ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
VŨ THỊ HỒNG THỊNH
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)
Chuyên ngành : LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số : 602254
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ VIỆT NAM
Hà Nội – 2013
1
2
Công trình đợc hoàn thành tại: Khoa Lịch sử- ĐHKHXH&NV- ĐHQGHN
Ngời hớng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Hồng Tung
Phản biện 1: PGS.TS. Hồ Khang
Phản biện 2: PGS.TS. Võ Kim Cơng
Luận văn đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận thạc sĩ họp
tại: Khoa Lịch sử- trờng ĐHKHXH&NV- ĐHQGHN.
Hồi 10 giờ ngày 08 tháng 03 năm 2014
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm th viện Đại học Quốc gia Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong sự nghiệp chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, chiến lược đoàn kết quốc tế là một
trong những nhân tố góp phần đưa tới thắng lợi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trên lĩnh vực này, Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người vạch ra đường lối chiến lược đoàn kết quốc
tế, Người vừa trực tiếp tham gia những hoạt động thực tiễn- đối nội và đối ngoại- nhằm từng bước kiến tạo
và mở rộng mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược.
Thực tiễn lịch sử trong suốt thời kỳ kháng chiến chống Mỹ đã kiểm nghiệm trí tuệ Hồ Chí Minh
trong việc giương cao ngọn cờ chính nghĩa, thức tỉnh lương tri nhân loại, biến điều này thành một lực lượng
thực hiện đoàn kết quốc tế. “Việt Nam- Hồ Chí Minh” đã trở thành ngọn cờ vẫy gọi tăng cường sức mạnh
cho phong trào phản chiến của các tầng lớp xã hội Mỹ nói riêng và nhân dân thế giới nói chung, cũng như sự
hình thành trên thực tế một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược vì độc
lập tự do của dân tộc mình và cũng vì độc lập, tự do hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chính là nhịp cầu nối gắn kết lực lượng đồng minh chiến lược và các quốc gia láng giềng
với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không ngừng cụ thể hóa chiến lược
đoàn kết quốc tế để gánh nặng đè lên vai dân tộc Việt Nam nhẹ bớt khi nhận được tình cảm, tấm lòng của
bạn bè khắp năm châu. Bạn bè thế giới không chỉ chi viện, giúp đỡ Việt Nam về vật chất mà còn tích cực
ủng hộ phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam về tinh thần. Từ người lao động đến tầng lớp thanh
thiếu niên, từ những nhà lãnh đạo đến những nhân vật hoạt động chính trị, xã hội nổi tiếng khắp nơi trên thế
giới đã đứng lên phản đối cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam của đế quốc Mỹ. Chính sự tin tưởng, hết lòng
ủng hộ của bè bạn năm châu trong một mặt trận thống nhất như thế, đã góp phần đưa cuộc kháng chiến
chống đế quốc Mỹ của dân tộc Việt Nam đến thắng lợi trọn vẹn.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế còn là một trong những nội dung quan trọng, xuyên suốt
có quyết định tới diễn tiến của những sự kiện tiêu biểu, có khi mang tính bước ngoặt của chiến tranh. Chính
bởi vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế sẽ là một định hướng đúng đắn để hiểu sâu
hơn về cuộc “chiến tranh Đông Dương lần thứ hai” đặt trong diễn tiến của Chiến tranh Lạnh.
Để góp phần vào việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, và làm rõ thêm tiến trình của công cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc từ 1954 đến 1975, chúng tôi chọn vấn đề: “Một số nội dung cơ
bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” (1954-
1975) làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình. Hy vọng rằng, những quan điểm tư tưởng chỉ đạo cụ thể của Hồ
Chí Minh để thực hiện đoàn kết quốc tế sẽ gợi mở cho công tác mở rộng hợp tác quốc tế hiện nay cái nhìn cụ
thể hơn về sự việc, sự kiện, về cách đánh giá, phương pháp xử lý các mối quan hệ phức tạp, đa chiều theo tư
tưởng Hồ Chí Minh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhìn một cách khái quát, các công trình có liên quan đến đề tài nghiên cứu được phân bố theo các
nhóm sau đây:
3
2.1. Nhóm những công trình khoa học về lịch sử Việt Nam, lịch sử Đảng của các học giả trong
nước đề cập đến công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc và đề tài nghiên cứu
Cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam ghi dấu trong lịch sử dân tộc như một trong
những thắng lợi vẻ vang nhất, đã và vẫn tiếp tục được nhận thức, và nghiên cứu chuyên sâu. Bài học về đoàn
kết quốc tế, tập hợp, mở rộng mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của dân tộc đã
được nhận định nhất quán và đề cao ở cả tầm vóc đóng góp vào chiến thắng đã qua và tiền đề cho những
chiến thắng ngày hôm nay, mai sau của đất nước. Các học giả với có những công trình liên quan: Lê Ngọc
Ngọc Dũng, Phạm Xuân Nam, Văn Tiến Dũng, Trần Nhâm, Trần Văn Quang, Nguyễn Đình Ước, Nguyễn
Quốc Dũng, Trịnh Vương Hồng, Phạm Khắc Lãm, Tường Hữu, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Văn
Tiến Dũng, Đinh Nho Liêm, Lưu Văn Lợi, Trịnh Ngọc Thái, Hồ Sơn Đài, Bùi Đình Thanh, Nguyễn Khắc
Huỳnh…
Trong số đó, nổi bật là công trình Hậu phương lớn, tiền tuyến lớn trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước 1954-1975, (Nxb. Từ điển Bách Khoa Hà Nội, 2005), chủ biên Phan Ngọc Liên. Công trình này đã
dành hẳn một dung lượng thích đáng để tập hợp những nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước phản ánh về
đề tài nghiên cứu trên những mặt riêng lẻ và tính tới thời điểm xuất bản. Chính bởi vậy, công trình có ý nghĩa
lớn ở sự kế thừa khi triển khai nghiên cứu đề tài. Bên cạnh đó, công trình Cuộc kháng chiến chống Mỹ của
Việt Nam tác động những nhân tố quốc tế của Nguyễn Khắc Huỳnh, mặc dù trong suốt quá trình phân tích,
lập luận từ đầu tới cuối đều không chỉ đích danh chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh, nhưng lô gíc
trình bày lại toát lên đóng góp to lớn, không thể phủ nhận của chiến lược đoàn kết quốc tế của Hồ Chí Minh.
Ở phần kết luận, tác giả đã nhấn mạnh lại ba nhân tố đưa đến sự giúp đỡ to lớn của bè bạn năm châu cho
công cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, nhân tố tiên quyết đã đưa tới thắng lợi trong cuộc
chiến anh dũng của nhân dân Việt Nam, đã được khẳng định, chính là đường lối đoàn kết quốc tế và sự ứng
xử khôn khéo của Trung ương Đảng LĐVN và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cũng phải kể tới một số nghiên cứu chuyện khảo đã công bố trên các tạp chí khoa học trong nước
có nội dung phản ánh về đề tài nghiên cứu.
Phạm Hồng Tung có bài: Phong trào hòa bình, phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam ở
CHLB Đức, đăng trên Nghiên cứu lịch sử số 11 năm 2009; và bài “Hồ Chí Minh và cuộc chiến tranh ở Việt
Nam” trong hồi tưởng của Khrushchev, đăng trên Nghiên cứu lịch sử số 9, năm 2008. Tác giả đã từ phương
pháp phân tích đa chiều để đạt đến hiệu quả khảo sát chiều sâu, chiều rộng cũng như khía cạnh đa diện của
vấn đề nghiên cứu. Trên cơ sở này tác giả đã đưa đến những cách nhìn mới cho một vấn đề nghiên cứu tưởng
chừng đã cũ.
Bên cạnh đó còn là những chuyên luận có liên quan của các học giả: Lê Mậu Hãn, Mai Văn Bộ, Vũ
Khoan, Trịnh Vương Hồng, Nguyễn Minh Đức, Triệu Quang Tiến, Nguyễn Trọng Phúc, Nguyễn Văn
Quyến, Nguyễn Cơ Thạch… Một phần nội dung các công trình có sơ bộ khái quát, đánh giá về hoạt động, tư
tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mở rộng mặt trận nhân dân thế giới để thực hiện đoàn kết quốc tế.
2.2. Những công trình nghiên cứu về chủ đề đoàn kết quốc tế, đối ngoại, ngoại giao của Việt
Nam trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước
4
Xin điểm lại đây tên những học giả gắn với những công trình tiêu biểu nhất: Xuân Thuỷ, Tôn Quang
Phiệt, Ung Văn Khiêm, Nguyễn Thị Tình, Chu Đức Tính, Nguyễn Minh Hương, Nguyễn Viết Chung,
Nguyễn Duy Trinh, Mai Văn Bộ, Nguyễn Duy Niên, Hoàng Thu Giang, Nguyễn Mạnh Hùng, Nguyễn Đình
Bin, Nguyễn Xuân, Lưu Văn Lợi, Nguyễn Dy Niên, Nguyễn Thị Tình, Nguyễn Thuý Đức, Phạm Thuý
Ngân, Phạm Bình Minh, Nguyễn Văn Sự, Nguyễn Ngọc Trường, Đặng Đình Quý, Bùi Văn Hùng…
Và những luận án tiến sỹ liên quan của các học giả: Phạm Hồng Chương, Nguyễn Xuân Thông, Trần
Minh Trưởng, Lương Viết Sang, Nguyễn Văn Bạo…
Đặc biệt là luận án tiến sĩ của học giả Hoàng Trang, được bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, năm 1995, có tên: Chiến lược đại đoàn kết của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước 1954-1975. Tác giả đã đề cập đến việc đoàn kết các lực lượng, các quốc gia đấu
tranh cho độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội và ủng hộ nhân dân Việt Nam kháng chiến chống Mỹ trong suốt hai
thập kỷ được điều hành bởi Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Các công trình này đã cung cấp những tổng kết, đánh giá quan trọng về vai trò của sách lược mở
rộng Mặt trận nhân dân thế giới nói riêng, của chiến lược đoàn kết quốc tế nói chung, đồng thời đề cập đến
nhiều sự kiện hoạt động, chỉ đạo của Hồ Chí Minh trên lĩnh vực nghiên cứu.
