Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

CON NGƯỜI THƯƠNG THÂN MỘT BIỂU HIỆN ĐỘC ĐÁO CỦA Ý THỨC CÁ NHÂN TRONG THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.84 KB, 14 trang )

CON NGƯỜI THƯƠNG THÂN - MỘT BIỂU HIỆN ĐỘC
ĐÁO CỦA Ý THỨC CÁ NHÂN TRONG THƠ CHỮ HÁN
NGUYỄN DU
Trong bối cảnh văn hoá, xã hội của thời trung đại, không có
những điều kiện dành sẵn cho con người phát triển năng lực tự ý
thức về mình với tư cách cá nhân. Những nguyên tắc thẩm mĩ
của thời đại này “giống như những tấm màng lọc, những biểu
hiện trực tiếp của cảm xúc con người khó lòng lọt qua để thấm
vào thơ ca, nghệ thuật”
(1)
. Phải cần đến những biến đổi đặc biệt
của thời đại, của cuộc đời người nghệ sĩ mới có thể tạo nên
những xung động tinh thần mãnh liệt có khả năng phá vỡ rào
cản ấy. Bối cảnh lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đầu thế
kỉ XIX và số phận đại thi hào Nguyễn Du hội tụ đầy đủ những
điều kiện đó.
Cuộc đời Nguyễn Du gắn với một giai đoạn lịch sử đầy những
biến động bất ngờ, dữ dội. Trong mấy cuộc thương hải tang
điền, dòng họ, gia đình và bản thân Nguyễn Du đã trải qua
không ít thăng trầm, mất mát. Hiện thực phũ phàng, nghiệt ngã
khiến nhà thơ cảm nhận về mình như một kiếp người nhỏ nhoi,
đáng thương giữa cõi đời. Đọc các thi tập của ông, cứ thấy trở đi
trở lại kiểu nhân vật trữ tình “Giật mình mình lại thương mình
xót xa”(Truyện Kiều). Con người thương thân ấy đã trở thành
một hình tượng nghệ thuật đặc sắc trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du.
1. Cảm thương thân phận cô đơn, lưu lạc giữa dòng đời dâu
bể
Thống kê ở Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp ngâm, đã thấy
có đến 80 lần Nguyễn Du “tự hoạ” chân dung như một con
người đơn độc, mang nặng nỗi đau mất gia đình, thiếu quê


hương. Tâm trạng này bắt nguồn từ những bất hạnh nhà thơ
từng nếm trải: cha mẹ mất sớm, tuổi niên thiếu sống nương nhờ
người anh trai cùng cha khác mẹ; những biến cố bất ngờ của
thời đại và gia tộc; cảnh "ăn gửi nằm nhờ" suốt mười năm nơi
đất Bắc Tất cả đã gieo vào tâm hồn Nguyễn Du cảm giác bơ
vơ, trơ trọi của con người bị tước đi mọi điểm tựa, mọi nguồn an
ủi: gia đình tan tác,thiếu vắng tri âm, lạc lõng, hoang mang giữa
cuộc đời: “Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tục/ Loạn thế toàn
sinh cửu uý nhân”(Chốn tha hương nuôi dưỡng cái vụng về để
phòng kẻ tục/ Đời loạn muốn bảo toàn sinh mệnh nên sợ người
đã lâu- U cư I)
(2)

