Tải bản đầy đủ (.doc) (61 trang)

Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (328.63 KB, 61 trang )

Khoá luận tốt nghiệp 1
LỜI NÓI ĐẦU
rải qua hơn sáu mươi năm kể từ khi ra đời, vị trí của HĐND các cấp
trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước ngày càng được khẳng định.
Trong bộ máy Nhà nước, HĐND vừa là cơ quan quyền lực Nhà nước
ở địa phương, vừa là cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm
chủ của nhân dân ở địa phương. Vì vậy, xây dựng HĐND các cấp có thực
quyền để đảm đương đầy đủ vai trò, trách nhiệm của mình là một yêu cầu bức
xúc hiện nay.
T
HĐND có ba chức năng đó là: quyết định những vấn đề quan trọng ở địa
phương; bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ quan Nhà
nước cấp trên và trung ương ở địa phương; chức năng giám sát việc tuân theo
pháp luật ở địa phương. Trong ba chức năng đó, giám sát có một vị trí, vai trò
rất quan trọng đảm bảo cho HĐND thực sự là cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, thực hiện đúng nguyên tắc quyền lực Nhà nước
thuộc về nhân dân. Thực hiện tốt chức năng giám sát là một trong những yêu
cầu cơ bản để nâng cao hiệu quả giám sát của HĐND. Điều này đã được nhấn
mạnh trong văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X “Nâng cao chất lượng của HĐND
và UBND, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa
phương trong phạm vị được phân cấp. Phát huy vai trò giám sát của HĐND”.
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã bổ sung thêm một chương
mới quy định một cách toàn diện và có hệ thống chức năng giám sát của
HĐND. Từ khi Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có hiệu lực pháp luật,
hoạt động giám sát của HĐND có nhiều chuyển biến rõ rệt. Hàng năm, xây
dựng được chương trình kế hoạch giám sát, tổ chức các Đoàn giám sát khi cần
thiết, trong thực hiện giám sát có sự phối hợp với các cấp, các ngành…Do đó,
đã đưa lại nhiều kết quả khả quan, bước đầu khắc phục tính hình thức trong
hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng.
Tuy nhiên, trong thực tiễn hoạt động giám sát của HĐND còn nhiều hạn
chế. Ví dụ như việc xây dựng chương trình, cách thức tổ chức giám sát chưa


thực sự khoa học, các kết luận giám sát thường chung chung, thiếu kiểm tra
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 2
đôn đốc việc thực hiện kết luận đó nên vẫn còn hiện tượng sau giám sát lại đâu
vào đó, kỹ năng giám sát của đại biểu HĐND còn thấp…Cho nên hoạt động
giám sát của HĐND cho tới nay vẫn còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ, đáng bàn. Xuất
phát từ những yêu cầu bức xúc về lý luận và thực tiễn nêu trên em xin chọn đề
tài: “Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện
hành”. Trong quá trình nghiên cứu nội dung của đề tài, trên cơ sở tham khảo
có chọn lọc, em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả
giám sát của HĐND trong giai đoạn hiện nay.
Dưới góc độ luật Hiến pháp, khóa luận sử dụng các phương pháp luận
của triết học Mác –Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng
và Nhà nước ta về hoạt động giám sát của HĐND. Để tiếp cận đề tài khóa luận
sử dụng các phương pháp truyền thống là phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử và một số phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, so sánh…
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận kết
cấu làm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Chương 2 : Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật
hiện hành.
Chương 3 : Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát
của Hội đồng nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu cũng như nhận thức về lí luận và
thực tế, nên khóa luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận
được sự chỉ bảo, góp ý của Thầy, Cô giáo và các bạn để khóa luận được hoàn
thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn Thầy, Cô giáo và các bạn.
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 3
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT

CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
1.1 Vị trí, tính chất và chức năng của Hội đồng nhân dân.
Vị trí, tính chất và chức năng của HĐND được quy định tại Điều 119,
Điều 120 Hiến pháp năm 1992 và cụ thể hóa trong Điều 1 Luật tổ chức HĐND
và UBND do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ
họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003: “HĐND là cơ quan quyền lực
Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của
nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa
phương và cơ quan Nhà nước cấp trên”.
HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương có quyền quyết định
các chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương
xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an
ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa
phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước, HĐND là cơ quan
bầu ra UBND, Thường trực HĐND và Hội thẩm tòa án nhân dân cùng cấp.
HĐND giám sát hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở địa phương, giám sát
việc tuân theo pháp luật ở địa phương. Nghị quyết của HĐND phải được quá
nửa tổng số đại biểu biểu quyết tán thành, trừ trường hợp bãi nhiệm đại biểu
HĐND quy định tại Điều 46 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003. HĐND
thực hiện quyền làm chủ của nhân dân địa phương trên địa bàn lãnh thổ, đồng
thời thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn do cấp trên giao. Quyết định của
HĐND có tính chất bắt buộc đối với mọi cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ
chức xã hội, các đơn vị lực lượng vũ trang và nhân dân ở địa phương.
Như vậy, HĐND là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, HĐND
cùng với Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan quyền lực Nhà nước, thay mặt
nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước và gốc của chính quyền nhân dân. Khác
với Quốc hội, Quốc hội là cơ quan thay mặt toàn thể nhân dân cả nước sử dụng
quyền lực Nhà nước trên phạm vi toàn quốc, HĐND sử dụng quyền lực Nhà
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 4

nước trong phạm vi hẹp hơn, trong địa phương mình. Điều này có tính chất
quyết định tới phạm vi chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của HĐND
HĐND là cơ quan đại biểu của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng trực tiếp và bỏ phiếu kín. HĐND đại diện
cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương. Cơ cấu
HĐND được hợp thành từ những đại biểu ưu tú đại diện cho giai cấp công
nhân, nông dân, tầng lớp trí thức, các dân tộc, thành phần xã hội trong phạm vi
địa phương. HĐND tồn tại, hoạt động trước hết vì lợi ích của nhân dân địa
phương nhưng phải phù hợp với lợi ích chung của cả nước. HĐND chịu trách
nhiệm và chịu sự giám sát của nhân dân địa phương. Một yếu tố khác thể hiện
tính đại diện của HĐND là chế độ bãi nhiệm đại biểu HĐND, đại biểu nào
không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân thì tùy mức độ vi phạm
mà bị HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm. Thường trực HĐND và UBND quyết định
việc đưa ra HĐND hoặc cử tri bãi nhiệm đại biểu HĐND theo đề nghị của Ủy
ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp. Trong trường hợp HĐND bãi nhiệm
đại biểu thì việc bãi nhiệm phải được hai phần ba tổng số đại biểu HĐND biểu
quyết tán thành. Trường hợp cử tri bãi nhiệm đại biểu thì tiến hành theo thể
thức do UBTVQH quyết định.
Trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước, HĐND là tổ chức chính quyền
gần gũi nhân dân nhất, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và yêu cầu của nhân dân,
nắm vững đặc điểm của địa phương, do đó có cơ sở quyết định mọi công việc
sát hợp với nguyện vọng của nhân dân địa phương. Như vậy, HĐND là một tổ
chức vừa có tính chất chính quyền, vừa có tính chất quần chúng, vừa là trường
học quản lý Nhà nước, quản lý xã hội ở địa phương.
Nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình ở từng địa phương
và trên phạm vi cả nước. Vì vậy, HĐND không chỉ chịu trách nhiệm trước nhân
dân địa phương mà còn chịu trách nhiệm trước chính quyền cấp trên. HĐND
một mặt cần chăm lo xây dựng địa phương, đảm bảo sự phát triển về kinh tế
văn hóa, xã hội nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa
phương mặt khác phải hoàn thành nhiệm vụ cấp trên giao cho.

Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 5
Theo Hiến pháp hiện hành và Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì
HĐND có ba chức năng cơ bản như sau:
 Thứ nhất: Quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để
phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh
tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương
đối với cả nước.
 Thứ hai: Bảo đảm thực hiện các quy định và quyết định của các cơ
quan nhà nước cấp trên và trung ương ở địa phương
 Thứ ba: Thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường
trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp; giám sát việc tuân theo pháp
luật của cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và của công dân ở địa phương.
Trong số các chức năng trên, chức năng giám sát việc tuân theo Hiến
pháp và pháp luật là một trong những chức năng quan trọng của HĐND. Bởi
trong mọi hoạt động quản lý Nhà nước và xã hội thì “giám sát” là hoạt động
không thể thiếu. Nếu thiếu hoặc yếu trong hoạt động giám sát thì rất dễ trở
thành quan liêu, không thực quyền. Ở nước ta, nhân dân thực hiện quyền lực
Nhà nước thông qua Quốc hội và HĐND các cấp. Vì vậy, hoạt động giám sát
của Quốc hội và HĐND có ý nghĩa đặc biệt trong đời sống chính trị - xã hội.
Quyền lực Nhà nước trực tiếp từ nhân dân nên hoạt động giám sát của Quốc
hội và HĐND các cấp là sự giám sát ủy quyền của nhân dân. Thông qua hoạt
động giám sát của Quốc hội và HĐND các cấp, nhân dân thực hiện quyền lực
của mình đối với hoạt động của tất cả các cơ quan Nhà nước để đảm bảo cho
hoạt động đó phục vụ cho lợi ích, ý chí nguyện vọng của nhân dân.
Xuất phát từ ý nghĩa đó và đòi hỏi bức xúc của thực tiễn, Quốc hội khóa
XI đã ban hành “Luật hoạt động giám sát của Quốc hội” (17/6/2003) và “Luật
tổ chức HĐND và UBND năm 2003” (26/11/2003). Trong đó, Luật tổ chức

Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 6
HĐND và UBND năm 2003 có một chương mới “Hoạt động giám sát của
HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND”
(Chương III với 24 Điều).
1.2 Khái niệm giám sát và đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng
nhân dân.
1.2.1 Khái niệm giám sát
Hiện nay có rất nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm giám sát:
Theo từ điển Tiếng Việt “giám sát” được hiểu là: “sự theo dõi, xem xét
làm đúng hoặc sai những điều đã quy định hoặc dùng để chỉ “một chức quan
đảm nhận việc theo dõi, xem xét một công việc nào đó”.
Theo từ điển Luật học: “giám sát” là sự theo dõi, quan sát hoạt động mang
tính chủ động thường xuyên, liên tục và sẵn sàng tác động bằng các biện pháp
tích cực để buộc và hướng các hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát đi đúng
quỹ đạo, quy chế, nhằm đạt được mục đích, hiệu quả từ trước đảm bảo cho pháp
luật được tuân theo nghiêm chỉnh”.
Theo từ điển Hán - Việt của Đào Duy Anh thì “giám sát là xem xét và đàn
hạch”.
Theo Luật hoạt động giám sát của Quốc hội, khái niệm giám sát được giải
thích: “ Giám sát là việc Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và Đại biểu Quốc hội theo
dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội”.
Luật tổ chức HĐND và UBND 2003 tại các điều 1, 29, 30 và 31 cũng
không định nghĩa trực tiếp giám sát là gì. Tuy nhiên, có thể hiểu, trước tiên,
giám sát là một chức năng luật định, tức là gắn với quyền hạn và là trách nhiệm
của HĐND. Chức năng được bảo đảm bởi một số hình thức hoạt động và công
cụ đặc thù, cách làm đặc thù của HĐND.

Như vậy, tuy cách diễn đạt và biểu hiện ý nghĩa của từ “giám sát” có khác
nhau, nhưng các quan niệm trên đều đề cập tới nội dung cơ bản: giám sát là
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 7
việc theo dõi, xem xét, kiểm tra một chủ thể nào đó về một việc làm đã thực
hiện chưa đúng những điều đã quy định để từ đó có biện pháp điều chỉnh hoặc
xử lý đối với việc làm sai, nhằm đạt được những mục đích hiệu quả xác định từ
trước, bảo đảm cho các quyết định thực hiện đúng và đầy đủ.
Với quan niệm trên, giám sát có những đặc trưng sau:
 Giám sát dùng để chỉ hoạt động theo dõi, xem xét, kiểm tra và đánh
giá về một việc đã thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.
 Giám sát luôn gắn với một chủ thể nhất định, tức là trả lời cho câu
hỏi ai là người có quyền thực hiện việc theo dõi, xem xét, kiểm tra và đánh giá
về một việc đã thực hiện đúng hoặc sai những điều đã quy định.
 Giám sát luôn gắn với một đối tượng nhất định tức là trả lời cho
câu hỏi là giám sát ai và giám sát việc gì? Điều này có ý nghĩa quan trọng là ở
chỗ nó phân biệt giữa “giám sát” với “kiểm tra” vì “kiểm tra” thì chủ thể hoạt
động và đối tượng chịu sự tác động của hoạt động đó có thể đồng nhất với
nhau, đó là sự kiểm tra lại hoạt động của chính mình của chủ thể hoạt động.
Giám sát thì không có sự đồng nhất này, chủ thể thực hiện việc theo dõi, xem
xét đánh giá luôn luôn không thể đồng nhất với đối tượng chịu sự giám sát.
Giám sát khác với "thanh tra nhà nước", "thanh tra chuyên ngành" vì thanh tra
chính là một công cụ của kiểm tra, tức là từ bên trong. Giám sát khác với
“kiểm sát”, vì kiểm sát mặc dù cũng là hành vi giám sát từ bên ngoài của một
cơ quan độc lập nhưng kiểm sát gắn với thẩm quyền tố tụng và về thực chất là
một công cụ thường xuyên của cơ quan bầu ra nó, tức là của cơ quan dân cử.
Những sự khác biệt trên đây gợi ý về mối quan hệ làm việc, phối hợp và giản
lược sự chồng chéo giữa các hành vi được mô tả trên đây.
Tóm lại, thuật ngữ “giám sát” nếu hiểu theo nghĩa chung thì phạm vi áp
dụng của nó rất rộng, muốn có khái niệm cụ thể thì hoạt động giám sát bao giờ