Những công trình nghiên cứu trực tiếp về Hồ Chí Minh với công tác đối ngoại và các cuốn sách phản
ánh trực tiếp những tư tưởng, tiểu sử, sự nghiệp của Người (giai đoạn từ 1954-1969) có liên quan tới đề tài
nghiên cứu:
Hồ Chí Minh: Về nhiệm vụ chống Mỹ, cứu nước, (Nxb. Sự thật, 1967); Hồ Chí Minh: Đoàn kết,
đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công !, (Nxb. Sự thật, 1973); Hồ Chí Minh: Dân
tộc Việt Nam ta là một dân tộc anh hùng, (Nxb. Sự thật, 1975); Hồ Chí Minh: Kết hợp chặt chẽ lòng yêu
nước với tinh thần quốc tế vô sản, (Nxb. Sự Thật, 1978); Bộ sách: Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, 10 tập
(xuất bản 2008) và Hồ Chí Minh: Toàn tập, gồm 12 tập (xuất bản 1996) và 15 tập (xuất bản 2011) là những
công trình nghiên cứu công bố gần đây của tập thể tác giả Viện Hồ Chí Minh, thuộc Học viện Chính trị-
Hành chính Quốc gia, đã cung cấp cho chúng tôi nhiều sự kiện hoạt động, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Viện Quan hệ Quốc tế: Chủ tịch Hồ Chí Minh với công tác ngoại giao, (Nxb, Viện Quan hệ Quốc tế
Hà Nội, 1990); Hồ Chí Minh- Người chiến sỹ kiên cường của phong trào giải phóng dân tộc và phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế, (Nxb. Thông tin Lý luận, Hà Nội, 1990); Học viện Quan hệ Quốc tế: Kỷ yếu
Hội thảo khoa học: 50 năm Ngoại giao Việt Nam, 1995…
Bên cạnh đó là những tổng kết công cuộc kháng chiến chống Mỹ nói chung, và chiến lược đoàn kết
quốc tế nói chung của những lãnh tụ, học giả lớn: Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Lê Khả
Phiêu, Trần Văn Giàu, Phạm Văn Trà, Trần Đình Huỳnh, Hoàng Chí Bảo, Đặng Quốc Bảo, Phùng Hữu Phú,
Bùi Đình Phong, Vũ Dương Huân, Nguyễn Khánh Bật, Phạm Ngọc Anh, Nguyễn Bá Linh, Đặng Văn Thái,
Phan Ngọc Liên…
2.3. Nhóm những công trình nghiên cứu về lịch sử quan hệ quốc tế và cuộc chiến tranh xâm
lược của Mỹ ở Việt Nam của các học giả nước ngoài
5
Các công trình là ấn phẩm sách của học giả nước ngoài: Harry S. Ashmore, W.C.Baggs: Misson to
Hanoi, (G.P.Putnam’son, New York, 1968); Dainel S.Papp: Vietnam: The view from Moscow-Paking-
Washington, (Mc Farland, Co. INC, North Carolina, 1981); Georges C. Herring: The secret Diplomancy of
the Vietnam war: the Negotianting Volumes of the Pentagon Papers, (University of Texas Press, Austin,
1983); Quang Zhai: China & The Vietnam wars, 1950-1975 (The University of North Carolina Press, 1999);
Mart Atwood Lawrence: The Vietnam War- A concise internation history, (Oxford University Press, 2008);
William S. Turley: The Second Indochina war- A concise political and military history (Rowman &
Littlefield Publishers, INC, 2009)…
Trong đó, nổi bật là hai cuốn “The War at home: Vietnam and the American People 1964-1968” của
Thomas Powere, “The movement: A History of the American New Left, 1959-1972” của Irwin Unfer (1974)
đã giới thiệu khái quát về phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam, phản đối sự xâm lược của chính phủ Mỹ.
Ngoài ra, còn phải kể đến những chuyên khảo trong mảng đề tài về Chiến tranh lạnh, một trong
những bối cảnh quốc tế tác động rất lớn đến cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ
XX. Năm 2010, Cambridge University Press đã tập hợp xuất bản những tư liệu quý về Cold War, trong đó có
nhiều bài tạp chí liên quan tới lịch sử kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam của các học giả:
Thomas Perry Thornton, P. J. Honey, A. M. Halpern, King Chen, Jan S. Prybyla, Kurt L. London, H. G.
Nicholas, Jay Tao, W. E. Willmott, Michael Yahuda, Phan Thien Chau, Jean Lacouture, King C.Chen
1
…
Những chuyên luận xuất bản trong thời điểm cuộc chiến tranh Việt Nam đang tiếp diễn, chính vì
vậy, các học giả tập trung vào quan điểm chiến lược và sách lược cách mạng của cả Việt Nam và Mỹ, đồng
thời cũng không bỏ qua sự đánh giá về những chính thể quốc tế có nhiều ít tác động tới tình hình chiến sự
trên chiến trường như Liên Xô hay Trung Quốc v.v… Từ những nhìn nhận và đánh giá có tính thực chứng,
dường như, kết cục của chiến sự đã được dự báo trước trong một số nghiên cứu. Tính chính nghĩa của công
cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam sẽ chiến thắng và những hành động xâm lược, leo thang chiến
tranh phi nghĩa của Mỹ dù có tới mức nào, nhất định cũng sẽ bị thất bại.
Khi chiến tranh đã kết thúc thì kết cục thắng-bại của cuộc chiến vẫn tiếp tục được các thế hệ sử gia
nghiên cứu với những chuyên luận của: Gareth Proter, Steve Chan, Phillip B.Davidson, Ronald H. Spector,
Jean Lacouture, Carlyle A. Thayer, Ilya V.Gaiduk, Xiaoming Zhang, Ed.P.Lowe
2
…
Cũng phải kể thêm những nghiên cứu đạt kết quả trong những năm bắt đầu cho một thế kỷ mới- thế
kỷ XXI, của: Robert Scott, King C.Chen, Paul Ham, Mao Lin, Nicholas Khoo, Predik Logevall, Vojtech
Mastny, Svetlana Savranskaya and William Taububman, Shu Qiang Zhai
3
…
Nhìn nhận một cách khái quát phải khẳng định rằng những công trình chuyên khảo trên có nội dung
phản ánh “cuộc đụng đầu lịch sử” trên bán đảo Đông Dương, nơi có thể coi là tâm điểm nóng của diễn trình
cuộc Chiến tranh Lạnh. Bằng phương pháp nghiên cứu nghiêng về sử học thực chứng và khai thác nhiều
nguồn sử liệu đa dạng, các học giả Đông, Tây đã góp thêm cái nhìn đa chiều về những khó khăn đến từ bối
cảnh khách quan, và cũng từ đó, để nhìn ra những thuận lợi cũng như khó khăn khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tiến hành xác lập và thực thi chiến lược đoàn kết quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Mặc dù vậy, xét về tổng
1
2 3
Tham khảo Pierre Asselin trong CD tài liệu: Cambridge History of the Clod War, 2012.
6
thể thì các công trình chuyên khảo của sử gia nước ngoài nói chung, hầu như chưa thẳng thắn thừa nhận một
trong những nguyên nhân dẫn tới sự thất bại của đế quốc Mỹ ở Việt Nam chính là sự ủng hộ, đoàn kết của
nhân dân thế giới thành một mặt trận giúp nhân dân Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Thêm vào đó, không thể không kể tới một số lượng không nhỏ những cuốn sách của học giả nước
ngoài đã được dịch ra và xuất bản bằng tiếng Việt có thể liệt kê ra đây: Ma-Đơn-len Riffô, Hăngri
Kitsinggiơ, Giôdép Amtơ, Pitơ A.Pinlơ, N.Bớt sét, Hoàng Tranh, Maicơn Máclia, Nguyễn Tiến Hưng và
Giêrơn L.Sedơ, Gabrien Côncô, Giăng Bápmit và Rốcselơ, Philíp B.Đavítsơn, Rô bớt S.Mc. Namara, Ilya V.
Gaiduk, George C.Herring, H.V. Schadler, Ron Moreau, Mark Mc Donald, Kari Huus, Craig Thomas, Neil
Sheehan, Bernard Fall, William Colby, Nguyễn Khắc Viện, Joe Allen, Nguyễn Phú Đức…
Các ấn phẩm khoa học này đã cung cấp nhiều sự kiện và cách đánh giá khác nhau, cũng như cảm
hứng cho nghiên cứu viên khi nghiên cứu đề tài thuộc phạm trù hoạt động đối ngoại của Việt Nam trong đó
có liên quan gián tiếp hoặc trực tiếp đến Chủ tịch Hồ Chí Minh và bối cảnh, tiến trình của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước. Điển hình như những tư tưởng và hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện đoàn
kết với nhân dân Trung Quốc, Liên Xô và các nước dân chủ, XHCN ở khu vực và thế giới đã được ghi nhận
thành biên niên biểu rõ ràng trong các công trình nghiên cứu của: Hoàng Tranh: Hồ Chí Minh với Trung
Quốc (Nxb. Sao Mới Bắc Kinh, 1990) hay Ilya V. Gaiduk: Liên bang Xô Viết và chiến tranh Việt Nam ; hoặc
N.Bớt sét: Tam giác Trung Quốc-Campuchia-Việt Nam và Pitơ A.Pinlơ: Nước Mỹ và Đông Dương từ
Rudơven đến Níchxơn (Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1986)…Nhưng tựu chung lại, sự phản ánh của các
công trình này về đề tài đang quan tâm vẫn chưa đạt tới sự khái luận, toàn diện, mà chỉ đơn lẻ phản ánh phần
nào những khía cạnh riêng. Nhiều cách nhìn nhận vấn đề của các sử gia phương Tây còn có lúc chủ quan,
phiến diện.
Nhìn tổng thể, các công trình sử học trong và ngoài nước, khi tiến hành khai thác nhân tố đoàn kết
quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng, chỉ đề cập đến những khía cạnh riêng lẻ, có thể xét trên tiêu chí
nào đó là tiêu biểu cho sự ủng hộ của nhân dân thế giới cho cuộc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của
dân tộc. Nhưng ngay cả khi đề cập về mặt trận nhân dân thế giới, các công trình cũng chỉ đề cập chủ yếu,
trọng tâm vào mặt trận nhân dân Mỹ đã giúp đỡ, tác động tới tiến trình chiến tranh Việt Nam ra sao - phản
ánh trong ngoại diên của khái niệm “phong trào phản chiến”- mà chưa đề cập một cách khái quát, tổng lược
đến những sự ủng hộ của các thành phần khác trong mặt trận nhân dân thế giới thực tế đã diễn ra trong lịch
sử. Những công trình nghiên cứu này cũng chưa đề cập đầy đủ, sâu sắc đến tư tưởng và những chỉ đạo, hoạt
động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình xây dựng, mở rộng ảnh hưởng tích cực của sự đoàn
kết quốc tế.
Chính vì vậy, mặc dù là đề tài đã được nghiên cứu khá phổ biến, nhưng lại thiếu một chuyên luận đề
cập toàn diện và sâu sắc đến các chiều cạnh của vấn đề.
3. Mục đích và nhiệm vụ của nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của công trình này là nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ những nội dung cơ bản của tư
tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong thời kỳ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954-1975),
đồng thời phân tích, đánh giá vai trò, tác động của tư tưởng và những hoạt động của Hồ Chí Minh trong quá
7
trình hình thành, phát triển của mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ nhân dân Việt Nam kháng chiến,
cứu nước.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, nghiên cứu có các nhiệm vụ sau:
- Bằng các phương pháp nghiên cứu lịch sử và các phương pháp của Hồ Chí Minh học làm sáng tỏ
tư tưởng mang tầm chiến lược, sách lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong giai đoạn
1954-1975. Qua các sự kiện hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy phương pháp xử lý các vấn đề
quốc tế có sự khái quát về phong cách, tư tưởng, vị thế và những đóng góp của Người.
- Sưu tầm, xác minh sử liệu và trình bày một cách hệ thống các hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh
bao gồm hoạt động trực tiếp của Người và những hoạt động đối ngoại do Người chỉ đạo nhằm hình thành,
mở rộng mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ và thực hiện đoàn kết quốc tế.
- Góp phần làm sáng tỏ, phong phú, đầy đủ hơn nội dung và đóng góp của mặt trận nhân dân toàn
thế giới, từ Âu sang Á, tới Châu Phi, Mỹ Latinh…(nòng cốt là mặt trận nhân dân Mỹ), ủng hộ Việt Nam
chống đế quốc Mỹ xâm lược.
4. Nguồn tư liệu
Những nguồn tư liệu chủ yếu được khai thác và sử dụng trong nghiên cứu gồm:
4.1. Các bài nói, bài viết phản ảnh tư tưởng và hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử (10 tập), và Hồ Chí Minh toàn tập (15 tập mới xuất bản với nhiều bài mới
được bổ sung) sẽ là nguồn sử liệu gốc cho phép đi sâu nghiên cứu về tư tưởng và hoạt động thực tiễn của
Chủ tịch Hồ Chí Minh trong lịch sử.
4.2. Các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam về đường lối đối ngoại, các thư từ trao đổi, công
hàm, bị vong lục của Nhà nước và Chính phủ Việt Nam với các đối tác nước ngoài trong thời gian diễn ra
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975).
4.3. Các chuyên khảo, luận văn, các công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước viết
về quan hệ quốc tế, công cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, về chiến lược đoàn kết quốc tế, hoạt động
đối ngoại, ngoại giao, về sự nghiệp, con người và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nguồn sử liệu này sẽ được tổng
hợp, xác định mức độ tin cậy, và được sử dụng có chọn lọc trong nghiên cứu, luận văn.
