Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

chế định thẩm phán tòa án nhân dân theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.33 KB, 50 trang )

Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
Lời mở đầu
Tính cấp thiết của đề tài
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X Ban chấp hành Trung ơng
Đảng xác định một trong các đặc trng cơ bản của xã hội XHCN hiện nay đó là
Xây dựng Nhà nớc pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân dới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản [1]. Mới đây trong Nghị quyết 49-
NQ/TW thì yêu cầu xây dựng Nhà nớc pháp quyền và chủ trơng xây dựng hệ
thống các cơ quan t pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ
công lý và quyền con ngời đợc đề cập và nhấn mạnh một lần nữa.
Đối với việc thực hiện hai yêu cầu này thì việc nâng cao chất lợng hoạt
động của Thẩm phán Toà án nhân dân là một yếu tố không thể thiếu. Bởi lẽ muốn
xây dựng một Nhà nớc pháp quyền thì cần phải có một hệ thống pháp luật đủ
mạnh điều chỉnh các mối quan hệ trong xã hội. Tuy nhiên để có một hệ thống
pháp luật hoàn thiện, phát huy hiệu quả của nó thì còn cần thiết phải có một cơ
quan bảo vệ pháp luật làm việc có chất lợng và hiệu quả cao. Trong các cơ quan
bảo vệ pháp luật, Toà án có vai trò vô cùng quan trọng mà ngời giữ vị trí trung
tâm, đảm đơng phần lớn công việc của Toà chính là Thẩm phán. Có thể thấy,
Thẩm phán TAND có một vị trí đặc biệt trong việc thực hiện quyền T pháp, là ng-
ời đại diện cho Nhà nớc bảo vệ sự công bằng trong xã hội. Do đó, yêu cầu xác
định về chất lợng hoạt động của Thẩm phán TAND là một việc làm đúng đắn.
Tình hình nghiên cứu
Ngay từ khi thành lập cho tới nay, Nhà nớc ta đã chú ý tới xây dựng đội
ngũ các cơ quan t pháp. Hệ thống các văn bản điều chỉnh về chế định Thẩm phán
theo thời gian ngày càng đợc củng cố và hoàn thiện. Chính sánh của Đảng, Nhà n-
ớc và pháp luật nớc ta đã tạo điều kiện cho việc chuyển hoá đội ngũ Thẩm phán.
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
Cùng với đó, có rất nhiều các công trình khoa học nghiên cứu về các vấn đề liên
quan tới Thẩm phán TAND cụ thể nh việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán trong
giai đoạn hiện nay, chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, tính độc lập trong hoạt động xét
xử của Thẩm phán, phẩm chất nhân cách của ngời Thẩm phán


Mục đích nghiên cứu
Hiện nay, mặc dù hệ thống pháp luật quy định về chế định Thẩm phán nói
riêng và các cơ quan t pháp nói chung tơng đối đầy đủ và cụ thể song trên thực tế
còn nhiều bất cập khi thực hiện các quy định của pháp luật. Yêu cầu đặt ra hiện
tại là tìm đợc những thiếu sót của pháp luật để đề ra những biện pháp tháo gỡ
và khắc phục. Chính vì vậy, mục đích nghiên cứu cuối cùng của em khi lựa chọn
đề tài: Chế định Thẩm phán Toà án nhân dân theo quy định của pháp luật hiện
hành không nằm ngoài việc tìm hiểu các quy định của pháp luật về Thẩm phán,
chỉ ra những hạn chế của pháp luật và kiến nghị hớng hoàn thiện từ đó góp phần
nâng cao chất lợng hoạt động của Thẩm phán cho phù hợp với yêu cầu cải cách t
pháp và chiến lợc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam nói
chung trong giai đoạn hiện nay.
Phơng pháp nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn đợc thực hiện trên cơ sở vận
dụng phơng pháp luận của triết học Mác xít là phơng pháp duy vật biện chứng và
phơng pháp duy vật lịch sử để phân tích những vấn đề trong bài viết, tuân theo
quy luật logic, tổng hợp, đối chiếu giữa lý luận và thực tiễn.
Kết cấu của khoá luận
Với nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu nh trên, bố cục của bài luận văn bao
gồm 2 chơng nh sau:
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
Chơng 1: Những nội dung cơ bản của chế định Thẩm phán Toà án nhân dân theo
quy định của pháp luật hiện hành.
Chơng 2: Thực trạng và hớng hoàn thiện chế định Thẩm phán Toà án nhân dân
theo pháp luật hiện hành.
Sau đây em xin đi vào nội dung chính của luận văn.
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
Chơng 1
những nội dung cơ bản của chế định thẩm phán Toà án
nhân dân theo quy định của pháp luật hiện hành.

1.1 lịch sử hình thành và phát triển của chế định thẩm
phán Toà án nhân dân
1.1.1 Hiến pháp 1946
Sau Cách mạng tháng Tám, bộ máy Nhà nớc phong kiến bị phá tan thay
vào đó là bộ máy Nhà nớc Dân chủ nhân dân. Các Toà án thời kỳ này bao gồm:
Toà án quân sự theo sắc lệnh số 33/SL ngày 13/9/1945, Toà án đặc biệt theo sắc
lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945, Toà án binh và Toà án thờng theo sắc lệnh số
13/SL ngày 24/1/1946. Đáng chú ý hơn cả là quy định về tổ chức và hoạt động
của Toà án t pháp ( hay còn gọi là Toà án thờng).
Theo sắc lệnh 13 đã thiết lập một hệ thống Toà án gồm Toà án sơ cấp (ở
các quận, huyện, châu), Toà án đệ nhị cấp (ở các tỉnh) và Toà Thợng thẩm (ở ba
miền Bắc, Trung và Nam kỳ)[10]. Các Toà án t pháp đều trực thuộc Bộ T Pháp và
độc lập với cơ quan hành chính.
Về tổ chức ngạch thẩm phán, Thẩm phán đợc chia thành hai ngạch: ngạch
sơ cấp và ngạch đệ nhị cấp. Thẩm phán sơ cấp làm việc ở Toà sơ cấp, Thẩm phán
đệ nhị cấp làm việc ở Toà đệ nhị cấp và Toà Thợng thẩm. Các Thẩm phán đệ nhị
cấp đợc chia làm hai chức vị: Thẩm phán xử án do Chánh nhất Toà Thợng thẩm
đứng đầu và Thẩm phán buộc tội do ông Chởng lý đứng đầu. Sắc lệnh số13 cũng
quy định vào ngạch Thẩm phán phải có đủ 3 điều kiện: Có quốc tịch Việt Nam,
không phân biệt đàn ông, đàn bà; có hạnh kiểm tốt và cha can án bao giờ. Ngạch
thẩm phán sơ cấp có 5 hạng, Thẩm phán phải ít nhất 21 tuổi, có bằng tú tài và
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
phải thi trúng tuyển. Ngạch thẩm phán đệ nhị cấp có 7 hạng, tiêu chuẩn Thẩm
phán phải ít nhất 24 tuổi, có bằng Luật khoa cử nhân và trúng tuyển kỳ thi.
Thời kỳ này các Thẩm phán đệ nhị cấp do Sắc lệnh của Chủ tịch nớc bổ
nhiệm, các Thẩm phán sơ cấp do Nghị định của Bộ trởng Bộ T pháp quyết định
( Điều số 57 )
Có thể nói Sắc lệnh số 13 ra đời là văn bản đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt
trong việc quy định một cách tơng đối cụ thể về chế định Thẩm phán Toà án nhân
dân, khẳng định vai trò quan trọng của Thẩm phán trong hệ thống t pháp lúc bấy

