Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.85 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ THANH VÂN
QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60 22 90
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH TÔN GIÁO
Hà Nội - 2013
Công trình đợc hoàn thành tại: Trờng Đại học Khoa học
Xã hội & Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngời hớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thanh Xuân
Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Hồng Dơng
Phản biện 2: PGS.TS Hoàng Minh Đô
Luận văn đợc bảo vệ trớc Hội đồng chấm luận thạc sĩ họp tại:
Trờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà
Nội vào hồi giờ ngày tháng năm 2013.

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm th viện Đại học Quốc gia Hà Nội
- Trung tâm th viện Trờng Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo. Bên cạnh
những tôn giáo đã được Nhà nước công nhận, các tín ngưỡng dân
gian… còn xuất hiện nhiều loại hình tôn giáo mới, các “đạo lạ”. Những
năm gần đây, hoạt động của các tín đồ, tổ chức tôn giáo diễn ra hết sức
phong phú, đa dạng và phức tạp. Điều này tạo nên những khó khăn nhất
định trong công tác quản lý tôn giáo cũng như giữ gìn an ninh, trật tự
xã hội tại các địa phương.


Trong âm mưu diễn biến hòa bình chống phá Nhà nước Việt
Nam, các thế lực thù địch luôn coi tôn giáo là một lĩnh vực nhạy cảm,
có thể tạo “ngòi nổ” gây mất ổn định chính trị và xã hội. Bên cạnh các
hoạt động xuyên tạc chủ trương, chính sách tôn giáo của Đảng, các thế
lực thù địch tăng cường vu cáo Việt Nam đang đàn áp tôn giáo, vi
phạm nhân quyền; ráo riết kích động, chỉ đạo các phần tử cực đoan
phản động chống đối Nhà nước nhằm gây ra tình hình phức tạp về an
ninh, trật tự, dẫn tới những xung đột về chính trị ở các vùng tôn giáo,
tạo cớ quốc tế hóa vấn đề tôn giáo để can thiệp, gây sức ép về chính trị,
kinh tế - xã hội đối với nước ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, ở bất kỳ
quốc gia nào trên thế giới, nơi đâu có tôn giáo thì ở đó có sự can thiệp
điều chỉnh của nhà nước. Không quản lý nhà nước về tôn giáo sẽ dẫn
đến các tôn giáo hoạt động vô chính phủ, chèn ép, công kích lẫn nhau,
xã hội sẽ không phát triển lành mạnh vì sự lợi dụng tôn giáo để phá
hoại đoàn kết dân tộc, trật tự xã hội, an ninh quốc gia,… Do đó, quản lý
1
nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo là yêu cầu khách quan của mọi
quốc gia trong đó có Việt Nam.
Trong lĩnh vực tôn giáo, quan điểm về tự do tôn giáo từ khi lập
quốc cho tới nay vẫn luôn nhất quán và ngày càng được cụ thể hóa rõ
ràng hơn. Trên thực tế, tình hình chính trị - xã hội trong và ngoài nước
luôn có những tác động đến tình hình tôn giáo trong nước. Vì thế những
quan điểm của Đảng đối với công tác quản lý nhà nước về các hoạt
động tôn giáo cũng cần phải đổi mới và tăng cường hơn nữa nhằm đáp
ứng yêu cầu của tình hình mới. Thêm vào đó, công cuộc cải cách hành
chính đặt ra nhiều vấn đề về hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt
động tôn giáo, trình tự thủ tục hành chính trong quản lý Nhà nước đối
với hoạt động tôn giáo và bộ máy quản lý các hoạt động trong công tác
quản lý tôn giáo là hết sức cần thiết. Việc nghiên cứu và đưa ra các giải
pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với tôn giáo sẽ là tư liệu