Nhưng dù cố gắng thì việc tiếp xúc, thu thập sử liệu, tài liệu ở các phòng tư liệu, thư viện, từ các
nguồn mở trong và ngoài nước vẫn không thể đầy đủ, bởi vấn đề nghiên cứu ở tầm vĩ mô, do vậy, chất lượng
của nghiên cứu sẽ không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
5. Giới hạn vấn đề và phương pháp nghiên cứu
5.1. Giới hạn vấn đề
Như tên của đề tài, chúng tôi nghiên cứu về những tư tưởng chỉ đạo hoạt động đối ngoại của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong giai đoạn từ 1954-1975 để thực hiện đoàn kết quốc tế, nội dung của chiến lược này
và những đóng góp của nó trong lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc Việt Nam.
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi chỉ đề cập đến những sự kiện tiêu biểu nhất.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
8
Trong quá trình thực hiện đề tài, trên cơ sở tuân thủ phương pháp luận mác-xít trong nghiên cứu lịch
sử, bên cạnh việc sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lô-gíc phù hợp với yêu cầu nghiên cứu từng
vấn đề của đề tài, chúng tôi đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, so sánh theo lịch đại và đồng đại, kết
hợp với phương pháp nghiên cứu trong Hồ Chí Minh học… nhằm làm sáng tỏ các luận điểm đưa ra lý giải
trong công trình.
6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Làm rõ những cơ sở hay nền tảng hình thành chiến lược đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí
Minh. Phân tích khoa học để rút ra kết luận: Yếu tố bên trong- chủ quan hay bên ngoài- thuộc về khách quan
đã có vai trò quyết định nổi bật tới chiến lược đoàn kết quốc tế vào thắng lợi của công cuộc kháng chiến
chống Mỹ của dân tộc Việt Nam.
- Bằng các sự kiện lịch sử của diễn trình cuộc kháng chiến, của những sự kiện tiêu biểu mà nhân dân
thế giới ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam, nghiên cứu làm rõ nội dung hình thành, phát triển và vai trò cũng như
đóng góp của tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ
của dân tộc Việt Nam và cả ngày nay.
- Tái hiện lại một cách hệ thống những tư tưởng, hoạt động thực tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh
trong khoảng thời gian 15 năm (1954-1969). Trên cơ sở này khái luận sâu sắc hơn nữa một ghi nhận trong
lịch sử rằng: lãnh tụ Hồ Chí Minh đã thực sự trở thành biểu tượng quy đồng các cuộc đấu tranh liên kết thành
phong trào đấu tranh và hướng tâm tới một Mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ.
- Nghiên cứu góp phần tổng hợp thêm những luận điểm cơ bản trong tư tưởng đối ngoại thực hiện
đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây cũng là những vấn đề có ý nghĩa thiết thực, mang tính thời
sự, phục vụ cho công cuộc vận động hợp tác khu vực và quốc tế trong công cuộc bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ,
lãnh hải Việt Nam đặt trong bối cảnh không kém phần phức tạp của quan hệ quốc tế hiện nay.
7. Bố cục của luận văn: Luận văn gồm 02 chương:
Chương 1. Chiến lược đoàn kết quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ (1954-1965).
Chương 2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong thời kỳ 1965-1975.
9
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CHIẾN LƯỢC ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI
KỲ (1954-1965)
1.1. Bối cảnh lịch sử của chiến lược đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian
1954-1959
1.1.1. Những yếu tố trong nước tác động tới chiến lược đoàn kết quốc tế
Ngay sau sự phân định của Hiệp nghị Geneve, đế quốc Mỹ, đã bắt đầu chiến tranh Việt Nam với
những tính toán về một chiến lược phản ứng linh hoạt bằng biện pháp “ngăn chặn” toàn cầu và leo thang
cuộc chiến. Xuất phát từ quan điểm thể hiện của thuyết Đôminô và cũng là bản chất chủ nghĩa đế quốc Mỹ là
tự cho mình có quyền tối cao định đoạt cho mọi dân tộc phải theo hình ảnh của Mỹ lựa chọn.
Trước sự xâm lược này, Việt Nam bị tạm thời chia cắt và nằm trong số những nước bị chia cắt từ
sau Chiến tranh thế giới thứ hai: Việt Nam, Trung Quốc, Triều Tiên, Đức. Hai chế độ xã hội đối lập ở hai
vùng của mỗi nước thể hiện mâu thuẫn cơ bản nhất của thời đại: mâu thuẫn giữa CNXH và CNTB. Các
nước bị chia cắt là hình ảnh thu nhỏ của cuộc đấu tranh trên thế giới sau Chiến tranh thế giới II. Tuy nhiên,
ở Triều Tiên, ở Đức, ở Trung Quốc không diễn ra cuộc đụng đầu lịch sử quyết liệt giữa hai thế lực đối lập
của thời đại như ở Việt Nam, bởi sự tác động chống chéo của các quan hệ quốc tế đối với mỗi nước là
khác nhau.
1.1.2. Những yếu tố quốc tế tác động tới chiến lược đoàn kết quốc tế
Trong quan hệ quốc tế thời điểm này, Mỹ không chỉ lo sợ nguy cơ cộng sản tràn như “làn sóng đỏ”
mà còn lo ngại nguy cơ “cộng sản đoàn”, ở đây là đoàn kết, cho nên đã rất coi trọng đối ngoại. Trong đó, các
mũi ngoại giao quan trọng nhất mà Mỹ nhằm vào là Liên Xô và Trung Quốc, hai địch thủ lớn nhất của Mỹ,
hai đồng minh chủ yếu của Việt Nam. Đối với Mỹ, nhiệm vụ ngoại giao với hai nước này là kiềm chế, giữ
chân hai nước không trực tiếp can thiệp vào chiến tranh, tác động để hai nước giảm giúp Việt Nam, lợi dụng
mâu thuẫn giữa hai nước để làm suy yếu “hậu phương quốc tế” của Việt Nam và khi cần thì vận dụng vai trò
của hai nước trong việc thực hiện các ý đồ của Mỹ.
Những yếu tố tiêu cực trong hệ thống XHCN cũng được Mỹ lợi dụng để thực hiện âm mưu xâm lược
Việt Nam, đánh phá PTGPDT nhưng Mỹ không thể ngăn chặn sự động viên, ủng hộ và giúp đỡ to lớn của
các nước XHCN và của PTGPDT cho cách mạng Việt Nam. Tin tưởng ở sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc
mình, tin ở xu thế thời đại, từng bước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã triển khai chiến lược đoàn kết quốc tế, tố cáo
chính sách xâm lược, hành động phi nghĩa của đế quốc Mỹ, đồng thời thể hiện nguyện vọng hòa bình, độc
lập, tự do chính đáng của nhân dân Việt Nam và quyền tự bảo vệ thiêng liêng của mình trước dư luận toàn
thế giới. Bằng thực tiễn cuộc đấu tranh hùng và chính nghĩa của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh và dân tộc Việt
Nam đã từng bước quy tụ, tập hợp được các lực lượng hòa bình, dân chủ, tiến bộ xã hội trên toàn thế giới, kể
cả nhân dân Mỹ ủng hộ cuộc đấu tranh chống xâm lược của mình, cô lập cao độ đế quốc Mỹ và từng bước
giành thắng lợi.
Như thế, công cuộc kháng chiến chống Mỹ mà dân tộc Việt Nam phải thực hiện đã mang ý nghĩa
của bối cảnh quốc tế, thời đại lớn lao. Chính vì vậy, yêu cầu tiên quyết để công cuộc kháng chiến này tất
10
thắng phải bắt nguồn từ việc phát huy hiệu quả chiến lược, sách lược đoàn kết quốc tế theo tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế hình thành và hoàn thiện đã trở thành đường
lối chiến lược của cách mạng Việt Nam từ đầu đến giữa thế kỷ XX.
1.2. Sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những hoạt động thực tiễn của Người nhằm kiến
lập đoàn kết quốc tế từ năm 1954 đến năm 1959
1.2.1. Đoàn kết Việt-Xô-Trung, đoàn kết XHCN
Sự chỉ đạo đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là việc xác lập những nguyên tắc và chính sách
đối ngoại mới. Đây cũng là điều kiện tiên quyết để phá vỡ thế cô lập, mở rộng quan hệ ngoại giao khu vực và
quốc tế, tạo ra môi trường thuận lợi để đón nhận sự giúp đỡ của các nước anh em, mặt khác làm tăng uy tín
Việt Nam trên trường quốc tế.
Đường lối ngoại giao có định hướng, có trọng tâm một mặt biểu thị sự tôn trọng và khẳng định xu
hướng gắn kết với phe XHCN của nhà nước VNDCCH, mặt khác cho thấy sự đánh giá đúng đắn về vai trò
của hai nước lớn Xô-Trung.
Trên các diễn khác nhau, lãnh tụ Hồ Chí Minh cũng tích cực tham gia vận động để mở rộng không
ngừng quy mô, lực lượng của chiến lược đoàn kết, hữu nghị quốc tế. Bên cạnh những cuộc viếng thăm, Chủ
tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng và Chính phủ Việt Nam còn có nhiều hoạt động góp phần củng cố và tăng
cường tình đoàn kết với các Đảng, Chính phủ và nhân dân các nước XHCN như tham dự ngày Quốc khánh,
dự Đại hội Đảng của các nước anh em, gửi điện mừng những dịp trọng đại thậm chí là kết nghĩa và thi đua
giữa các tổ chức kinh tế-xã hội của Việt Nam và các nước XHCN khác.
Thắng lợi thu được từ hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh chẳng những làm tăng uy tín Việt Nam
trên trường quốc tế, góp phần củng cố tình đoàn kết trong hệ thống XHCN và phong trào cộng sản, mà còn
làm cho quan hệ Việt - Xô, Việt - Trung trở lại gắn bó hơn, giảm bớt những nghi ngờ, hiểu lầm đáng tiếc.
1.2.2. Đoàn kết với các nước dân chủ nhân dân và ba nước Đông Dương
Các cuộc viếng thăm hữu nghị với các nước Ấn Độ, Mianma, Inđônêxia mà Hồ Chí Minh đã thực
hiện sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 thể hiện tầm nhìn xa rộng của Người khi đã đưa đất nước
bước những bước đầu tiên hòa vào sức mạnh của thời đại.
Trên cơ sở có quan hệ hữu hảo với các nước sáng lập Phong trào Không liên kết, cùng với uy tín của
mình, Việt Nam nhanh chóng nhận được sự ủng hộ hoàn toàn của các nước mới trỗi dậy (GANEFO) ở cả
châu Á, châu Phi, và Mỹ La Tinh. Đây là sự chuẩn bị quan trọng cho việc xúc sự hình thành một mặt trận
nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ, góp phần củng cố hòa bình ở Châu Á và thế giới.
Riêng về quan hệ đoàn kết với Lào và Campuchia, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ý kiến chỉ đạo làm
dịu đi tình hình căng thẳng khu vực, tránh đối đầu dẫn đến đổ vỡ, sa vào âm mưu của thế lực đế quốc.
Sự đoàn kết ủng hộ đó của quốc tế với cách mạng Việt Nam càng phát triển khi nhân dân miền Nam
thực hiện cuộc Đồng Khởi thắng lợi.