giờ.
Ngày 9/11/1946, Hiến pháp đầu tiên của nớc ta đợc ra đời và bắt đầu đi vào
cuộc sống. Hệ thống tổ chức Toà án và ngạch thẩm phán trong Sắc lệnh 13 đợc cụ
thể hoá trong Hiến pháp. Theo Hiến pháp 1946 hệ thống Toà án đợc điều chỉnh
gồm có : Toà án tối cao, Toà án phúc thẩm, các Toà đệ nhị cấp và sơ cấp [4]. Hiến
pháp quy định các Viên thẩm phán đều do Chính phủ bổ nhiệm với nhiệm kỳ làm
việc suốt đời. Cùng với nguyên tắc độc lập, các Thẩm phán chỉ trọng pháp luật và
công lý. Cách thức tổ chức Toà án nh vậy đã đáp ứng đợc nhu cầu cấp bách của
nhân dân lao động trong việc bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng đã giành đ-
ợc.
Tháng 5 năm 1950 cuộc cải cách t pháp đầu tiên cùng sự ra đời của sắc
lệnh 85/SL ngày 25/5/1950 đã thay đổi hoàn toàn tên gọi của các Toà án [11].
Theo đó, các Toà án sơ cấp, Đệ nhị cấp, Thợng thẩm thành Toà án nhân dân
huyện, Toà án nhân dân tỉnh và Toà án nhân dân liên khu. Chế độ bổ nhiệm Thẩm
phán suốt đời vẫn đợc quy định tại Hiến pháp 1946 mà không có sự thay đổi nào.
Tiểu kết: Mặc dù hiến pháp 1946 và một số văn bản pháp luật giai đoạn này cha
thực sự đầy đủ và phù hợp nhng hệ thống văn bản đó đã trở thành cơ sở cho sự
phát triển sau này của chế định Thẩm phán Toà án nhân dân.
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
1.1.2. Hiến pháp 1959
Mô hình tổ chức và hoạt động của Toà án nớc ta thời kỳ 1945-1946 bị ảnh
hởng nhiều bởi mô hình tổ chức Toà án Cộng hoà Pháp. Trên thực tế mô hình này
vẫn còn nhiều bất cập, cha phù hợp với điều kiện hoàn cảnh nớc ta. Cụ thể nh
Thẩm phán phải làm quá nhiều công việc từ điều tra tới xét xử dẫn tới án oan rất
nhiều. Hiến pháp 1959 ra đời quy định hệ thống Toà án gồm có Toà án nhân dân
tối cao, các Toà án địa phơng và Toà án quân sự các cấp . Khi cần xét xử các vụ
án đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Toà án đặc biệt. Các Toà án
thực hiện hai cấp xét xử. Cũng do hoàn cảnh lúc bấy giờ mà Luật tổ chức Toà án
nhân dân năm 1960 đã ghi nhận trờng hợp Toà án nhân dân ở các khu tự trị [5]. ở
các khu tự trị này tổ chức Toà án nhân dân ở địa phơng sẽ do Hội đồng nhân dân

khu vực tự trị quy định nhng về cơ bản vẫn tuân theo Hiến pháp và pháp luật của
Nhà nớc. Thời gian này Bộ T Pháp giải thể nên chức năng của Bộ đợc giao cho
Toà án nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ.
Giai đoạn này còn có sự thay đổi cách tuyển chọn Thẩm phán so với giai
đoạn trớc, đó là sự thay thế phơng thức bổ nhiệm sang phơng thức bầu Thẩm
phán( điều 98 Hiến pháp 1959 và điều 5 Luật tổ chức Toà án nhân dân), theo đó:
+ Chánh án TAND tối cao do Quốc hội bầu và bãi miễn; phó Chánh án,
Thẩm phán, Thẩm phán dự khuyết và Uỷ viên uỷ ban thẩm phán TAND tối cao
do UBTVQH bổ nhiệm, bãi miễn theo đề nghị của Chủ tịch UBTVQH
+ Chánh án, phó Chánh án, Thẩm phán và Uỷ viên uỷ ban thẩm phán
TAND cấp tỉnh do HĐND cùng cấp bầu ra và bãi miễn
+ Chánh án, phó Chánh án, Thẩm phán TAND huyện do HĐND cùng cấp
bầu và bãi miễn.
Luật tổ chức quy định về điều kiện để đợc bầu làm Thẩm phán đó là: Công
dân có quyền bầu cử và ứng cử, từ 23 tuổi trở lên, có lập trờng cách mạng vững
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
vàng và nắm vững chính sách của Đảng, Nhà nớc, có tinh thần công tác và t tởng
đạo đức tốt, có quan hệ với quần chúng nhân dân.
Tiểu kết: Trong công cuộc cải tạo Xã hội chủ nghĩa, xây dựng Chủ nghĩa xã hội
ở hai miền Nam Bắc, việc giữ vững chế độ, bảo vệ thành quả cách mạng đợc Nhà
nớc quan tâm và coi trọng. Về tổ chức và hoạt động của hệ thống Toà án và sự
thay đổi cách thức tuyển bổ Thẩm phán trong Hiến pháp 1959 là hoàn toàn phù
hợp với nhiệm vụ cách mạng mà Nhà nớc ta đang thực hiện, đáp ứng cơ bản đợc
nguyện vọng và tính dân chủ cho nhân dân lao động cùng tham gia vào công cuộc
này.
1.1.3. Hiến pháp 1980
Từ những năm 80 nớc ta bớc vào thời kỳ mới, thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa
xã hội trong phạm vi toàn quốc. Bộ t pháp đợc thành lập lại và Luật tổ chức Toà
án nhân dân đã giao việc quản lý Toà án nhân dân địa phơng về mặt tổ chức cho
Bộ trởng Bộ t pháp. Các quy định của pháp luật về Thẩm phán tuân theo Luật tổ

