi lên ở đây và sự tấn công vào thế giới bên trong của con người, trong sáng tác
của họ đã chuẩn bị cho sự ra đời của Thơ mới về sau.
2.2. Ở giai đoạn đầu thế kỉ XX, có nhiều tác giả do tiếp thu ảnh hưởng của văn học
phương Tây, từ công tác dịch thuật họ đã chuyển dần sang phỏng tác theo các tác phẩm văn học
Pháp. Họ đi đến viết tiểu thuyết, truyện ngắn, kịch. Đó là những thể loại mới- thể loại văn học
hiện đại. Họ đã từ bỏ văn chương chữ Hán, tránh dùng những điển cố, điển tích, đưa lời ăn tiếng
nói của nhân dân vào trong sáng tác văn học. Họ cố gắng vượt khỏi những ước lệ khắt khe khi
xây dựng thế giới nhân vật. Có thể nói rằng, về mặt nghệ thuật, họ đã có những đổi mới đáng
kể, mặc dù không tránh khỏi những hạn chế nhất định. Điều muốn nói ở đây là trong lớp vỏ có
phần mới mẻ ấy, họ vẫn tiếp tục thể hiện những nội dung cũ kĩ, thậm chí bị xem là lạc hậu lỗi
thời. Trong ba mươi năm đầu thế kỉ, có nhiều nhà tiểu thuyết Nam bộ, có cả những nhà viết kịch
ở Bắc bộ tiếp tục thể hiện những vấn đề đạo lí trong sáng tác của mình. Tuy nhiên, đạo lí đó có
phần nào vượt ra ngoài quan niệm của Nho giáo và tiến gần đến đạo lí bình dân của người lao
động.
Khi viết tiểu thuyết, các tác giả Nam bộ như Trần Thiên Trung (Hoàng Tố Anh hàm oan),
Nguyễn Chánh Sắt (Nghĩa hiệp kì duyên), Tân Dân Tử (Giọt máu chung tình), đặc biệt là Hồ Biểu
Chánh , đều bị chi phối bởi khuynh hướng đạo lí. Tác phẩm của Hồ Biểu Chánh sở dĩ chiếm lĩnh
được đông đảo độc giả là vì đạo lí được ông nói đến là đạo lí ở đời, đạo lí bình dân, truyền thống,
vừa tầm. Hơn nữa, vấn đề đạo lí đó lại được thể hiện trong thể loại tiểu thuyết viết bằng chữ
quốc ngữ, có cốt truyện khác hẳn tiểu thuyết cổ điển, lấy đề tài từ trong cuộc sống người lao
động. Thế giới nhân vật xuất hiện trong tác phẩm là những con người chân lấm tay bùn, chất
phác, hiền lành như Trần Văn Sửu (Cha con nghĩa nặng); có thể là những thầy thông, thầy kí
hách dịch ham tiền như thầy thông Phong (Thầy thông ngôn); cũng có thể là những tên địa chủ
gian ác, những hương chức hội tề xấu xa ở địa phương như Vĩnh Thái (Khóc thầm) hay hương
quản Sum (Cha con nghĩa nặng) Không chỉ có con người ở nông thôn mà còn bao gồm cả nhân
vật thành thị. Có thể nói rằng, thế giới nhân vật trong tiểu thuyết của ông rất đa dạng và phong
phú. Đó là một đổi mới đáng kể và cũng là một thành công lớn của Hồ Biểu Chánh.
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
20 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
Hồ Biểu Chánh đã đưa vào trong tác phẩm của mình những chi tiết đời thường và đã sử
dụng ngôn ngữ bình dân, giản dị trong sáng tác. Đó là những yếu tố chưa từng xuất hiện trong
văn chương trung đại. Mặc dù Hồ Biểu Chánh còn nhiều hạn chế trong nghệ thuật nhưng vẫn có
thể khẳng định ông là “cây bút sáng giá” của giai đọan 1912- 1932 bởi ông đã đạt được những
tiến bộ về nghệ thuật. Chính ông là người xây nền, tạo móng cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.
Tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh là sự kết hợp những yếu tố cũ (nội dung) với những đổi mới đáng
kể (nghệ thuật). Chính vì sự kết hợp này đã đáp ứng được yêu cầu đổi mới của công chúng
đương thời. Bởi vì nó chỉ là hiện tượng của thời kì chuyển tiếp cho nên chỉ sau 20 năm, nó đã trở
nên lạc hậu trước sự ra đời của tiểu thuyết Tự Lực Văn Đoàn, tiểu thuyết của dòng văn học hiện
thực phê phán 1930- 1945.
Kịch là một loại hình nghệ thuật sân khấu rất mới, có giá trị văn học, chỉ xuất hiện từ khi
có sự du nhập của nền văn hóa phương Tây. Một số tác giả tiêu biểu thời này như Vũ Đình Long,
Nam Xương đã dùng thể loại hoàn toàn mới mẻ này để phản ánh hiện thực xã hội đương thời.
Đời sống của các gia đình phong kiến bị phá sản, sự hư hỏng của con người trong xã hội tư sản,
hiện tượng lai căng mất gốc Tuy nhiên, mọi vấn đề được các ông đưa lên sân khấu để bóc trần
sự thật, để phê phán hay đả kích đều xuất phát từ lập trường đạo lí, nhằm củng cố nền luân lí cổ
truyền của dân tộc. Cho nên, chưa thể xem nội dung đó là hoàn toàn mới lạ. Khán giả đương
thời hưởng ứng nồng nhiệt bởi những vấn đề hãy còn xưa cũ ấy được thể hiện trong một hình
thức rất mới.
2.3. Sự kết hợp hai yếu tố cũ và mới trong cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật là
hiện tượng phổ biến nhất trong văn học giai đoạn đầu thế kỉ XX. “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc
Phách là một tác phẩm tiêu biểu mang nhiều yếu tố pha tạp hai giá trị truyền thống và hiện đại.
Hoàng Ngọc Phách đã để cho hai nhân vật Tố Tâm và Đạm Thuỷ giằng co giữa hai con đường:
chạy theo tình yêu tự do hay chấp nhận lễ giáo phong kiến. Đạm Thuỷ khuyên Tố Tâm đi lấy
chồng để nàng được vẹn chữ hiếu và chàng được giữ chữ tín nhưng lòng thì không muốn rời xa
Tố Tâm. Còn Tố Tâm thường khẳng định về tình yêu của mình: “Em đã yêu anh thì không thể
yêu ai được nữa, mà cũng không muốn yêu ai. Đã không yêu thì không lấy” (Tố Tâm, trang 51).
Nhưng rồi nàng cũng phải đem tình yêu mà đặt trước chữ hiếu để cân nhắc, lựa chọn. Cả hai đều
có những giấc mơ yêu đương, đầy chất lãng mạn. Họ từng nghĩ đến chuyện đem nhau đi trốn ở
một nơi “thâm sơn cùng cốc, hay góc bể chân trời nào không ai biết để cùng nhau hưởng cuộc ái
ân trăm năm” (Tố Tâm, trang 52). Thế mà cuối cùng cũng chính họ để cho “tình gia quyến”
“đánh đổ được những ảnh hưởng mới”, mà giữ họ lại. Tác phẩm “Tố Tâm” khép lại trong kết thúc
bi thảm. Tố Tâm chết, Đạm Thuỷ sống trong đau khổ, bị dằn vặt vì nỗi nhớ thương người xưa,
mặc dù tác giả đã cố tình tạo cho chàng một cơ hội mới (lập nghiệp), nhằm giúp chàng thoát
khỏi “bể sầu, núi thảm”. Nhưng hạnh phúc vẫn không thể đến được. Với “Tố Tâm”, người tuân
thủ đạo đức truyền thống đã không có hạnh phúc trong chế độ đại gia đình phong kiến, mà
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
21 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
người muốn sống hết mình cho tình yêu tự do cũng không thể đón nhận hạnh phúc trong tình
yêu. Cả đôi đường đều không thể trọn vẹn, con người bị lâm vào thế bế tắc. Nguyên nhân bắt
nguồn từ trạng thái lưỡng phân, giao thời của xã hội. Hoàng Ngọc Phách đã đem cái tôi tư sản
đặt bên cạnh lễ giáo phong kiến và ông chỉ nói đến cái tôi trong thế cạnh tranh với đạo đức
phong kiến. Trường hợp của Hoàng Ngọc Phách là trường hợp tiêu biểu và phổ biến ở giai đoạn
đầu thế kỉ XX. “Tố Tâm” là tác phẩm được sáng tác bằng phương pháp lắp ghép nghệ thuật viết
văn của nhà nho (văn biền ngẫu, văn xuôi xen kẽ với văn vần, ngôn ngữ bóng bẩy ) với nghệ
thuật sáng tác của người nghệ sĩ hiện đại (văn tiểu thuyết, kết cấu mới, kết thúc không có hậu,
khai thác yếu tố đời tư của nhân vật). Chính sự lắp ghép và pha tạp các yếu tố cũ, mới đã làm
cho “Tố Tâm” vừa thể hiện chất hiện đại nhưng vẫn mang dáng dấp truyền thống. Đó chính là
“tính giao thời” của tác phẩm.