cũng gắn với một chủ thể xác định, chẳng hạn như giám sát của Quốc hội, giám
sát của HĐND, giám sát của nhân dân.
Căn cứ vào yếu tố cấu trúc của khái niệm giám sát, căn cứ vào những quy
định của Hiến pháp, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và các văn bản
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 8
pháp luật khác, Hoạt động giám sát của HĐND có thể hiểu như sau: Giám sát
của HĐND là tổng thể các hoạt động của HĐND, Thường trực HĐND, các ban
của HĐND và các Đại biểu HĐND nhằm theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động
của các cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến
pháp, pháp luật từ đó đưa ra các kết luận và phương án xử lý phù hợp để khắc
phục những tồn tại, hạn chế, phát huy mọi tiềm năng, xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương với cả nước.
1.2.2 Đặc điểm hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
a . Đặc điểm về chủ thể giám sát.
Theo quy định tại Điều 57 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, giám
sát của HĐND bao gồm: giám sát của HĐND tại kỳ họp, giám sát của Thường
trực HĐND, giám sát của các Ban của HĐND và giám sát của đại biểu HĐND.
Như vậy, chủ thể thực hiện hoạt động giám sát bao gồm : HĐND (một tập
thể các đại biểu HĐND tại kỳ họp), Thường trực HĐND, các Ban của HĐND,
đại biểu HĐND.
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994 (sửa đổi), Thường trực
HĐND chưa phải là chủ thể của hoạt động giám sát, mới chỉ là người đôn đốc,
kiểm tra các hoạt động của UBND cùng cấp cũng như vấn đề giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân ở địa phương. Như vậy, theo quy định của pháp luật
hiện hành, chủ thể giám sát của HĐND ngày càng được mở rộng và quy định
chặt chẽ hơn.
b . Đặc điểm về đối tượng giám sát .
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, đối tượng giám sát của
HĐND bao gồm:

- Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp (Điều
58)
- Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND, các thành viên khác của
UBND, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Viện trưởng VKSND,
Chánh án TAND cùng cấp ( Khoản 2 Điều 58)
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 9
- Các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, xã hội, đơn vị vũ trang
nhân dân và công dân ở địa phương ( Điều 1, Điều 41, Điều 42, Điều 55).
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, đối tượng giám sát của
HĐND rất phong phú và đa dạng bao gồm tất cả các cơ quan Nhà nước, đơn vị
kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân ở địa
phương. Hiện nay, pháp luật không phân cấp giám sát giữa HĐND các cấp,
điều đó không có nghĩa là HĐND mỗi cấp thực hiện thẩm quyền giám sát như
nhau đối với mọi hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát. Đối tượng, phạm
vi, mức độ giám sát của HĐND phụ thuộc vào vị trí, vai trò và sự phân cấp,
tính chất của mối quan hệ giữa HĐND với đối tượng chịu sự giám sát. Chẳng
hạn với UBND do mối quan hệ chấp hành của cơ quan này với HĐND mà
phạm vi, mức độ giám sát của HĐND rất lớn bao trùm mọi hoạt động của
UBND và khả năng xử lý lớn đối với quyết định, hành vi và cả nhân sự của
UBND. Nhưng với TAND, VKSND thì hoạt động giám sát của HĐND chủ yếu
ở việc xem xét tính pháp chế của các bản án đã được giải quyết và sự phối hợp
của Tòa án, Viện kiểm sát với địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị của địa phương. Kết quả giám sát của HĐND với Tòa án chỉ có thể là đề
nghị. Nếu có hậu quả pháp lý nào đó đối với Tòa án chỉ là hậu quả gián tiếp
không xuất phát từ thẩm quyền của HĐND.
c . Đặc điểm về hình thức giám sát.
Theo quy định tại Điều 58 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003.
HĐND giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
 Thứ nhất: Xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND,

TAND, VKSND nhân dân cùng cấp.
Đây là hình thức giám sát trực tiếp rất quan trọng của HĐND. HĐND
xem xét thảo luận báo cáo công tác của Thường trực HĐND, UBND, TAND và
VKSND cùng cấp tại kỳ họp cuối. Tại kỳ họp giữa năm, các cơ quan này gửi
báo cáo công tác đến các đại biểu HĐND, khi cần thiết HĐND có thể xem xét.
Việc xem xét, thảo luận các báo cáo hàng năm hoặc 6 tháng tại kỳ họp cuối
năm hay giữa năm được tiến hành theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ do luật
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 10
định. Trong đó có thẩm tra, phản biện, thảo luận, tranh luận của Đại biểu
HĐND đối với các đối tượng thuộc quyền giám sát của HĐND. Theo quyết
định của Chủ tịch HĐND hoặc của người điều khiển phiên họp, báo cáo của
các đối tượng giám sát được chuyển cho các Ban của HĐND thẩm tra, nghiên
cứu trước. Trên cơ sở ý kiến tham gia, thảo luận báo cáo của các thành viên,
các ban phải chuẩn bị báo cáo thuyết trình thẩm tra trước HĐND.
Việc xem xét, thảo luận các báo cáo được diễn ra theo một trình tự nhất
định: người đứng đầu các cơ quan bị giám sát trình bày báo cáo, Trưởng ban
HĐND trình bày báo cáo thẩm tra; HĐND thảo luận, người đứng đầu cơ quan
bị giám sát trình bày báo cáo và có thể trình bày thêm những vấn đề có liên
quan mà HĐND quan tâm, HĐND ra nghị quyết về công tác của cơ quan đã
báo cáo khi xét thấy cần thiết. [19, tr.79]
Việc xem xét báo cáo buộc chủ thể bị giám sát phải báo cáo về công tác
của mình là một hình thức giám sát quan trọng. Trên cơ sở đó, HĐND có thể
kiểm soát tình hình thực thi Hiến pháp, pháp luật và các văn bản của cơ quan
Nhà nước cấp trên cũng như nghị quyết của HĐND trong thực tiến đời sống xã
hội, tăng cường trách nhiệm cá nhân của những người đứng đầu UBND và các
ban ngành về công tác của họ trước HĐND.
 Thứ hai: Xem xét việc trả lời chất vấn của Chủ tịch HĐND, Chủ
tịch UBND, các thành viên khác của UBND, Thủ trưởng cơ quan chuyên môn
thuộc UBND, Viện trưởng VKSND, Chánh án TAND cùng cấp;