hữu ích góp phần hoàn thiện các quy định, điều luật liên quan tới hoạt
động tôn giáo.
Chính vì tính thời sự của tình hình tôn giáo ở Việt Nam và vai
trò quan trọng không thể thiếu của hoạt động quản lý nhà nước đối với
tôn giáo nên học viên đã chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp góp
phần nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo ở Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tôn giáo và vấn đề công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo là đề tài được các nhà khoa học hết sức quan tâm nghiên
cứu. Điển hình như các công trình và các tác giả như: Bùi Đức Luận
với công trình Quản lý hoạt động tôn giáo cơ sở lý luận và thực tiễn
2
(2005), NXB Tôn giáo, HN; Ban Tôn giáo Chính phủ với Tôn giáo với
Công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo (2008),
NXB Tôn giáo, HN; Hoàng Quốc Bảo với Quản lý xã hội về tôn giáo
(2010), NXB Chính trị - Hành chính, HN,…
Tuy nhiên, cho tới nay, chủ trương, chính sách và pháp luật
của Đảng, Nhà nước đã có nhiều thay đổi, thực tiễn hoạt động của các
tôn giáo vô cùng phức tạp và không còn thuần túy như trước. Vì vậy, để
có đường lối, chính sách quản lý hoạt động tôn giáo đúng đắn và cập
nhật phù hợp với tình hình thực tiễn cần tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn
thiện cơ sở lý luận để từ đó áp dụng một cách hiệu quả vào thực tiễn
quản lý tôn giáo nói riêng và quản lý xã hội nói chung.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các tôn giáo ở Việt Nam và
hoạt động quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ở nước ta
hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu chính của đề tài là hoạt động quản lý tôn thời
kỳ đổi mới.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và của Đảng ta về tôn giáo. Đồng thời, luận văn dựa trên
cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa
duy vật lịch sử,các phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp
phân tích, tổng hợp, xử lý số liệu,…
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng rõ cơ sở lý luận cho công tác quản
lý nhà nước về tôn giáo.
3
- Khái quát diện mạo tôn giáo và tình hình quản lý các hoạt động
tôn giáo của Đảng, Nhà nước thông qua các công cụ là hệ thống pháp
luật và bộ máy quản lý các cấp về tôn giáo.
- Đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu luận văn sẽ góp phần làm rõ hơn cơ sở khoa
học cho việc xây dựng và hoàn thiện các chính sách tôn giáo phục vụ
cho công tác quản lý nhà nước về tôn giáo ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, nội dung của luận văn gồm 2 chương 5 tiết.
4
NỘI DUNG
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ QUẢN LÝ NHÀ
NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO
1.1. Lý luận về quản lý nhà nước và quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tôn giáo
1.1.1. Quản lý nhà nước
Quản lý nhà nước theo nghĩa hẹp là dạng quản lý xã hội mang

tính quyền lực nhà nước với chức năng chấp hành pháp luật và tổ chức
thực hiện pháp luật của cơ quan trong hệ thống hành pháp (Chính phủ,
Ủy ban nhân dân các cấp).
1.1.2. Quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
1.1.2.1. Khái niệm quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
Theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo là quá trình dùng quyền lực nhà nước của cơ quan nhà nước theo
quy định của pháp luật để tác động, điều chỉnh, hướng dẫn các quá trình
mà tôn giáo và các hành vi hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn
giáo diễn ra phù hợp với pháp luật đạt được những mục tiêu cụ thể của
chủ thể quản lý.
Theo nghĩa hẹp, quản lý nhà nước nước đối với các hoạt động
tôn giáo là quá trình chấp hành pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật
của các cơ quan trong hệ thống hành pháp để điều chỉnh mọi hành vi
hoạt động tôn giáo của tổ chức, cá nhân tôn giáo diễn ra theo đúng quy
định của pháp luật.
1.1.2.2. Phương pháp quản lý các hoạt động tôn giáo
5
Phương pháp quản lý là cách thức mà các cơ quan nhà nước sử
dụng để tác động vào đối tượng quản lý nhằm mục đích thực hiện mục
tiêu quản lý. Để thực hiện các mục tiêu trong quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tôn giáo đã đề cập trên đây, có thể kể tới một số phương
pháp căn bản sau: phương pháp giáo dục, thuyết phục, phương pháp
hành chính, phương pháp tổ chức, phương pháp kinh tế, phương pháp
cưỡng chế.
1.1.2.3. Nội dung của hoạt động quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo
Néi dung qu¶n lý nhµ níc ®èi víi ho¹t ®éng t«n gi¸o gåm nhiÒu
lÜnh vùc cô thÓ nh sau: Về công nhận các pháp nhân tôn giáo; Về quá
trình xây dựng, sửa chữa nơi thờ tự; Về chương trình hoạt động thường

