Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA PHẬT GIÁO VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.56 KB, 26 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
=== *** ===
NGUYỄN THỊ HỒNG
VĂN HÓA PHẬT GIÁO VÀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN
VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60.22.03.09
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÀNH TÔN GIÁO HỌC
Hà Nội – 2013
Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Thị Kim Oanh


Phản biện 1: TS. Nguyễn Quốc Tuấn
Phản biện 2: TS. Lê Tâm Đắc
Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp tại: Trường Đại
học Khoa học Xã hội & Nhân văn – Đại học Quốc gia
Hà Nội vào hồi 9 giờ 00 ngày 30 tháng 12 năm 2013
Có thể tìm hiểu luận văn tại:
- Trung tâm thư viện Đại học Quốc gia Hà Nội
- Trung tâm thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Phật giáo là một trong ba tôn giáo lớn trên thế giới (cùng với đạo Kitô và đạo
Hồi), ra đời ở Ấn Độ vào khoảng thế kỷ thứ VI trước Công nguyên. Du nhập vào

Việt Nam từ rất sớm (đầu Công nguyên), Phật giáo đã nhanh chóng hòa mình cùng
dòng chảy của văn hóa dân tộc Việt Nam, gần gũi và thấm sâu trong tâm thức của
người dân Việt, dung hợp với tín ngưỡng bản địa, tham gia vào công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước, thổi vào văn hóa Việt Nam một làn gió văn hóa mới, đó chính là
văn hóa Phật giáo. Trải qua hơn 2.000 năm du nhập và phát triển ở Việt Nam, Phật
giáo đã chứng tỏ được vị thế của mình, gắn bó cùng dân tộc, hòa quyện với văn hóa
dân tộc, những thành tố văn hóa dân tộc Việt Nam như: ngôn ngữ, niềm tin, tập quán,
văn học, nghệ thuật… không đâu là không có dấu ấn của văn hóa Phật giáo. Giáo lý,
đạo đức Phật giáo với sự đề cao tính nhân ái, vị tha, khuyên răn con người tránh điều
ác, làm điều thiện, tất cả đều gần gũi với tư duy, lối sống và văn hóa của con người
Việt Nam. Phật giáo đã đóng góp những giá trị văn hóa của mình để làm giàu và
phong phú hơn cho kho tàng văn hóa Việt Nam. Chính bởi vậy, văn hóa Phật giáo

được xem như một thành tố không thể thiếu của nền văn hóa dân tộc Việt Nam.
Phật giáo với tư cách là một tôn giáo luôn đồng hành cùng dân tộc, vì vậy,
trong giai đoạn hiện nay khi vấn đề toàn cầu hóa đang ngày càng mở rộng, đặt ra
những thách thức đối với sự đổi mới và phát triển văn hóa, con người Việt Nam thì
văn hóa Phật giáo với những giá trị của mình sẽ ảnh hưởng trực tiếp và đóng vai trò
là một chủ thể quan trọng để trở thành cầu nối cho văn hóa Việt Nam sánh bước
phát triển cùng với nhiều nền văn hóa khác trên thế giới. Hơn nữa, trong bối cảnh
hiện nay, khi hiện tượng xâm lăng văn hóa, những làn sóng văn hóa ngoại lai đang
trở thành rào cản, làm mất đi những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân
tộc ta thì việc nghiên cứu về văn hóa Phật giáo và bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt
Nam với mục đích gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc lại càng trở nên ý
nghĩa và thiết thực.

Trên tinh thần của nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm, Ban chấp hành Trung
Ương Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
1
đậm đà bản sắc dân tộc; đồng thời xuất phát từ những suy nghĩ như trên, chúng tôi
chọn đề tài nghiên cứu “Văn hóa Phật giáo và vấn đề bảo tồn văn hóa Phật
giáo Việt Nam hiện nay” làm luận văn của mình. Với đề tài này, chúng tôi mong
muốn có thể góp một phần nhỏ vào việc nghiên cứu văn hóa Phật giáo, đồng thời
nhận định rõ hơn vị thế của văn hóa Phật giáo trong xã hội Việt Nam hiện nay và
đưa ra một số giải pháp nhằm bảo tồn, phát huy những tinh hoa của văn hóa Phật
giáo trong nền văn hóa Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa văn hóa hiện nay, vấn đề khai thác và phát huy

những giá trị văn hóa truyền thống được coi là nhiệm vụ chiến lược của Đảng và Nhà
nước ta. Văn hóa Phật giáo với tư cách là một nhân tố cấu thành trong văn hóa Việt
Nam nên không thể thiếu vào việc tham gia và đóng góp trong tiến trình xây dựng
nền văn hóa dân tộc. Do vậy, nghiên cứu văn hóa Phật giáo và vấn đề bảo tồn văn
hóa Phật giáo Việt Nam ngày càng được quan tâm, chú trọng hơn.
Tuy nhiên, những nghiên cứu về văn hóa Phật giáo và bảo tồn văn hóa Phật
giáo Việt Nam vẫn chưa có nhiều công trình khai thác chuyên sâu. Trong phạm vi
liên quan đến đề tài này, chúng tôi tạm chia ra các mảng như sau:
Các công trình trình sách nghiên cứu về Phật giáo và văn hóa Phật giáo gồm có:
- Về Phật giáo: Tư tưởng Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Duy Hinh, 1999;
Việt Nam Phật giáo sử luận I - II - III của Nguyễn Lang, 2000; Lịch sử Phật giáo
Việt Nam của Lê Mạnh Thát (gồm tập I, II, III xuất bản năm 1999, 2001 và 2002);

Khái lược Phật giáo Việt Nam của Nguyễn Cao Thanh, 2008; Mấy vấn đề về Phật
giáo trong lịch sử Việt Nam của Nguyễn Đức Sự và Lê Tâm Đắc, 2010… Đây là
một số công trình nghiên cứu khái quát về quá trình du nhập và phát triển của Phật
giáo vào Việt Nam, qua đó giúp người đọc hiểu rõ hơn về tiến trình hình thành và
phát triển của Phật giáo Việt Nam qua hơn 2.000 năm lịch sử, Phật giáo đã gắn bó
và bám rễ, thấm sâu trong đời sống tinh thần, sinh hoạt văn hóa, tập quán, tín
ngưỡng của người dân Việt Nam.
- Về văn hóa Phật giáo có những công trình kể đến như: Văn hóa Phật giáo và
lối sống của người Việt ở Hà Nội và châu thổ Bắc Bộ của Nguyễn Thị Bảy, 1997;
Phật Giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy, 1999; Truyền thống văn
2
hóa và Phật giáo Việt Nam của Minh Chi, 2003… Nhìn chung, các công trình nghiên

cứu đều chỉ ra vai trò cũng như những đóng góp của Phật giáo và văn hóa Phật giáo
đối với nền văn hóa Việt Nam, qua đó khẳng định Phật giáo và văn hóa Phật giáo có
ảnh hưởng nhất định trong đời sống xã hội, đặc biệt là đời sống văn hóa tinh thần.
Ngoài ra, văn hóa Phật giáo cũng thể hiện được sức hút của mình khi một số
học giả đã lấy đề tài này để nghiên cứu chuyên sâu trong các luận văn Thạc sĩ và luận
án Tiến sĩ của họ. Trong số đó, có thể kể đến một số công trình nghiên cứu như:
Luận án Tiến sĩ Triết học của tác giả Lê Hữu Tuấn (1998) với đề tài “Ảnh
hưởng của tư tưởng triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần ở Việt
Nam”. Trong luận án, tác giả đã chỉ ra quá trình Phật giáo phát triển, truyền bá ở Việt
Nam gắn liền với quá trình hình thành, phát triển tư tưởng, đạo đức của con người và
định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy con người Việt Nam trong tương lai.
Tiếp đến, công trình luận văn Thạc sĩ Triết học của tác giả Phan Nhật Huân