Tại Điều 122 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Đại biểu HĐND có quyền
chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch và các thành viên khác của UBND, Chánh
án TAND, VKSND và Thủ trưởng các cơ quan thuộc UBND. Người bị chất
vấn phải trả lời trước HĐND trong thời hạn do luật định”.
Để cụ thể hoá Hiến pháp, Điều 61 và khoản 2 Điều 58 Luật tổ chức HĐND
và UBND năm 2003, Điều 53 Quy chế hoạt động của HĐND năm 2005 đã quy
định một cách chi tiết về trình tự, thủ tục chất vấn tại kỳ họp và giữa hai kỳ họp
của đại biểu HĐND. Cụ thể:
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 11
+ Đối với việc ra câu hỏi chất vấn:
Đại biểu HĐND ghi rõ nội dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu ghi
chất vấn và gửi đến Thường trực HĐND, Thường trực HĐND chuyển nội dung
chất vấn đến người bị chất vấn và tổng hợp các chất vấn của đại biểu HĐND để
báo cáo HĐND.
Thường trực HĐND dự kiến danh sách những người có trách nhiệm trả lời
chất vấn và báo cáo HĐND quyết định; ngoài câu hỏi chính, có thể nêu câu hỏi
bổ sung liên quan đến nội dung đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm cũng
như biện pháp khắc phục.
+ Đối với việc trả lời chất vấn: người bị chất vấn phải trả lời trực tiếp, đầy
đủ về các nội dung mà đại biểu HĐND đã chất vấn và xác định rõ trách nhiệm
cũng như biện pháp khắc phục.
Thực chất của hoạt động chất vấn là việc đại biểu HĐND đưa ra các câu
hỏi cho các đối tượng bị chất vấn, nội dung các câu hỏi này thường xoay quanh
các vấn đề nóng bỏng mà nhân dân địa phương quan tâm thuộc lĩnh vực quản
lý trực tiếp hoặc có liên quan đến đối tượng bị chất vấn.
 Thứ ba: Xem xét văn bản quy phạm pháp luật của UBND cùng cấp, nghị
quyết của HĐND cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH,
văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết

của HĐND cùng cấp;
Đây là hình thức HĐND giám sát tính hợp Hiến, hợp pháp của các
VBQPPL do các đối tượng chịu sự giám sát của HĐND ban hành. Để tiến hành
tốt nhiệm vụ trên, tại các kỳ họp HĐND cũng như giữa hai kỳ họp, Thường
trực HĐND, các Ban và từng đại biểu HĐND phải thường xuyên thực hiện
giám sát các văn bản thuộc thẩm quyền của mình nhằm có những kiến nghị, đề
xuất kịp thời .
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 12
Các bước để HĐND xem xét tính hợp Hiến, hợp pháp của văn bản quy
phạm pháp luật được quy định như sau:
Đại diện của Thường trực HĐND trình VBQPPL có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật và VBQPPL của cơ quan Nhà nước cấp trên, HĐND thảo luận.
Trong quá trình thảo luận, người đứng đầu cơ quan đã ban hành VBQPPL có
thể trình bày bổ sung những vấn đề liên quan. Hệ quả của hoạt động này có thể
dẫn đến hai khả năng: HĐND ra nghị quyết khi VBQPPL trên không trái với
Hiến pháp, luật và VBQPPL của cơ quan Nhà nước cấp trên, hoặc quyết định
bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó.
Nhìn chung, pháp luật hiện hành chưa quy định một cách cụ thể quy trình
HĐND xem xét tính hợp Hiến, hợp pháp của VBQPPL. Từ Hiến pháp năm
1992 đến các đạo luật như Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Luật ban
hành văn bản của HĐND và UBND năm 2005 và Quy chế hoạt động của
HĐND năm 2005 mới chỉ dừng lại ở những quy định khái quát, chung chung
nên rất khó thực thi.
 Thứ tư: Thành lập Đoàn giám sát khi xét thấy cần thiết;
Trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, khi xét thấy cần
thiết phải xác minh, làm rõ hoặc muốn biết một số thông tin cụ thể trong quá
trình hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát thì HĐND thành lập Đoàn
giám sát. Khác với hoạt động thanh tra, kiểm tra những nội dung hoạt động của
Đoàn giám sát bao giờ cũng được thông báo trước cho đối tượng giám sát trong

thời hạn chậm nhất là 7 ngày trước khi Đoàn giám sát bắt đầu thực hiện các
hoạt động giám sát. Trong quá trình làm việc với các đối tượng chịu sự giám
sát, Đoàn có quyền xem xét, xác minh tất cả những vấn đề mà Đoàn xét thấy
cần thiết. Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật gây thiệt hại đến lợi ích
Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Đoàn giám sát có
quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 13
 Thứ năm: Bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do HĐND
bầu.
Việc HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do HĐND
bầu là một là công cụ giám sát mới của HĐND. Đây là hình thức HĐND giám
sát hoạt động của các cá nhân thuộc đối tượng bị giám sát. Có ý kiến cho rằng,
bỏ phiếu tín nhiệm là hệ quả của giám sát, song thực chất đó là cơ sở để quy kết
hệ quả, tức là tiền đề để đi đến việc áp dụng các biện pháp chế tài giám sát.
Thường trực HĐND trình HĐND về việc bỏ phiếu tín nhiệm. Người được đưa
ra bỏ phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của mình trước HĐND, HĐND
thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm. Trong trường hợp không được quá nửa tổng số
đại biểu HĐND tín nhiệm thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu người đó
có trách nhiệm trình HĐND xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm
người không được HĐND tín nhiệm.
Như vậy, quy định bỏ phiếu tín nhiệm theo pháp luật Việt Nam chỉ áp dụng đối
với cá nhân chứ không áp dụng đối với tập thể. Đây là một đặc thù của giám sát
quyền lực ở Việt Nam.
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 14
1.3 Mục đích của hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
Bất cứ hoạt động có ý chí nào của con người cũng đều mang tính mục đích
rõ rệt và việc xác định một cách chính xác những mục đích cần đạt được của