xuyên và đột xuất; Về quá trình đào tạo chức sắc; Về quá trình sản
xuất, lưu thông đồ dùng việc đạo; Về một số việc thuộc hành chính đạo;
Về các hoạt động từ thiện – xã hội; Xử lý các khiếu tố, khiếu nại liên
quan đến tôn giáo và vi phạm chính sách tôn giáo; Xét duyệt các hoạt
động quốc tế và đối ngoại tôn giáo; Đấu tranh chống lợi dụng tín
ngưỡng, tôn giáo;
1.1.2.4. Nguyên tắc quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo
- Nhà nước tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng tôn
giáo và tự do không tín ngưỡng tôn giáo của công dân.
- Mọi cá nhân và tổ chức hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải tuân
thủ Hiến pháp và pháp luật; có nghĩa vụ bảo vệ lợi ích của Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa; giữ gìn độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
6
- Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những cơ sở thờ tự
hợp pháp, kinh bổn và các đồ thờ cúng của tín ngưỡng, tôn giáo được
pháp luật bảo hộ.
- Đoàn kết gắn bó đồng bào tôn giáo và không tôn giáo trong
khối đại đoàn kết toàn dân.
- Những hoạt động tôn giáo ích nước, lợi dân, phù hợp với
nguyện vọng và lợi ích chính đáng, hợp pháp của tín đồ được đảm bảo.
Những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp của tôn giáo được tôn trọng và
khuyến khích phát huy.
- Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng,
tôn giáo, ép buộc công dân theo đạo hoặc bỏ đạo, vi phạm quyền tự do
tín ngưỡng, tôn giáo của công dân,… Mọi hành vi lợi dụng tôn giáo để
làm mất trật tự an toàn xã hội, phương hại đến nền độc lập dân tộc, phá
hoại chính sách đoàn kết toàn dân, chống lại Nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, gây tổn hại các giá trị đạo đức, lối sống, văn hóa
của dân tộc, ngăn cản tín đồ chức sắc các tôn giáo thực hiện nghĩa vụ
công dân… đều bị xử lý theo pháp luật. Hoạt động mê tín phải bị phê

phán và loại bỏ.
1.2. Tình hình tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Việt Nam là quốc gia có đời sống tôn giáo đa dạng, phong
phú
Việt Nam là một quốc gia đa tôn giáo, đa tín ngưỡng với sự hiện
diện của các tôn giáo lớn trên thế giới, tôn giáo nội sinh, tín ngưỡng
bản địa và các hình thức tôn giáo mới. Cho tới nay ở Việt Nam đã có 37
7
tổ chức tôn giáo được Nhà nước công nhận của các 13 tôn giáo khác
nhau. Các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam thu hút sự quan
tâm của đông đảo người dân Việt. Theo ước tính, năm 2012 ở Việt
Nam có khoảng 80% dân số có đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, trong đó
có khoảng trên 20 triệu tín đồ, chiếm khoảng 25% dân số
1.2.2. Các tôn giáo ở Việt Nam ngày càng gắn bó, đồng hành cùng
dân tộc
Sự đồng hành cùng dân tộc của các tôn giáo được thể hiện trong
nhiều nội dung, nhiều lĩnh vực trong đó có hai nội dung nổi bật: Một là,
giáo hội các tôn giáo xác quyết đường hướng hành động gắn bó với dân
tộc, vì mục tiêu chung của quốc gia nhằm xây dựng đất nước Việt Nam
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Hai là, văn
hóa tôn giáo ngày càng hội nhập mạnh mẽ với văn hóa dân tộc, góp
phần vào việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam đậm đà bản sắc dân tộc.
1.2.3. Các tổ chức tôn giáo ở Việt Nam ngày càng được củng cố, phát
triển
Được sự tạo điều kiện của Nhà nước, các tổ chức tôn giáo ngày
càng hoàn thiện được thể hiện rõ nét trên hai phương diện: bộ máy hành
chính đạo và tổ chức nhân sự.
Ở Việt Nam, đội ngũ chức sắc, nhà tu hành, chức việc là không
chỉ giữ vai trò quan trọng trong việc chăn dắt phần hồn của các tín đồ
mà còn là lực lượng quan trọng liên kết giữa giáo hội với nhà nước và