(2008) với đề tài “Ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam
(thời Lý - Trần)”. Trong luận văn của mình, tác giả đã làm sáng tỏ ảnh hưởng của
văn hóa Phật giáo đối với văn hóa Việt Nam thời kỳ Lý - Trần (từ thế kỷ XI đến
thế kỷ XIV) trên một số lĩnh vực cụ thể của văn hóa như văn học, kiến trúc… Qua
đó đề ra một số giải pháp nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa Phật
giáo Việt Nam thời Lý - Trần trong bối cảnh hiện nay.
Công trình luận văn Thạc sĩ Triết học của Phan Thị Lan (2010) “Đạo đức
Phật giáo trong đời sống đạo đức xã hội Việt Nam hiện nay”, với đề tài này, tác
giả đã đưa ra quan niệm, phạm trù đạo đức Phật giáo, phân tích ảnh hưởng của đạo
đức Phật giáo đến nhân cách của người Việt Nam. Đồng thời, kiến nghị một số
giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của
đạo đức Phật giáo trong đời sống xã hội Việt Nam hiện nay.

Song song với những công trình về văn hóa Phật giáo thì đề tài về bảo tồn văn
hóa Phật giáo cũng rất được chú trọng. Trong đó phải kể đến những đề tài nghiên cứu
cấp nhà nước và hội thảo khoa học như:
- Đề tài cấp nhà nước của tác giả Đặng Văn Bài (2010) “Bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội và
3
hội nhập quốc tế”. Nội dung chính mà tác giả muốn đề cập đến thông qua công
trình nghiên cứu của mình là đánh giá những tác động phức tạp của bối cảnh hội
nhập quốc tế, toàn cầu hóa với việc bảo tồn và phát huy văn hóa Phật giáo. Phân tích
thực trạng và hoạt động bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện
nay. Qua đó giúp người đọc nhận thức được vai trò của việc phát huy di sản văn hóa
Phật giáo đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.

- Hội thảo khoa học quốc tế “Một số vấn đề về văn hóa tôn giáo và bảo tồn di
sản văn hóa tôn giáo trong giai đoạn hiện nay”, hội thảo xoay quanh về sự tác động
của xu thế toàn cầu hóa đối với tôn giáo, đặc biệt là tác động với mối quan hệ giữa
văn hóa và tôn giáo, đưa ra cái nhìn bao quát về sự chuyển biến các giá trị văn hóa
tôn giáo trong đó có văn hóa Phật giáo.
Trên các báo, tạp chí chuyên ngành cũng có nhiều bài viết tập trung nghiên cứu
vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo như:
- Nguyễn Quế Hương và Nguyễn Ngọc Quỳnh (2005) “Về công tác bảo tồn và
phát huy giá trị di tích Phật giáo trong những năm gần đây”, tạp chí Khoa học xã hội
Việt Nam, số 1, tr 69 - 78.
- Đặng Văn Bài (2008) “Nhận diện để phát huy giá trị di sản văn hóa Phật
giáo Việt Nam”, tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5, tr 16 - 22.

- Nguyễn Hữu Oanh (2009) “Bảo vệ, phát huy văn hóa Phật giáo một nhiệm
vụ quan trọng & cấp thiết”, tạp chí Di sản văn hóa, số 1.
Các bài viết trên đều thống nhất về quan điểm bảo tồn văn hóa Phật giáo một
cách trực tiếp hoặc gián tiếp, ở các mức độ và khía cạnh khác nhau, từng bước nhận
diện và đánh giá sự cấp thiết trong việc gìn giữ, phát huy những giá trị của văn hóa
Phật giáo. Ngoài ra, trên các tạp chí nghiên cứu khác như: tạp chí nghiên cứu Phật
học, tạp chí Văn hóa Nghệ thuật… cũng có nhiều bài viết liên quan đến vấn đề bảo
tồn văn hóa Phật giáo mà chúng tôi chưa có điều kiện thống kê hết trong tình hình
nghiên cứu của luận văn.
Do yêu cầu của quá trình hội nhập và phát triển xã hội nên việc nghiên cứu về
văn hóa Phật giáo và vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay vẫn luôn là
một trong những đề tài mang tính thiết thực và cần thiết. Theo hướng nghiên cứu này,

4
chúng tôi kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình đi trước, trên cơ sở đó thực
hiện đề tài của mình. Trong luận văn nghiên cứu về đề tài này, chúng tôi tiếp tục làm
rõ vị trí và vai trò của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam. Đồng thời, đối với
vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo, chúng tôi sẽ đưa ra một số quan điểm, chính sách
của Đảng, Nhà nước, Giáo hội Phật giáo Việt Nam để thấy được những vấn đề đặt ra
đối với các cấp quản lý trong hoạt động bảo tồn và phát huy những giá trị của văn
hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở khái quát về văn hóa Phật giáo và vị trí
của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam, luận văn tập trung phân tích, làm
sáng tỏ vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay. Qua đó đưa ra một số

giải pháp để bảo tồn văn hóa Phật giáo nhằm góp phần xây dựng và phát triển văn
hóa Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Luận văn có ba nhiệm vụ
Thứ nhất, phân tích khái niệm và biểu hiện của văn hóa Phật giáo; làm rõ vị trí
của văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam.
Thứ hai, trình bày một số tư tưởng của Hồ Chí Minh; quan điểm, chính sách
của Đảng, Nhà nước và Giáo hội Phật giáo Việt Nam đối với vấn đề bảo tồn văn hóa
Phật giáo Việt Nam hiện nay.
Thứ ba, đưa ra một số giải pháp đối với vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo
Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa Phật giáo và vấn đề bảo tồn văn hóa

Phật giáo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu văn hóa Phật giáo
Việt Nam (khảo cứu một số chùa vùng đồng bằng Bắc Bộ) và vấn đề bảo tồn văn
hóa Phật giáo Việt Nam trong giai đoạn từ sau đổi mới (1986) đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên những nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
5
Minh, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về tôn giáo nói chung và Phật
giáo nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu tôn
giáo học, đồng thời kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phân

tích và tổng hợp; sự thống nhất giữa lôgíc và lịch sử; các phương pháp khái quát hóa,
trừu tượng hóa; xử lý tư liệu…
6. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở phân tích khái quát về văn hóa Phật giáo và những biểu hiện của
văn hóa Phật giáo; luận văn làm rõ vai trò và vị trí của văn hóa Phật giáo trong văn
hóa Việt Nam. Từ đó, luận văn đưa ra những quan điểm để bảo tồn văn hóa Phật giáo
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, trình bày một số giải pháp đối với bảo
tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam nhằm gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa Phật
giáo trong bối cảnh hội nhập, toàn cầu hóa văn hóa.
7. Ý nghĩa của luận văn
7.1. Về mặt lý luận: Luận văn góp phần vào việc tìm hiểu và làm sáng tỏ những
giá trị và vị trí của văn hóa Phật giáo trong nền văn hóa Việt Nam.