chức Toà án nhân dân năm 1981(ngày 3/7/1981). ở giai đoạn này các quy định đ-
ợc kế thừa ở giai đoạn trớc tuy nhiên có một số thay đổi.
Về cơ cấu tổ chức hệ thống Toà án theo Hiến pháp 1980 và Luật tổ chức
TAND 1981 cơ bản không khác biệt nhiều. Lúc này chúng ta bỏ một cấp hành
chính, Toà án nhân dân địa phơng không còn Toà án khu vực tự trị nữa. Trong
Toà án tối cao không còn chức danh Thẩm phán dự khuyết .
Tiếp tục phát triển Hiến pháp 1959, chế độ bầu Thẩm phán đợc duy trì tại
Hiến pháp 1980. Đối với các Chánh án, phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân
dân cấp tỉnh và cấp huyện thì phải do HĐND cùng cấp bầu theo sự giới thiệu của
chủ toạ kỳ họp Hội đồng nhân dân. Đối với TAND tối cao thì Chánh án do Quốc
hội bầu trong số các đại biểu Quốc hội, theo sự giới thiệu của chủ tịch Hội đồng
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
nhà nớc và các trởng đoàn đại biểu Quốc hội sau khi hỏi ý kiến các đoàn đại biểu
[4].
Về nhiệm kỳ của Thẩm phán cũng có sự thay đổi nhất định. Nhiệm kỳ của
Chánh án, phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ
của cơ quan bầu ra mình. Nhiệm kỳ của Thẩm phán Toà án quân sự các cấp theo
nhiệm kỳ của Hội đồng nhà nớc.
Tiếp đó Luật tổ chức Toà án nhân dân 1981 cũng quy định tiêu chuẩn
chung để đợc bầu làm Thẩm phán đó là : Công dân Việt Nam trung thành với tổ
quốc và Chủ nghĩa xã hội, có kiến thức pháp lý cần thiết, có tinh thần kiên quyết
bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa thì có thể đợc bầu làm Thẩm phán Toà án nhân
dân [5].
Tiểu kết: Giai đoạn này nhà nớc ta đang bớc vào thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội, có thể thấy rằng về tổ chức hệ thống Toà án thời kỳ này là tơng đối phù hợp .
Tuy nhiên những tồn tại vẫn còn, chủ yếu là về chất lợng xét xử của Thẩm phán,
các vụ án đợc giải quyết không nhiều, nội dung quản lý Thẩm phán cha thống
nhất và tập trung do đó vẫn còn những khúc mắc cần phải tháo gỡ trong thời gian
tiếp theo.
1.1.4. Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung

Năm 1986, Đảng và nhà nớc ta thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất
nớc. Trên cơ sở kế thừa những yếu tố hợp lý về tổ chức và hoạt động của Toà án
qua các bản hiến pháp. Hiến pháp 1992 ra đời đã quy định về cách thức tổ chức
và hoạt động của Toà án nhân dân phù hợp hơn với tình hình mới
Việc thực hiện chế độ bầu cử mặc dù mang tính dân chủ cao nhng nó cũng
bộc lộ những hạn chế cụ thể nh: việc bầu Thẩm phán mang tính hình thức, không
đảm bảo quy trình bầu cử; trình độ, năng lực cán bộ còn yếu, việc bầu Thẩm phán
mang nặng tính địa phơng. Chính vì vậy điểm đổi mới đầu tiên trong hiến pháp
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
1992 là sự thay thế chế định bầu Thẩm phán trong giai đoạn trớc bằng chế định
bổ nhiệm Thẩm phán làm việc theo nhiệm kỳ 5 năm. Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm nhân dân ngày 14/5/1993 quy định:
Chủ tịch nớc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao trên cơ sở đề
nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao do Chánh án
Toà án nhân dân tối cao làm Chủ tịch Hội đồng. Chủ tịch nớc bổ nhiệm Thẩm
phán Toà án nhân dân tỉnh, Thẩm phán Toà án quân sự cấp quân khu và khu vực
theo đề nghị của Hội đồng tuyển chọn thẩm phán Toà án nhân dân tỉnh, Thẩm
phán Toà án quân sự và khu vực do Bộ trởng Bộ T pháp làm Chủ tịnh Hội đồng.
Chủ tịch nớc bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân huyện theo đề nghị của Bộ tr-
ởng Bộ T pháp sau khi thống nhất ý kiến với Chánh án Toà án nhân dân tối cao
trên cơ sở đề nghị của Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân huyện
do giám đốc Sở T pháp làm Chủ tịch Hội đồng [7].
Giai đoan này chúng ta ghi nhận những thành quả quan trọng mà Hiến
pháp 1992 mang lại cho hệ thống t pháp. Nhận thức đợc vị trí và vai trò, tính chất
lao động đặc thù của Thẩm phán Toà án nhân dân mà nhà nớc ta đã có các chính
sách, chế độ dành riêng cho họ. Các quy định của pháp luật trong Hiến pháp 1992
đã tạo điều kiện cho việc xây dựng đội ngũ Thẩm phán theo yêu cầu của mục tiêu
chuẩn hoá cán bộ t pháp, kịp thời đáp ứng công cuộc cải cách t pháp cùng với
công cuộc cải cách kinh tế xã hội chung của đất nớc
Ngày 25/12/2001, Quốc hội ra Nghị quyết số 51/2001/QH10 về việc sửa

đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 và thông qua Luật tổ chức Toà án
nhân dân năm 2002 thay thế Luật tổ chức Toà án nhân dân năm 1992. UBTVQH
thông qua Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 2002 thay thế Pháp lệnh
Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 1992. Chế độ bổ nhiệm Thẩm phán đợc kế
thừa. Trong hệ thống Toà án còn đợc thành lập thêm các Toà án khác nh Toà kinh
tế, Toà Lao động, Toà hành chính (thuộc Toà án nhân dân tối cao) ngoài Toà hình
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
sự và Toà dân sự đã có từ trớc. Việc quản lý các Toà án nhân dân địa phơng về
mặt tổ chức đã giao hẳn cho Toà án nhân dân tối cao, không còn tình trạng vớng
mắc trong việc thống nhất thực hiện giữa Bộ trởng Bộ T pháp và Chánh án Toà án
nhân dân tối cao nữa.
Tiểu kết: Lần đầu tiên trong lịch sử công tác quản lý, tổ chức cán bộ ngành Toà
án có sự thay đổi căn bản và rõ nét, tạo điều kiện cho việc xây dựng một đội ngũ
cán bộ tập trung có sự chỉ đạo sát sao, nâng cao hơn nữa chất lợng xét xử của
Thẩm phán nói riêng và của ngành Toà án nói chung trong giai đoạn hội nhập và
phát triển. Chế định Thẩm phán Toà án nhân dân tiếp tục đợc phát triển với những
sự thay đổi hợp lý hơn trớc. Sau đây em sẽ đi vào nội dung cơ bản của chế định
này.
1.2. Nội dung cơ bản của chế định thẩm phán Toà án nhân
dân theo quy định của pháp luật hiện hành
1.2.1. Thẩm phán, vị trí, vai trò của ngời Thẩm phán
Về khái niệm Thẩm phán
Đội ngũ thẩm phán ra đời khá muộn mặc dù nhiệm vụ xét xử đã có từ rất
lâu và không thể thiếu trong bộ máy Nhà nớc. Dới chế độ Chiếm hữu nô lệ, Nhà
vua là ngời đại diện cho pháp luật, đồng thời có quyền xét xử . Khi mà quyền lực
Nhà nớc đợc chia thành 3 quyền lập pháp, hành pháp và t pháp độc lập nhau,
kiềm chế đối trọng nhau thì cũng đồng nghĩa với sự tách biệt của Toà án ra khỏi
quyền hành pháp và lập pháp. Từ đó một đội ngũ chuyên làm nhiệm vụ xét xử-
Thẩm phán ra đời. Cho tới ngày nay Thẩm phán đã tham gia xét xử vào tất cả các
lĩnh vực của đời sống, đáp ứng đợc nhu cầu phát triển của nền kinh tế, xã hội.