là đầu mối trong quản lý nhà nước về hoạt động tôn giáo. Đồng thời do
vị trí ảnh hưởng của chức sắc, nhà tu hành đối với tín đồ và xã hội nên
8
trong công tác tôn giáo nói chung, công tác quản lý nhà nước nói riêng,
việc tranh thủ chức sắc, nhà tu hành rất quan trọng và cần thiết.
1.2.4. Ở Việt Nam số lượng lớn tín đồ là người dân tộc thiểu số
Hiện nay, trên lãnh thổ Việt Nam có một số lượng lớn đồng bào
dân tộc thiểu số sinh sống và theo những tôn giáo, tín ngưỡng khác
nhau. Theo thống kê, nước ta có 53 dân tộc thiểu số với khoảng trên 10
triệu người sống tập trung chủ yếu ở 3 khu vực chính là Tây Nguyên,
Tây Bắc và Tây Nam Bộ. Trong những năm gần đây, mặc dù được
Đảng, Nhà nước quan tâm, đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số đã
được cải thiện đáng kể, tuy nhiên còn nhiều khó khăn và là một trong
những yếu tố để các tôn giáo len lỏi, tuyên truyền, các thể lực phản
động lợi dụng kích động chống phá Nhà nước ta. Chính vì thế, nâng
cao đời sống kinh tế - xã hội và quản lý các hoạt động tôn giáo tại vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số là một trong những mối quan tâm hàng
đầu của Đảng, Nhà nước ta hiện nay.
1.2.5. Các tôn giáo ở Việt Nam có mối liên hệ quốc tế rộng
rãi
Trong quá trình phát triển, hầu hết các tôn giáo và tổ chức tôn
giáo ở Việt Nam có mối quan hệ quốc tế rộng rãi. Một mặt, hoạt động
quan hệ quốc tế của các tôn giáo là loại hình hoạt động đối ngoại đặc
thù, ít nhiều góp phần tạo nên những dấu ấn của Việt Nam trên trường
quốc tế. Mặt khác, do đặc thù của hoạt động tôn giáo – một lĩnh vực
nhạy cảm liên quan tới đời sống chính trị - xã hội, thường được các thế
phản động lợi dụng để hoạt động chống phá với nhiều mục đích khác
9
nhau. Do đó, trong xu hướng toàn cầu hóa và quốc tế hóa các vấn đề
kinh tế, văn hóa, xã hội, thực hiện quản lý nhà nước đối với các hoạt

động quốc tế của các tôn giáo là một công tác phức tạp, đã, đang được
Đảng và Nhà nước ta quan tâm và hàng đầu.
Những đặc điểm tình hình tôn giáo Việt Nam như đã nói trên là
bức tranh toàn cảnh về tôn giáo ở Việt Nam. Đó chính là cơ sở thực tiễn
để Đảng và Nhà nước hoạch định chủ trương chính sách đối với tôn
giáo.
10
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG
CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI
CÁC HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng quản lý hoạt động tôn giáo hiện nay ở nước ta
2.1.1. Mục tiêu của công tác quản lý tôn giáo trong giai đoạn
hiện nay
2.1.2. Nhà nước quản lý các hoạt động tôn giáo thông qua hệ
thống pháp luật.
 Giai đoạn từ 1945 đến 1954
Thành công của Cách mạng tháng Tám đã đưa lịch sử dân tộc
Việt Nam sang một trang sử mới, trang sử của độc lập dân tộc. Ngay
từ những ngày đầu mới thành lập nước, vấn đề tôn giáo đã được Đảng
và Nhà nước hết sức quan tâm. Những văn bản pháp luật về tín
ngưỡng, tôn giáo thời kỳ 1945 – 1954 đã khái quát những vấn đề cần
quan tâm, bức thiết trong công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo,
góp phần đặt những viên gạch nền móng đầu tiên cho việc hoạch định
chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta trong các giai đoạn
về sau.
 Giai đoạn từ 1954 đến 1975
So với giai đoạn 1945 - 1954, pháp luật về tôn giáo giai đoạn
1954 - 1975 đã được bổ sung và hoàn thiện đầy đủ hơn bổ sung nhiều
nội dung mới quy định về các hoạt động giáo dục, xuất bản, hoạt động
văn hóa – xã hội với việc bổ sung các quy định về quyền và nghĩa vụ