Qua bốn năm kiên trì đấu tranh thi hành hiệp đinh Giơnevơ (1954-1959) thì đây cũng được coi là
thời kỳ phức tạp nhất - một thời kỳ vừa nghiên cứu tìm tòi, thể nghiệm vừa thăm dò phản ứng và tập hợp lực
lượng, đề hoạch định đường lối, chủ trương, phương pháp cách mạng mới. Chủ tịch Hồ Chí Minh và
ĐLĐVN chủ trương thực hiện thống nhất Việt Nam trên cơ sở độc lập và dân chủ bằng phương pháp hoà
11
bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn bày tỏ sự lạc quan về khả năng sức ép của dư luận thế giới sẽ buộc miền
Nam phải thực thi hiệp định và bầu cử sẽ diễn ra. Là lãnh tụ cao nhất của dân tộc, Hồ Chủ tịch đã xem xét
một cách biện chứng tất cả điều kiện chủ quan và khách quan lúc bấy giờ đều không thuận lợi cho việc tiến
hành một cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam, Đảng và nhân dân Việt Nam đã phải cân nhắc, lựa chọn
nhiều phương án khác nhau sao cho giải phóng được miền Nam mà vẫn bảo vệ được miền Bắc xã hội chủ
nghĩa, tập hợp được lực lượng trong nước, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của quốc tế - đặc biệt là Liên
Xô, Trung Quốc. Người đã chỉ đạo thực hiện một đường lối đối ngoại có định hướng (thắt chặt quan hệ với
các nước XHCN); có trọng tâm (hai nước Liên Xô và Trung Quốc); đồng thời coi trọng việc mở rộng quan
hệ với các nước Á – Phi - Mỹ Latinh, chú ý đặc biệt với hai nước láng giềng Lào và Campuchia. Tất cả các
mối quan hệ giữa Việt Nam với nước ngoài luôn đảm bảo nguyên tắc tự chủ, bình đẳng và cùng có lợi, trên
cơ sở không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Người đã trực tiếp tham gia hoạt động kiến tạo và mở
rộng quan hệ đối ngoại với một nhịp độ sôi động, từ Đông sang Tây và đạt kết quả tích cực trên tất cả các
mặt kinh tế, chính trị, ngoại giao.
Nhìn chung lại, hoạt động ngoại giao của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời gian từ tháng 7-1954 đến
tháng 9-1960 (tức là từ sau Hội nghị Giơnevơ đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III), đã đạt được kết quả
rất to lớn và toàn diện, trên cả phạm vi khu vực và phạm vi thế giới.
1.3. Chủ tịch Hồ Chí Minh với những hoạt động nêu cao chính nghĩa hòa bình, thực hiện đoàn
kết quốc tế và vận động nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược từ năm 1960 đến năm
1964
1.3.1. Tình hình trong nước và những diễn biến trong quan hệ quốc tế ảnh hưởng đến cách mạng
Việt Nam (1961-1965)
Đế quốc Mỹ đã khai thác triệt để mâu thuẫn Xô-Trung nhằm khống chế Đông Dương và Đông Nam
Á. Mỹ đã đặt vấn đề Nam Việt Nam như là một thách thức cần giải quyết.
Việc thực hiện đường lối chống Mỹ, tới thời điểm này, tiếp tục diễn ra trong bối cảnh quốc tế không
mấy thuận lợi vì sự bất đồng ngày càng gay gắt giữa Liên Xô, Trung Quốc, và sự phân liệt bè phái trong
phong trào cộng sản, công nhân quốc tế. Mâu thuẫn trong phong trào cộng sản quốc tế ngay lập tức được đế
quốc Mỹ lợi dụng triệt để nhằm chống phá phong trào cách mạng Việt Nam, leo thang, mở rộng chiến tranh
xâm lược trên phạm vi cả nước.
Tiến hành mở rộng chiến tranh trên cả hai miền Nam-Bắc của Việt Nam, L.Johnson và bộ tham mưu
của Nhà Trắng còn phạm sai lầm khi đánh giá về tình hình Việt Nam và Đông Dương trong tương quan so
sánh lực lượng với Mỹ, cũng như mối quan hệ quốc tế giữa Đông Dương với các lực lượng yêu chuộng hòa
bình tiến bộ trên thế giới. Nổi bật là xu hướng “ly tâm”, các quốc gia mới hồi phục sau chiến tranh như Pháp,
Anh, Nhật đang từng bước đấu tranh với Mỹ để khôi phục vị trí của mình. Đây là nhân tố thuận lợi đối với
nhân dân Việt Nam trong quá trình tập hợp lực lượng, thành lập mặt trận nhân dân thế giới chống xâm lược
Mỹ. Thêm vào đó, cùng với sự lớn mạnh của các lực lượng thuộc “thế giới thứ ba”, “phong trào không liên
kết”, lực lượng yêu hòa bình và tiến bộ xã hội trong các nước tư bản, trong đó có nhân dân Mỹ, ngày càng
phát triển. Đây chính là những trở lực rất lớn mà Johnson và phe “diều hâu” không thể lường tính hết được
khi phát động “chiến tranh cục bộ” ở Việt Nam.
12
Cho đến khi giặc Mỹ gây chiến tranh phá hoại ở miền Bắc (8-1964) và cho quân đổ bộ vào miền
Nam (3-1965) thì nhiệm vụ xây dựng hậu phương miền Bắc đã được chuẩn bị chu đáo để đối phó với sự leo
thang chiến tranh của đế quốc Mỹ, sẵn sàng đánh Mỹ, thắng Mỹ.
Chủ động nắm bắt những diễn biến về tình hình thế giới, Đảng LĐVN dưới sự chỉ đạo của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã có những đối sách hợp lý sáng tạo, khoét sâu vào điểm yếu của đế quốc Mỹ, đoàn kết tập
hợp lực lượng đưa sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam lên tầm cao mới.
1.2.2. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo xử lý về mối quan hệ Việt-Trung; Việt-Xô trong tác động của
mối quan hệ Trung-Xô
Sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ của dân tộc Việt Nam phải tiếp tục tăng cường và củng cố tình
đoàn kết hữu nghị, tranh thủ sự giúp đỡ và hợp tác chặt chẽ với Liên Xô, Trung Quốc.
Đảng LĐVN và Chủ tịch Hồ Chí Minh, một mặt kêu gọi toàn dân tộc nêu cao tinh thần độc lập, tự
chủ, tự lực cánh sinh, mặt khác ra sức hoạt động nhằm góp phần ngăn ngừa sự chia rẽ và duy trì tình đoàn
kết giữa các nước XHCN, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của cả Liên Xô và Trung Quốc đối với công cuộc
xây dựng và chiến đấu của dân tộc mình.
Mặc dù lập trường đúng đắn này của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở một số thời điểm nhạy cảm của quan
hệ Xô-Trung chưa được tất cả các bên ghi nhận, đánh giá và tiếp thu đúng mức. Nhưng phải khẳng định
rằng, tất cả những nỗ lực, cố gắng đó của Người đã được lịch sử lên tiếng và ghi nhận. Tiếng nói chân
thành xuất phát từ mong muốn đoàn kết và thái độ không khoan nhượng của Hồ Chí Minh trong cuộc đấu
tranh bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chiếm được tình cảm của bạn bè quốc tế, tạo ra
niềm tin và thiện cảm đối với cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam.
Từ 1961-1965, quan hệ Việt Nam với Trung Quốc, cũng có nhiều vấn đề phức tạp, chủ yếu bị ảnh
hưởng bởi những nhân tố xuất phát từ mâu thuẫn Trung - Xô; những nảy sinh đáng lo ngại trong quan hệ
Trung - Mỹ và sự áp đặt mang tư tưởng dân tộc Đại Hán trong quan hệ quốc tế của Trung Quốc.
Quan điểm của Hồ Chí Minh trong quan hệ ngoại giao giữa hai nước Việt-Trung, là xây dựng tinh
thần đoàn kết, trước sau như một, vun đắp thành mối quan hệ hữu nghị đặc biệt.
Chính sách lớn là giữ cân bằng trong quan hệ với hai nước, không đứng về bên này chống bên kia,
tránh mọi biểu hiện và động thái có thể gây hiểu lầm Việt Nam trọng bên này hơn bên kia được Chủ tịch Hồ
Chí Minh định hướng tới từng công tác nhỏ. Điện chúc mừng, điện cảm ơn, các phát biểu long trọng, Việt
Nam đều tính toán sao cho cân nhau, không gây cảm giác bên trọng, bên sơ. Việt Nam không tham gia các
hoạt động của bên này mà bên kia không tán thành. Liên Xô và Trung Quốc chân thành giúp, Việt Nam trân
trọng, nhưng cái gì nhận, cái gì không, nhận của ai… Hồ Chủ tịch cùng với cách mạng Việt Nam đã tính
toán, cân nhắc kỹ.
Với bề dày kinh nghiệm và uy tín của một chiến sỹ cộng sản lão thành, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
làm hết sức mình để bảo vệ phe XHCN, hàn gắn rạn nứt Trung-Xô, bởi đó không chỉ là trách nhiệm đối với
phong trào cộng sản quốc tế, mà còn có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt
Nam. Sự đoàn kết của phe XHCN đã là chỗ dựa vững chắc, là hậu phương rộng lớn, là nhân tố kiềm chế sự
liều lĩnh của đế quốc Mỹ.
13
1.2.3. Chủ tịch Hồ Chí Minh và những hoạt động nêu cao chính nghĩa hòa bình, vận động dân dân
thế giới, động viên phong trào phản chiến của nhân dân Mỹ ủng hộ Việt Nam chống đế quốc Mỹ xâm lược
Xuất phát từ lập trường cách mạng và quan điểm quần chúng, Hồ Chí Minh luôn chú ý tới tính nhân
dân trong đường lối quốc tế và mở ra một khả năng rộng lớn về việc vận động nhân dân thế giới ủng hộ cuộc
đấu tranh của nhân dân Việt Nam. Cách mạng Việt Nam phải gắn với phong trào giải phóng dân tộc trên thế
giới, với các nước XHCN, với tất cả các lực lượng tiến bộ đấu tranh cho dân chủ, tiến bộ và hoà bình thế
giới. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng thành công ba tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc; Mặt
trận đoàn kết Việt – Miên - Lào và đặc biệt là mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết, ủng hộ nhân dân Việt
Nam trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Người đã chuyển biến chiến lược
đại đoàn kết quốc tế thành sức mạnh vật chất có tổ chức là mặt trận nhân dân toàn thế giới ủng hộ công cuộc
kháng chiến chống đế quốc của nhân dân Việt Nam từ những ngày đầu.
Chính bởi thế, song song với các hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, tăng
cường quan hệ ngoại giao nhà nước với các quốc gia trong hệ thống XHCN, Hồ Chí Minh còn rất chú trọng
đến quan hệ hợp tác khu vực, cố gắng bằng nhiều con đường để giải tỏa sự bao vây cô lập của chủ nghĩa đế
quốc. Người vẫn luôn chú trọng đến sự phát triển quan hệ với các nước trong khu vực, đặc biệt là việc xây
dựng liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước Đông Dương thành một mặt trận đấu
tranh thống nhất của nhân dân ba nước Đông Duơng.
Trên thực tế đã dần dần hình thành mặt trận nhân dân ba nước Đông Dương đoàn kết chống Mỹ, đó
là một thành công lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng LĐVN khi thực hiện chính sách ngoại giao
láng giềng thân thiện. Đồng thời tỏ rõ sự sáng suốt và đúng đắn về việc nhìn nhận vị trí chiến lược của hai
quốc gia Lào và Campuchia trong cuộc chiến đấu chống Mỹ và tay sai.
Tư tưởng vận động, đấu tranh thành lập một mặt trận nhân dân thế giới, tranh thủ phong trào phản
chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được phát triển trong đường lối của Nghị quyết Hội nghị BCHTƯ lần thứ 9
(12-1963).
Chỉ đạo thực thi chủ trương Nghị quyết Hội nghị Trung ương, bằng nhiều hình thức hoạt động ngoại
giao, tuyên truyền, quảng bá hình ảnh chính nghĩa của Việt Nam trên diễn đàn quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã làm cho nhân dân thế giới, nhất là nhân dân các nước thuộc Phong trào Không liên kết đứng hẳn về
phía Việt Nam phản đối chiến tranh xâm lược.
Đối với các nước trong hệ thống tư bản chủ nghĩa, Hồ Chí Minh đặt trọng tâm vào việc khôi phục
quan hệ với Pháp theo những nguyên tắc được quy định trong Hiệp nghị Genève. Ngoài việc duy trì quan hệ
với Pháp, Hồ Chí Minh cũng đã nhiều lần tiếp xúc thăm hỏi phái đoàn thường trực của Canađa nhằm tạo
quan hệ tốt với Canađa, một thành viên trong Ủy ban quốc tế giám sát việc thi hành Hiệp định Giơnevơ.