7.2. Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công
tác giảng dạy, học tập, nghiên cứu về tôn giáo; cho việc hoạch định chính sách đối
với tôn giáo của Đảng và Nhà nước, nhất là với vấn đề bảo tồn văn hóa tôn giáo nói
chung và văn hóa Phật giáo nói riêng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm có 2 chương và 5 tiết.
6
CHƯƠNG 1
VĂN HÓA PHẬT GIÁO VÀ VỊ TRÍ CỦA VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG
VĂN HÓA VIỆT NAM.
1.1. Văn hóa Phật giáo và biểu hiện của Văn hóa Phật giáo

1.1.1. Khái niệm “Văn hóa Phật giáo”
* Một số khái niệm về văn hóa
- Khái niệm văn hóa về mặt thuật ngữ khoa học.
- Khái niệm văn hóa của các nhà khoa học phương Tây như: Edward. Burnett.
Tylor, F. Boas, A.L. Kroeber và C. Kluckhohn…
- Khái niệm văn hóa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Khái niệm văn hóa của UNESCO đưa ra năm 2002: “Văn hóa nên được đề
cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc
cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn
học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền
thống và đức tin”.
Như vậy, văn hóa là một mẫu thức tập hợp kiến thức, tín ngưỡng và thái độ

ứng xử của con người. Hay tóm lại, văn hóa chính là tổng thể các giá trị đặc trưng
được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lâu dài của đất nước, giá trị đặc
trưng ấy mang tính bền vững, trường tồn. Văn hóa bao gồm giá trị vật chất và tinh
thần do lao động của con người làm ra và phục vụ lại cho chính con người.
Trong dòng chảy của văn hóa, Phật giáo với tư cách là một trong những thành
tố của văn hóa Việt Nam đã trở thành mạch nguồn xuyên suốt và ngày càng khẳng
định vị trí của mình trong trong dòng chảy ấy.
Với tư cách là một phương diện văn hóa, Phật giáo khẳng định được vị thế của
mình trong nền văn hóa dân tộc. Phật giáo có khả năng thâm nhập vào nhiều mặt của
đời sống xã hội như: chính trị, văn học, kiến trúc, điêu khắc, hội họa, âm nhạc, phong
tục, tập quán, tín ngưỡng, lễ hội…
Phật giáo đã cống hiến cho dân tộc Việt Nam những thành quả văn hóa vô

cùng quý giá. Phật giáo và văn hóa Phật giáo luôn giữ một vị thế quan trọng và không
thể tách rời văn hoá dân tộc. Có thể nói rằng, văn hóa Việt Nam một phần lớn là văn
7
hóa Phật giáo và nếu như không xét văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam thì
chúng ta sẽ không thể có một nền văn hóa đa dạng và phong phú như hiện nay.
Vậy văn hóa Phật giáo là gì?
Theo những quan niệm về văn hóa nêu trên và từ những giá trị Phật giáo mang
lại trong đời sống của con người, chúng tôi cho rằng: Văn hóa Phật giáo là một bộ
phận của văn hóa nhân loại, là sự kết hợp giữa tinh hoa văn hóa vật chất và tinh
thần của đạo Phật chứa đựng trong đời sống của con người, được con người sáng
tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn của mình. Văn hóa Phật giáo
chính là tổng thể các giá trị đặc trưng, là những thành tựu mà Phật giáo có được

trong lịch sử tồn tại và phát triển.
Tóm lại, văn hóa Phật giáo không đứng ngoài, mà ở bên trong văn hóa nhân
loại. Nó là cái thống nhất trong chỉnh thể của văn hóa nhân loại, nhưng lại có những
giá trị đặc thù và đơn nhất của mình.
1.1.2. Biểu hiện của Văn hóa Phật giáo
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, là một tôn giáo có hệ thống giáo lý
khá đồ sộ, sâu sắc và hoàn chỉnh, khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã đưa lại một
hệ thống các quan niệm về vũ trụ, nhân sinh cho cộng đồng người Việt. Trong suốt
chiều dài lịch sử, từ buổi đầu du nhập cho đến nay, Phật giáo đã thực sự thâm nhập,
ăn sâu vào trong tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt Nam và trở thành một
phần bản sắc dân tộc. Những đặc điểm của Phật giáo và văn hóa Phật giáo làm cho
nền văn hóa Việt Nam càng trở nên đa dạng. Văn hóa Phật giáo đã để lại cho dân tộc

nhiều di sản có giá trị đặc sắc. Trong sự hình thành và phát triển của mình, văn hóa
Phật giáo biểu hiện hết sức phong phú với nhiều hình thức, được thể hiện dưới hai
dạng cụ thể là: văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể.
- Văn hóa vật thể trong văn hóa Phật giáo là những sản phẩm được tồn tại
dưới dạng vật chất, khắc họa tiêu biểu thông qua hệ thống kiến trúc: Chùa, Tháp như
chùa Một Cột, chùa Thầy, chùa Dạm, chùa Phật Tích (Bắc Ninh), tháp Bình Sơn (Phú
Thọ) hay các tác phẩm điêu khắc về tượng thờ, đồ thờ cúng và những tác phẩm hội
họa về Phật giáo
8
- Văn hóa phi vật thể trong văn hóa Phật giáo chính là hệ thống tư tưởng, các
chuẩn mực, giáo lý của đạo Phật; các nghi lễ; phong tục, tập quán; nghệ thuật… của
Phật giáo.

1.2. Vị trí của Văn hóa Phật giáo trong văn hóa Việt Nam
Ra đời tại Ấn Độ từ thế kỷ VI trước Công nguyên, Phật giáo đã nhanh chóng
lan toả sang nhiều nước trên thế giới, mang đến những giá trị nhân văn cao cả, ảnh
hưởng không nhỏ đến đời sống hàng ngày cho người dân, Việt Nam cũng không
nằm ngoài sự ảnh hưởng đó. Phật giáo đã cống hiến cho dân tộc Việt Nam những
giá trị tinh thần, gắn bó với xã hội Việt Nam và dân tộc Việt Nam trong mọi bước
thăng trầm của lịch sử dựng nước và giữ nước. Chính vì vậy, Phật giáo đã thực sự
hội nhập vào nền văn hóa Việt Nam, như một thành tố không thể chia cắt của nền
văn hóa Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Điều đó được thể hiện rõ qua những
nét tương đồng giữa văn hóa Phật giáo với văn hóa truyền thống và văn hóa tín
ngưỡng Việt Nam.
1.2.1. Văn hóa Phật giáo với văn hóa truyền thống Việt Nam