Sự đối lập mình với người đời vốn là cách nói, là tâm trạng
thông thường của nhiều nhà nho phải sống vào thời mạt. Họ
muốn tự tách mình khỏi thế tục tầm thường để khẳng định bản
lĩnh cứng cỏi và nhân cách thanh cao:“Ta dại ta tìm nơi vắng
vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao”(Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Trong nỗi cô đơn của họ, ta vẫn thấy niềm tự hào và tư thế kiêu
hãnh của những con người “độc thiện kỳ thân”. Nhưng với
Nguyễn Du, sự đối lập này là để xót xa, thương cảm cho mình.
Ông xót thương con người cô đơn bị ném vào chốn dị hương,
loạn thế, nơi biến đổi khôn lường và tiềm ẩn nhiều tai hoạ, hiểm
nguy. Mọi miền đất với ông đều xa lạ, đều hoá thành không
gian đất khách và chỉ khơi lên niềm đau của một dị hương
nhân: “Thập tải phong trần khứ quốc xa/ Tiêu tiêu bạch phát ký
nhân gia(Mười năm gió bụi dời kinh thành đi xa/ Đầu bạc phơ
phơ ở nhờ nhà người - U cư II); “Bách niên thân thế uỷ phong
trần/ Lữ thực giang tân hựu hải tân” (Thân thế trăm năm mặc
cho gió bụi/ Ăn nhờ ở bến sông rồi ăn nhờ ở bãi bể - Mạn hứng

I) Cảm giác tha hương trở thành nỗi ám ảnh khôn nguôi
trong tâm hồn Nguyễn Du. Và đi tới nơi nào, kẻ lữ hành mệt
mỏi ấy cũng thấy mình chông chênh, bất an vì nỗi “Nắng mưa
thui thủi quê người một thân” (Truyện Kiều)! Bao giờ và ở đâu,
Nguyễn Du cũng chỉ có một mình.
Một mình đối diện với thời gian- thường là những đêm dài
thao thức trong cô lẻ. Trong 60 lần Nguyễn Du tả cảnh đêm
vắng lặng, luôn thấy hiện lên hình ảnh một con người cô độc,
trầm ngâm, đắm mình trong suy tưởng. Người ấy một mình lắng
nghe tiếng côn trùng rả rích, tiếng dế, tiếng vượn kêu ai oán,
tiếng mưa rơi, gió thổi, tiếng tù và, tiếng trống điểm canh để
chờ từng thời khắc trôi qua. Bao nhiêu mối sầu dồn về trong
bóng tối, bao phủ tâm hồn: “Tiễn đăng độc chiếu sơ trường
dạ” (Một mình khêu ngọn đèn soi đêm mới bắt đầu dài - Thu dạ
II ); “Côđăng tương đối đáo thiên minh” (Ngọn đèn cô đơn đối
diện với mình cho đến sáng - Mạc phủ tức sự)
Một mình đối diện với không gian- thường là mênh mông, hiu
quạnh: “Thiên lí giang sơn tần trướng vọng/ Tứ thời yên
cảnh độc trầm ngâm” (Sông núi nghìn dặm bao lần trông
ngắm /Mây khói bốn mùa một mình trầm ngâm -Thu dạ II);
“Nam minh phù nguyệt tàn thiên lí/ Cổ mạch hàn phong
cộng nhất nhân”(Trên biển nam trăng tà dập dờn ngàn dặm/
Trên lối xưa chỉ có một người với gió lạnh - Dạ hành)
Một mình chống chọi với những bất hạnh, đau thương:
"Thập niên túc tật vô nhân vấn" (Bệnh cũ mười năm không ai
thăm hỏi - Ngọa bệnh II), "Nhất thân ngoạ bệnh đế thành đông"
(Một thân nằm bệnh ở phía đông hoàng thành - Ngẫu đề )
Nhiều khi tâm sự chất chồng, trào dâng, người nghệ sĩ cô đơn
cũng chỉ một mình đối bóng, tự mình trò chuyện với mình:
“Thành đầu văn hoạ giác/ Tự ngữ đáo thiên minh” (Nghe tiếng