Cũng trong thời điểm này, cách mạng Việt Nam đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với các nước
công hòa Ghinê, Mali, vương quốc Marốc, đặc biệt là với Cuba, lá cờ đầu của chủ nghĩa xã hội ở Tây bán
cầu. Và các nước thế giới thứ ba ở Châu Á như Miến Điện, Thái Lan, Malaixia, Ấn Độ; ở châu Phi, Mỹ
Latinh như Angiêri, Ăngôla, Nicaragoa, Vênêduyêla đều đồng tình ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ
xâm lược
14
Quy mô và lực lượng của khối đoàn kết quốc tế, với mỗi bước phát triển đều được Chủ tịch Hồ Chí
Minh nắm bắt, ghi nhận và bày tỏ lòng nhiệt thành vui mừng.
Trong khi đó, lịch sử nước Mỹ cũng đã ghi nhận một điều kiện khách quan, đó là, đến cuộc chiến
tranh Việt Nam thì sự phản đối chiến tranh đã trở thành một phong trào toàn quốc chống chiến tranh với một
quy mô, một cường độ chưa từng thấy từ trước đến nay, thu hút hầu hết các thành phần trong xã hội Mỹ.
Những tiếng nói khẳng khái, chính nghĩa của Hồ Chủ tịch đã góp phần rất lớn thức tỉnh nhân dân Mỹ.
Phong trào nhân dân thế giới chống Mỹ, ủng hộ Việt Nam đã xuất hiện từ khi đế quốc Mỹ mới bắt
đầu can thiệp vào Việt Nam. Phong trào này được mở rộng theo đà thắng lợi ngày càng to lớn của nhân dân
cả hai miền Nam, Bắc và theo đà “leo thang” của đế quốc Mỹ trong âm mưu và hành động xâm lược của
chúng. Phong trào nhân dân Mỹ chống Mỹ gây chiến tranh ở Việt Nam cũng hình thành. Phong trào ủng hộ
Việt Nam lan từ các nước xã hội chủ nghĩa tới các nước tư bản phát triển, các nước dân tộc độc lập khắp các
châu lục. Phong trào sôi động và quyết liệt nhất là ở các nước Tây Bắc Âu. Phong trào bao gồm các đoàn thể
dân chủ, hòa bình, các tổ chức công đoàn, phụ nữ, thanh niên, sinh viên quốc gia và quốc tế. Nhiều tổ chức
tôn giáo, xã hội, từ thiện trước kia ít tham gia hoạt động chính trị, nay cũng hăng hái tham gia phong trào
ủng hộ Việt Nam. Nhiều tổ chức ủng hộ Việt Nam, đoàn kết với Việt Nam được thành lập ở các nước. Nhiều
nhân vật có tên tuổi và ảnh hưởng quốc tế ở các nước đều bày tỏ ủng hộ Việt Nam, lên án Mỹ xâm lược. Các
hình thức ủng hộ rất đa dạng, phong phú: mít tinh, biểu tình, hội thảo, ký kiến nghị, quyên góp tiền bạc,
thuốc men, quần áo, hiến máu ủng hộ Việt Nam. Nhiều thanh niên đăng ký tình nguyện sang Việt Nam chiến
đấu. Có những cuộc mít tinh đông hàng trăm ngàn người. Phong trào là đóng góp hết sức quý báu đối với
cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam.
Với tất cả những thành tựu trên về đoàn kết quốc tế, cách mạng Việt Nam chuyển biến sang một giai
đoạn mới.
15
CHƯƠNG 2
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ TRONG THỜI KỲ 1965 - 1975
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế trong giai đoạn 1965 -1969
2.1.1. Đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh và sự chỉ đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng
đường lối đấu tranh ngoại giao chống Mỹ cứu nước 1965 – 1969
Một tháng sau khi tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc, từ
ngày 8-3-1965, đế quốc Mỹ đã ngoan cố và liều lĩnh thực hiện chiến lược “chiến tranh cục bộ” để xâm lược
miền Nam, đồng thời mở cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc Việt Nam. Đây là bước leo thang chiến tranh
cực kỳ nghiêm trọng của Mỹ và là thử thách to lớn đối với dân tộc Việt Nam.
Trong khi nhân dân Việt Nam hy sinh chiến đấu chống xâm lược Mỹ và đang rất cần đến sự ủng hộ
giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, thì những mâu thuẫn trong nội bộ các nước XHCN lại tiếp tục bùng nổ, gây
ra tình thế bất lợi đối với cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Đặc biệt lo ngại là sự bất đồng ngày
càng sâu sắc của hai đồng minh chiến lược Liên Xô và Trung Quốc. Chiến tranh biên giới Trung - Xô lần thứ
hai (3-1969) diễn ra ác liệt. Cả hai phía đều muốn lôi kéo Việt Nam để tranh thủ dư luận trong nước và thế
giới. Tất nhiên quan điểm của Việt Nam đã không làm cho họ hài lòng, do đó, quan hệ Việt-Trung-Xô cũng
vì thế mà có phần căng thẳng.
Nhưng cũng ngay lập tức, nhiều quốc gia, tổ chức chính trị trên thế giới đã bày tỏ mối quan ngại sâu
sắc và sự đồng tình ủng hộ nhân dân ta trước hành động xâm lược của Mỹ. Đáng chú ý là trong đó có cả
những đồng minh truyền thống của Hoa Kỳ như Pháp, Anh, Canađa, Italia, Thụy Điển, NaUy Đó là một
trong những nhân tố thuận lợi để Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐLDVN mở “mặt trận thứ ba”: tấn công trên mặt
trận ngoại giao, kiên quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Trong hai ngày 12 và 13-3-1965, dưới sự chủ tọa của Hồ Chủ tịch, BCTTƯ ĐVN đã tổ chức Hội
nghị đánh giá về tình hình trong nước cũng như quốc tế, nhận định về âm mưu của Mỹ và kế hoạch đối phó
của cách mạng miền Nam. Với những đánh giá xác đáng về tình hình trong nước cũng như quốc tế, Người
chỉ rõ cần nghĩ trước đến việc vận động mở lại Hội nghị Genéve để tranh thủ dư luận, đồng thời nên tổ chức
các hoạt động tuyên truyền chống chiến tranh ở nhiều nước, nhiều tổ chức khác trên thế giới. Phải thấy trong
quá trình tiến hành chiến tranh chống Mỹ, “hoạt động đoàn kết quốc tế phải được đẩy mạnh phục vụ chiến
tranh”
1
. Việc dự tính trước sự cần thiết phải tìm cho Mỹ một lối thoát danh dự đã cho thấy sự phán đoán tài
tình của Người về kết cục tất yếu của cuộc chiến mà Mỹ đang tiến hành đồng thời cũng tỏ rõ thiện chí của
Hồ Chủ tịch.
Tiếp đó, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh-từ Hội nghị BCT (ngày 12-3-1965),
đến Hội nghị BCHTƯ lần thứ 11, tới Hội nghị BCHTƯ lần thứ 12, những vấn đề cơ bản nhất về đường lối
đấu tranh ngoại giao chống Mỹ, cứu nước đã được vạch ra một cách cụ thể.
Đường lối đấu tranh ngoại giao chống Mỹ cứu nước còn được bổ sung, hoàn thiện thêm qua các hội
nghị Bộ Chính trị và các hội nghị BCHTƯ lần thứ 13 (từ 23 đến ngày 26-1-1967); Hội nghị BCHTƯ lần thứ
12 (từ ngày 8 đến ngày 10-5-1969). Đồng thời tiếp tục được bổ sung qua những tuyên bố ngoại giao, những
bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Chính phủ các nước, các tổ chức chính trị trên thế giới và thư gửi cho
1
Biên bản họp BCT (12-1965 và 1-1966), phông BCHTƯ, ĐVBQ, Cục lưu trữ TƯĐ, tr.21.
16
Tổng thống L.Giôxơn v.v…Nhưng có thể khẳng định, dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh, cho đến Hội nghị
BCHTƯ lần thứ 12, những tư tưởng cơ bản và đường lối đấu tranh ngoại giao chống Mỹ, cứu nước đã được
hình thành.
2.1.2. Tiếp xúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh với các nhà thương lượng quốc tế và công cuộc vận động
nhân dân thế giới đấu tranh làm thất bại “chiến dịch hòa bình” của Mỹ
Chính quyền Mỹ tiến hành chiến tranh phi nghĩa, vị thế quốc tế không thuận lợi nên rất coi trọng
công tác ngoại giao ngay từ khi bắt đầu chiến tranh. Họ coi “ngoại giao hòa bình” là một bộ phận của chiến
lược chiến tranh. Ngoại giao của Mỹ nhằm lừa gạt nhân dân Mỹ, lôi kéo các nước và dư luận thế giới về phía
Mỹ, cô lập và gây khó khăn cho Việt Nam trên trường quốc tế.
Bởi những thất bại nặng nề về quân sự trên chiến trường, đồng thời bị dư luận thế giới và trong nước
cực lực phản đối hành động leo thang chiến tranh, L.Johnson một mặt lừa dối dư luận, mặt khác cũng muốn
tìm ra một lối thoát cho cuộc chiến “khó tìm thấy tương lai”, đã mở một chiến dịch “tìm kiếm hòa bình” qua
con đường thương lượng, tất nhiên là “thương lượng trên thế mạnh”.
Các mục tiêu cụ thể của chiến dịch hòa bình được trình bày cụ thể trong Bị vong lục của Bộ Ngoại
giao Mỹ (9-11-1965) và Bị vong lục của Mc.Namara (30-11-1965)
1
gửi L. Johnson là nhằm tạo nên sức ép
quốc tế, cô lập và bắt Việt Nam thương lượng theo các điều kiện của Mỹ; tạo cớ để mở rộng chiến tranh và
che dấu các hành động quân sự; xoa dịu dư luận Mỹ và quốc tế.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận rõ và bóc trần thủ đoạn bịp bợm cũng như mưu đồ chiến tranh này
của Johnson, tại phiên họp ngày 10-4-1965, của Quốc hội khóa III nước VNDCCH.
Tiếp đó là hàng loạt những sách lược đối ngoại đã được cách mạng Việt Nam thực hiện nhằm thực
hiện đoàn kết quốc tế. Và mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích rõ lập trường thiện chí của mình về
việc mở đường cho Mỹ rút khỏi cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam trong danh dự như vậy nhưng chính
quyền Mỹ vẫn tiếp tục điên cuồng lao vào cuộc chiến dù phải gánh chịu rất nhiều thất bại nặng nề qua hai
mùa khô 1965-1966 và 1966-1967.
Khi đế quốc Mỹ tiếp tục những hành động leo thang trắng trợn, ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ra Lời kêu gọi quân và dân cả nước quyết tâm chiến đấu đánh bại bọn xâm lược, đồng thời nõi rõ
với dư luận thế giới và cả với đế quốc Mỹ quyết tâm đó của dân tộc. Người đã cảnh cáo ý chí xâm lược của
đế quốc Mỹ và với niềm tự tin, quyết tâm cách mạng sắt đá, Người khẳng định tư tưởng mang tầm chiến
lược không có gì quý hơn độc lập, tự do. Tư tưởng đó của Người đã thể hiện ý chí của cả dân tộc Việt Nam
được hun đúc từ lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Không có gì quý hơn độc lập, tự do, không
chỉ là lời hịch kêu gọi nhân dân Việt Nam chiến đấu để bảo vệ đất nước trong cao điểm của cuộc đụng đầu
lịch sử, mà còn nêu cao chân lý phổ biến đối với các dân tộc đang đấu tranh giành và giữ độc lập. Câu nói
bất hủ đó đã nhanh chóng trở thành cương lĩnh chiến đấu, sức mạnh vật chất mang sức tiến công lớn của
nhân dân Việt Nam và đã lôi cuốn được hàng triệu triệu người trên thế giới đồng tình và ủng hộ sự nghiệp
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam.
Cùng với hoạt động đối ngoại Nhà nước, Người tiếp tục tranh thủ những tấm lòng thiện cảm, hữu
nghị quốc tế đã dành cho Việt Nam. Những tiếng nói chân tình, hợp đạo lý, hợp lòng người của Chủ tịch Hồ
1
Thông tấn xã Việt Nam (1971): Tài liệu mật Bộ Quốc phòng Mỹ về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Hà Nội, (tập 2), tr.157-
158.