Trước hết, sự tương tác giữa văn hóa Phật giáo với văn hóa truyền thống thể
hiện qua giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của Phật giáo được kết tinh trong không
gian văn hóa truyền thống của ngôi chùa Phật - một thiết kế văn hóa đặc thù.
Văn hóa Phật giáo còn thể hiện sự hòa quyện với văn hóa truyền thống khi
ngay từ buổi đầu du nhập, Phật giáo luôn đồng hành cùng dân tộc trong công cuộc
dựng nước, giữ nước. Cùng với Nho giáo, Phật giáo đã có nhiều đóng góp để xây
dựng đất nước, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng và chính trị.
Đồng hành cùng dân tộc Việt, Phật giáo có cơ hội phát huy tư tưởng đoàn kết
của mình. Tư tưởng thương yêu, vị tha, bác ái của đạo Phật đã trở thành sức mạnh
và động lực liên kết các dân tộc, công dân Việt Nam trong quá trình đấu tranh bảo
vệ và xây dựng đất nước. Khi đất nước hùng cường thì Phật giáo hưng thịnh; khi Tổ
quốc lâm nguy, Phật giáo sẵn sàng đứng lên tham gia chống giặc ngoại xâm, góp

phần giành lại độc lập cho dân tộc. Khi đất nước hòa bình, Phật giáo lại cùng toàn
dân tích cực tham gia xây dựng cuộc sống thông qua hoạt động thường xuyên răn
dạy tín đồ, Phật tử phát huy truyền thống yêu nước thương nòi, trau dồi đạo đức, giữ
9
gìn bản sắc văn hóa dân tộc và làm tất cả vì cuộc sống an lành, ấm no và hạnh phúc
của mọi người.
Hơn nữa, văn hóa Phật giáo với hệ thống giáo lý gần gũi và thân thiện với
người dân Việt Nam, trong đó đạo đức Phật giáo đã ảnh hưởng không nhỏ tới giáo
dục đạo đức truyền thống, hình thành nhân cách con người Việt Nam nhằm xây dựng
lối sống lành mạnh và phát triển. Phật giáo đã thực sự đi vào đời sống đạo đức của
người Việt thông qua chức năng giáo dục, hướng con người đến Chân - Thiện - Mỹ.
Tóm lại, sự tương quan giữa văn hóa Phật giáo với những nét văn hóa truyền

thống Việt Nam như: truyền thống yêu nước, dựng nước, giữ nước, truyền thống
đoàn kết, tương thân tương ái và truyền thống đạo đức đã khẳng định văn hóa Phật
giáo có một vị trí nhất định, ảnh hưởng sâu sắc và góp phần làm tăng thêm những giá
trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống trong suốt quá trình hình thành và phát triển của
Phật giáo.
Bên cạnh những giá trị mà văn hóa Phật giáo đã hình thành trong quá trình
đồng hành cùng văn hóa dân tộc thì văn hóa Phật giáo cũng có một vị trí và ảnh
hưởng không nhỏ đến văn hóa tín ngưỡng Việt Nam. Điều đó thể hiện sự đan xen,
dung hợp, hài hòa của văn hóa Phật giáo khi du nhập và phát triển trong dòng chảy
văn hóa Việt Nam.
1.2.2. Văn hóa Phật giáo với văn hóa tín ngưỡng Việt Nam
Văn hóa Phật giáo kết hợp với văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, tạo nên sự độc

đáo và đa dạng trong văn hóa Việt Nam. Khi được truyền vào Việt Nam, Phật giáo đã
tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng bản địa, do vậy đã kết hợp chặt chẽ với các tín
ngưỡng này.
Mối tương quan giữa văn hóa Phật giáo với văn hóa tín ngưỡng Việt Nam thì
điều đó được thể hiện rõ nhất thông qua tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng thờ cúng
tổ tiên.
* Với tín ngưỡng thờ Mẫu
Tín ngưỡng Mẫu là một loại hình tín ngưỡng dân gian được tích hợp bởi các
lớp tín ngưỡng thờ Nữ Thần, thờ Mẫu thần và thờ Tam phủ - Tứ phủ với niềm tin
10
thiêng liêng vào quyền năng của Mẫu - đấng sáng tạo, bảo trợ cho sự tồn tại, sinh
thành của tự nhiên, xã hội và con người.

Hầu hết các ngôi chùa hiện nay đều có điện thờ Mẫu. Trong đó phổ biến nhất là
dạng “tiền Phật hậu Thánh”. Ngoài ra, với hệ thống tín ngưỡng Tứ Pháp Việt Nam,
chúng ta có thể thấy sự dung hòa giữa Phật giáo và tín ngưỡng Thờ Mẫu và thờ thần
tự nhiên. Trong mối quan hệ với tín ngưỡng thờ Mẫu, Phật giáo và đạo Mẫu dân gian
luôn luôn gắn bó và có mối quan hệ tương giao với nhau, cùng nương tựa, dung hoà,
bổ sung cho nhau.
Sự tương đồng của Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu còn được thấy qua các
tác phẩm điêu khắc khi các pho tượng của bốn vị thần đã được "Phật hóa" này trên
thực tế là các tượng hoàn toàn được điêu khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng
Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẻ đẹp, mà một trong những nét tiêu biểu
chính là tướng nhục kế, những khế ấn, và khuôn mặt đầy lòng từ mẫn
Sự thâm nhập và ảnh hưởng lẫn nhau giữa đạo Phật và tín ngưỡng thờ Mẫu

theo khuynh hướng dân gian hóa là điều dễ hiểu bởi lẽ nó hoàn toàn phù hợp với
tâm lý của người dân Việt Nam, mong muốn hướng về cái từ bi, bác ái, tinh thần
cộng đồng, khuyến thiện trừ ác vốn là nền tảng trong nguyên tắc ứng xử của xã hội
cổ truyền.
* Với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên:
Ngay từ buổi đầu du nhập vào Việt Nam, Phật giáo đã nhanh chóng kết hợp
với các tín ngưỡng bản địa. Không chỉ với tín ngưỡng thờ Mẫu, Phật giáo còn dung
hợp với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Nếu như ở thờ cúng tổ tiên, khái niệm tổ tiên là
dùng để chỉ những người có cùng huyết thống nhưng đã mất như cụ, kỵ, ông, bà, cha,
mẹ - những người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng, có ảnh hưởng lớn đến đời
sống vật chất và tinh thần của thế hệ những người đang sống. Thì đối với đạo Phật,
thờ cúng tổ tiên trong Phật giáo cũng được hiểu chính là thờ Phật (người sáng lập ra

Phật giáo); các vị Bồ Tát, La Hán… những người hộ trì Pháp và các vị Tổ sư là
những người sáng lập ra các tông phái, các thiền tự… Chính vì vậy, giữa đạo Phật và
tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có những điểm tương đồng trong ý nghĩa văn hóa, giáo
dục. Đây là cơ sở cho sự sát nhập giữa đạo Phật với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
11
Có thể thấy sự dung hợp giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ tổ tiên trong kiến
trúc và cách bài trí thờ tự.
Khi Phật giáo kết hợp với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên thì ngày giỗ Tổ Hùng
Vương, thờ anh hùng dân tộc, người có công với đất nước, làng xã cũng chính là
ngày lễ của Phật giáo. Trong những ngày lễ này, nhà chùa tổ chức các khóa lễ cầu
an, cầu siêu tưởng nhớ đến công ơn của vị Vua Hùng, ông tổ của dân tộc và những
anh hùng dân tộc, những người có công lao trong việc dựng nước và giữ nước. Ở