tù và vọng lên ở đầu thành/ Một mình nói chuyện với mình cho
đến sáng - Quế Lâm công quán); “Bồi hồi đối ảnhđộcvô ngữ”
(Bồi hồi trước bóng một mình yên lặng - La Phù giang thuỷ các
độc toạ)
Thậm chí, Nguyễn Du “một mình” ngay cả khi ông đảm nhận
vai trò chánh sứ, mang theo không ít tùy tùng và chắc chắn đi
tới đâu cũng được tiếp đãi chu tất. Khi bôn ba trên con đường
núi non hiểm trở, hay dừng lại chốn thôn nội, thành phủ, công
quán - lúc nào nhà thơ cũng cảm thấy đơn độc, lẻ loi: “Nhất lộ
giai lai duy bạch phát” (Suốt dọc đường chỉ có ta và mái tóc bạc
- Nam Quan đạo trung); “Tây phong ỷ cô hạm” (Trước ngọn gió
tây, một mình đứng dựa lan can - Đăng Nhạc Dương lâu)
Nguyễn Du luôn khao khát một tấm tình tri kỉ nhưng giữa thời
loạn lạc, hỗn độn, người nghệ sĩ cô đơn ấy đành tự “phân thân”:
nửa này thiết tha tỏ bày tâm sự; nửa kia đón nhận, cảm thương
với tất cả sự thấu hiểu và niềm xót đau.
2. Cảm thương cho kiếp sống mòn mỏi, vô nghĩa
Nguyễn Dusinh trưởng trong một gia đình, một dòng họ nổi
tiếng với nhiều người thành đạt trong khoa bảng, trong văn
chương và trên trường chính trị. Bản thân ông là người có tài
năng và từng nuôi giấc mộng gác vàng, từng ôm ấp nhiều hùng
tâm, tráng chí. Nhưng sự đổi thay bất ngờ, dữ dội của thời đại
và sự sa sút của một "danh gia vọng tộc" đã biến ông thành kẻ lỡ
thời, thất thế. Được nuôi dưỡng trong bầu "khí quyển" của một
dòng họ cao sang, của truyền thống Nho giáo đặc biệt đề cao
chuyện lập thân, Nguyễn Du không thể không trăn trở, tủi hờn,
đau xót vì nông nỗi sống chửa nên danh, thư kiếm không
thành Thậm chí, hàng chục năm trời, ông rơi vào cảnh sinh kế
mờ mịt: "Tha niên hải nội tri danh sĩ/ Kim nhật thành trung khất
thực nhân" (Năm xưa cả nước từng biết tiếng danh sĩ/ Mà nay là

người ăn xin ở kinh thành Thăng Long - Nguyễn Hành) Hiếm
thấy một nhà thơ nào khác thời trung đại viết nhiều, đau thật
nhiều về cái nghèo, về sự cùng quẫn trong sinh kế như Nguyễn
Du. Nhà thơ dường như còn cố ý tô đậm cảnh nghèo khó, khốn
cùng của mình. Ông miêu tả bản thân như một kẻ phải ăn nhờ ở
đậu chai sạn tới mức quên mình là khách, kẻ ăn xin khắp chân
trời góc bể, sống nhờ vào lòng thương hại của người thiên hạ
Ông nhìn thấu sự trói buộc, tàn phá ghê gớm của miếng cơm
manh áo tầm thường. Nó đày đọa, vùi dập tâm hồn, tước đi của
con người bao khát vọng đẹp đẽ, bao niềm vui sống: “Bạch đầu
sở kế duy y thực/ Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên” (Đầu bạc mãi
chỉ lo chuyện cơm áo/ Làm thế nào được hát ngông như thời
niên thiếu - Dạ tọa). Từ những trải nghiệm nhân sinh, Nguyễn
Du tự ý thức về mình như một thân phận nổi chìm, trôi dạt
không phương hướng giữa cõi đời dâu bể. Cái nhìn hướng nội
của nhà thơ thường nhuốm đầy chua xót, thất vọng. Bao giá trị
tinh thần từng nâng đỡ tâm hồn giờ đã thành vô nghĩa: “Nhất
sinh từ phú tri vô ích/ Mãn giá cầm thư đồ tự ngu” (Một đời từ
phú biết là vô ích/ Sách đàn đầy giá chỉ làm cho mình thêm ngu
– Mạn hứng). Ngoái về chiều nào của thời gian sống, ông cũng
thấy sự đổ vỡ, mất mát: “Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên/
Hùng tâm, sinh kế lưỡng mang nhiên” (Người tráng sĩ đầu bạc
buồn trông trời/ Hùng tâm lẫn sinh kế, cả hai đều mờ mịt – Tạp
thi ). Quá khứ vàng son đã “nhất khứ bất phục phản”, hiện tại
phũ phàng, nghiệt ngã, còn tương lai thì mịt mù, ảm đạm.
Không biết bao nhiêu lần, nhà thơ đã phải khóc thương cho sự
mòn mỏi, lụi tàn của tài năng, tâm hồn: “Xuân lan thu cúc
thành hư sự/ Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên” (Thú xuân lan,
thu cúc thành chuyện hão/ Hè nóng đông rét cướp mất tuổi trẻ
- Tạp thi); “Tráng niên ngã diệc vi tài giả/ Bạch phát thu phong