11
của tín đồ, nhà tu hành trong hoạt động tôn giáo, về quan hệ giữa chính
quyền nhân dân với tôn giáo, về hoạt động tôn giáo có yếu tố nước
ngoài,… đánh dấu bước chuyển biến quan trọng trong việc điều chỉnh
chính sách về tôn giáo đáp ứng thực tiễn.
 Từ 1975 đến 1990
Giai đoạn này các tổ chức của Phật giáo và Công giáo ở cả hai
miền đã được quy tụ, thống nhất thành một mối; đại đa số tín đồ các tôn
giáo đều yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước,
tích cực tham gia vào công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Bên
cạnh đó, tổ chức của một số tôn giáo như đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa
Hảo, đạo Tin Lành, đạo Hồi chưa được Nhà nước công nhận tư cách
pháp nhân. Một số phần tử cực đoan vẫn tiếp tục có những hoạt động
chống phá cách mạng và nhà nước Việt Nam,…
Nhìn chung, các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các
hoạt động tôn giáo giai đoạn này tuy không nhiều nhưng đã bổ sung,
hoàn chỉnh hơn giai đoạn 1954 - 1975 thông qua việc quy định cụ thể
những nguyên tắc ứng xử đối với các sinh hoạt tôn giáo, cơ sở vật chất
của giáo hội, việc đào tạo chức sắc của các tôn giáo, hoạt động quan hệ
quốc tế của các tôn giáo, quy định quyền hạn, trách nhiệm của các cấp
chính quyền đối với tôn giáo,…
 Giai đoạn 1990 đến nay
Năm 1986, đất nước ta bước vào giai đoạn đổi mới sâu rộng và
toàn diện trên mọi lĩnh vực kinh tế đến xã hội. Tuy nhiên, thời kỳ đầu
đổi mới, những thay đổi trong chính sách của Nhà nước đối với tôn
12
giáo chưa có nhiều chuyển biến. Bước ngoặt quan trọng đánh dấu bước
chuyển biến trong việc nhìn nhận các vấn đề tôn giáo được thể hiện
trong Nghị quyết 24/NQ-TW ban hành ngày 16/10/1990 của Bộ Chính
trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI Về tăng cường công tác

tôn giáo trong tình hình mới. Nghị quyết 24 đã định hướng quan điểm
chủ trương đổi mới về tôn giáo, trở thành nền tảng để Đảng Cộng sản
Việt Nam tiếp tục phát triển quan điểm về tự do tín ngưỡng, tôn giáo,
đáp ứng một cách thiết thực yêu cầu của thời đại mới. Tinh thần này
tiếp tục được thể hiện qua các văn bản: Cương lĩnh xây dựng đất nước
1991; Báo cáo chính trị của Đảng tại các kỳ Đại hội Đảng lần VII, VIII,
IX, X, XI; Chỉ thị 37 của Bộ Chính trị ngày 2/7/1998 Về công tác tôn
giáo trong tình hình mới; Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa IX ngày 12/3/2003 về công tác tôn giáo,…
Xây dựng luật tôn giáo thời kỳ này là vấn đề được Đảng, Nhà
nước hết sức quan tâm thời kỳ này. Ngày 29/6/2004 Chủ tịch nước đã
ký lệnh công bố Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo. Để hướng dẫn thi
hành Pháp lệnh, Nghị định số 22/2005/NĐ-CP được ban hành.
Trên thực tế, qua 8 năm triển khai Pháp lệnh tín ngưỡng tôn
giáo (2004) và Nghị định 22/2005/NĐ-CP Hướng dẫn thi hành một số
điều của Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo (2005) đã nảy sinh một số tồn
tại, hạn chế khi một số nội dung quy định không khả thi, có nội dung
chưa phù hợp với thực tiễn hoặc tới nay không còn phù hợp, Do đó,
Chính phủ ban hành Nghị định số 92/2012/NĐ-CP Quy định chi tiết và
biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng tôn giáo nhằm khắc phục
những bất cập trong Nghị định số 22/2005/NĐ-CP nhằm đảm bảo điều
13
kiện tốt nhất cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam trong
khuôn khổ quy định của pháp luật.
Ngoài các văn bản quy phạm trên, thời kỳ này còn có một số
văn bản quy định liên quan đến hoạt động tôn giáo như: Bộ luật Hình
sự (sửa đổi năm 2009), Bộ Luật Dân sự 2005, Luật Xây dựng (2003),
Luật Giáo dục (2005),…
Có thể nói pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo ngày càng được
hoàn thiện hơn góp phần đảm bảo tối đa quyền tự do tín ngưỡng, tôn

giáo của công dân, đưa các hoạt động tôn giáo vào nề nếp, hoạt động
theo đúng chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, củng cố
vững chắc khối đại đoàn kết dân tộc, góp phần ổn định đời sống kinh
tế, chính trị, an ninh quốc phòng cho nhân dân đặc biệt là đồng bào
theo đạo.
2.1.3. Nhà nước quản lý các hoạt động tôn giáo thông qua hệ
thống các cơ quan chức năng
* Về tổ chức:
- Quản lý cấp Trung ương có Ban Tôn giáo Chính phủ thuộc Bộ
Nội vụ.
- Quản lý cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung ương có: Ban
Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ và Phòng Tôn giáo trực thuộc Sở Nội vụ.
- Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh có bộ
phận làm công tác thuộc Phòng Nội vụ.
14
- Cấp xã, phường, thị trấn có cán bộ kiêm nhiệm. Đối với xã
là địa bàn khó khăn, phức tạp có cán bộ chuyên trách.
* Về chức năng:
- Ban Tôn giáo Chính phủ là cơ quan thuộc Chính phủ có chức
năng thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý nhà nước về lĩnh
vực tôn giáo trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công
thuộc lĩnh vực tôn giáo theo quy định của pháp luật.
- Ban Tôn giáo cấp tỉnh, phòng tôn giáo là cơ quan thuộc Ủy
ban nhân dân cùng cấp, là cơ quan tham mưu giúp Ủy ban nhân dân
cùng cấp thực hiện chức năng quản lý nhà nước về lĩnh vực tôn giáo.
* Về nhiệm vụ, quyền hạn: Được quy định rõ trong các văn bản
pháp quy, trong đó Ban Tôn giáo cấp tỉnh, phòng tôn giáo do Chủ tịch Ủy
ban nhân dân cùng cấp quy định theo hướng dẫn của Ban Tôn giáo Chính
phủ và Bộ Nội vụ.
2.2. Thành tựu, hạn chế trong công tác quản lý hoạt động