đây, một số yếu tố của văn hóa Phật giáo được xuất hiện như treo cờ Phật, tụng
kinh niệm Phật… để cầu mong quốc thái dân an.
Ngoài ra, trong nghi lễ thờ cúng sự gắn kết ấy cũng được biểu hiện qua các
ngày đại lễ, đặc biệt là Lễ Vu Lan, là một trong những ngày lễ chính của Phật giáo,
còn được hiểu là lễ báo hiếu. Lễ Vu Lan vừa là một nghi lễ truyền thống của Phật
giáo nhưng cũng vừa là nghi lễ thể hiện điểm tương đồng giữa giáo lý Phật giáo với ý
nghĩa của tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên.
Hội nhập với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, văn hóa Phật giáo phát huy được giá
trị trong việc gìn giữ cội nguồn và lưu giữ những nét đẹp trong phong tục, tập quán
của người dân Việt Nam. Văn hoá Phật giáo dung hòa với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
của người Việt, dựa trên nền tảng của hiếu đạo Phật giáo, cũng như một đời sống
nhân quả thuần thiện. Có thể lấy minh chứng cho điều này qua lĩnh vực thực hành tín

ngưỡng chính là việc bày tỏ lòng tôn kính, thể hiện đạo hiếu, trong những ngày giỗ,
kỵ tổ tiên, ông bà, cha mẹ nhiều gia đình mời cả các vị sư về làm lễ tại nhà; hay có
nhiều gia đình đưa vong cha mẹ, ông bà, tổ tiên lên nhờ nhà chùa thờ tự và cúng
vong, cầu cho người đã khuất được siêu thoát.
Sự dung hòa giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên đã thể hiện tinh
thần và đạo lý “uống nước nhớ nguồn” cao đẹp của người Việt. Qua đó, giáo dục
truyền thống đạo hiếu tốt đẹp ngàn đời của dân tộc, một mặt giúp cho Phật giáo gắn
bó bền chặt với văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy, chúng ta cần giữ gìn những nét tinh
hoa nhất của thờ cúng, tưởng niệm, kỷ niệm sao cho phù hợp với đạo đức ứng xử
truyền thống, hạn chế phô trương hình thức.
12
Như vậy, sự hòa quyện giữa Phật giáo với tín ngưỡng thờ Mẫu và tín ngưỡng

thờ cúng tổ tiên đã tạo nên sự đa dạng, phong phú cho văn hóa Việt Nam, khẳng định
sự hội nhập, gắn bó giữa Phật giáo với văn hóa dân tộc Việt. Những giá trị văn hóa
vật thể và phi vật thể của Phật giáo thâm nhập, tác động qua lại với văn hóa tín
ngưỡng đã ghi sâu dấu ấn và trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa tín
ngưỡng của dân tộc Việt Nam.
Tiểu kết Chương 1:
Văn hoá Phật giáo được biểu hiện thông qua văn hóa vật thể và văn hóa phi
vật thể đã khẳng định vai trò và những đóng góp không nhỏ trong đời sống tinh thần
của người Việt Nam. Trong quá trình hình thành và phát triển ở Việt Nam, văn hóa
Phật giáo đã có sự giao lưu, tiếp biến và hòa nhập với những nét văn hóa truyền
thống của dân tộc, dung hợp với tín ngưỡng dân gian truyền thống tạo nên bản sắc
độc đáo của mình trong kho tàng văn hóa Việt Nam. Gắn bó, song hành cùng lịch sử

dân tộc Việt Nam, văn hóa Phật giáo xưa và nay vẫn luôn có vai trò quan trọng và
khẳng định vị trí của mình trong sự phát triển của xã hội, trở thành cầu nối để văn hóa
Việt Nam vươn ra hội nhập với văn hóa toàn cầu. Tuy nhiên, để những giá trị và tinh
hoa của văn hóa Phật giáo Việt Nam không bị mai một và mất đi thì vấn đề bảo tồn
văn hoá Phật giáo cũng là một vấn đề cần được đặt ra để góp phần gìn giữ những tinh
hoa và bản sắc văn hóa của dân tộc.
13
CHƯƠNG 2
VẤN ĐỀ BẢO TỒN VĂN HÓA PHẬT GIẢO VIỆT NAM HIỆN NAY
Qua những nghiên cứu về văn hóa Phật giáo và vị trí của văn hóa Phật giáo
trong văn hóa Việt Nam, có thể khẳng định văn hóa Phật giáo là một thành tố văn hóa
có lịch sử lâu dài, song hành và hòa quyện với truyền thống văn hóa dân tộc, mang lại

những giá trị vật chất cũng như giá trị tinh thần không nhỏ trong đời sống của người
dân Việt Nam. Chính vì vậy, trong bối cảnh hội nhập, trước tác động của làn sóng
toàn cầu hóa mạnh mẽ, nhất là trên lĩnh vực văn hóa thì vấn đề bảo lưu, gìn giữ bản
sắc văn hóa Phật giáo không bị phá hủy và chống lại “hiện tương xâm lăng văn hóa”
cần phải được chú ý và quan tâm hơn. Bảo tồn văn hóa Phật giáo cũng chính là bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam
ngày càng phát triển.
Nghiên cứu vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo thì không thể không đề cập đến
tư tưởng của Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước và Giáo hội Phật giáo
Việt Nam trong vấn đề này.
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà
nước về bảo tồn văn hóa Phật giáo

2.1.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo tồn văn hóa Phật giáo
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo và văn hoá luôn
có một vị trí quan trọng. Sẽ là một khiếm khuyết nếu chỉ bàn về Hồ Chí Minh với
Nho giáo, Công giáo mà không bàn về mối quan hệ trong tư tưởng, tình cảm của
Hồ Chí Minh với Phật giáo - một tôn giáo lớn, du nhập vào nước ta từ sớm và có
sự gắn bó, gần gũi với đời sống nhân dân. Cũng chính bởi sự nhận thức về vai trò
của Phật giáo với con người và xã hội Việt Nam, mà Hồ Chí Minh đã sớm minh
triết, thiết định chân lý: “Phật giáo Việt Nam với dân tộc như bóng với hình, tuy
hai mà một…”.
Từ đó, Hồ Chủ tịch khẳng định và nhấn mạnh các giá trị của văn hóa Phật
giáo, coi đó như một bộ phận cấu thành văn hóa dân tộc ở cả phương diện giá trị
văn hóa vật thể và văn hóa phi vật thể. Người kêu gọi đồng bào Phật tử cũng như

14
nhân dân cả nước phải bảo vệ các giá trị văn hóa Phật giáo vừa thiêng liêng, vừa
gần gũi với con người Việt Nam.
Hiểu rõ tầm quan trọng văn hóa Phật giáo trong tiến trình xây dựng và phát
triển văn hóa Việt Nam nên ngay từ khi nước nhà mới độc lập, Người đã quan tâm
đến việc bảo tồn các giá trị, các hiện vật văn hóa Phật giáo. Người không chỉ thể hiện
bằng lời nói, bằng hành động mà còn thể hiện bằng cả pháp luật thông qua Sắc lệnh
số 65 (23/11/1945), được coi là sắc lệnh đầu tiên của Nhà nước ta đối với vấn đề bảo
tồn di sản văn hóa dân tộc.
Không chỉ đưa ra các sắc lệnh, chỉ thị, Người còn căn dặn trực tiếp đến các
đồng bào phải giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa Phật giáo, nhất là đối với cảnh
quan của những ngôi chùa thờ Phật, bởi đây là không gian văn hóa, nơi diễn ra những