Đến nay một hệ thống các văn bản pháp luật, từ điển luật học đã làm sáng
tỏ đợc rất nhiều khái niệm Thẩm phán, nhiệm vụ, vị trí và vai trò của họ.
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
Theo từ điển Luật học và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm
2002 có định nghĩa: Thẩm phán là ngời đựơc bổ nhiệm theo quy định của pháp
luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc
thẩm quyền của Toà án [23,tr 701]. Nh vậy Thẩm phán là một chức danh t pháp,
chỉ ngời làm việc trong Toà án, nhân danh Nhà nớc tham gia vào các hoạt động
xét xử.
Hoạt động xét xử là một hoạt động nghề nghiệp đặc thù so với các nghề
nghiệp khác ở chỗ hoạt động xét xử của Thẩm phán đòi hỏi một trình độ chuyên
môn cao trong các lĩnh vực pháp luật, chính trị và xã hội. Hầu hết họ phải có kiến
thức uyên thâm trên mọi lĩnh vực bởi lẽ họ là ngời đại diện cho nền công lý, cho
lẽ phải cho công bằng của toàn xã hội. Vậy hoạt động xét xử là nghề nghiệp của
Thẩm phán có đặc trng nh thế nào?
Thứ nhất: Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật
Tính đặc thù trong áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ, Thẩm phán với vai trò
là ngời đa ra phán quyết dựa trên những chứng cứ khách quan, thực tế, không
định kiến với mục đích duy nhất là bảo vệ công lý. Tất cả mọi t vấn tranh luận tại
phiên Toà phải đảm bảo sự bình đẳng cho các bên trong vụ án. Mọi hành vi ép
buộc làm ảnh hởng tới sự khách quan đối với phán quyết của Thẩm phán đều trái
với mục đích áp dụng pháp luật. Đặc thù này khẳng định Thẩm phán phải là ngời
hết sức vô t, tôn trọng bằng chứng, xem xét đứng đắn các bằng chứng thực tế mà
mỗi bên đơng sự đa ra trong quá trình giải quyết vụ án của mình
Thứ hai: Hoạt động xét xử chính là một cuộc đấu tranh tìm ra sự thực khách
quan, hoạt động này chịu sự giám sát nghiêm ngặt của các cơ quan, tổ chức và
cá nhân.
Trong quá trình xử lý vụ án, Thẩm phán phải sử dụng năng lực và toàn bộ
kiến thức cần thiết nhằm giải quyết đúng đắn vụ án trên cơ sở bằng chứng thực tế.
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến

Đây là cả một quá trình tố tụng phức tạp đòi hỏi ngay từ đầu ngời Thẩm phán
phải thực sự toàn tâm toàn lực. Họ phải rất khéo léo và nhạy bén tại phiên toà,
giai đoạn tố tụng cuối cùng rất quan trọng.
Để không bị cám dỗ trên con đờng tìm kiếm lẽ phải, cuộc đấu tranh tinh
thần của ngời Thẩm phán đòi hỏi họ phải luôn kiên quyết, vững vàng ý chí.
Mục tiêu cuối cùng mà ngời Thẩm phán phải đạt đợc và cũng là mục đích
mà toàn bộ nhân dân hớng tới sau một vụ án đó là một phán quyết thấu tình đạt
lý, đảm bảo tính đúng đắn của bản án, không bỏ lọt kẻ phạm tội. Phán quyết đó
còn mang tính giáo dục ý thức pháp luật trong toàn bộ dân chúng. Chính vì thế
hoạt động xét xử của Thẩm phán đợc toàn xã hội giám sát. Nguyên tắc Toà án xét
xử công khai, khi xét xử có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân chính là sự giám
sát ở bên trong phiên toà. Khi xét xử Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm
phán, cùng Thẩm phán đa ra quyết định đúng pháp luật.
Thứ ba: Hoạt động này đòi hỏi một con ngời toàn diện, bản lĩnh vững vàng,
phẩm chất đạo đức trong sáng, vô t khách quan
Đây không những là đặc thù nghề nghiệp Thẩm phán mà còn là các tiêu
chuẩn mà pháp luật đặt ra đối với ngời Thẩm phán hiện nay. Chỉ có thể có kiến
thức rộng rãi trên nhiều lĩnh vực, luôn đấu tranh cho công bằng vô t, một tâm hồn
trong sáng và một bản lĩnh vững vàng thì nghề Thẩm phán và ngời Thẩm phán
mới tạo dựng đợc sự tin tởng và tôn kính. Bởi lẽ cần thiết có một chuẩn mực lý t-
ởng đợc xã hội thừa nhận, nắm giữ cán cân công lý để điều chỉnh xã hội đi đúng
hớng của nó. Ngời Thẩm phán phải bênh vực cho ngời bị hại, không thiên vị hay
dao động ý chí trớc bất kỳ sự việc nào. Tất cả những yêu cầu trên sẽ góp phần tạo
dựng nên hình ảnh một nghề biểu tợng cho sự khát khao công lý.
Thứ t: Hoạt động xét xử của Thẩm phán tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ
do pháp luật quy định
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
Phán quyết của Thẩm phán có liên quan trực tiếp tới quyền lợi và nghĩa vụ
của cá nhân, tổ chức có liên quan. Để bảo đảm phán quyết đó thấu tình đạt lý thì
hoạt động xét xử phải tuân theo một trình tự tố tụng chặt chẽ là điều dễ hiểu. Việc

quy định nh vậy tránh sự tuỳ tiện lạm quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức. Vi phạm các quy định của pháp luật tố tụng, bản án dù có
hiệu lực pháp luật cũng sẽ đợc Toà án cấp trên xem xét lại theo thủ tục giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm.
Vị trí, vai trò của ngời Thẩm phán
Thứ nhất: Vị trí, vai trò của ngời Thẩm phán trong quan hệ với Toà án, những
ngời tham gia tố tụng và những ngời tiến hành tố tụng
Thẩm phán và Toà án có mối liên hệ qua lại, gắn bó mật thiết với nhau.
Mối quan hệ này thể hiện rõ nhất là Thẩm phán Toà án cấp dới quan hệ với Toà
án cấp trên theo thủ tục tố tụng quy định. Mối quan hệ này hoàn toàn độc lập với
nhau. Toà án cấp dới không chịu sự điều hành của Toà án cấp trên. Toà án cấp
trên chỉ làm nhiệm vụ hớng dẫn việc áp dụng thống nhất pháp luật cho Toà án cấp
dới mà thôi.
Trong tổ chức và hoạt động của Toà án không thể không nói tới mối quan
hệ giữa Thẩm phán và Chánh án. Pháp luật quy định Thẩm phán làm việc theo sự
phân công của Chánh án là Thủ trởng cơ quan nơi Thẩm phán làm việc.
Trong Hội đồng xét xử, Hội thẩm tham gia với t cách đại diện cho quần
chúng nhân dân tham gia vào quá trình xét xử. Trong khi xét xử Hội thẩm ngang
quyền với Thẩm phán. Cả Hội thẩm nhân dân và Thẩm phán phải cùng nhau xem
xét tính đúng đắn của vụ án. Chính vì vậy pháp luật cũng đặt ra những yêu cầu
cần thiết cho Hội thẩm nhân dân về cả trình độ và kinh nghiệm
Để Thẩm phán hoàn thành tốt nhiệm vụ, Th ký phiên toà với t cách là cán
bộ Toà án tham gia vào phiên xét xử tiến hành lập biên bản tại phiên Toà. Trớc
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
khi bắt đầu phiên toà Th ký kiểm tra danh sách ngời đợc triệu tập tới Toà. Trách
nhiệm của Th ký là giúp việc cho Thẩm phán.
Trong một vụ án Điều tra viên là ngời đầu tiên tiến hành các hoạt động
nghiệp vụ điều tra các tình tiết có liên quan tới vụ án. Khi đợc phân công Điều tra
viên chịu trách nhiệm về hoạt động điều tra của mình, kết quả đó đợc đa tới Viện
Kiểm sát tiến hành truy tố. Bản cáo trạng của Viện Kiểm sát sẽ đợc đọc tại phiên