tôn giáo
2.2.1. Thành tựu đạt được trong công tác quản lý hoạt động
tôn giáo thời gian vừa qua.
Thứ nhất, công tác quản lý tôn giáo của Đảng đã góp phần khắc
phục nhận thức lệch lạc, sai lầm, phiến diện về tôn giáo trong xã hội
hiện nay.
15
Thứ hai, thông qua các chính sách xã hội đã cải thiện đáng kể
đời sống vật chất và tinh thần của đồng bào có đạo, từ đó gây dựng
được niềm tin của chức sắc và các tín đồ tôn giáo.
Thứ ba, cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo các cấp đã chủ
động tích cực hướng dẫn các tổ chức tôn giáo đăng ký chương trình
hoạt động tôn giáo hằng năm, các công việc liên quan tới hành chính
đạo nói chung,… theo đúng quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động
tôn giáo trên các phương diện như: Công tác thanh tra, kiểm tra và giải
quyết đơn thư của các tổ chức, cá nhân tôn giáo, công nhận tư cách
pháp nhân cho các tôn giáo, quản lý xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự,
quản lý việc in ấn kinh sách và xuất bản các ấn phẩm liên quan đến tôn
giáo, quan hệ quốc tế của các tôn giáo, cũng đạt được những thành tự
đáng kể.
2.2.2. Một số hạn chế và nguyên nhân
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác quản lý nhà
nước về tôn giáo còn không ít bất cập, hạn chế. Cụ thể là:
Về phía các tôn giáo: Hoạt động tôn giáo của một số tín đồ,
chức sắc một số nơi vi phạm quy định pháp luật như: tự ý sử dụng đất
đai, xây dựng, sửa chữa cơ sở thờ tự, tổ chức sinh hoạt tôn giáo, in ấn
kinh sách,… không có sự kiểm duyệt và không xin chính quyền địa
phương. Mâu thuẫn nội bộ trong từng tôn giáo và giữa các tôn giáo với
nhau về tranh giành đất đai, địa bàn truyền giáo,… vẫn xảy ra. Tại

nhiều khu vực trên cả nước, đặc biệt tại vùng đồng bào các dân tộc
16
thiểu số, đạo lạ hay tà giáo vẫn lén lút phát triển gây ra nhiều phức tạp
trong đời sống xã hội, dẫn tới một số khó khăn trong việc quản lý của
chính quyền địa phương.
Về công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ở
Việt Nam hiện nay:
- Một số nơi cấp ủy Đảng, chính quyền và một số cán bộ làm
công tác tôn giáo chưa nhận thức đầy đủ chủ trương, chính sách đổi
mới của Đảng và Nhà nước đối với tôn giáo dẫn đến việc triển khai
các chủ trương chính sách ở các địa phương không đồng bộ, thống
nhất, việc hướng dẫn, vận động tín đồ và chức sắc các tôn giáo chưa
làm tốt.
- Công tác quản lý hoạt động tôn giáo vừa có biểu hiện cứng
nhắc, lại vừa có biểu hiện buông lỏng, thiếu chủ động, cứng nhắc,
giải quyết các sự vụ vẫn theo lối cũ, chưa linh hoạt, chưa kiên quyết
đấu tranh với những hành vi lệch lạc, sai trái của một số người lợi
dụng tôn giáo hoạt động vi phạm pháp luật, xâm phạm đến lợi ích
của nhân dân.
- Về đội ngũ cán bộ làm công tác tôn giáo: Phần lớn cán bộ
chưa được đào tạo đúng chuyên ngành, ít được nâng cao năng lực,
trình độ, không qua đào tạo để quản lý cũng như làm chuyên môn do
đó thiếu kinh nghiệm trong xử lý các tình huống phát sinh liên quan
tới tôn giáo.
- Hệ thống pháp luật về tôn giáo bộc lộ những yếu kém, bất cập.
17
2.3. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt
động tôn giáo ở nước ta hiện nay
2.3.1. Dự báo diễn biến tình hình tôn giáo ở Việt Nam
trong thời gian tới