không tự ta” (Thủa trẻ ta cũng là người có tài năng ví như cây
gỗ tốt /Nay đầu bạc chỉ còn biết than thở trước gió thu - Vĩnh
Châu Liễu Tử Hậu cố trạch)
Những tưởng nỗi đau xót, tiếc nuối cho tuổi trẻ, tài năng đang
trôi đi hoài phí sẽ tan biến khi Nguyễn Du ra làm quan cho nhà
Nguyễn, được trọng dụng và hanh thông trên con đường công
danh. Nhưng hoá ra, ông chưa bao giờ có được cơ hội để thực
hiện hùng tâm, tráng chí, để “phát huy tận độ” những khả năng
sẵn có trong bản thân mình. Ông không dấu diếm sự chán
chường đối với con đường danh lợi và không thể không xót xa,
thương hại cho mình khi bị cột chặt vào cảnh sống “không bệnh
mà lưng lom khom”. Sinh trưởng trong gia đình đại quý tộc
phong kiến, Nguyễn Du đâu có xa lạ với môi trường quan lại.
Nhưng phải đến khi thực sự dấn thân vào chốn quan trường giữa
một xã hội đang trong chiều đi xuống, ông mới tự mình thấm
thía những chông gai. Đó không chỉ là nơi phải dè dặt, cẩn thận
đến cả nụ cười, giọng nói, phải ngẫm nghĩ đến cả thoáng chau
mày mà còn bào mòn, huỷ hoại bao thiên tính tốt đẹp của con
ngươì. Nhà thơ đau xót vì một chút công danh nhỏ mọn, mình
như viên ngọc phác không còn giữ nổi khuôn mặt thật. Nhiều
bài thơ viết trong thời gian làm quan trĩu nặng cảm giác cay
đắng, tủi thẹn về nông nỗi tàn, thất, bất toàn của bản thân:
“Thương tàn vật tính bi phù hĩnh/ Khắc lạc thiên chân thất mã
đề (Làm hại tính tự nhiên của vật, ái ngại chân con le bị nối dài
ra/ Xuyên tạc tính thiên nhiên làm mất cả ý nghĩa của thiên mã
đề - Ngẫu hứng I). Thậm chí, ngay cả khi đứng đầu đoàn sứ bộ –
một trọng trách mà kẻ sĩ thường đón nhận với tất cả niềm tri ân
và tự hào – Nguyễn Du cũng không giải toả được nỗi đau
kia:“Vạn lí lợi danh khu bạch phát” (Vì lợi danh, tóc bạc còn
phải xông pha trên con đường ngàn dặm - Từ Châu đạo trung)