Toà. Nh vậy Thẩm phán xét xử phải dựa trên kết quả điều tra của Điều tra viên và
bản cáo trạng của đại diện Viện Kiểm sát. Thẩm phán lập hồ sơ xét xử theo đúng
quy định của pháp luật
Xét mối quan hệ giữa Thẩm phán và những ngời tham gia tố tụng thì Thẩm
phán giữ vị trí trung tâm theo đó Thẩm phán không thiên vị đối với bất kỳ ai, đối
xử bình đẳng với họ, tạo điều kiện cho họ đợc thực hiện các quyền công dân của
mình. Thẩm phán phải nắm chắc quan điểm một ngời chỉ đợc coi là có tội khi có
bản án kết tội của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Thứ hai: Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động xét xử
Hoạt động của Toà án nhân dân rất phong phú, đa dạng bao gồm các hoạt
động nh giải thích pháp luật, hớng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, trình dự án
luật nhng hoạt động xét xử là một chức năng đặc thù của Toà án, thể hiện tính
quyền lực Nhà nớc. Đồng thời xét xử là chức năng chuyên biệt của Thẩm phán, là
nghề thẩm phán.
Thông qua các hoạt động xét xử, Thẩm phán góp phần to lớn vào việc bảo
vệ trị an xã hội, trừng trị nghiêm khắc kịp thời và hiệu quả mọi hành vi nguy hiểm
cho xã hội. Thẩm phán là ngời cầm cân nảy mực, minh oan và bảo vệ chính
nghĩa, qua hoạt động xét cử còn thể hiện uy tín của ngời Thẩm phán và chất lợng
hoạt động của Toà. Để thực hiện tốt chức năng xét xử này, pháp luật quy định các
quyền hạn và nghĩa vụ cụ thể cho Thẩm phán Toà án nhân dân
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
1.2.2. Quyền hạn và nghĩa vụ của ngời Thẩm phán
ở Việt Nam tất cả các Thẩm phán đều có quy chế pháp lý chung giống
nhau nhng khác nhau về chức năng và thẩm quyền. Chức năng và thẩm quyền của
Thẩm phán khác nhau phụ thuộc vào cơ quan Toà án mà Thẩm phán làm việc.
Theo quy định tại Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 khi thực
hiện chức năng nhiệm vụ của mình, Thẩm phán có những chức năng nhiệm vụ nh
sau:
Thẩm phán làm việc theo sự phân công của Chánh án ( điều 11 Pháp lệnh)
Thẩm phán có quyền yêu cầu, cơ quan tổ chức cá nhân thi hành những quy định

có liên quan đến việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác theo quy định của
pháp luật (điều 12 Pháp lệnh)
Thẩm phán đợc hởng lơng, phụ cấp và các quyền lợi khác theo quy định của Nhà
nớc( điều 17 Pháp lệnh)
Thẩm phán đợc cấp trang phục, giấy chứng minh th thẩm phán để làm nhiệm vụ
(điều18 Pháp lệnh)
Thẩm phán đợc bồi dỡng nghiệp vụ công tác xét xử (điều 9 Pháp lệnh).
Ngoài những nhiệm vụ trên, thẩm phán còn có những nghĩa vụ sau:
+Chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật
+Thẩm phán phải chịu trách nhiệm trớc pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình, nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất, mức
độ sai phạm và hậu quả mà bị xử lý kỷ luật hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự
( điều 6 Pháp lệnh )
+Thẩm phán khi thực hiện nhiệm vụ phải giữ bí mật công tác. (điều 7 Pháp
lệnh )
1.2.3. Tiêu chuẩn và nguồn Thẩm phán
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
Tiêu chuẩn Thẩm phán
Giống ở nhiều nớc trên thế giới, điều 37 Luật tổ chức Toà án nhân dân quy
định về tiêu chuẩn chung của Thẩm phán TAND và đợc cụ thể hoá trong điều 5
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002. Nhằm đảm bảo cho hoạt
động xét xử đợc diễn ra độc lập, tiêu chuẩn cho một chức danh t pháp là điều cần
thiết, pháp luật quy định: Công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến
pháp nớc Cộng hoà xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm
khiết và trung thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, có
trình độ cử nhân Luật và đã đợc đào tạo về nghiệp vụ xét xử; có thời gian công tác
thực tiễn, có năng lực làm công tác xét xử theo quy định của pháp luật, có sức
khoẻ đảm bảo hoàn thành công việc đợc giao thì có thể đợc tuyển chọn và bổ
nhiệm làm Thẩm phán.
Các tiêu chí và điều kiện nói trên có thể thấy rằng tơng đối khắt khe so với

điều kiện đối với đội ngũ công chức khác. Ngoài các tiêu chuẩn chung thì mỗi
cấp Toà án có tiêu chuẩn Thẩm phán khác nhau, cụ thể nh sau:
Thứ nhất: Tiêu chuẩn Thẩm phán TAND cấp huyện
Ngời có đủ tiêu chuẩn chung làm Thẩm phán; có thời gian làm công tác
pháp luật từ 4 năm trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những
việc khác thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân cấp huyện; Toà án quân sự khu
vực thì có thể đợc tuyển dụng và bổ nhiệm làm Thẩm phán TAND cấp huyện; nếu
ngời đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể đợc tuyển chọn và bổ nhiệm làm
Thẩm phán TAQS khu vực.
Thứ hai :Tiêu chuẩn Thẩm phán TAND cấp tỉnh.
Ngời có đủ tiêu chuẩn chung của Thẩm phán và đã là Thẩm phán TAND
cấp huyện, Thẩm phán TAQS ít nhất là 5 năm, có năng lực xét xử những vụ án và
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh, Toà án quân sự
quân khu, có thể đợc tuyển chọn, bổ nhiệm làm Thẩm phán TAQS quân khu.
Trong trờng hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Toà án, ngời có đủ tiêu
chuẩn chung của Thẩm phán và đã có thời gian công tác pháp luật từ 10 năm trở
lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm
quyền của TAND cấp tỉnh; nếu ngời đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có thể đợc
tuyển chon, bổ nhiệm làm Thẩm phán TAQS cấp quân khu
Thứ ba: Tiêu chuẩn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Ngời có đủ tiêu chuẩn chung cua Thẩm phán và đã là Thẩm phán Toà án
nhân dân cấp tỉnh, Thẩm phán Toà án quân sự quân khu ít nhất là 5 năm, có năng
lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án nhân dân tối cao, Toà án quân sự trung ơng, thì có thể đợc tuyển
chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao. Nếu ngời đó là sĩ
quan quân đội tại ngũ thì có thể đợc tuyển chọn , bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà
án quân sự trung ơng.
Trong trờng hợp do nhu cầu cán bộ của ngành Toà án nhân dân, ngời có đủ
tiêu chuẩn chung của Thẩm phán và đã có thời gian công tác pháp luật từ 15 năm