3. Nhìn chung, văn học giai đoạn này còn rất nhiều tác phẩm, tác giả có sự kết hợp như trên,
tạo nên những giá trị văn học có tính chất trung gian giữa truyền thống và hiện đại. Truyện ngắn
của Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Hồ Biểu Chánh, thơ văn Tản Đà, Trần Tuấn Khải Người
viết chỉ nêu một số trường hợp tiêu biểu để chứng mình văn học giai đoạn đầu thế kỉ XX là dấu
nối giữa hai nền văn học cũ và mới. Dấu nối đó được tạo nên bằng sự lắp ghép, pha tạp các yếu
tố cũ và mới trong nghệ thuật lẫn nội dung.
Có thể khẳng định rằng trong lịch sử văn học Việt Nam, đây là giai đoạn duy nhất có sự
tồn tại đan xen hai nội dung văn học của nhà nho và người sáng tác mới. Các giá trị truyền
thống được đặt cạnh một số thành tựu hiện đại và luôn trong thế cạnh tranh nhau. Tính giao thời
của văn học thể hiện ở sự lắp ghép, pha tạp các yếu tố cũ và mới ở văn học trung đại và hiện
đại, phải có yếu tố xúc tác là ảnh hưởng của văn học phương Tây mới có thể tạo ra kết quả như
trên. Đối với văn học của các nước khác, tính giao thời thuộc về thế kỉ trước. Riêng ở Việt Nam,
đó là vấn đề của thế kỉ XX. Tuy nhiên, hiện tượng trung gian trong văn học chỉ xảy ra trong một
thời gian ngắn.
Văn học giai đọan 1900 - 1930 có xu hướng tiến gần đến hiện đại. Đối với người cầm bút
thời này, văn học hiện đại là khu vườn quyến rũ đầy những hoa thơm cỏ lạ. Phát hiện ra nó là
một chuyện, nhưng đến với nó là một chuyện khác. Bởi vì họ “không có đủ độ sâu và độ đúng
của lí luận, không đủ học vấn để kế thừa truyền thống và tiếp thu ảnh hưởng của văn học nước
ngoài một cách hợp lí và sáng tạo” (2, 337). Đối với các nhà văn, nhà thơ thời này, quan niệm
thẩm mĩ có thay đổi, thế giới quan và nhân sinh quan đã khác trước nhưng họ chưa được trang
bị chu đáo về mặt lí luận. Họ đã đến với văn học hiện đại trong sự nhận thức chưa được trọn vẹn
về mọi phương diện. Điều này đã làm hạn chế khả năng sáng tác của họ. Họ không thể bỏ qua
sự dung hoà truyền thống và hiện đại. Thói quen cũ và ý thức mới tạo nên những biến dạng
trong nghệ thuật sáng tác của rất nhiều tác giả thời này. Nhìn chung, trong 30 năm đầu thế kỉ
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm
22 – Tư liệu và giáo trình bồi dưỡng HS giỏi
XX, do tác động của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, các tác giả đã “lắp ghép một
cách máy móc cái truyền thống và hiện đại” khi sáng tác. Hạn chế đó mang tính tất yếu của một
giai đoạn chuyển biến trong lịch sử văn học từ phạm trù văn học trung đại sang phạm trù văn
học hiện đại.
Đặng Anh Chiến-THCS Liên Đầm