Nguyễn Du luôn khao khát từ bỏ cuộc sống quan trường, tìm về
với hươu nai, tùng bách non Hồng mà không thể thực hiện được
ước nguyện đó. Vì nhiều lẽ, nhà thơ đã phải chấp nhận làm quan
đến tận cuối đời, nhưng chưa lúc nào ông có thể gắn nó với lí
tưởng “trí quân trạch dân” để mà tự hào hay thanh thản. Trái lại,
ông canh cánh bên lòng nỗi tủi hờn: “Khả liên bạch phát cung
khu dịch/ Bất dữ thanh sơn tương thuỷ chung (Thương mình đầu
bạc còn phải lận đận/ Thẹn không cùng non xanh giữ được thuỷ
chung - Vọng Thiên Thai tự); “Hồng Sơn tàm phụ nhất sơn
vân”(Thẹn mình đã phụ làn mây núi Hồng - Giản Công bộ
Thiêm sự Trần)
Nỗi day dứt của Nguyễn Du khiến nhiều người cho rằng
ông mang tâm sự của người bề tôi phải thờ hai chúa. Thiết nghĩ,
Nguyễn Du tiếp nhận truyền thống tư tưởng Nho giáo nhưng
không phải là người bị trói buộc vào khuôn mẫu giáo điều của
đạo đức phong kiến. Ông nhìn thấu cái qui luật "Cổ kim vị kiến
thiên niên quốc" (Xưa nay chưa thấy triều đại nào được nghìn
năm- Vị Hoàng doanh). Vì thế, nỗi đau này nảy sinh từ sự tỉnh
táo, trong sạch của tâm hồn Nguyễn Du khi đối diện con
đường đầy hỗn tạp và nhơ bẩn chốn quan trường. Sự suy thoái
của chế độ phong kiến đương thời đã làm sụp đổ rường cột đạo
đức, làm tan vỡ giấc mơ và niềm hi vọng tạo dựng một xã hội
Nghiêu Thuấn. Bằng cảm quan nhạy bén của một nghệ sĩ lớn,
Nguyễn Du nhìn thấu bản chất của hiện thực đó: “Đời sau người
người đều là Thượng Quan/ Mặt đất này đâu đâu cũng là sông
Mịch La” (Phản Chiêu hồn). Ông không chấp
nhận say, đục theo thời nhưng đành bất lực trước thực tại. Bấy
nhiêu giằng xé, thất vọng khiến tâm hồn nhà thơ luôn u uất, có
lúc hoá thành bi phẫn cất lên tiếng kêu thương ai oán của một
con người khát khao khẳng định tài năng, ước mơ về một cuộc

sống hào hùng, đẹp đẽ mà rốt cuộc phải thấy mình chết mòn
trong kiếp sống vô nghĩa, bế tắc.
3. Cảm thương cho chiếc thân hữu hạn, mong manh
Đối với Nguyễn Du, con người đáng thương không chỉ vì cái
tâm dễ bị vùi dập, cái tài dễ bị bào mòn mà còn vì thân xác
mong manh, hữu hạn. Cảm nhận về Thân cũng là một cách nhận
biết trực tiếp về cuộc sống cá nhân : “Thân là “hình nhi hạ”, là
cái phần vật chất duy nhất của con người, là phần hữu hạn, bé
nhỏ, dễ hư nát và đau đớn nhất của bất cứ ai”
(3)
. Có lẽ Nguyễn
Du là một trong những nhà thơ nói nhiều nhất đến cái thân hữu
hạn, đáng thương ấy của con người. Riêng trong thơ chữ Hán,đã
có20 lần ôngtrực tiếp viết về chữ thân; 30 lần miêu tả tình trạng
hao gầy, tiều tuỵ của thân (nhan trạng, nhan thời sấu, suy nhan,
truân cốt tướng, lão sấu, lão bệnh dư, lưu bì cốt ). Nếu các nhà
thơ Thiền đời Lý - Trần miêu tả tấm thân trần thế nhỏ nhoi, dễ
dàng tan biến để thể hiện thái độ bình thản, an nhiên trước lẽ vô
thường thì Nguyễn Du nói đến thân để mà ngậm ngùi, thương
cảm. Nhà thơ đau xót chochiếc thân trôi nổi "Trú cửu đốn vong
thân thị khách"(Ở trọ lâu ngày quên thân mình là khách - U cư ),
"Bách niên thân thế ủy phong trần / Lữ thực giang tân hựu hải
tân" (Thân thế trăm năm mặc cho gió bụi/ Ăn nhờ hết bãi sông
rồi đến bãi bể) Ông tiếc cho tấm thân mòn mỏi, bất lực trước
sự huỷ hoại của thời gian "Sinh vị thành danh thân dĩ suy"
(Sống chưa nên danh phận thân đã héo gầy- Tự thánI), “Xuân
nhật hữu thân phi thiếu tráng" (Ngày xuân nhưng thân mình
không còn trẻ nữa - Thanh Minh ngẫu hứng) Ông xót
thương thân cô độc, lẻ loi giữa cõi người: "Tam xuân tích bệnh
bần vô dược/ Táp tải phù sinh hoạn hữu thân" (Bệnh đã ba năm