hoạt động là điều quan trọng nhất vì đó là điều kiện và cơ sở đầu tiên để định
hướng tất cả.
1.3.1 Nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của các đối tượng chịu sự giám sát
phải thực hiện đúng và đầy đủ những quy định của Hiến pháp và pháp luật, nghị
quyết của HĐND. Mọi hoạt động vi phạm Hiến pháp và pháp luật đều phải
được xử lý nghiêm minh.
Để thực hiện việc quản lý xã hội bằng pháp luật, Nhà nước đã phân công
và phân cấp hoạt động quản lý nhà nước cho những cơ quan trong bộ máy nhà
nước những chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn trong việc thực thi quyền lực
nhà nước. Những cơ quan này sử dụng quyền lực nhà nước trong quá trình thực
thi công vụ nhằm đạt tới nhiệm vụ chính trị mà Nhà nước đã xác định trong
từng giai đoạn phát triển của kinh tế xã hội.
Nhiệm vụ của những cơ quan này là phải tuyệt đối chấp hành và tuân theo
những quy định của pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn
của mình. Tuy nhiên, do ảnh hưởng và tác động của những lợi ích cá nhân hoặc
lợi ích cục bộ của các nhóm lợi ích khác nhau hoặc xung đột với nhau trong
một cơ quan, một tổ chức hoặc thậm chí một nhóm cộng đồng xã hội mà những
cá nhân, cơ quan, tổ chức thực thi quyền lực Nhà nước có xu hướng lạm dụng
quyền lực, vi phạm những quy định của Hiến pháp và pháp luật để đạt tới
những lợi ích của cá nhân hoặc cục bộ. Chính vì vậy, trong hoạt động quản lý
nhà nước từ xưa tới nay đều phải có những quy định của pháp luật, những thiết
chế và tổ chức để đặt những cơ quan nhà nước luôn luôn nằm trong sự kiểm
tra, giám sát của Nhà nước và của nhân dân nhằm mục đích chống lại xu hướng
lạm dụng quyền lực Nhà nước, chống lại những hành vi vi phạm Hiến pháp và
pháp luật, đảm bảo cho những cơ quan nhà nước trong quá trình thực thi công
vụ phải tuân theo những quy định của pháp luật.
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 15
Từ đó có thể nhận thấy người làm công tác giám sát không phải chỉ có
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao mà còn phải có bản lĩnh chính trị vững

vàng, vì những kết luận của hoạt động giám sát có ảnh hưởng và tác động trực
tiếp đến quyền và lợi ích, uy tín của cơ quan, tổ chức và cá nhân chịu sự giám
sát. Nếu có một sơ suất dù nhỏ trong quá trình tiến hành hoạt động giám sát thì
cá nhân và cơ quan chịu sự giám sát vốn là những cơ quan và những con người
rất thành thạo trong việc sử dụng quyền lực Nhà nước như một công cụ hữu
hiệu để quản lý xã hội sẽ phản ứng lại cơ quan giám sát hoặc giảm nhẹ trách
nhiệm pháp lý của họ.
1.3.2 Nhằm kịp thời phát hiện những điểm chưa hợp lý trong tổ chức và
hoạt động quản lý của các cơ quan chịu sự giám sát và kiến nghị những biện
pháp khắc phục một cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý đó.
Với những quy định của Hiến pháp và pháp luật, Nhà nước đã xác định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cho các cơ quan trong bộ máy nhà nước và
xác định cả những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của cơ quan đó. Tuy nhiên,
cùng với sự vận động và phát triển của kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn thực
tiễn hoạt động quản lý của Nhà nước có nhu cầu phải luôn luôn tiếp tục đổi mới
tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu ngày
càng phát triển cao của hoạt động quản lý. Những quy định của pháp luật
thường chậm hơn những biến đổi và đòi hỏi của hoạt động thực tiễn, do đó
ngay cả những quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan Nhà nước cũng cần được sửa đổi, bổ sung một cách kịp thời.
Hoạt động giám sát không chỉ nhằm phát hiện những hành vi vi phạm Hiến
pháp và pháp luật của các cơ quan chịu sự giám sát mà còn nhằm phát hiện
những điểm chưa hợp lý trong việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan chịu
sự giám sát và kiến nghị những giải pháp khắc phục một cách có hiệu quả
những điểm chưa hợp lý đó. Kết quả của hoạt động giám sát là một trong
những nguồn thông tin quan trọng cung cấp căn cứ thực tiễn cho việc sửa đổi
và bổ sung những quy định của Hiến pháp và pháp luật về tổ chức và hoạt động
của các cơ quan Nhà nước.
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 16

1.3.3 Nhằm kịp thời phát hiện những điểm chưa phù hợp với thực tiễn đời sống
xã hội trong những quy định của pháp luật và kiến nghị những biện pháp khắc
phục một cách có hiệu quả những điểm chưa hợp lý đó.
Mặc dù khi xây dựng các văn bản luật cũng như các văn bản quy phạm
pháp luật khác, các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia làm công tác
xây dựng luật đã tuân theo quy trình rất nghiêm ngặt và khoa học, nhưng khi áp
dụng vào thực tiễn những dự tính đó mới được kiểm nghiệm và bộc lộ những
điểm chưa phù hợp hoặc chưa đáp ứng đúng nhu cầu của đời sống xã hội cần
phải được phát hiện và bổ sung kịp thời.
Những kết quả của hoạt động giám sát đặc biệt là những kết quả trong việc
giám sát việc thi hành các văn bản pháp luật là một trong những nguồn thông
tin quan trọng, cung cấp cơ sở thực tiễn của đời sống xã hội ở Việt Nam giúp
cho các nhà hoạch định chính sách và các chuyên gia làm công tác xây dựng
pháp luật trong quá trình soạn thảo ở tất cả các khâu: từ xác định nhu cầu lập
pháp tức là xác định sự cần thiết phải ban hành một văn bản luật đến việc xác
định những mục đích cần đạt được của dự án và tính khả thi của dự án luật đó.
Như vậy, giám sát không chỉ nhằm một mục đích duy nhất là theo dõi
giám sát, xem xét đánh giá tính hợp Hiến, hợp pháp trong hoạt động của các
đối tượng chịu sự giám sát mà hoạt động giám sát cùng một lúc có thể đem lại
nhiều kết quả phục vụ cho công tác hoạch định chính sách và xây dựng pháp
luật, phục vụ cho việc không ngừng đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước.
1.4 Khái quát về hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân trong lịch
sử lập pháp Việt Nam.
1.4.1 Hiến pháp năm 1946
Hiến pháp 1946 quy định về HĐND tại chương V: “Hội đồng nhân dân và
Ủy ban hành chính”. Vị trí tính chất, chức năng, tổ chức và hoạt động của
HĐND chưa được Hiến pháp quy định cụ thể. Về nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND, Hiến pháp quy định: “ HĐND quyết định các vấn đề thuộc về địa
phương mình. Những nghị quyết ấy không được trái với chỉ thị của cấp trên.

Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 17
Theo Điều 62 thì: “Một đạo luật cụ thể sẽ định rõ những chi tiết tổ chức các
HĐND và Ủy ban hành chính”. Nhưng do điều kiện của đất nước trong hoàn
cảnh kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ, mà thời kỳ đó đã
không có một đạo Luật tổ chức HĐND và Ủy ban hành chính nào được ban
hành. Bởi vậy, trên thực tế cách thức tổ chức quyền hạn và hoạt động của
HĐND vẫn được thực hiện theo quy định của Sắc lệnh số 63 ngày 22/11/1945
về tổ chức chính quyền nhân dân xã, huyện, tỉnh, kỳ và Sắc lệnh số 77 ngày
21/12/1945 quy định tổ chức chính quyền nhân dân thành phố, thị xã, khu phố.
Nhìn chung, theo tinh thần của Sắc lệnh số 63 và Sắc lệnh số 77 thì trong
tổ chức và hoạt động của chính quyền nhân dân đã có sự phân biệt giữa thành
thị và nông thôn, quyền và trách nhiệm pháp lý của HĐND các cấp được quy
định khá chi tiết. Đồng thời vai trò giám sát của Ủy ban hành chính cấp trên đối
với HĐND cấp dưới cũng được chú trọng, cơ quan hành chính cấp trên không
những có quyền giải tán HĐND cấp dưới mà còn có quyền thủ tiêu hoặc giao về
sửa chữa hay chuẩn y quyết định của HĐND cấp dưới.
1.4.2 Hiến pháp năm 1959
Cùng với Hiến pháp năm 1959, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy
ban hành chính lần đầu tiên được ban hành vào năm 1962, đánh dấu một sự đổi
mới căn bản trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta.
Theo Hiến pháp 1959 đơn vị hành chính của nước ta không còn ở cấp bộ,
nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc Trung ương; tỉnh chia
thành huyện, thành phố, thị xã; huyện chia thành xã, thị trấn. Khác với Hiến
pháp năm 1946 chỉ có cấp tỉnh và cấp xã mới có HĐND, Hiến pháp mới quy
định tất cả các đơn vị kể trên đều thành lập HĐND. Nhiệm kỳ của mỗi khóa
HĐND cấp tỉnh là ba năm, nhiệm kỳ của HĐND cấp huyện, cấp xã là hai năm.
Lần đầu tiên HĐND các cấp được xác định là cơ quan quyền lực Nhà nước ở
địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Cơ cấu tổ chức bộ máy giúp việc của HĐND được quy định trong mục bốn

Chương II Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính năm 1962.
Theo điều 28 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính năm 1962:
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 18
“ Tùy theo nhu cầu công tác, HĐND có thể thành lập các Ban của HĐND”.
Mặc dù đã đề cập về việc thành lập các Ban, nhưng luật lại chưa quy định cụ
thể, đầy đủ về cơ cấu tổ chức, trật tự hình thành nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan
hệ giữa các ban của HĐND và các cơ quan Nhà nước ở địa phương. Dường như
mô hình tổ chức các ban tùy vào sự vận dụng của từng địa phương, dẫn đến
hoạt động giám sát thực sự chưa được chú trọng nhiều, hiệu quả hoạt động giám
sát của các Ban HĐND còn thấp.
1.4.3 Hiến pháp năm 1980
Trước khi Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1989 có hiệu lực thì HĐND
ở tất cả các cấp không có trụ sở, không có con dấu, không có ai hoạt động
chuyên trách, không có Chủ tịch và Phó chủ tịch HĐND…Vì vậy, UBND cùng
cấp đã trở thành cơ quan hoạt động thường xuyên của HĐND.
Điều 1 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1983 quy định: “HĐND đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở
địa phương động viên và tổ chức nhân dân xây dựng, củng cố chính quyền, tiến
hành đồng thời ba cuộc cách mạng…”. Hoạt động giám sát của HĐND đã có
nhiều đổi mới tuy nhiên vẫn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao. Để phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng hơn nữa quyền hạn của UBND,
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1989 quy định: Chủ tịch UBND triệu tập
kỳ họp HĐND, điều hòa phối hợp với hoạt động của các Ban thuộc HĐND, dự
kiến chương trình và chuẩn bị các điều kiện cho kỳ họp HĐND…Vì không có
thực lực nên HĐND không có thực quyền là lẽ đương nhiên. hoạt động của
HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói riêng mang tính hình thức, vì giữa
hai kì họp, HĐND không thể giám sát được UBND trong việc thực hiện nghị
quyết của mình cũng như các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên. Tại
kỳ họp, do không được thẩm tra trước nên các báo cáo, các dự án, đề án do

UBND trình không được các đại biểu thảo luận, chất vấn sôi nổi. Mặt khác
trong các cuộc bầu cử, chúng ta thường chú trọng tới cơ cấu mà chưa coi trọng
tới tiêu chuẩn, năng lực thực hiện nhiệm vụ của đại biểu. Vì vậy, hoạt động
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 19
chất vấn của đại biểu thường rất tẻ nhạt. Hoạt động giám sát của HĐND nói
chung mang tính hình thức, hiệu lực và hiệu quả thấp.
1.4.4 Hiến pháp năm 1992
Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức HĐND và
UBND năm 1994, để cụ thể hóa những quy định của Hiến pháp 1992 về
HĐND thì:
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 1994, hoạt động của HĐND nói
chung và hoạt động giám sát nói riêng từng bước được nâng cao. Theo quy
định của các luật nói trên HĐND ở cả ba cấp đều có chức danh Chủ tịch và Phó
chủ tịch HĐND. Từ đây việc triệu tập kỳ họp HĐND, điều hòa phối hợp hoạt
động của các thuộc HĐND được chuyển giao cho Thường trực HĐND ở cấp
tỉnh và cấp huyện, Chủ tịch và Phó chủ tịch HĐND ở cấp xã. Việc chủ tọa các
kỳ họp HĐND từ đây đi vào nề nếp, ổn định. Các kỳ họp HĐND không phải
bầu ra đoàn chủ tịch lâm thời như các kỳ họp trước đây. Việc Chủ tịch, Phó chủ
tịch HĐND triệu tập và chủ tọa các kỳ họp trong suốt nhiệm kỳ của HĐND là
điều kiện thuận lợi để bảo đảm tính ổn định, khoa học trong việc điều khiển các
phiên họp trong đó có việc nghe và thảo luận các báo cáo của UBND, TAND,
VKSND cùng cấp cũng như các báo cáo thẩm tra, điều khiển việc chất vấn và
trả lời chất vấn của đại biểu. Hoạt động giám sát của HĐND tại kỳ họp từng
bước được nâng cao.
Mặt khác, các Luật HĐND và UBND nói trên cũng quy định ở cấp tỉnh và
cấp huyện có Thường trực HĐND. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng, để thông
qua Thường trực, HĐND thực hiện quyền giám sát thường xuyên của mình đối
với UBND,TAND, VKSND cùng cấp cũng như các cơ quan Nhà nước khác,
các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội… ở địa phương để đảm bảo cho nghị quyết