trở lên, có năng lực xét xử những vụ án và giải quyết những việc khác thuộc thẩm
quyền của Toà án nhân dân tối cao; Nếu ngời đó là sĩ quan quân đội tại ngũ thì có
thể đợc tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán Toà án quân sự trung ơng.
Nguồn thẩm phán
Nguồn thẩm phán đợc coi là cơ sở đầu tiên có ý nghĩa quyết định tới chất l-
ợng xét xử của Thẩm phán và chất lợng hoạt động của toàn ngành Toà án. Khác
với một số nớc nh Liên bang úc, nguồn bổ nhiệm Thẩm phán chủ yếu đợc lấy từ
đội ngũ Luật s và Trạng s. Một số khác Thẩm phán còn đợc bổ nhiệm từ sinh viên
đã tốt nghiệp cử nhân Luật, từ Thanh tra viên hay từ các cơ quan t pháp. Nớc ta
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
quy định nguồn tuyển chọn là cử nhân Luật và nguồn bổ nhiệm chủ yếu trong
phạm vi toàn ngành.
1.2.4. Tuyển chọn, bổ nhiệm, miễn nhiệm và cách chức Thẩm phán
Ngay từ đầu việc tuyển chọn Thẩm phán đã đợc đặt ra nhằm xác định rõ
các điều kiện cụ thể cho Thẩm phán TAND của từng cấp và đã trở thành một chế
độ riêng.
ở nớc ta trải qua 4 bản Hiến pháp đã có nhiều sự thay đổi về chế độ tuyển
chọn Thẩm phán. Theo pháp luật hiện hành, Chủ tịch nớc bổ nhiệm Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao và Thẩm phán Toà án quân sự trung ơng, còn Chánh án
Toà án nhân dân tối cao bổ nhiệm Thẩm phán các cấp còn lại. Việc giao thẩm
quyền bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao cho Chủ tịch nớc là thể hiện
vai trò to lớn của nguyên thủ quốc gia. Nh ở Mĩ, có sự khác nhau về tuyển chọn,
bổ nhiệm Thẩm phán trong pháp luật liên bang và pháp luật của từng bang. Thẩm
phán Toà án liên bang do Tổng thống đề cử và Thợng nghị viện phê chuẩn, sau đó
Tổng thống ra quyết định bổ nhiệm. Còn ở từng bang, có bang thực hiện chế độ
bổ nhiệm, có bang thực hiện chế độ bầu cử. ở Nhật Bản, Thẩm phán các cấp đều
do Chánh án đề cử, Chính phủ bổ nhiệm, Nhật hoàng phê chuẩn.
Về thủ tục, trình tự bổ nhiệm Thẩm phán thì theo quy định tại Thông t liên
tịch số 01/2003/TTLT-TANDTC-BQP-BNV-UBTWMTTQVN ngày 01/04/2003
hớng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân

dân thì Chánh án TAND cấp tỉnh có trách nhiệm chuẩn bị nhân sự, hồ sơ đối với
ngời đợc đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm phán TAND cấp tỉnh, Thẩm
phán TAND cấp huyện; Chánh án TAQS trung ơng có trách nhiệm chuẩn bị nhân
sự, chuẩn bị hồ sơ đối với ngời đợc đề nghị tuyển chọn và bổ nhiệm làm Thẩm
phán TAQS cấp quân khu (và tơng đơng), Thẩm phán TAQS khu vực.
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
Hồ sơ của ngời lần đầu đợc tuyển chọn làm Thẩm phán bao gồm các loại
giấy tờ: Đơn xin tình nguyện làm Thẩm phán; sơ yếu lý lịch có xác nhận của cơ
quan quản lý cán bộ; bản kê khai tài sản; các bản sao bằng tốt nghiệp Đại học
Luật, chứng chỉ về đạo tạo nghiệp vụ xét xử, các văn bằng chứng chỉ về trình độ
lý luận chính trị và các văn bằng, chứng chỉ khác có liên quan tới việc bổ nhiệm
Thẩm phán; bản tự kiểm điểm cá nhân; bản nhận xét của Thủ tởng cơ quan đơn
vị; biên bản kiểm phiếu lấy ý kiến của cơ quan đơn vị; biên bản xác minh lấy ý
kiến và văn bản đề nghị của Chánh án TAND cấp tỉnh, TAQS trung ơng.
Đối với ngời đợc bổ nhiệm lại, ngoài các giấy tờ nêu trên thì còn cần bổ
sung sơ yếu lý lịch kể từ ngày đợc bổ nhiệm làm Thẩm phán nhiệm kỳ trớc, bản
kê khai tài sản từ ngày đợc bổ nhiệm làm Thẩm phán nhiệm kỳ vừa qua.
Hiến pháp 1992 tiếp tục kế thừa phơng thức tuyển chọn Thẩm phán, mỗi
cấp Toà án đều có một Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán riêng vì vậy theo quy
định hiện nay của pháp luật thì có các Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán sau: Hội
đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao, Thẩm phán Toà án quân sự
trung ơng; Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án nhân dân cấp tỉnh, Thẩm
phán Toà án nhân dân cấp huyện; Hội đồng tuyển chọn Thẩm phán Toà án quân
sự quân khu, Thẩm phán Toà án quân sự khu vực. Thành phần của Hội đồng
tuyển chọn gồm một đại diện của cơ quan T pháp, một đại diện của cơ quan Quốc
phòng, một đại diện của Hội luật gia, một đại diện của Mặt trận tổ quốc, một đại
diện của cơ quan Nội vụ, một đại điện của Chính quyền địa phơng( với cấp tỉnh
hoặc cấp huyện).
Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội đồng tuyển chọn là tuyển chọn ngời có đủ
tiêu chuẩn làm Thẩm phán Toà án nhân dân theo đề nghị của ngời có thẩm quyền