17
Chí Minh đã dội vào lương tri nước Mỹ, cổ vũ và thúc đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân Mỹ chống
chiến tranh xâm lược, đòi rút quân khỏi Việt Nam.
Từ tháng 11-1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi điện cho Bertrand Russel. Người cảm ơn sự ủng hộ của
các vị trong Tòa án quốc tế đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Người coi Tòa án quốc
tế là sự cổ vũ mạnh mẽ đối với nhân dân Việt Nam và các dân tộc đang đấu tranh cho độc lập, dân chủ và hòa
bình.
Với những thắng lợi trên, sự chỉ đạo, lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng những đã làm thất
bại “chiến dịch hòa bình” của Mỹ, mà thông qua hoạt động của Người, hình ảnh của Việt Nam đã được cả
năm châu ngưỡng mộ, chính nghĩa Việt Nam ngày càng ngời sáng và trở thành biểu tượng của chân lý. Vấn
đề Việt Nam đã thực sự đi sâu vào đời sống chính trị ở các nước trên thế giới, tạo ra động lực thật sự do
phong trào ủng hộ Việt Nam phản đối xâm lược Mỹ nổ ra khắp toàn cầu. Đây là điều kiện thuận lợi cho mặt
trận ngoại giao chuyển sang giai đoạn tấn công (vừa đàm vừa đánh), buộc chính quyền L.Johnson phải
xuống thang chiến tranh, chấm dứt ném bom miền Bắc và ngồi vào đàm phán.
2.1.3. Những hoạt động của Hồ Chí Minh nhằm thắt chặt quan hệ Việt-Trung; Việt-Xô và vận động
nhân dân thế giới, huy động phong trào phản chiến đòi đế quốc Mỹ xuống thang chiến tranh
Tới thời điểm quyết liệt này, bất đồng giữa Liên Xô và Trung Quốc vẫn tiếp tục ngày càng sâu sắc.
Sự bất hòa Xô-Trung này còn đưa tới chỗ phân liệt trong hệ thống XHCN thế giới và trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Mỹ biết rõ tình huống trên, ra sức lợi dụng và liều lĩnh lao vào cuộc chiến tranh
xâm lược ở miền Nam Việt Nam, leo thang chiến tranh phá hoại miền Bắc, mở rộng các hành động can
thiệp, xâm lược ở Campuchia và Lào.
Trong khi đó, yêu cầu phát triển của cách mạng Việt Nam lại không thể tách khỏi sự giúp đỡ và ủng
hộ của hai nước lớn- Liên Xô và Trung Quốc. Xử lý mối quan hệ phức tạp Việt-Trung-Xô lại phải nhằm tới
ngoài đáp ứng yêu cầu của cách mạng Việt Nam thì còn phải tính đến lợi ích của nhân dân, giai cấp công
nhân thế giới. Cho nên, Hồ Chủ tịch vừa kiên trì đường lối độc lập, tự chủ, vừa tăng cường đoàn kết, tranh
thủ sự ủng hộ từ mọi phía và nêu cao trách nhiệm với phong trào cách mạng thế giới. Người thận trọng, tế
nhị trong từng hành động, lời phát biểu.
Ngày 12-3-1965, Chủ tịch Hồ Chí Minh họp Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng bàn về cách
mạng miền Nam, về việc tổ chức Hội nghị quốc tế ủng hộ Việt Nam, về công tác đối ngoại và công tác tổ
chức, nhân sự. Riêng về công tác đối ngoại với Liên Xô và Trung Quốc, Người đã đưa ra nguyên tắc chỉ
đạo: “Làm việc phải thật khéo, thận trọng, để Trung Quốc đừng hiểu lầm, Liên Xô đừng hiểu lầm, Trung
Quốc và Liên Xô đừng hiểu lầm nhau”
1
. Đường lối đó “đã giúp nhân dân ta tranh thủ được sự ủng hộ của
nhân dân thế giới, của phong trào cách mạng thế giới, của các nước XHCN, trong tình trạng nhân dân thế
giới, phong trào cách mạng thế giới và các nước XHCN đang bị chia rẽ sâu sắc do sự bất đồng Xô-Trung ”
2
.
Thêm vào đó, trên cương vị người lãnh đạo cao nhất của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã nhiều lần đón tiếp và hội đàm với các đoàn đại biểu cấp cao Liên Xô, cán bộ quân sự Liên Xô sang
thăm và làm việc tại Việt Nam. Người cũng đã chỉ đạo việc mời nhiều đoàn đại biểu cấp cao của Đảng và
1
Viện Hồ Chí Minh- Học viện CT-HCQGHCM: Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử, sđd, tập 9, tr. 203
2
Nguyễn Cơ Thạch: Bài học của Đảng ta về việc kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, Tạp chí Lịch sử Đảng, số
1(29)-1990, tr.19.
18
Nhà nước Liên Xô sang thăm Việt Nam. Trong tình hình phức tạp của mối quan hệ quốc tế, Người đề nghị
Bộ Chính trị khi đàm phán với Liên Xô chỉ đề cập tới những vấn đề có thể đưa lại kết quả, không mở rộng
tràn lan. Những vấn đề quốc tế mà quan điểm giữa Việt Nam và Liên Xô không cùng chính kiến thì không
nên đặt ra. Những chỉ đạo này của Người đã được quán triệt trong các cuộc hội đàm giữa Việt Nam và Liên
Xô. Chính bởi những nỗ lực và đường lối đúng đắn trên, thành quả của mối quan hệ Việt-Xô đã được ghi
nhận.
Còn trong quan hệ với Trung Quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh ở mọi thời điểm vẫn làm mọi cách để duy
trì và phát triển mối quan hệ “vừa là đồng chí, vừa là anh em”.
Ngoài các cuộc viếng thăm chính thức và bằng trao đổi thư, điện giữa Người với các vị lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước Trung Hoa, từ năm 1965-1969, mỗi năm một lần, Hồ Chí Minh còn trực tiếp sang Trung
Quốc với danh nghĩa đi nghỉ để đàm đạo với các nhà lãnh đạo Trung Quốc. Đây là hình thức tỏ lòng tin cậy
của nhân dân Việt Nam đối với Trung Quốc, nhất là thời kỳ mâu thuẫn Xô-Trung ngày càng gay gắt. Chủ
tịch Hồ Chí Minh còn trực tiếp viết nhiều bài báo ca ngợi Trung Quốc trên các báo ở Việt Nam cũng như
trên tờ Nhân dân nhật báo của Bắc Kinh. Dù thời gian rất eo hẹp nhưng Người vẫn thu xếp để tiếp tất cả các
phái đoàn Trung Quốc sang Việt Nam. Bởi thế, dù có nhiều thăng trầm trong quan hệ hai nước, nhưng về cơ
bản trong suốt cuộc chiến tranh chống Mỹ, Trung Quốc - đặc biệt là nhân dân Trung Quốc đã hoàn toàn ủng
hộ Việt Nam.
Cùng với những hoạt động và chỉ đạo công tác đối ngoại để tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của Liên
Xô - Trung Quốc và các nước trong phe XHCN, những hoạt động ngoại giao trong giai đoạn từ 1965-1969
còn phản ánh trí tuệ, hoạt động tích cực và hiệu quả của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc làm hình thành và
phát triển trong thực tế một mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.
Mặt trận đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương tiếp tục được củng cố, phát triển và trở thành một
lực luợng mạnh mẽ, góp phần tích cực vào sự nghiệp của nhân dân ba nước Đông Dương.
Hạt nhân của mặt trận nhân dân thế giới này không chỉ gồm phong trào phản chiến ở Mỹ mà còn bao
gồm cả phong trào phản đối chiến tranh của nhân dân ở các nước trong hệ thống TBCN, vốn là hoặc chưa là
đồng minh của Mỹ. Điển hình như ở Ở CHLB Đức, Thụy Điển, Ý, Canađa Cùng với nhân dân các nước,
các tổ chức hòa bình, dân chủ và tiến bộ trên thế giới cũng đứng về phía nhân dân Việt Nam: Hội đồng hòa
bình thế giới; Liên hiệp công đoàn thế giới; Tổ chức đoàn kết nhân dân Á, Phi và các Ủy ban đoàn kết Á,
Phi; Liên đoàn thanh niên dân chủ quốc tế, Hội liên hiệp sinh viên quốc tế, Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc
tế, Hội luật gia dân chủ quốc tế, Hội nhà báo quốc tế, Hội nhà văn Á, Phi, Hội nhà báo Á, Phi v.v…cũng đã
nhiều lần lên án Mỹ xâm lược, và có nhiều hoạt động tích cực ủng hộ Việt Nam. Báo chí, đài phát thanh, đài
vô tuyến truyền hình có khuynh hướng dân chủ, tiến bộ trên thế giới đã cung cấp kịp thời, nhanh chóng tin
tức Việt Nam và một bộ phận lớn đã tỏ mối cảm tình với nhân dân miền Nam, kịch liệt lên án đế quốc Mỹ
xâm lược. Quần chúng độc giả đang công phẫn trước những tội ác quá rõ ràng của đế quốc Mỹ, cho nên ngay
một số báo chí không tốt cũng không dám công nhiên bênh vực đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam. Hầu như
hàng ngày đài vô tuyến truyền hình các nước đều truyền đi những hình ảnh thời sự về chiến tranh ở Việt
Nam, trong đó những tội ác của đế quốc Mỹ đã được nêu lên khá nổi bật.
19
Đế quốc Mỹ càng tăng cường mở rộng chiến tranh xâm lược Việt Nam và càng thất bại nặng nề, thì
mâu thuẫn của chúng với nhân dân Mỹ và các lực lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới càng sâu sắc. Quy
mô sâu rộng của phong trào nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ không những biểu hiện ở một số
nước và số tổ chức tham gia phong trào, mà còn biểu hiện ở chỗ phong trào đã lôi cuốn được những lực
lượng và tầng lớp xã hội hết sức rộng rãi. Ngoài giai cấp công nhân và nhân dân lao động, giới trí thức thế
giới cũng nhiệt tình ủng hộ nhân dân Việt Nam. Trong các cuộc đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ, thanh niên, sinh viên nhiều nước tham gia rất hăng hái. Vì họ là những người nhạy cảm, và cũng
trực tiếp chịu ảnh hưởng của chiến tranh.
Chính từ sức ép của dư luận tiến bộ, của phong trào phản đối chiến tranh của nhân dân Mỹ và nhân
dân yêu chuộng hòa bình thế giới, cộng với thất bại nặng nề trên chiến trường đã buộc Johnson, ngày 31-3-
1968, phải tuyên bố ngừng ném bom không điều kiện ở miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, cử đại diện Mỹ
thương lượng với Việt Nam và không ra ứng cử tổng thống nhiệm kỳ tiếp nữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng LĐVN đã xem xét kỹ ba khả năng: bác bỏ hoàn toàn, chấp nhận hoàn toàn, chấp nhận một
phần. Cuối cùng, Đảng LĐVN đã chọn khả năng thứ ba, vừa đáp ứng được mong đợi của nhân dân thế giới,
vừa kéo được Mỹ xuống thang và ngồi vào đàm phán, đồng thời vẫn tiếp tục đấu tranh đòi Mỹ ngừng ném
bom hoàn toàn.
Đến tháng 1 năm 1969, Richard Nixon Tổng thống mới của Hoa Kỳ quyết định thay đổi chiến lược
chiến tranh ở miền Nam bằng học thuyết “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Khác với giai đoạn trước, nếu trong những năm 1967-1968, khẩu hiệu trọng tâm trong đấu tranh
ngoại giao của Việt Nam là đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện ném bom và mọi hành động chiến tranh khác
chống nước VNCDCCH thì từ năm 1969 trở đi, chủ yếu là đòi Mỹ rút hết và không điều kiện quân Mỹ và
quân chư hầu ra khỏi miền Nam Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh theo dõi sát sao cuộc đấu tranh ngoại giao, thường xuyên quan tâm động viên
phái đoàn Việt Nam. Nhân dịp Xuân Kỷ Dậu (1969), Người đã gửi điện chúc Tết các cán bộ đang công tác
tại Paris.