Trong tương lai gần dự báo tình hình kinh tế, xã hội và tôn giáo
trên thế giới tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch
trong và ngoài nước đứng đầu là Mỹ sẽ không ngừng dùng mọi thủ
đoạn, phương thức để chống phá cách mạng nước ta.
2.3.2. Các biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo ở Việt Nam hiện nay
2.3.2.1. Phát huy những kinh nghiệm đã có được trong quá
trình quản lý nhà nước đối với tôn giáo.
Để nâng cao hiệu quả quản lý xã hội nói chung, Nhà nước cần
coi trọng và thường xuyên tiến hành công tác tổng kết và rút ra các bài
học kinh nghiệm trong thực tiễn quản lý nhằm phát huy những thế
mạnh, cụ thể là: Cần tiếp tục nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo và vận dụng linh hoạt trong
tình hình mới; khi giải quyết các vấn đề liên quan tới tôn giáo cần phải
có quan điểm tổng thể, toàn diện, khách quan trong nhìn nhận, giải
quyết đồng thời sử dụng sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị;
Phải hết sức xem trọng vai trò của chức sắc tôn giáo và dùng tôn giáo
để giải quyết các vấn đề tôn giáo. Muốn quản lý nhà nước đối với tôn
giáo, cần phải có đủ các điều kiện, các yếu tố chuyên muôn, phương
18
pháp, nghệ thuật quản lý; Phải đảm bảo sự mềm dẻo trong vận động và
tính pháp chế trong chính sách có liên quan đến tôn giáo.
2.3.2.2. Có chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội vững
chắc ở vùng tôn giáo tập trung, qua đó góp phần tạo cơ sở cho công
tác quản lý nhà nước đối với hoạt động tôn giáo.
2.3.2.3. Hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật về tôn giáo
Hiện nay ở nước ta mới chỉ có Pháp lệnh về tín ngưỡng tôn
giáo ban hành năm 2004, gần đây có Nghị định 92/2012/NĐ-CP
Quy định chi tiết và biện pháp thi hành Pháp lệnh tín ngưỡng tôn
giáo. Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tôn giáo nằm

rải rác trong nhiều bộ luật chứ chưa thống nhất trong một bộ luật tôn
giáo riêng biệt nào. Chính vì thế việc sớm hoàn thiện hệ thống pháp
luật và chính sách đối với tôn giáo là điều hết sức cần thiết và cấp
bách hiện nay ở Việt Nam.
2.3.2.4. Kiện toàn và nâng cao hệ thống cơ quan quản lý nhà
nước về tôn giáo
Kiện toàn và nâng cao năng lực của bộ máy quản lý nhà nước
là nhu cầu tất yếu của bất cứ quốc gia nào nói chung cũng như trong
mỗi lĩnh vực quản lý nói riêng. Để củng cố, kiện toàn bộ máy tổ chức,
cán bộ làm công tác tôn giáo từ trung ương đến địa phương, các cấp ủy
đảng cần phải quan tâm quy hoạch, đào tạo cán bộ làm công tác tôn
giáo ở cấp mình, thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao chất lượng ngắn
hạn và dài hạn,…Đồng thời, tiếp tục xây dựng, củng cố tổ chức, đổi
mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể quần
19
chúng ở vùng đồng bào có đạo theo hướng đoàn thể hóa các giai cấp,
các giới trong tôn giáo.
2.3.2.5. Tăng cường công tác vận động quần chúng, xây dựng
lực lượng chính trị cơ sở vùng tôn giáo tập trung
2.3.2.6. Nâng cao hiệu quả của các phương pháp quản lý nhà
nước với tôn giáo
Trong quá trình quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn
giáo, việc áp dụng linh hoạt các phương pháp quản lý khác nhau là điều
hết sức cần thiết. Các phương pháp quản lý nhà nước đối với tôn giáo
cần phải dựa trên pháp luật, trên chính sách; đồng thời cần phải hết sức
mềm dẻo. Đặc biệt cần chú ý đến yếu tố hợp lòng người, có tình, có lý
(tâm lý tôn giáo).Mỗi phương pháp quản lý có những ưu điểm và hạn
chế riêng, trong công tác quản lý tôn giáo cần khéo léo vận dụng và kết
hợp nhiều phương pháp quản lý khác nhau để công tác quản lý đạt được
hiệu quả cao nhất.Bên cạnh đó, cần phải kết hợp hài hòa các yếu tố