trình Chủ tịch nớc bổ nhiệm, xem xét các trờng hợp Thẩm phán Toà án nhân dân
đợc miễn nhiệm, bị cách chức theo đề nghị của ngời có thẩm quyền để trình ngời
có thẩm quyền miễn nhiệm hoặc cách chức.
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
Trong trờng hợp Thẩm phán do sức khoẻ, hoàn cảnh gia đình hay vì lý do
khác mà không thể hoàn thành nhiệm vụ đợc giao hoặc Thẩm phán có các hành vi
vi phạm pháp luật về công tác xét xử, giải quyết những việc thuộc thẩm quyền
giải quyết của Thẩm phán, vi phạm nhng quy định mà Thẩm phán không đợc làm
thì Thẩm phán đó bị miễn nhiệm hoặc cách chức theo quy định của pháp luật.
1.2.5. Tiền lơng và các chế độ phụ cấp cho Thẩm phán
Tiền lơng là khoản tiền quan trọng nhất của Nhà nớc đối với ngời lao động
nói chung và Thẩm phán nói riêng. Với quan điểm tiền lơng là giá cả sức lao
động, là động lực thúc đẩy, nâng cao chất lợng sản xuất, lao động, ở nớc ta, tiền l-
ơng cho Thẩm phán ngày càng đợc quan tâm thích đáng. Những năm gần đây,
Nhà nớc ta có những cuộc cải cách chế độ tiền lơng rất đợc chú ý. Tiền lơng của
Thẩm phán không nằm ngoài cuộc cải cách đó. Tuy nhiên cho tới nay tiền lơng và
các chế độ cho Thẩm phán vẫn còn là một vấn đề có nhiều kiến nghị
ở một số nớc nh Mỹ, tiền lơng bình quân hàng năm của Thẩm phán Toà án
cấp quận trở lên là 162.000$ hay ở Nhật Bản lơng của Thẩm phán bằng 1,7 lần so
với lơng của ngạch công chức khác.
Muốn thẩm phán hoàn thành tốt nhiệm vụ đặc biệt của họ, cần thiết phải
quy định một chế độ tiền lơng hợp lý dành cho Thẩm phán để họ yên tâm làm
việc, điều này sẽ làm giảm bớt đi tình trạng quan liêu và tham nhũng vốn đã là tệ
nạn từ trớc cho tới nay.
Ngoài tiền lơng, Thẩm phán Toà án nhân dân còn đợc pháp luật dành cho
các chế độ phụ cấp nhất định, cụ thể là:
Thứ nhất: Chế độ phụ cấp trách nhiệm
Trớc đây Quỹ dỡng liêm cũng đợc hình thành với mục đích là thởng cho
những ngời Thẩm phán hoàn thành tốt nhiệm vụ đợc giao. Ngày nay một số ngời
vẫn gọi chế độ phụ cấp trách nhiệm là Quỹ dỡng liêm. Đây là chế độ dành cho

Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
một số chức danh t pháp trong đó có Thẩm phán xuất phát từ yêu cầu đặc thù của
nghề Thẩm phán. Yêu cầu đặt ra đối với Thẩm phán là không ngừng nâng cao
tinh thần trách nhiệm, nâng cao trình độ năng lực xét xử, đảm bảo cho hoạt động
xét xử diễn ra một cách công minh và đúng đắn. Chính vì thế cần có một chế độ
dành cho Thẩm phán gọi là chế độ phụ cấp trách nhiệm.
Thứ hai: Chế độ bồi dỡng phiên toà
So với các chức danh khác thì Thẩm phán có vai trò quan trọng trong quá
trình xét xử. Thẩm phán phải có khả năng điều khiển phiên toà, ra quyết định, xét
hỏi thẩm vấn bị can tại phiên Toà Tất cả đòi hỏi Thẩm phán phải có một kinh
nghiệm xét xử phong phú. Vì thế khi tiến hành tố tụng tại phiên toà pháp luật
dành cho Thẩm phán một khoản trợ cấp bồi dỡng bù đắp phần nào trí và lực mà
họ đã bỏ ra. Đó là chế độ bồi dỡng phiên toà
Thứ ba: Chế độ phụ cấp thâm niên vợt khung
Chế độ phụ cấp thâm niên vợt khung quy định đối với những ngời Thẩm
phán đã đợc xếp bậc lơng cuối cùng trong ngạch lơng của bảng lơng.
Th t: Chế độ phụ cấp khu vực, phụ cấp đặc biệt
Chế độ này áp dụng đối với những Thẩm phán làm việc ở nơi xa xôi hẻo
lánh, làm việc ở vùng biên giới hải đảo, có điều kiện làm việc rất khó khăn và
thiếu thốn. Chế độ này không những áp dụng cho Thẩm phán mà còn áp dụng đối
với các cán bộ công chức khác nữa, điều này hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh đất
nớc ta hiện nay.
Thứ năm: Chế độ trang phục
Trang phục là một yêu cầu quan trọng của Thẩm phán trong quá trình làm
việc. Trang phục thể hiện sự nghiêm trang của ngời nhân danh Nhà nớc tiến hành
tố tụng bảo vệ công bằng và lẽ phải. Trang phục dành cho Thẩm phán phải đảm
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
bảo phù hợp với truyền thống dân tộc và thể hiện sự uy nghiêm, khác biệt so với
các chức danh t pháp khác.
ở nớc ta chế độ trang phục cho Thẩm phán là tơng đối thống nhất và

nghiêm chỉnh từ hình thức, màu sắc tới chất liệu vải. Thời hạn sử dụng trang phục
dành cho Thẩm phán là từ 1 tới 5 năm cấp một lần. Tuy nhiên cho tới nay vẫn còn
nhiều ý kiến về hình thức và màu sắc trang phục cho Thẩm phán phù hợp với từng
miền và từng mùa.
1.2.6. Khen thởng và kỷ luật Thẩm phán
Theo Luật thi đua khen thởng hiện hành hình thức khen thởng bao gồm:
các loại Huân chơng của Chủ tịch nớc, Bằng khen, cờ thi đua của Chính phủ, cờ
thi đua của Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Danh hiệu chiến sỹ thi đua, kỷ
niệm chơng của ngành tuỳ thuộc vào thành tích mà họ đạt đợc [25]. Nh vậy khen
thởng cho Thẩm phán cũng hoàn toàn giống nh các cán bộ công chức khác trong
Bộ máy Nhà nớc. Chế độ này có ý nghĩa hết sức quan trọng về tinh thần cho
Thẩm phán, phát huy tính tích cực và sáng tạo trong sự nghiệp cống hiến cho
công việc của họ. Để đợc khen thởng, Thẩm phán phải hoàn thành tốt nhiệm vụ đ-
ợc giao, tuân thủ kỷ luật trong công việc, xét xử một cách công bằng, vô t và
khách quan, góp phần nâng cao phong trào thi đua của ngành Toà án nói chung ở
mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển.
Khen thởng và kỷ luật là hai mặt của một vấn đề. Chế độ kỷ luật đặt ra đối
với những Thẩm phán vi phạm pháp luật nh vi phạm những điều pháp luật cấm
Thẩm phán đợc làm, trong khi giải quyết các công việc đợc giao Cũng căn cứ
vào tính chất mức độ của Thẩm phán mà Thẩm phán bị áp dụng một trong các
hình thức kỷ luật mà Pháp lệnh cán bộ công chức đã quy định. Với nguyên tắc ai
có thẩm quyền bổ nhiệm Thẩm phán thì ngời đó sẽ xử lý kỷ luật Thẩm phán đó.
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
Ngoài ra Thẩm phán còn bị mất chức danh khi bị kết tội bằng một bản án
có hiệu lực pháp luật. Nói chung, mức độ xử lý kỷ luật Thẩm phán có nghiêm
khắc hơn so với các nguyên tắc đã đợc quy định trong Pháp lệnh cán bộ công
chức năm 2003, sửa đổi bổ sung năm 2007, 2008.
Trên đây là toàn bộ nghiên cứu các quy định của pháp luật về chế định
Thẩm phán TAND từ khi Nhà nớc ta thành lập cho tới nay. Phần đầu của luận văn
đã cho thấy vai trò của ngời Thẩm phán trong hoạt động xét xử của Toà án thể