Đến thời điểm năm 1969, mặc dù tuổi cao, sức khỏe đã yếu đi nhiều, nhưng Hồ Chủ tịch vẫn thân
mật tiếp những người bạn, những đồng chí, những nhân vật nổi tiếng trên thế giới để gửi gắm ý chí đấu tranh
sắt đá của nhân dân Việt Nam.
Giữa lúc sự nghiệp cách mạng đang đi vào giai đoạn quyết định, thì ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí
Minh từ trần. Trái tim Người đã ngừng đập khi Người chưa thấy một nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và
thống nhất. Người ra đi trong niềm tiếc thương vô hạn của toàn Đảng, toàn dân Việt Nam và bạn bè trên thế
giới.
Nhưng cũng chính trong đau thương vô hạn đó, nhân dân Việt Nam lại thấy ấm tình đoàn kết quốc tế
và tự hào có Chủ tịch Hồ Chí Minh, người “kiến trúc sư” lỗi lạc xây dựng tình đoàn kết hữu nghị giữa dân
tộc Việt Nam với nhân dân thế giới.
Với tất cả thành tựu đoàn kết, ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, công cuộc kháng chiến chống Mỹ của
nhân dân miền Nam tiếp tục được củng cố và phát triển. Dân tộc Việt Nam đã đến Paris với ý thức dân tộc
và ngoại giao đạo lý để chống chọi với ngoại giao trên thế mạnh của Hoa Kỳ.
20
2.2. Cách mạng Việt Nam kế thừa và phát huy hiệu quả chiến lược đoàn kết quốc tế của Chủ
tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ 1969-1975
2.2.1. Kế thừa và phát huy tư tưởng Hồ Chí Minh thực hiện đoàn kết quốc tế đánh bại “Việt Nam
hóa chiến tranh” tiến tới ký kết Hiệp định Pari, thực hiện “đánh cho Mỹ cút”(1969 -1973)
Trong khi nhân dân Việt Nam hy sinh, chiến đấu chống xâm lược Mỹ và đang rất cần đến sự ủng hộ
giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, thì chiến tranh biên giới Trung-Xô lần thứ hai (3-1969) đã diễn ra ác liệt, cả
hai phía đều muốn lôi kéo Việt Nam để tranh thủ dư luận trong nước và thế giới, tất nhiên quan điểm của
Việt Nam đã không làm cho họ hài lòng do đó quan hệ Việt-Trung-Xô cũng vì thế mà căng thẳng.
Hơn thế nữa, khi Trung Quốc gặp khó khăn trong Cách mạng văn hóa muốn tìm cách thoát khỏi thế
cô lập. Mỹ sa lầy ở Việt Nam phải đi vào “Việt Nam hóa”, phải tìm thế quan hệ mới với Liên Xô và Trung
Quốc. Từ đó mà hình thành một thế quan hệ mới giữa ba nước lớn, ba nước hòa hoãn đấu tranh với nhau
từng đôi một-giới nghiên cứu gọi là “tam giác chiến lược”. Đây cũng là thời kỳ mà sự hòa hoãn với ba nước
lớn có những tác động tiêu cực đối với Việt Nam, đỉnh cao là chuyến thăm của Nixon tới Trung Quốc và
Liên Xô đầu năm 1972.
Tính từ giai đoạn trước đến thời điểm này, hơn bao giờ hết, sự giúp đỡ, ủng hộ của hai đồng minh
lớn Xô-Trung đã bộc lộ hết cơ sở, lý do tổng hợp về mặt lợi ích dân tộc.
Đồng thời với việc triển khai kế hoạch “Việt Nam hóa chiến tranh”, chính quyền Nixon tiếp tục triển
khai các hướng hoạt động ngoại giao. Nichxon dự định dịp 31-10-1969, kỷ niệm một năm chấm dứt ném
bom miền Bắc, Mỹ sẽ mở một đợt vận động ngoại giao rộng lớn và đe dọa mạnh mẽ cả với Việt Nam và
Liên Xô. Nhưng cũng đúng dịp này, phong trào nhân dân Mỹ chống chiến tranh đã rộ lên với những đợt
“ngừng hoạt động” (Moratorium) khắp nước Mỹ. Việt Nam vẫn vững vàng. Liên Xô không tỏ một tín hiệu gì
! Cuộc đe dọa của Mỹ thất bại, không kèn không trống.
Ngày 24 và 25-4-1970, tại vùng biên giới Việt Nam-Lào-Trung Quốc, những người đứng đầu ba
nước Đông Dương đã họp hội nghị cấp cao của nhân dân Đông Dương để chống lại âm mưu và hành động
mở rộng chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ra toàn bán đảo Đông Dương. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng một mặt trận đoàn kết mật thiết giữa ba nước Đông Dương đã được kế thừa và phát huy hiệu quả.
Và như vậy, trên thực tế, khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nước Đông Dương đã làm cho âm
mưu của Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương để tiêu diệt cách mạng của ba nước đã trở chiến lược
sai lầm.
Ở Hội nghị Paris, giữa các phiên họp, hai phái đoàn của Việt Nam mở rộng tiếp xúc với nhân dân thế
giới, đi dự các hoạt động của phong trào đoàn kết với Việt Nam của các nước, tiếp đón những người Mỹ…
Những hoạt động đó đã làm cho chính nghĩa của Việt Nam ngày càng được cộng đồng quốc tế hiểu rõ và
đồng tình ủng hộ. Tháng 5-1970, Hội nghị Stốckhôm về Việt Nam họp khóa thứ 5 quyết định lập Ủy ban
quốc tế điều tra tội ác chiến tranh của đế quốc Mỹ ở Đông Dương. Tiếp đó, đã có trên 20 tổ chức Ủy ban
quốc tế và Ủy ban quốc gia về vấn đề này cũng được thành lập và hoạt động
1
.
Một điều dễ nhận ra là trong rất nhiều những biểu ngữ và khẩu hiệu thường thấy ở các phong trào
hòa bình, phản chiến trên đất Mỹ, cũng như nhiều nơi khác trên thế giới trong thời kỳ này, khẩu hiệu như:
1
Hoàng trang: sđd, tr. 134.
21
Ho, Ho, Ho Chi Minh ! The NLF is going to win ! gắn liền với Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là nổi bật và có
sức biểu trưng lớn trong dòng người đấu tranh vì hòa bình.
Trong khi đó, sự ủng hộ, giúp đỡ của đồng minh Liên Xô đã trở thành cụ thể.
Tháng 2-1971, Hội nghị lần thứ 19 BCHTƯĐ kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế đã
nhấn mạnh nhu cầu khách quan mà cách mạng Việt Nam cần phải kế thừa và phát huy mối quan hệ đoàn kết
chặt chẽ với nhân dân Lào và Campuchia trên bán đảo Đông Dương.
Trên cơ sở tư tưởng chỉ đạo đúng đắn đó, khối đoàn kết nhân dân ba nước Đông Dương tạo ra sức
mạnh to lớn của ba dân tộc đã đập tan ba cuộc hành quân then chốt của Mỹ và tay sai vào đầu năm 1971:
cuộc hành quân “Lam Sơn 719” ở đường 9-Nam Lào; cuộc hành quân “Toàn thắng 01/71” ở Đông Bắc
Campuchia và cuộc hành quân ra vùng biên giới Việt-Lào-Campuchia… Với những thắng lợi này đã phá tan
âm mưu của Mỹ bóp nghẹt cuộc kháng chiến và tiêu diệt cách mạng của Lào và Campuchia. Kết hợp với đó,
ở các đô thị miền Nam, phong trào đấu tranh của các tầng lớp thị dân kết hợp mục tiêu dân tộc với các khẩu
hiệu dân sinh, dân chủ, hòa bình với nhiều hình thức phong phú đã đạt đỉnh cao.
Những nguồn nội lực này đã tác động rất lớn đến sự phát triển của các phong trào đoàn kết với Việt
Nam trong mặt trận nhân dân thế giới, với nhân dân tiến bộ Mỹ là lực lượng xung kích.
Bước sang năm 1972, khi Hội nghị phán Pari diễn tiến trong những khó khăn gây ra bởi đế quốc Mỹ,
cùng với những hành động mở rộng chiến tranh ra khắp chiến trường Đông Dương của đế quốc Mỹ, thì cũng
là thời điểm mặt trận nhân dân thế giới đạt tới sự thống nhất cao độ và tiếp tục mở rộng không ngừng những
hoạt động ủng hộ mạnh mẽ nhân dân Việt Nam, cùng nhân dân Lào, Campuchia chống Mỹ.
Trong việc kế thừa để vận dụng tư tưởng của Hồ Chủ tịch thực hiện đoàn kết Trung, Xô trong thời
điểm này, Việt Nam đã xác định “giá trị” của tam giác chiến lược Trung-Xô-Mỹ trong từng thời điểm, ở
từng sự kiện cụ thể để có đối sách ứng phó phù hợp, linh động những bất biến cho cuộc kháng chiến.
Từ giữa năm 1972, Việt Nam chuyển chiến lược, tranh thủ kết thúc chiến tranh trước bầu cử Mỹ. Cả
Mỹ và Liên Xô, Trung Quốc đều nắm bắt được chiều hướng ấy. Trên phương diện đấu tranh ngoại giao ở
bàn đám phán Paris, Việt Nam tiếp tục thực hiện phương châm đấu tranh của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc còn
sinh thời đã chỉ thị cho đoàn đàm phán là giành thế chủ động trong đàm phán, kiên trì mục tiêu đấu tranh.
Nhằm tác động mạnh mẽ hơn nữa vào dư luận và nhân dân thế giới, ngày 26- 10-1972, Chính phủ Việt Nam
ra Tuyên bố về Tình hình cuộc đàm phán về vấn đề Việt Nam hiện nay.
“Hai tiếng “Việt Nam” trở thành tiếng nói của lương tri và trái tim của thời đại”, của hàng triệu con
người trên khắp các châu lục. Phong trào nhân dân thế giới lên án Mỹ đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam
đang lên cao. Trong dư luận Mỹ, tinh thần chán ghét chiến tranh, đòi phải đàm phán để đưa lính Mỹ về nước
ngày càng phát triển. Những phương tiện thông tin hiện đại đã “đưa cuộc chiến tranh Việt Nam vào phòng
ngủ của mọi người Mỹ” và thức tỉnh lương tri họ. Điều này tạo điều kiện cho Việt Nam triển khai một mặt
trận báo chí và dư luận trên quy mô lớn chưa từng có. Chính vì thế, ngay cả ở những địa bàn xa như Canađa,
những nơi ít đến hoặc chưa đến được như Aixơlen, nhiều nước Châu Phi, Mỹ Latinh, phong trào thế giới
đoàn kết với Việt Nam được tiếp xúc và mở rộng hơn.
Chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không” kéo dài 12 ngày đêm kết thúc với thắng lợi vang dội của dân
tộc Việt Nam, trận Điện Biên Phủ trên không là thắng lợi của lương tri nhân loại tiến bộ. Loài người tiến bộ
22
vui mừng trước thắng lợi của nhân dân Việt Nam. Mặt trận nhân dân thế giới chống chiến tranh xâm lược
của Mỹ, ủng hộ Việt Nam dâng cao mạnh mẽ.
Ngày 29-12-1972, Mỹ phải ngừng ném bom ở miền Bắc từ vĩ tuyến 20.
Ngày 27-1-1973, cả thế giới chào mừng việc ký kết Hiệp định chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình
ở Việt Nam.
