Tải bản đầy đủ (.doc) (7 trang)

Phân tích quá trình ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.88 KB, 7 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Việc tham gia ký kết các điều ước quốc tế là vô cùng quan trọng đối với mỗi
quốc gia bởi nó thể hiện sự hòa nhập của quốc gia đối với cộng đồng chung thế
giới. Đối với một nước đang trong giai đoạn hội nhập như Việt Nam, việc tham gia
các điều ước quốc tế càng giúp khẳng định nỗ lực trong quá trình khẳng định mình
trên trường quốc tế.
Để giúp nắm rõ hơn về tầm quan trọng cũng như các giai đoạn của quá trình ký
kết điều ước quốc tế, nhóm chúng em xin phép chọn đề tài phân tích quá trình ký
kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế của Việt Nam trong một lĩnh vực hợp
tác cụ thể mà cụ thể ở đây là Công ước Berne về Bảo vệ các Tác phẩm Văn học và
Nghệ thuật (gọi tắt là Công ước Berne).
NỘI DUNG
I. Khái quát chung về công ước Berne
Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật, còn được
gọi ngắn gọn là Công ước Berne (phát âm tiếng Việt: Công ước Bơn hay Công ước
Béc-nơ), được ký tại Bern (Thụy Sĩ) năm 1886, lần đầu tiên thiết lập và bảo vệ
quyền tác giả giữa các quốc gia có chủ quyền. Các quốc gia tuân thủ công ước
Bern công nhận quyền tác giả của các tác phẩm xuất bản tại các quốc gia khác
cùng tuân thủ công ước này. Quyền tác giả, theo công ước Berne là tự động: không
cần phải đăng ký tác quyền, không cần phải viết trong thông báo tác quyền. Ngoài
ra, những quốc gia ký công ước Berne không được đặt ra các thủ tục hành chính
sách nhiễu các tác giả trong việc thụ hưởng tác quyền.
II. Quá trình Việt Nam ký kêt, gia nhập công ước berne
1. Lý do cần gia nhập công ước Berne
- Thứ nhất, trong quan hệ quốc tế, Việt Nam đã mở rộng quan hệ quốc tế với
nhiều nước, thành viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tiến tới
ký các hiệp định thương mại với các nước. Chính vì thế mà việc bảo hộ sở hữu trí
tuệ là đòi hỏi bắt buộc trong các hiệp định buôn bán với các nước trong khu vực và
thế giới.
- Thứ hai, việc gia nhập Công ước sẽ khuyến khích tác giả trong nước sáng tạo
ra nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, vì không những được phổ


biến ở trong nước mà còn được phổ biến ở nước ngoài.
- Thứ ba, vấn đề trở thành thành viên Công ước Berne không hề cản trở việc
Việt Nam tiếp thu tinh hoa thế giới. Vì tuy phải trả nhuận bút cho các tác giả nước
1
ngoài thì cũng có thể trả theo chế độ nhuận bút của Việt Nam. Việc tham gia Công
ước còn có lợi là do phải trả tiền nhuận bút nên các nhà sản xuất trong nước cần
phải chọn lọc sách dịch, tránh được từ tình trạng tùy tiện, số lượng sách quá nhiều
nhưng sách có chất lượng thì rất ít.
- Thứ tư, nhờ có được cơ sở pháp lý về nguyên tắc quốc tế nên việc trở thành
thành viên của Công ước cũng là điều kiện quan trọng để thu hút đầu tư nước
ngoài trong các lĩnh vực kinh tế, thúc đẩy phát triển thương mại với các nước trên
thế giới.
- Thứ năm là xuất phát từ chính thực trạng bảo hộ quyền tác giả ở Việt Nam
chưa thực sự tốt. Vì vậy cần phải tham gia công ước để qua đó thực hiện những
biện pháp chung như quy định của thế giới
2. Quá trình Việt Nam gia nhập công ước Berne:
Qua hàng loạt chủ trương, chính sách và các biện pháp quản lý Nhà nước được
triển khai đã cho thấy, xu thế ủng hộ tham gia công ước Berne ở Việt Nam ngày
càng một gia tăng. Trước tiên là việc Việt Nam và Mỹ ký kết Hiệp định về quyền
tác giả vào ngày 27/6/1997. Ngày 23/12/1998, thông qua việc trao đổi công hàm
tại Washington, hai bên tuyên bố Hiệp định bắt đầu có hiệu lực. Đây có thể được
coi là một bước đột phá về mặt nhận thức của Nhà nước ta trên lĩnh vực này, mở ra
một giai đoạn mới trong tiến trình hội nhập quốc tế về bảo hộ quyền tác giả vốn
được coi là một bộ phận cấu thành của quyền sở hữu tài sản trí tuệ, loạt tài sản vô
hình đang ngày càng chiếm tỷ lệ áp đảo trong giá trị hàng hóa.
Tiếp đến là việc Bộ Văn hóa thông tin, thực hiện chủ trương của Thủ tướng
Chính phủ trong năm 1998, đã nghiên cứu, đề xuất vấn đề gia nhập Công ước
Berne trình Thủ tướng Chính phủ xem xét và quyết định. Thực tế cho thấy, các cơ
quan Nhà nước quan trọng liên quan đến vấn đề bảo hộ quyền tác giả của Việt
Nam như Bộ giáo dục và Đào tạo, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Khoa học Công