nghèo không có thuốc/ Cuộc phù sinh ba mươi năm phải lo vì có
thân), "Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ" (Tấm thân nhiều bệnh
phó mặc cho đường sá - Thủy Liên đạo trung tảo hành). Ông
đau buồn, thương hại cho thân bị cầm tù, trói buộc: "Trắc thân
bất xuất hữu hình ngoại " (Tấm thân không thể ra ngoài vòng
hữu hình - Mộ xuân mạn hứng), "Thử thân dĩ tác phàm lung vật/
Hà xứ trùng tầm mãn hạn du"(Thân này đã làm chim trong lồng/
Biết tìm đâu lại cuộc chơi phóng lãng? - Tân thu ngẫu hứng)
Ý thức và niềm thương cảm cho sự mong manh, hữu hạn của
chiếc thân trần thế kết đọng lại trong hình ảnh con người đầu
bạc, tóc ngắn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Đây vốn là những
thi liệu ước lệ quen thuộc của thơ xưa. Nhiều tác giả cùng thời
với Nguyễn Du như Nguyễn Đề, Lê Quang Định, Trịnh Hoài
Đức, Ngô Thì Nhậm, Đoàn Nguyễn Tuấn, Ngô Nhân Tĩnh
cũng mượn hình ảnh nàyđể mô tả sự đổi thay của con người trên
dòng chảy thời gian. Họ thường bộc lộ cách nhìn mang tính ước
lệ, khuôn mẫu - ung dung, điềm tĩnh trước sự biến đổi tất yếu
của hình xác con người. Nhiều khi họ còn tự hào coi đó là bằng
chứng của tấm lòng báo quốc (Phong sương vốn là tiết của
người bầy tôi/ Đành để cho trong gương hai mái tóc bạc- Lê
Quang Định) Có người còn tả tóc bạc để khoe hồn trẻ trung,
tình tứ hoặc nhân chuyện râu tóc đổi thay mà nêu cao chí khí
không già (Đêm khuya thắp nến ngắm râu ông/ Nực cười cho ta
cũng đã là một cụ già/ Ngày tháng soi gương cán rìu chưa nát/
No buồm trung tín thuyền vẫn đương trôi - Ngô Thì Nhậm)
Với Nguyễn Du, mái đầu bạc đã trở thành “tín hiệu” riêng của
nỗi thương thân. Có đến 45 lần ông “tự hoạ” mình với chi tiết
ngoại hình giàu ý nghĩa ẩn dụ này: bạch phát, bạch đầu, phát
đoản, tản phát, đầu bạch, đầu dĩ bạch như ngân Hình ảnh đầu
bạc xuất hiện nhiều nhất ở Thanh Hiên thi tập - khi nhà thơ