Hiệp định Paris tổng hòa với các thắng lợi trên chiến trường và trên quốc tế đã tạo ra “thắng lợi
quyết định” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra cho công cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Hiệp
định Paris còn đưa lại thắng lợi cách mạng Lào gần như đồng thời với Hiệp định Paris về Việt Nam, và thắng
lợi của nhân dân Campuchia cũng vậy. Thắng lợi của Việt Nam đã thay đổi lớn cục diện Đông Nam Á và ghi
một cái mốc sáng chói trong lịch sử nhân loại. Với cuộc đàm phán Paris, một nước nhỏ đàm phán tay đôi
trên tư thế bình đẳng với một nước lớn, phải dựa vào sức mạnh toàn dân theo một đường lối đúng đắn, tranh
thủ sự ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân thế giới
1
. Sức mạnh đoàn kết của dân tộc khi hòa cùng sức mạnh đoàn
kết, ủng hộ của thế giới đã tạo nên một sức mạnh tổng hợp lớn lao góp phần quan trọng đưa cách mạng Việt
Nam “cập bến vinh quang”, đã minh chứng hùng hồn một chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch ra cho thời
đại, cho cả nhân loại: một dân tộc biết đoàn kết nhất trí, quyết tâm chiến đấu và được sự ủng hộ của nhân
dân thế giới, thì cuối cùng nhất định giành được tự do độc lập
2
.
2.2.2. Tiếp tục kế thừa, phát huy thành quả tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết quốc tế “đánh cho
Ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước (1973-1975)
Thành quả đấu tranh, ủng hộ, giúp đỡ của Mặt trận nhân dân thế giới đã góp phần vô cùng to lớn vào
thắng lợi của dân tộc Việt Nam trên bàn đàm phán Hội nghị Pari. Song, với Hiệp định Pari, cuộc kháng chiến
chống Mỹ của nhân dân Việt Nam chưa giành được thắng lợi hoàn toàn, vì Mỹ chưa “cút” hẳn và Ngụy cũng
chưa “nhào”. Do vậy, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam còn phải vượt qua nhiều khó khăn trở ngại.
Kế thừa cách nhìn nhận tình hình, bối cảnh trong nước và quốc tế theo con đường biện chứng và
nhạy bén của Chủ tịch Hồ Chí Minh, BCHTƯ ĐLĐVN đã nhận định về con đường chiến lược tất yếu, phải
đánh cho “ngụy nhào” khi Mỹ đã “cút”.
Nhưng cũng ở thời điểm này, nhiều chuyển biến trong quan hệ quốc tế cũng đã có lợi cho công cuộc
kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Vấn đề Việt Nam, tiêu điểm trong chiến tranh Lạnh về cơ bản đã được
giải quyết bằng Hiệp định Pari, trong quan hệ hòa hoãn Xô-Mỹ, Việt Nam về cơ bản đã không còn là cản trở.
Liên Xô đã giữ vững và thực hiện đúng lập trường luôn đứng bên cạnh và ủng hộ nhân dân Việt
Nam. Liên Xô ủng hộ VNDCCH khôi phục kinh tế; xóa hoàn toàn những khoản nợ khá lớn cho vay trong
chiến tranh; lên án mạnh mẽ Mỹ dung túng chính quyền phá hoại Hiệp định. Các nước XHCN khác đều ủng
hộ Việt Nam trong giai đoạn mới. Ba Lan và Hungari là thành viên của Ủy ban quốc tế, hết lòng phối hợp
với Việt Nam.
Ngược với thái độ và hành động tích cực đó của Liên Xô, Trung Quốc lại có những tính toán cho
riêng mình. Quan điểm và lợi ích của Trung Quốc giống như sau Hiệp định Giơnevơ năm 1954.
1
Nguyễn Khắc Huỳnh: Hiệp định Paris 40 năm nhìn lại trích trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế Hiệp định Paris 1973: 40 năm
nhìn lại, ĐHKHXH&NV, Hà Nội, 1-3013, tr. 144, 145.
2
Hồ Chí Minh phát biểu trong Lời cảm ơn khi dự cuộc mít tinh chào mừng của nhân dân Thủ đô Niu Đêli, Ấn Độ, trong chuyến
thăm Ấn Độ từ ngày 4.2 đến 7.2.1958. Hồ Chí Minh: Toàn tập, sđd, 2000, tập 9, tr.40.
23
Nếu cách mạng Việt Nam không kế thừa và huy triệt để tư tưởng đoàn kết quốc tế trên tinh thần độc
lập, tự chủ của Hồ Chủ tịch, thì rất có thể một Giơnevơ thứ hai đã xảy ra cho Hiệp định Paris. Như lịch sử đã
ghi nhận lại thì với những sách lược đã được thực thi sáng suốt theo tư tưởng đoàn kết quốc tế của Hồ Chí
Minh ở thời điểm này trong việc giải quyết cả vấn đề Campuchia của cách mạng Việt Nam với Mỹ, đã hạn
chế tối đa sự câu kết Mỹ - Trung trong vấn đề Campuchia. Điều này đã đặt cơ sở cho sự nghiệp kháng chiến
chống Mỹ tiến lên trên toàn chiến trường Đông Dương.
Phong trào thế giới hân hoan với thắng lợi của nhân dân Việt Nam, tiếp tục giành cho nhân dân Việt
Nam những tình cảm quý trọng và nhiệt tình ủng hộ.
Từ 1973 đến 1975, đã nổ ra những cuộc tranh luận rất sôi nổi ở Quốc hội Mỹ, về những nguyên nhân
của cuộc thất trận, về sự cam kết trong tương lai của Mỹ đối với Đông Dương cũng như đối với các nước
khác trên thế giới.
Trong hai năm 1973 và 1974, phong trào phản chiến tại Mỹ đã giành được những kết quả lớn trong
việc phản ánh tình trạng khố khổ của tù nhân chính trị Nam Việt Nam khi trưng bày một bản sao nguyên
mẫu chiếc xà kim “chuồng cọp” ở miền Nam Việt Nam.
Nhân lên những khích lệ đó, từ đầu năm 1973 đến giữa 1974, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt
Nam đã kết hợp đấu tranh chính trị và ngoại giao theo đúng đường lối đoàn kết quốc tế của Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhằm thực hiện việc Mỹ rút hết quân, chấm dứt dính líu quân sự, đòi chính quyền Sài Gòn thực hiện
ngừng bắn, đình chỉ lấn chiếm.
Đến cuối năm 1973, hầu như VNDCCH và Chính phủ Cách mạng lâm thời chiếm được trận địa dư
luận. Tháng giêng 1974, Bộ Ngoại giao VNDCCH công bố cuốn sách trắng “Một năm thi hành Hiệp định
Paris”, tố cáo có hệ thống việc Mỹ-Thiệu vi phạm, phá hoại hiệp định, nêu cao thiện chí và quyết tâm của
nhân dân Việt Nam.
Cũng từ mùa thu năm 1974, trên chiến trường, cán cân lực lượng đã nghiêng hẳn về phía cách mạng
Việt Nam và cách mạng Đông Dương.
Tháng 10-1974, Hội nghị BCTTƯĐLĐVN họp và hạ quyết tâm lịch sử hoàn thành giải phóng miền
Nam sau khi đã nhất trí thông qua phương án hai năm 1974-1975 và chọn chiến trường Tây Nguyên là
hướng tấn công chủ yếu mở đầu.
Nhiệm vụ chủ yếu của đối ngoại được giao là tiếp tục theo dõi, đánh giá về khả năng Mỹ có thể trở
lại can thiệp bằng quân sự hay không và đấu tranh ngăn chặn khả năng đó.
Mùa xuân năm 1975, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn bộ chiến trường miền Nam Việt Nam
với khí thế thần tốc mở đầu bằng chiến dịch Tây Nguyên (3-1975) đã tạo thời cơ chưa từng có cho cách
mạng Campuchia và Lào, tăng cường hơn nữa sự phối hợp chiến đấu, hỗ trợ lẫn nhau trên chiến trường ba
nước Đông Dương.
Ngụy quyền Sài Gòn “phải nhìn vào tình hình Campuchia với mối lo sợ, hoang mang rõ rệt và mối
nghi ngờ bọn chủ Mỹ”. Trong khi đó, “tình hình cách mạng Lào đang phát triển tốt đẹp, càng cổ vũ cán bộ,
chiến sĩ ta ngoài mặt trận”
1
.
1
Đại tướng Văn Tiến Dũng: Đại thắng Mùa Xuân, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1977, tr.243.
24
Đầu năm 1975, khi các lực lượng vũ trang giải phóng được tỉnh Phước Long và chiếm đài quan sát
quan trọng nhất của địch ở Tây Ninh, Mỹ chỉ hăm dọa và gây sức ép từ xa như báo động sư đoàn 3 lính thủy
đánh bộ ở Ôkinawa, dọa ném bom trở lại…Song, trước phản ứng của dư luận Mỹ, ngày 22-1-1975, Tổng
thống Ford tuyên bố sẽ không có hành động nào khác ngoài việc bổ sung viện trợ cho Sài Gòn; sẽ không can
thiệp mà không thông qua thủ tục luật pháp.
Ngày 4-3-1975, quân Giải phóng mở cuộc tấn công bằng chiến dịch Tây Nguyên, ngày 11-3, giải
phóng Buôn Ma Thuột. Bộ Chính trị hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975. Ngày 21-3-1975,
Chính phủ Cách mạng lâm thời tuyên bố đòi thay Nguyễn Văn Thiệu bằng một chính quyền tán thành hòa
bình, hòa hợp dân tộc, độc lập và dân chủ. Ngày 2-4-1975, Mỹ gửi công hàm cho Liên Xô, Trung Quốc đề
nghị họp lại hội nghị quốc tế bàn thực hiện ngừng bắn. Nhưng giữa tháng 4-1975, đại quân hình thành bao
vây Sài Gòn. Ngày 16-4, Ủy ban quân lực Thượng nghị viện Mỹ bác bỏ viện trợ bổ sung cho Thiệu. Ngày
17-4, Hoa Kỳ bỏ rơi chính quyền thân Mỹ ở Phnôm Pênh. Ngày 18-4, Tổng thống Ford ra lệnh di tản người
Mỹ khỏi miền Nam, Xuân Lộc thất thủ. Ngày 23-4, Tổng thống Ford tuyên bố cuộc chiến tranh ở Việt Nam
chấm dứt đối với Mỹ.
Hoa Kỳ vận động Liên Xô đồng ý cho di tản người Mỹ ra khỏi miền Nam, Việt Nam đồng ý.
Trong những ngày cuối cùng của cuộc Tổng tấn công giải phóng Sài Gòn, đối ngoại phát huy triệt để
tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần đoàn kết quốc tế, ngăn chặn những hành động trung gian muộn màng của
một số nước lớn; làm thất bại kế hoạch di tản của Liên hợp quốc do Mỹ gợi ý; đồng ý để Hoa Kỳ di tản
những người Mỹ cuối cùng khỏi Sài Gòn; chuẩn bị tiếp quản bộ máy ngoại giao của chính quyền Sài Gòn.
Sát cánh cùng các binh chủng khác trong cuộc chiến đấu cuối cùng của toàn dân tộc, đối ngoại Việt
Nam đã kế thừa, phát huy chiến lược đoàn kết các lực lượng quốc tế theo đúng đường lối độc lập, tự chủ của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, chống Mỹ dính líu, can thiệp trở lại. Cô lập ngụy quyền, tranh thủ sự đồng tình của
bạn bè trên thế giới, chuẩn bị dư luận cho các trận tổng công kích về quân sự. Theo quá trình phát triển của
tổng tấn công quân sự, đoàn kết quốc tế với Liên Xô, Trung Quốc theo đúng đường lối đã ngăn chặn được
mưu toan của đối phương hòng thương lượng ngừng bắn.
Nhờ sự liên minh đoàn kết chiến đấu, hỗ trợ lẫn nhau của ba nước Đông Dương, quân và dân Việt
Nam càng đánh càng mạng, nhanh chóng tổ chức những đòn tiến công quân sự và nổi dậy với quy mô ngày
càng lớn, dồn dập, dẫn đến chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng 30-4-1975.
KẾT LUẬN
Tư tưởng đoàn kết quốc tế là một bộ phận quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong thực tế
công cuộc kháng chiến chống Mỹ suốt hai thập kỷ (1954-1975), tư tưởng này đã trở thành tài sản tinh thần
25