nghệ và Môi trường, Bộ Xây dựng… đã hoàn thành chủ trương gia nhập Công ước
Berne. Điều này chứng tỏ thực sự đã có những chuyển biến quan trọng về mặt
nhận thức, tư tưởng ở cấp độ Chính phủ đối với vấn đề bảo hộ quyền tác giả trong
bối cảnh hội nhập quốc tế hướng tới thế kỉ 21.
Đầu năm 1999, Chính phủ quyết định thông qua Tờ trình của Bộ Văn hóa -
Thông tin về việc tham gia Công ước Berne.
Tháng 4/2002, Trung tâm bảo vệ quyền tác giả âm nhạc Việt Nam đã ra đời.
Bên cạnh đó, qua các cuộc hội thảo về vấn đề bảo hộ quyền tác giả do Bộ Văn
hóa thông tin tổ chức đã cho thấy, nhiều lãnh đạo, cán bộ và nhân viên làm việc
2
trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh văn hóa phẩm cũng đã lên tiếng ủng hộ chủ
trương tham gia Công ước Berne của Việt Nam vì lợi ích lâu dài và tương lai bền
vững của Việt Nam cũng như bày tỏ quyết tâm sẵn sang đối phó với những khó
khăn sẽ nảy sinh khi VN gia nhập công ước này.
Để chuẩn bị cho việc tham gia Công ước Berne, Bộ Văn hóa – Thông tin đã
xây dựng và đệ trình lên Chính phủ một kế hoạch sửa đổi bổ sung một số quy định
pháp luật hiện hành về quyền tác giả cho phù hợp với thực tiễn để thi hành Công
ước một cách có hiệu quả. Dự thảo bộ luật hình sự cũng đã có những sửa đổi thích
hợp, tách tội xâm phạm quyền tác giả, quyền phát minh sáng chế trong Bộ luật
hiện hành thành các tội riêng biệt với những tội danh cụ thể, tương ứng với những
hình phạt khác nhau. Đồng thời Bộ văn hóa thông tin cũng đã trình Chính phủ dự
thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trên lĩnh vực văn hóa, trong đó có cả
những hình thức xử phạt đối với các hành vi vi phạm quyền tác giả nhằm tăng
cường thêm một bước công tác quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực này.
Mặt khác, các cơ quan chức năng của Nhà nước cũng đang tiến hành kế hoạch
sắp xếp lại những cơ sở sản xuất, kinh doanh văn hóa phẩm quốc doanh và tư nhân
để nâng cao hiệu quả hoạt động và bảo đảm kiểm soát chặt chẽ hơn tình hình tuân
thủ pháp luật về quyền tác giả của các cơ sở đó. Thực hiện Chỉ thị 04 của Thủ
tướng Chính phủ, Bộ Tư pháp cùng phối hợp với các cơ quan chức năng cũng sẽ
tiến hành các lớp tập huấn về quyền tác giả cho đội ngũ thẩm phán và cán bộ của