của HĐND và các văn bản pháp luật của cơ quan Nhà nước cấp trên được thực
hiện. Từ đây HĐND có thêm hình thức giám sát mới, giám sát thường xuyên
thông qua hoạt động giám sát của Thường trực HĐND.
Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa, đất nước ta đang có những bước
chuyển mình mạnh mẽ, với nhiều thành công, thuận lợi nhưng cũng không ít
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 20
khó khăn, thách thức. Để thích ứng với hoàn cảnh lịch sử mới, Quốc hội đã sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 vào năm 2001. Đẩy mạnh cải cách trong tổ
chức bộ máy nhà Nước theo hướng làm trong sạch, vững mạnh chính quyền địa
phương, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ra đời với nhiều quy định
mới tiến bộ. Đặc biệt, Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã dành riêng
Chương III với 24 Điều từ Điều 57 đến Điều 81 để quy định về hoạt động giám
sát của HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và đại biểu HĐND
Từ sau khi Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có hiệu lực pháp luật
hoạt động giám sát của HĐND ngày càng được quan tâm hơn và có hiệu quả
hơn, vai trò của HĐND với việc phát triển kinh tế, xã hội ở địa phương ngày
càng được khẳng định, góp phần nâng cao đời sống của nhân dân.
Như vậy, xuyên suốt chiều dài lịch sử lập Hiến và lập pháp ở nước ta các
quy định về HĐND vừa được kế thừa đồng thời lại có sự sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện. Mỗi bản Hiến pháp tuy được ban hành trong một hoàn cảnh lịch sử
nhất định và thực hiện những nhiệm vụ riêng phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của
từng thời kỳ cách mạng. Song tất cả các bản Hiến pháp đều khẳng định vai trò
quan trọng của HĐND trong bộ máy tổ chức Nhà nước, đặc biệt là tầm quan
trọng của hoạt động giám sát.
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 21
CHƯƠNG 2: HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
THEO PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
2.1. Những quy định của pháp luật hiện hành về hoạt động giám sát của

Hội đồng nhân dân.
Qua quá trình phát triển về tổ chức bộ máy Nhà nước, vai trò, chức năng
giám sát của HĐND ngày càng được hoàn thiện. Sắc lệnh số 63/SL ngày
23/11/1945 về tổ chức chính quyền địa phương tuy không trực tiếp sử dụng
khái niệm “giám sát” trong hoạt động của HĐND, nhưng các quy định về thẩm
quyền của HĐND trong Sắc lệnh có thể thấy chức năng giám sát của HĐND đã
được xác nhận, thể hiện rõ nét ở các quy định về quyền của HĐND bỏ phiếu tín
nhiệm đối với Ủy ban hành chính. Tuy nhiên, với quy định của văn bản này,
mức độ giám sát của HĐND với Ủy ban hành chính nhìn chung còn hạn chế.
Từ Luật tổ chức HĐND và UBND 1983 đã chính thức sử dụng khái niệm
“giám sát” để xác nhận chức năng giám sát của HĐND. Đến Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 1994, chức năng giám sát của HĐND một lần nữa được
quy định đầy đủ và cụ thể hơn. Đặc biệt, với sự ra đời của Luật tổ chức HĐND
và UBND năm 2003, đánh dấu một bước phát triển mới về chức năng giám sát
của HĐND về cả mặt lý luận và thực tiễn hoạt động, nâng cao được vị thế và
vai trò của HĐND trong giai đoạn hiện nay.
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ra đời với khá nhiều điểm mới như:
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có một điều riêng quy định về
trình tự, thủ tục bỏ phiếu tín nhiệm. Tại Điều 65 “Thường trực Hội đồng nhân
dân trình Hội đồng nhân dân về việc bỏ phiếu tín nhiệm; người được đưa ra bỏ
phiếu tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của mình trước Hội đồng nhân dân;
Hội đồng nhân dân thảo luận và bỏ phiếu tín nhiệm”
Trên thực tế Thường trực HĐND ở các địa phương trong nhiều năm qua
chỉ có một người hoạt động chuyên trách (thông thường Chủ tịch HĐND là Bí
thư cấp ủy tương ứng hoạt động kiêm nhiệm). Vì vậy, Thường trực không thể
bao quát hết công việc càng không thể đa năng và không có đủ thời gian để
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 22
giám sát nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Hoạt động giám sát thường xuyên của
HĐND thông qua Thường trực cũng vì thế mà bị hạn chế rất nhiều

Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 xuất phát từ yêu cầu thực tế đó
đã quy định trong cơ cấu của Thường trực HĐND cấp tỉnh và cấp huyện có
thêm Ủy viên thường trực. Ở cấp xã Chủ tịch và Phó chủ tịch hợp thành thường
trực HĐND (Điều 52). Đây là những quy định mới tổ chức của HĐND cho
tương ứng nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Tuy nhiên, việc thêm Thường trực
ở HĐND cấp tỉnh và cấp huyện cũng như thành lập Thường trực ở HĐND cấp
xã là đương nhiên, hoạt động của HĐND nói chung và hoạt động giám sát nói
riêng được nâng cao hiệu lực và hiệu quả. Để đạt được điều này cần thiết phải
đổi mới về nhận thức của cấp ủy đảng và các đại biểu HĐND khi bầu ra Chủ
tịch và Phó chủ tịch, Ủy viên thường trực của HĐND cấp mình. Việc bố trí các
cán bộ chủ chốt nói trên phải tương xứng với vai trò, vị trí của HĐND, phải là
người có uy tín, năng lực và tâm huyết với hoạt động của HĐND. Thực tiễn đã
chững minh ở đâu làm tốt công tác nhân sự Thường trực thì ở đó HĐND hoạt
động có hiệu quả và hoạt động giám sát của Thường trực đối với UBND cùng
cấp mới đúng với ý nghĩa của nó không bị coi là “chuyện nhỏ”.
Theo Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì HĐND còn thực hiện
quyền giám sát của mình thông qua hoạt động giám sát của các ban chuyên
môn. Giữa hai kỳ họp HĐND, các ban chuyên môn có nhiệm vụ giúp HĐND
và Thường trực HĐND giám sát thường xuyên hoạt động của UBND, TAND,
VKSND cùng cấp cũng như hoạt động của các cơ quan Nhà nước khác, các tổ
chức…ở địa phương trong lĩnh vực chuyên môn của mình. Như vậy, từ đây
hoạt động giám sát của HĐND ngoài hình thức giám sát qua Thường trực
HĐND còn có thêm hình thức giám sát thường xuyên thông qua các Ban
chuyên môn.
Các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát của HĐND, là yếu tố
đầu tiên tác động rất lớn đến hiệu quả của hoạt động giám sát, là cơ sở pháp lý
cho hoạt động của HĐND thực hiện hoạt động giám sát của mình. Nếu luật
không quy định một cách cụ thể về hoạt động giám sát của HĐND thì việc ghi
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 23