sinh hoạt cộng đồng của người dân Việt.
Người luôn quan tâm đến đời sống vật chất và đời sống tinh thần tôn giáo của
đồng bào có đạo, trong đó có đồng bào Phật giáo. Điều đó thể hiện qua việc ngày
18/2/1946, Người đã ra sắc lệnh số 22, Sắc lệnh của Chính phủ lâm thời Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa ấn định những ngày tết, kỷ niệm lịch sử và lễ tôn giáo.
Hồ Chủ tịch đã khẳng định con đường mà dân tộc ta đi có sự tham gia của
đồng bào Phật tử. Đánh giá được vị trí và vai trò của đạo Phật trong công cuộc gìn
giữ và xây dựng đất nước. Chính vì lẽ đó, Người luôn chú trọng để bảo vệ và gìn giữ
những giá trị văn hóa của Phật giáo.
Ngoài ra, Người còn học hỏi và tiếp thu những tinh hoa, triết lý quý báu của
nhà Phật, giữ vững tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, kế thừa những giá trị tốt
đẹp, lý tưởng nhân văn cao cả trên phương điện đạo đức, lối sống như: ở hiền gặp

lành, nhường cơm sẻ áo Trên cơ sở đó, Người truyền đạt, giảng dạy cho các thế hệ
trẻ những giáo lý đạo đức tốt đẹp của Phật giáo, hướng con người đến những giá trị
nhân văn cao cả, tạo dựng lối sống và cách ứng xử văn hóa trong đời sống nhân dân.
Tuy những tư tưởng của Hồ Chí Minh về bảo tồn văn hóa Phật giáo chưa có
nhiều, nhưng chúng ta có thể tìm thấy trong tư tưởng Hồ Chí Minh những chỉ dẫn
quan trọng, mới mẻ và hiện đại về phương pháp luận nghiên cứu văn hóa trong phát
triển, về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống nói chung và văn hóa
Phật giáo nói riêng.
15
2.1.2. Quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước về bảo tồn văn hóa
Phật giáo
Trên tinh thần kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn giáo nói chung, Phật giáo

nói riêng, đồng thời nhận thức được tầm quan trọng và vị trí của Phật giáo trong văn
hóa Việt Nam, nhìn thấy những thách thức của văn hóa trước bối cảnh toàn cầu hóa.
Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi bước
vào công cuộc đổi mới toàn diện phát triển đất nước, đã và đang nghiên cứu, ứng
dụng các giá trị văn hóa Phật giáo để làm giàu, phong phú cho văn hóa Việt Nam.
Những quan điểm và chính sách với bảo tồn di tích lịch sử, văn hóa, danh lam thắng
cảnh, trong đó có bảo tồn văn hóa Phật giáo luôn được đặt lên hàng đầu.
* Giai đoạn trước đổi mới (trước năm 1986)
Nhìn lại chặng đường phát triển của văn hóa dân tộc Việt Nam, có thể nhận
thấy rằng, ngày sau khi đất nước giành lại độc lập (tháng Tám năm 1945), Đảng và
Nhà nước ta đã bắt tay vào sứ mệnh xây dựng và phát triển văn hóa đất nước. Vấn đề
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm,

chú trọng. Điều đó thể hiện qua nhiều sắc lệnh và chỉ thị liên quan đến công tác bảo
vệ và phát huy giá trị di tích gắn với hoạt động tôn giáo - tín ngưỡng trên toàn quốc
được ban hành như:
Sắc lệnh số 35/SL, ngày 20/9/1945 về việc tôn trọng và không được xâm phạm
chùa, lăng tẩm của tôn giáo; Sắc lệnh số 65/SL, ngày 23/11/1945 về việc bảo tồn cổ
di tích và giao nhiệm vụ bảo tồn tất cả cổ di tích trong toàn cõi Việt Nam cho Đông
Dương Bác cổ Học; Sắc lệnh số 22/SL, ngày 18/12/1946 ấn định các ngày tết, kỷ
niệm lịch sử và tôn giáo.
Các sắc lệnh trên đã thể hiện rõ sự quan tâm của Đảng, Nhà nước ta đối với
vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng và bảo vệ, gìn giữ những giá trị di tích văn hóa liên quan
đến các tôn giáo - tín ngưỡng.
Để bảo vệ tốt những giá trị truyền thống mà cha ông ta đã để lại, ngay sau

kháng chiến chống Pháp, Chính phủ đã ban hành Nghị định 519-TTg, ngày
29/10/1957 về quy định thể lệ bảo tồn cổ tích. Chỉ thị 217-CT/TW ngày 9/7/1960 về
công tác vận động Phật giáo, chỉ thị số 88/CT-TTg ngày 26/4/1973 về việc chấp hành
chính sách đối với việc bảo vệ các chùa thờ Phật và đối với tăng ni…
16
Sau khi đất nước thống nhất (năm 1975), những nghị định, pháp lệnh về bảo
tồn di tích tiếp tục nhận được sự quan tâm, chỉ đạo của Đảng và nhà nước bằng
việc ban hành, bổ sung văn bản, pháp lệnh như: pháp lệnh số 14 LCT -HĐNN07
về việc bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử - văn hóa và danh lam thắng cảnh ngày
4/4/1984 của Hội đồng Nhà nước được ban hành; pháp lệnh số 14 LCT - HĐNN07
đã thể hiện rõ nhất chủ trương của Đảng, Nhà nước về bảo tồn di tích văn hóa.
* Giai đoạn sau đổi mới (từ năm 1986 đến nay)

Từ những năm đổi mới cho đến nay, vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo vẫn
luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng. Các nghị định, nghị quyết liên quan
đến vấn đề bảo tồn văn hóa, tôn giáo tiếp tục được ban hành và ngày càng có hiệu
lực như: nghị định số 69 - HĐBT quy định về các hoạt động tôn giáo, ngày
21/3/1991 của Hội đồng Bộ trưởng; chỉ thị số 379/TTg về các hoạt động tôn giáo
của Thủ tướng Chính phủ, nghị quyết TW 5 khoá VIII của Ban chấp hành Trung
Ương Đảng cộng sản Việt Nam (năm 1998); Luật di sản văn hóa; Nghị định số
92/2002/NĐ ngày 11/11/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều
của Luật di sản văn hóa; Chỉ thị số 05/2002/CT-TTg ngày 18/02/2002 của Thủ tướng
Chính phủ về tăng cường các biện pháp quản lý, bảo vệ cổ vật trong di tích và ngăn
chặn đào bớt trái phép các di chỉ khảo cổ học; Quyết định số 05/2003/QĐ-BVHTT,
ngày 06/02/2003 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thông tin ban hành quy chế bảo quản,

tu bổ và phục hồi di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh…
Có thể nhận thấy, các hệ thống văn bản, quy phạm pháp luật liên quan đến bảo
tồn, tôn tạo di tích văn hóa được Đảng, Nhà nước ta ban hành đều nhằm tạo ra một
hành lang pháp lý vững chắc, đảm bảo cho hoạt động bảo tồn và phát huy những giá
trị của di sản văn hóa trong tiến trình xây dựng và phát triển xã hội. Các văn bản về
sau ngày càng có hiệu lực pháp lý cao hơn các văn bản trước, phạm vi điều chỉnh
cũng rộng và phù hợp hơn với thực tế cuộc sống.
2.2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đối với bảo tồn văn hóa Phật giáo
2.2.1. Nét đặc trưng của Giáo hội Phật giáo
Ngày 7 tháng 11 năm 1981, với mục đích thống nhất tất cả sinh hoạt Phật giáo
của Tăng Ni, Phật tử Việt Nam, Đại hội thống nhất Phật giáo đã được tổ chức tại
17