chuyên môn, nghệ thuật, phương pháp để không gây ra ức chế, phản
cảm, xóa thành kiến và quan trọng hơn là tranh thủ sự đồng tình, ủng
hộ của tín đồ, chức sắc các tôn giáo.
2.3.2.7. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, phát huy
dân chủ, giữ gìn kỷ cương, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh
Để tăng cường khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết tôn giáo, Đảng
và Nhà nước ta cần tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, quyền
sinh hoạt tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật, tạo điều kiện thuận
lợi để đồng bào các tôn giáo và những người không theo tôn giáo tích
20
cực tham gia các tổ chức chính trị, xã hội để có cơ hội cống hiến sức
người, sức của vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
21
KẾT LUẬN
Tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội, đồng thời cũng là một
thực thể xã hội tồn tại gắn liền với đời sống chính trị, kinh tế, văn
hóa. Ở Việt Nam hiện nay tồn tại hàng chục loại hình tôn giáo, tín
ngưỡng khác nhau chi phối đời sống tâm linh của đông đảo quần
chúng nhân dân. Ngày nay, các hoạt động tôn giáo diễn ra ngày một
phong phú, đa dạng và không kém phần phức tạp, dễ dàng trở thành
lĩnh vực để các đối tượng thù địch trong và ngoài nước lợi dụng vì
các mục đích phi tôn giáo, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình chính trị,
an ninh quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra sâu
rộng như hiện nay.
Trong thời gian qua, công tác quản lý tôn giáo ở Việt Nam đã đạt
được những kết quả quan trọng. Các quan điểm đổi mới của Đảng được
cụ thể hóa một cách rõ nét trong các văn bản quy phạm pháp luật của
Nhà nước như trong Nghị định 69/HĐBT (1991) về các hoạt động tôn
giáo, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (2004), Nghị định 92/2012/NĐ-

CP,… đã trở thành cơ sở pháp lý quan trọng cho các tổ chức tôn giáo
tuân thủ. Hoạt động của các tôn giáo được Nhà nước quan tâm, tạo điều
kiện đã dần đi vào ổn định theo đúng quy định của pháp luật; đời sống
vật chất và tinh thần của nhân dân tại các vùng theo đạo được Nhà nước
quan tâm và cải thiện rõ rệt,…
Bên cạnh đó, công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động
tôn giáo ở Việt Nam hiện nay còn gặp không ít những khó khăn, hạn
22
chế xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan cũng như chủ quan
khác nhau. Tổ chức cơ quan chức năng làm công tác tôn giáo và hệ
thống văn bản pháp quy về quản lý hoạt động tôn giáo còn hết sức
lỏng lẻo. Pháp luật về tôn giáo thiếu đồng bộ, còn phân tán, chồng
chéo trong nhiều văn bản pháp luật. Tại một số địa phương, công tác
quản lý nhà nước đối với các hoạt động tôn giáo chưa thực sự có
hiệu quả,… Từ đó, đòi hỏi Nhà nước phải có những cơ chế, chính
sách đồng bộ để khắc phục thiếu sót, nâng cao hiệu quả quản lý,
tránh tạo ra những lỗ hổng cho các tổ chức tôn giáo lấn lướt chính
quyền, các thế lực thù địch lợi dụng chống phá an ninh quốc gia.
Vì vậy, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
các hoạt động tôn giáo là một trong những công tác có tính cấp bách
hàng đầu trong giai đoạn hiện nay ở nước ta. Thực hiện tốt công tác này
sẽ góp phần đưa hoạt động tôn giáo đi vào ổn định, phù hợp với quy
định của pháp luật, loại bỏ những âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo
của các thế lực thù địch, góp phần ổn định đời sống chính trị, văn hóa,
xã hội.
Từ những yêu cầu trên, luận văn đã mạnh dạn đưa ra một số giải
pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các hoạt
động tôn giáo, phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế còn
tồn tại hiện nay.
Nhìn chung, công tác quản lý nhà nước đối với tôn giáo là hoạt

động quản lý xã hội không thể thiếu ở mỗi quốc gia trên thế giới, đặc
biệt ở những nước có sự đa dạng, phức tạp về tôn giáo, tín ngưỡng như
23

×