chưa đầy ba mươi tuổi (23 lần - chiếm 51% / tổng số 45 lần). Nó
không tương ứng với thời gian sống khi hiện diện giữa những
tháng năm lẽ ra là sung sức nhất của đời người. Mái đầu tóc
ngắn, tóc bạc là dấu tích hữu hình của những đau thương, bất
hạnh dội xuống cuộc đời Nguyễn Du. Chúng gợi sự mất mát của
tuổi thanh xuân, sự mòn mỏi của tài năng, chí khí "Bạch
phát tiêu ma bần sĩ khí" (Tóc bạc làm tiêu ma chí khí kẻ sĩ
nghèo-Tặng Thực Đình), "Bạch phát hùng tâm không đốt ta"
(Tóc bạc rồi, dù có hùng tâm nhưng chỉ biết than thở- Khai
song)
Hình ảnh tóc bạc, đầu bạc còn được Nguyễn Du sử dụng để
nhấn mạnh sự nhỏ nhoi, hữu hạn của đời người giữa không gian
vô hạn và dòng thời gian, đầy biến động của cõi đời. Như thể
con người chưa kịp sống, chưa kịp hiểu những đổi thay thế sự
thì đã bị cướp đi tuổi trẻ, ước mơ và hi vọng. Để rồi đến lúc
tưởng chừng có cơ hội thi thố tài năng thì sức lực, tâm huyết đều
mòn mỏi, niềm tin cũng lụi tàn
Niềm thương thân của Nguyễn Du không còn giới hạn ở quan
niệm chung "hữu thân hữu khổ" mà in đậm dấu ấn của những bi
kịch cá nhân. Đối diện với mình, ông cảm thương cho con người
bị cuốn vào cuộc đời dâu bể và hoàn toàn bất lực trước sự trôi
chảy, tàn phá của thời gian, trước bao nhiêu sầu hận riêng
chung Nỗi thương thân cũng là một trong những khuynh
hướng cảm hứng nổi bật nhất trong kiệt tác Đoạn trường tân
thanh của Nguyễn Du. Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh
thống kê 63 chữ Thân “với nghĩa là mình, thân thể”
(4)
. Trần
Đình Sử khẳng định thương thân, xót thân là cảm hứng bao
trùm Truyện Kiều: “Ý thức về thân chính là ý thức về cái phần

cá nhân riêng tư nhất, thực tại nhất của con người. Truyện
Kiềulà một truyện thương thân, xót thân thấm thía nhất”
(5)

Như thế, thương thân, xót thân là một nguồn cảm hứng lớn và
được thể hiện nhất quán trong sáng tác của Nguyễn Du. Hình
tượng con người thương thân trong thơ chữ Hán góp phần lí
giải nỗi thương đời sâu nặng trong Đoạn trường tân thanh –
theo quy luật ứng xử đẹp đẽ, chân thật nhất của tình người:
“Thương người như thể thương thân”. Bởi vì, nỗi thương thân
của Nguyễn Du đâu chỉ nảy sinh từ cảnh ngộ riêng mà còn bắt
nguồn từ mối đồng cảm sâu xa của nhà thơ với mọi nỗi đau bao
trùm thân phận con người: “Tang tử binh tiền thiên lí lệ”(Giọt lệ
nơi nghìn dặm khóc cho cuộc binh đao ở quê hương - Bát
muộn); "Tứ hải phong trần gia quốc lệ" (Bốn bể gió bụi, lệ rơi
vì tình nhà nợ nước - My trung mạn hứng). Con người thương
thân trong các thi tập Nguyễn Du vừa in đậm dấu ấn tâm hồn tác
giả, vừa thể hiện những suy tư, trăn trở của một lớp người, một
thế hệ.
Khi viết về Đỗ Phủ, Nguyễn Du đã ngậm ngùithương cảm:
“Nhất cùng chí thử khởi công thi” (Một thân nghèo đến thế, há
phải vì hay thơ?). Nhà thơ cũng từng nói, trong tiếng ve kêucó
điệu thanh thương não nùng, buốt giá nhưng “Bất thị sầu nhân
bất hứa tri”
(6)
. Người nghệ sĩ phải biết sống sâu sắc với những
khát khao, ước vọng; thấm thía cả những nỗi đau của bản thân
mới có thể hiểu người, hiểu đời - để mà chia sẻ, yêu thương
Con người thương thân và những nghiệm sinh đau đớn đã là một
yếu tố quan trọng góp phần tạo nên chiều sâu và tầm vóc cái tôi

trữ tình trong thơ chữ Hán nói riêng và chủ nghĩa nhân đạo của
Nguyễn Du nói chung. Đây cũng là một bằng chứng đầy sức
thuyết phục về sự xuất hiện của con người cá nhân trong văn
học trung đại.

×