chùa Quán Sứ, Hà Nội với sự tham dự của 168 vị Giáo phẩm, Tăng Ni, Cư sĩ đại diện
cho 9 tổ chức, hệ phái nói trên để thành lập nên một tổ chức chung của Phật giáo cả
nước lấy tên là "Giáo hội Phật giáo Việt Nam" (viết tắt GHPGVN).
Qua đó, Phật giáo Việt Nam đã thể hiện nét đặc trưng rõ rệt đó chính là sự
thống nhất của GHPGVN và GHPGVN luôn đồng hành cùng dân tộc. và xác quyết
đồng hành cùng dân tộc.
Trước hết, sự thống nhất của GHPGVN được thể hiện qua việc đây là Giáo hội
Phật giáo duy nhất được chính phủ Việt Nam công nhận hiện nay và là thành viên
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Sự thống nhất Phật giáo Việt Nam đặt trên nguyên
tắc: “Thống nhất ý chí và hành động, thống nhất lãnh đạo và tổ chức, tuy nhiên, các
truyền thống hệ phái và phương tiện tu hành đúng chính pháp vẫn được duy trì”, và
xác định “Phương châm hoạt động của GHPGVN là: Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa

xã hội”, “GHPGVN là tổ chức Giáo hội duy nhất đại diện cho Tăng Ni, Phật tử Việt
Nam trong và ngoài nước”. Hiến chương GHPGVN đã khẳng định: "Mục đích của
GHPGVN là điều hoà, hợp nhất các tổ chức, hệ phái Phật giáo Việt Nam cả nước để
hộ trì hoằng dương Phật pháp và tham gia xây dựng bảo vệ Tổ quốc, phục vụ dân tộc,
góp phần xây dựng hoà bình, an lạc cho thế giới”.
Thứ hai, Phật giáo luôn đồng hành cùng với dân tộc, điều đầu tiên phải kể đến
là việc Phật giáo đã góp phần đào tạo nên một tầng lớp tri thức cho xã hội, mà tầng
lớp tri thức đầu tiên của người Việt chính là các tri thức Phật giáo. Ở thế kỷ VII -
VIII, nhiều tăng sĩ Việt Nam vừa uyên thâm Phật giáo lại giỏi tiếng Phạn và tiếng
Hán đã tham gia chú giải kinh Phật.
Nếu như trong chiến tranh, nhiều Tăng sĩ sẵn sàng cởi áo cà sa, sẵn sàng nhập
thế cầm vũ khí cùng dân tộc đánh giặc giữ nước thì trong thời bình, họ lại là những

người nhiệt thành và mẫn cán, cống hiến trọn đời mình để hướng dẫn tu tập, giảng
dạy, phổ biến giáo lý Phật giáo giúp cho Phật tử tạo lập được lối sống văn hóa lành
mạnh, sống có đạo đức và thiện tâm, giúp họ nhận thức được giá trị của cuộc sống
và đạt được hạnh phúc, an vui. Với giá trị nhân văn sâu sắc, Phật giáo đã có nhiều
đóng góp cho xã hội, hình thành và giáo dục đạo đức, lối sống cho mỗi người dân
Việt Nam.
18
Cho đến ngày nay, GHPGVN vẫn luôn là một tôn giáo đi đầu trong công cuộc
xây dựng đổi mới đất nước, xây dựng đời sống mới cho nhân dân. Tinh thần nhập thế
của GHPGVN ngày càng được phát huy rõ rệt. Có thể nói, GHPGVN luôn mãi thắp
sáng tinh thần:“Phật giáo đồng hành cùng với dân tộc”, đã và đang tiếp tục khẳng
định được vị thế của mình trong lòng dân tộc và Tăng ni, Phật tử Việt Nam.

2.2.2. Giáo hội Phật giáo Việt Nam đối với bảo tồn văn hóa Phật giáo
Kể từ khi thành lập cho đến nay, GHPGVN đã thể hiện tinh thần gắn bó,
luôn đồng hành cùng dân tộc Việt Nam trong mọi hoàn cảnh lịch sử. GHPGVN
cùng với phương châm hoạt động là “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, đã
khẳng định được vị thế của mình trong lòng dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa
hiện nay, nhất là trên lĩnh vực văn hóa. Đảng và Nhà nước ta luôn đánh giá cao vai
trò của GHPGVN trong công cuộc giáo dục đạo đức, bảo tồn và phát triển nền văn
hoá dân tộc. Trong đó bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam được xem là nhiệm vụ
cấp thiết. Chính vì vậy, GHPGVN với tư cách là một tổ chức Phật giáo duy nhất đại
diện cho Tăng ni, Phật tử trên cả nước, nên trách nhiệm của Giáo hội chính là bảo tồn
và phát huy những giá trị văn hóa Phật giáo, góp phần giữ gìn nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc trong quá trình hội nhập và phát triển của đất nước.

* Đối với công tác bảo tồn văn hóa vật thể của Phật giáo
- Giáo hội cùng với chính quyền địa phương quan tâm đến vấn đề tôn tạo và
xây dựng mới những công trình kiến trúc Phật giáo.
- GHPGVN gấp rút trong việc kiện toàn hệ thống tổ chức và quản lý Giáo hội,
tổ chức và thành lập các bộ phận chuyên trách trong việc bảo tồn, bảo tàng các di sản
văn hóa Phật giáo.
- Thành lập Ban văn hóa Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam để thực
hiện vai trò tổ chức, quản lý di sản văn hóa Phật giáo.
* Đối với bảo tồn văn hóa phi vật thể của Phật giáo
- Giáo hội chủ trương đào tạo các thế hệ Tăng ni, Phật tử, mở trường đào tạo
nhằm tăng cường phổ biến giáo lý đức Phật và rèn luyện phẩm hạnh, nghiêm trì giới
luật cho Tăng ni và Phật tử.

- Chú trọng đến các hoạt động nghi lễ của Phật giáo.
19
- Tổ chức các hoạt động xã hội, hoạt động văn hóa, tuyên truyền giáo lý đức
Phật; tổ chức các hội thảo khoa học liên quan đến vấn đề văn hóa.
2.3. Một số giải pháp bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện nay.
2.3.1 Giải pháp bảo tồn những giá trị văn hóa vật thể của Phật giáo
Trên phương diện văn hóa vật thể, Phật giáo đã đóng góp cho văn hóa Việt
Nam những công trình kiến trúc, điêu khắc và hệ thống tượng thờ mang nhiều giá trị
văn hóa đặc sắc. Riêng ở khu vực miền Bắc, các công trình kiến trúc và điêu khắc
Phật giáo, từ lâu đã được nhân dân ta biết đến như một biểu tượng của văn hóa dân
tộc. Những giá trị ấy luôn được Đảng, Nhà nước, GHPGVN cũng như cộng đồng đề
cao và có ý thức gìn giữ, bảo vệ.