hiện cụ thể trong các quy định của pháp luật qua từng thời kỳ phát triển. Chơng 2
của luận văn sẽ tiếp tục phân tích và đánh giá các quy định của pháp luật hiện
hành về Thẩm phán, thực trạng và phơng hớng hoàn thiện chế định này
Chơng 2
Thực trạng và hớng hoàn thiện chế định thẩm phán
Toà án nhân dân theo pháp luật hiện hành
2.1. Thực trạng chế định thẩm phán Toà án nhân dân
2.1.1. Về chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán
Thực hiện chủ trơng tăng thẩm quyền trong lĩnh vực xử lý án hình sự, dân
sự nên nhiệm vụ của cơ quan tiến hành tố tụng ngày càng nặng nề hơn. Yêu cầu
đặt ra là có một chế độ tuyển chọn đáp ứng đủ số lợng Thẩm phán có trình độ để
phục vụ hoạt động xét xử và xây dựng ngành Toà án ngày càng vững mạnh.
Có thể thấy rằng việc thay đổi chế độ tuyển chọn, bổ nhiệm Thẩm phán
Toà án nhân dân trong Hiến pháp 1992 là một sự đột phá, tạo ra một bớc ngoặt
phù hợp hơn với thời kỳ mới. Cho tới nay chế độ này vẫn giữ nguyên bản chất của
nó, phù hợp với quy luật khách quan và với điều kiện hoàn cảnh nớc ta hiện nay.
Bằng việc thay đổi chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, có thể thấy đội ngũ Thẩm phán
đợc nâng lên về cả chất và lợng. Chế độ tuyển chọn Thẩm phán theo Hiến pháp
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
1992 sửa đổi và Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 cùng các
văn bản hớng dẫn hiện hành có các quy định về một số nội dung cơ bản nh sau:
Thứ nhất: Về biên chế Thẩm phán
Theo Nghị quyết số 730 của UBTVQH về việc bổ sung biên chế và số lợng
Thẩm phán Toà án nhân dân và Toà án quân sự các cấp thì việc tăng biên chế cho
đội ngũ Thẩm phán đợc quan tâm đúng mức[13]. Năm 2009 và 2010 bổ sung 119
Thẩm phán cho Toà án nhân dân tối cao, bổ sung 112 biên chế cho Toà án nhân
dân cấp tỉnh và 1269 biên chế cho Toà án nhân dân cấp huyện. Số lợng biên chế
của Toà án quân sự các cấp về cơ bản đợc giữ nguyên số lợng [14].
Để đảm bảo đủ đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu công tác giải quyết xét
xử các loại vụ án, Toà án nhân dân tối cao đã xây dựng và tổ chức thực hiện các

đề án quan trọng trong đó có Đề án biên chế cho ngành Toà án nhân dân. Theo đề
án này thì dựa vào các tiêu chí, từng đơn vị trong ngành sẽ phân bổ biên chế cho
đơn vị mình sao cho phù hợp nhất. UBTVQH đã thông qua tổng biên chế của
ngành Toà án năm 2009 đợc tăng thêm 1500 ngời trong đó có 508 Thẩm phán
Toà án nhân dân cấp huyện, thành phố, thị xã thuộc tỉnh[14]. Điều này đã củng cố
phần lớn cho số lợng Thẩm phán của ngành trong thời gian qua vốn đã thiếu so
với nhu cầu công việc.
Theo quy định, UBTVQH quyết định số lợng Thẩm phán Toà án các cấp
theo đề nghị của Chánh án Toà án nhân dân tối cao ( và sự thống nhất của Bộ tr-
ởng Bộ quốc phòng đối với Thẩm phán TAQS các cấp ) ( Điều 42 Luật tổ chức
TAND năm 2002). Mặc dù đã xây dựng và hoàn thiện các Đề án về biên chế số l-
ợng Thẩm phán nh vậy nhng về cơ bản vẫn không đủ số lợng đáp ứng đòi hỏi
nhiệm vụ công tác. Trong khi số lợng công việc ngày càng tăng, Thẩm phán
không thể đảm đơng một lúc nhiều trọng trách, xét xử một lúc nhiều vụ án sẽ rất
dễ có tình trạng quá tải, có thể dẫn tới chồng chéo, sai lầm khi giải quyết công
việc.
Khoá luận tốt nghiệp Lã Thị Tiến
Thứ hai: Về điều kiện, tiêu chuẩn của Thẩm phán
Để đảm bảo cho Toà án độc lập xét xử, vấn đề quan trọng đầu tiên là xây
dựng các tiêu chuẩn cần và đủ cho một chức danh t pháp, trong đó có chức danh
Thẩm phán, nhân vật trung tâm của hệ thống xét xử.
Cũng giống nh nhiều quốc gia trên thế giới, Điều 37 Luật tổ chức TAND
năm 2002 quy định các tiêu chuẩn chung cho Thẩm phán, có thể cụ thể hoá thành
3 tiêu chí bao gồm: tiêu chuẩn về chính trị, xã hội; tiêu chuẩn chuyên môn và
tiêu chuẩn đạo đức sức khoẻ.
Về tiêu chuẩn chính trị, xã hội
Pháp luật hiện hành không quy định Thẩm phán phải là Đảng viên. Ngời
làm chính trị là ngời tham gia vào các tổ chức chính trị nh tổ chức Đảng, Đoàn
thanh niên, Hội phụ nữ, Công đoàn, Mặt trận tổ quốc để cùng xây dựng các
chính sách, chủ trơng mà Nhà nớc tiến hành. Dù không nhất thiết là Đảng viên

nhng ngời Thẩm phán phải luôn theo đuổi lập trờng, quan điểm của chủ nghĩa
Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí Minh, có trình độ lý luận chính trị, và có những hiểu
biết nhất định về xã hội. Tiêu chuẩn tuyển chọn Thẩm phán về chính trị xã hội
này căn cứ vào quy định tại Điều 5 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân
năm 2002 công dân Việt Nam trung thành với Tổ quốc và Hiến pháp nớc Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo đức tốt, liêm khiết và trung
thực, có tinh thần kiên quyết bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa
Với t cách là ngời nhân danh Nhà nớc đa ra các quyết định, bản án có ý
nghĩa răn đe kẻ phạm tội, đảm bảo an ninh và an toàn trong xã hội, các tiêu chuẩn
về chính trị xã hội là hoàn toàn phù hợp với yêu cầu tuyển chọn và xây dựng đội
ngũ Thẩm phán đảm bảo về chất cho hoạt động xét xử . Tiêu chuẩn này đựơc hiểu
là công dân Việt Nam không có hành vi nào gây tổn hại cho nền độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Nhà nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

×