nhận chức năng giám sát của HĐND trong Hiến pháp cũng chỉ là một hình
thức. Điều này đã được chững minh trong thực tiễn phát triển của Luật tổ chức
HĐND và UBND. Luật tổ chức HĐND và UBND các năm 1989 và 1994 có
quy định về chức năng giám sát của HĐND nhưng rất khái quát chung chung…
Điều này là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả giám sát thấp. Việc
Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 cụ thể, chi tiết hóa chức năng giám
sát, nhờ đó hiệu quả giám sát của HĐND trong thực tiễn đã được nâng lên rất
nhiều, đánh dấu những bước tiến mới trong hoạt động giám sát.
2.2. Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân.
Theo quy định của Hiến pháp và Luật tổ chức HĐND và UBND năm
2003 thì hoạt động giám sát của HĐND được đảm bảo thực hiện thông qua
hoạt động giám sát của HĐND tại các kỳ họp, hoạt động giám sát của Thường
trực HĐND, hoạt động giám sát của các Ban của HĐND và hoạt động giám sát
của đại biểu HĐND.
2.2.1 Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân tại kỳ họp.
HĐND chiếm một vị trí quan trọng trong cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà
nước, có vai trò quyết định đối với sự phát triển của chính quyền địa phương.
Bởi vậy hiệu quả hoạt động của HĐND luôn là vấn đề được quan tâm, chú
trọng. Điều 8 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ghi nhận “Hiệu quả
hoạt động của HĐND được bảo đảm bằng hiệu quả của các kỳ họp HĐND ,
hiệu quả hoạt động của Thường trực HĐND, UBND, các Ban của HĐND và
của các đại biểu HĐND”. Xuất phát từ vị trí, tính chất, chức năng của HĐND là
cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, cơ quan đại biểu của nhân dân ở
địa phương, từ bản chất dân chủ trong cơ cấu tổ chức quyền lực Nhà nước, nên
dù ở bất kỳ giai đoạn nào kỳ họp HĐND vẫn luôn được xác định là một hình
thức hoạt động quan trọng nhất của HĐND. Ngay trong sắc lệnh số 63 ngày
22/11/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân xã, huyện, tỉnh, kỳ và Sắc lệnh số
77 ngày 21/12/1945 về tổ chức chính quyền nhân dân thành phố, thị xã, khu
phố đã có nhiều quy định về kỳ họp HĐND. Đó là hội nghị định kỳ gồm các
phiên họp của toàn thể (đa số) các đại biểu HĐND để bàn bạc và quyết định

Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 24
những vấn đề quan trọng của địa phương được nêu ra trong chương trình của
phiên họp. HĐND làm việc tập trung và có hiệu quả nhất trong các kỳ họp của
mình thông qua kỳ họp ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương được
chuyển thành quyết định của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, có ý
nghĩa bắt buộc.
Theo Điều 48 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003, HĐND họp
thường lệ mỗi năm 2 kỳ (trước đây 3 tháng một kỳ). Ngoài kỳ hợp thường lệ,
HĐND còn tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc bất thường theo đề nghị của
Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp hoặc khi có ít nhất 1/3 tổng số đại
biểu HĐND cùng cấp yêu cầu.
Thường trực HĐND quyết định triệu tập kì họp thường lệ của HĐND
chậm nhất là 20 ngày, kỳ họp chuyên đề hoặc bất thường chậm nhất là 10 ngày
trước ngày khai mạc kỳ họp. Kỳ họp HĐND được tiến hành (được coi là hợp
lệ) khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu HĐND tham dự.
Tại kỳ hợp, HĐND nhân dân thảo luận dân chủ và quyết định theo đa số
các công việc quan trọng của địa phương thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình,
bầu ra Thường trực HĐND, UBND ...và thực hiện hoạt động giám sát đối với
UBND, TAND, VKSND cùng cấp. Nếu giám sát của Thường trực, các Ban và
đại biểu HĐND là thường xuyên thì giám sát tại kỳ họp là hình thức giám sát
theo định kỳ của HĐND. Nó mang tính chất tổng hợp toàn diện đối với tất cả
các đối tượng thuộc phạm vi giám sát của HĐND. Theo Điều 1 Luật tổ chức
HĐND và UBND năm 2003 thì: “HĐND thực hiện quyền giám sát đối với hoạt
động của Thường trực HĐND, UBND, TAND, VKSND cùng cấp; giám sát
việc thực hiện các nghị quyết của HĐND; giám sát việc tuân theo pháp luật của
cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và
của công dân ở địa phương”. Như vậy, đối tượng chịu sự giám sát của HĐND
rất rộng, bao quát toàn bộ hoạt động của địa phương.
Tại kỳ họp theo quy định tại Điều 58 Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003

HĐND giám sát thông qua các hoạt động sau:
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D
Khoá luận tốt nghiệp 25
Thứ nhất: HĐND xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND,
UBND, TAND, VKSND cùng cấp.
Mục đích của việc xem xét báo cáo công tác của Thường trực HĐND,
UBND,TAND, VKSND cùng cấp và các văn bản tài liệu khác được trình ra
trong kỳ họp của HĐND trong đó có cả các dự thảo nghị quyết của HĐND là ở
chỗ, đây là cơ sở để đại biểu HĐND tham gia vào việc quyết định các vấn đề
quan trọng của địa phương trên tất cả các lĩnh vực thuộc chức năng, nhiệm vụ
của HĐND và sự thể hiện tập trung nhất của khâu này là việc đại biểu HĐND
biểu quyết thông qua nghị quyết của HĐND trong kỳ họp. Các quyết định của
HĐND được thể hiện dưới hình thức nghị quyết. Các nghị quyết này phải căn
cứ vào Hiến pháp, luật và các văn bản pháp luật khác của cơ quan Nhà nước
trung ương; quyết định của cấp trên và phải được quá nửa tổng số đại biểu
HĐND biểu quyết tán thành, trừ trường hợp bãi nhiệm đại biểu HĐND thì phải
được ít nhất là 2/3 tổng số đại biểu HĐND biểu quyết tán thành mới có giá trị.
Nếu trước đây, sau khi nghe người đứng đầu cơ quan trình bày báo cáo,
phần lớn đại biểu thống nhất theo báo cáo ít có ý kiến phản biện, nên các báo
cáo thường được thông qua kỳ họp một cách chóng vánh, hiện nay, đặc biệt là
từ nhiệm kỳ 2004- 2009 ở HĐND nhiều tỉnh, thành phố việc xem xét báo cáo
đã có nhiều đổi mới. Sau khi người đứng đầu cơ quan trình bày báo cáo, các đại
biểu HĐND đã thảo luận, góp ý kiến khá sôi nổi, số đại biểu tham gia đóng góp
ý kiến, thảo luận, tranh luận ngày càng nhiều và thiết thực hơn, bước đầu khắc
phục được tính qua loa, đại khái, hình thức.
Thứ hai: Đại biểu tiến hành chất vấn và nghe trả lời chất vấn tại kỳ họp.
Chất vấn và trả lời chất vấn là hoạt động quan trọng trong kỳ họp HĐND.
Chất vấn không phải là câu hỏi thông thường mà là một đòi hỏi làm rõ một hay
nhiều sự việc “có vấn đề”, tức là biểu hiện sự không chấp hành, không thi hành
đúng nghị quyết của HĐND và của cấp trên, biểu hiện vi phạm pháp luật mà

đại biểu thấy có cơ sở vững chắc. Chất vấn của đại biểu nêu ra mà được HĐND
tán đồng thì được coi như một vấn đề của chương trình nghị sự.
Nguyễn Thị Thanh Huyền – HC31D

×