Công tác bảo tồn những giá trị văn hóa vật thể của Phật giáo đã có những
thành tựu đáng kể, trong đó việc xây dựng mới nhiều ngôi chùa khang trang và độ sộ
trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được thì vấn đề bảo tồn văn hóa
vật thể Phật giáo vẫn còn những hạn chế như: trong nhiều năm trở lại đây, việc xâm
lăng văn hóa, các di tích Phật giáo “kêu cứu” đang trở nên cấp thiết đối với các nhà
chức trách tại địa phương trên cả nước nói chung và tại các địa phương nói riêng; nạn
xâm hại di tích văn hóa Phật giáo, việc xâm hại các di tích thường diễn ra.
Thêm vào đó, nhiều công trình kiến trúc Phật giáo đang xuống cấp nghiêm
trọng hay bị phá hủy, trùng tu và xây dựng lại một cách tùy tiện, vi phạm nguyên tắc
về bảo quản, trùng tu… Bởi vậy, để làm tốt công tác bảo tồn văn hóa vật thể Phật
giáo hiện nay thì cần phải có những giải pháp như sau:

- Bảo tồn không gian văn hóa Phật giáo.
- Thành lập ban quản lý di tích Phật giáo tại các địa phương.
- Nâng cao hiệu quả quản lý của Đảng và Nhà nước, Giáo hội Phật giáo, các
ban ngành có liên quan.
- Thực hiện công tác tuyên truyền về giá trị của các di tích, di vật văn hóa Phật
giáo nhằm nâng cao nhận thức của người dân.
- Tăng cường đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật có trình độ khoa học để có thể
làm tốt công tác tu bổ các di tích Phật giáo
20
2.3.2 Giải pháp bảo tồn những giá trị văn hóa phi vật thể của Phật giáo
Những thành tựu của văn hóa Phật giáo phi vật thể cũng chiếm một vị trí
không nhỏ trong kho tàng văn hóa dân tộc Việt Nam. Công tác giáo dục đạo đức Phật

giáo cho tầng lớp thanh niên cũng đã thu lại được những kết quả khả quan khi các lớp
trẻ, thanh niên là học sinh, sinh viên ngày càng tích cực tham gia và các hoạt động xã
hội, từ thiện, văn hóa, giáo dục… của Phật giáo.
Không chỉ chú trọng đến giáo dục tư tưởng, giáo lý và đạo đức Phật giáo mà
hiện nay các lễ hội truyền thống của dân tộc cũng dần được phục hồi.
Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị văn hóa phi vật thể mà Phật giáo mang lại
thì vẫn còn nhiều vấn nạn gây bức xúc, trực tiếp ảnh hưởng đến vấn đề bảo tồn văn
hóa Phật giáo, trong đó phải kể đến việc nhiều kinh sách được tạo ra nhưng không
đảm bảo chất lượng, thậm chí còn sai lệch với chính pháp; đạo đức của một bộ phận
chức sắc bị suy thoái do sai lệch trong tư tưởng, nhiều hủ tục mê tín xuất hiện với
mục đích vụ lợi, mang tính chất kinh doanh. Trong các lễ hội Phật giáo, tình hình an
ninh trật tự không được đảm bảo. Chính vì những lý do trên nên việc bảo tồn, gìn giữ

những giá trị văn hóa phi vật thể của Phật giáo lại càng cấp thiết trong giai đoạn hiện
nay. Bởi vậy cần phải có những biện pháp rõ ràng và thiết thực để làm tốt công tác
bảo tồn văn hóa phi vật thể của Phật giáo như sau:
- Quản lý kinh sách, giáo lý Phật giáo
- Giáo dục, bồi dưỡng đội ngũ chức sắc có ý thức tu dưỡng phẩm hạnh và
trình độ Phật học.
- Tăng cường quản lý Nhà nước về hoạt động lễ hội tôn giáo, đảm bảo an ninh,
trật tự lễ hội
- Đảng và Nhà nước phối hợp với các tổ chức chính quyền địa phương có biện
pháp ngăn chặn, bài trừ nạn mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh…
2.3.3 Một số kiến nghị
Để bảo tồn những giá trị văn hóa Phật giáo, đồng thời khắc phục những yếu

điểm, những mặt còn tồn đọng trong vấn đề bảo tồn văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện
nay. Với nhận thức và hiểu biết của học viên khi nghiên cứu vấn đề này, tôi xin đưa
ra một số kiến nghị như sau:
21
Cần phải xác định đúng vai trò của Đảng và Nhà nước trong việc đưa ra các
chủ trương, chính sách tôn giáo phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện
nay. Đồng thời bổ sung, hoàn thiện những văn bản, chỉ thị nhằm tạo ra cơ cở pháp lý
và nâng cao vai trò của cộng đồng dân cư trong việc bảo tồn những di sản văn hóa
nói chung và văn hóa Phật giáo nói riêng.
Bảo tồn giá trị văn hóa Phật giáo vật thể và phi vật thể ở nước ta hiện nay rất
cần có kế hoạch đào tạo nguồn nhân lực, trước hết phải kể đến là các Tăng ni, Phật tử
nhằm nâng cao trình độ năng lực, làm lành mạnh hóa các sinh hoạt Phật giáo.

Đối với các giá trị văn hóa vật thể của Phật giáo; Đảng, Nhà nước và Giáo hội
Phật giáo cần thường xuyên quan tâm, nắm bắt tình trạng chung của di tích Phật giáo
để phát hiện sớm những hạng mục xuống cấp và cần được sửa chữa, tôn tạo gấp,
nhằm hạn chế thấp nhất những tác nhân gây xuống cấp như: ẩm thấp, mối mọt…
Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục trong cộng đồng, người dân, đặc biệt
là đối với thế hệ thanh thiếu niên. Đảng và Nhà nước kết hợp với tổ chức giáo hội địa
phương tổ chức những sinh hoạt Văn hoá. Kết hợp hoạt động Phật giáo trong những
dịp lễ hội với du lịch nhằm đưa những nét đẹp truyền thống của các lễ hội Phật giáo.
Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa Phật giáo cần phải được đặt trong mối
quan hệ với sự phát triển và hội nhập, gìn giữ, kế thừa những giá trị văn hóa tốt đẹp,
khai thác và tìm tòi những giá trị văn hóa mới phù hợp với văn hóa dân tộc, góp phần
làm giàu và phong phú hơn bản sắc dân tộc Việt.

Trên đây chỉ là vài ý kiến, vi góc nhìn, mục đích chỉ là góp phần nhỏ bé vào
công cuộc bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc. Đó chỉ là
những giải pháp mang tính phương hướng và bước đầu, còn về lâu dài thì cần phải có
những kiến nghị và giải pháp triệt để hơn nhằm bảo tồn và phát huy tối đa những giá
trị của văn hóa Phật giáo Việt Nam.
22
Tiểu kết Chương 2:
Văn hóa Phật giáo Việt Nam với những giá trị văn hóa vật thể và văn hóa phi
vật thể, là một trong những bộ phận quan trọng trong kho tàng di sản văn hóa dân tộc.
Bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc, trong đó bảo tồn văn hóa Phật giáo
là rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay, đó là nghĩa vụ cao cả của toàn Đảng, Nhà
nước và xã hội, đặc biệt là của ngành Di sản văn hóa, GHPGVN và Tăng ni, Phật tử

trong cả nước. Hơn nữa, việc những di sản văn hoá, đặc biệt là di sản văn hoá Phật
giáo đang dần bị mai một, sự xuống cấp trong đạo đức và lối sống người dân, sự coi
thường các giá trị văn hoá xã hội càng khiến mỗi chúng ta có ý thức hơn trong vấn đề
bảo tồn và phát huy nét đẹp của văn hoá truyền thống nói chung cũng như văn hoá
Phật giáo nói riêng. Việc bảo tồn gìn giữ ấy không chỉ cho thế hệ của quá khứ, cho
hiện tại mà hơn hết là bảo tồn và gìn giữ cho các thế hệ mai sau - những di sản, lịch
sử hàng nghìn năm của cha ông.
23

×