tòa án nhân dân các cấp, nhằm nâng cao năng lực xét xử các vụ án xâm phạm
quyền tác giả có nhân tố nước ngoài.
Ngày 07 tháng 06 năm 2004, Chủ tịch nước đã ký Quyết định số 332/2004/QĐ-
CTN về việc Việt Nam gia nhập Công ước Berne bảo hộ tác phẩm văn học và
nghệ thuật. Ngày 26/7/2004 Việt Nam đã gửi hồ sơ đăng kí gia nhập Công ước
Berne. Và ngày 26/10/2004, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 156
của Công ước Berne về Bảo vệ các Tác phẩm Văn học và Nghệ thuật (gọi tắt là
Công ước Berne).
III. Việc thực hiện công ước Berne tại Việt Nam
1. Những điểm tích cực khi thực hiện công ước Berne tại Việt Nam:
1.1. Trên phương diện pháp lý:
Khi Việt Nam chính thức gia nhập Công ước Berne, Nhà nước ta đã có nhiều
sự quan tâm vào những cam kết quốc tế này. Hệ thống pháp luật về Sở hữu trí tuệ
3
của Việt Nam đã tương đối hoàn chỉnh, nội dung đã tiệm cận dần đến các nguyên
tắc và quy định của WTO, WIPO.
Cụ thể, từ sau khi Luật Dân sự 1995 có một chương nói về Sở hữu trí tuệ thì
đến nay đã có hẳn Luật sở hữu trí tuệ. Ngày 29/11/2005, Quốc hội đã thông qua
Luật Sở hữu trí tuệ. Ngoài ra hàng loạt các văn bản liên quan đến điều chỉnh đến
quyền bảo hộ tác phẩm văn học và nghệ thuật cũng được ban hành như Nghị định
số 100/2006/NĐ-CP Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ
luật Dân sự, Luật sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan,…
Các luật chuyên ngành như Luật Xuất bản, Luật Báo chí, Luật Di sản văn hoá,
Luật Điện ảnh đều có các quy định liên quan đến bảo hộ quyền tác giả, phù hợp
với từng ngành. Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Luật Hải quan, Pháp lệnh Xử
phạt vi phạm hành chính cũng có các quy định quan hệ tới quyền tác giả và quyền
liên quan tùy theo tính chất và phạm vi điều chỉnh của mỗi luật. Như vậy, các quy
định của pháp luật Việt Nam về quyền tác giả và quyền liên quan đã được ban
hành tương đối đồng bộ. Hệ thống pháp luật quốc gia của Việt Nam về quyền tác
giả, quyền liên quan ngày càng hoàn thiện và phù hợp với các Điều ước quốc tế

tạo môi trường pháp lý cho quá trình hội nhập quốc tế một cách toàn diện.
1.2. Trên phương diện thực tiễn
Việt Nam được đánh giá là quốc gia có sự phát triển nhanh, mạnh, vững chắc
về vấn đề bản quyền. Sau khi Việt Nam gia nhập công ước Berne các đơn vị doanh
nghiệp Việt Nam đã chủ động, tích cực trong tìm kiếm, thiết lập các quan hệ làm
ăn với đối tác nước ngoài và đã có được những kinh nghiệm hết sức quý báu trong
giao dịch bản quyền.
Trong số những hoạt động đó, sự ra đời của Trung tâm quyền tác giả âm nhạc
Việt Nam (VCMPC) đã đánh dấu một bước chuyển mình to lớn của Việt Nam khi
thực hiện các điều ước về bản quyền. Theo đó kể từ khi thành lập đến năm 2009,
Trung tâm cũng đã ký hợp đồng song phương với 33% tổ chức quyền tác giả âm
nhạc đang hoạt động trên 95 lãnh thổ, quốc gia trên thế giới.
Sau hai năm dự bị, đầu năm 2009 VCMPC chính thức trở thành thành viên của
CISAC là liên minh các tổ chức quyền tác giả âm nhạc và lời trên thế giới
Sự tín nhiệm của các tác giả âm nhạc với VCPMC ngày càng cao khi năm 2007
chỉ có 1.000 tác giả, đến năm 2008 đã có 1.200 và năm 2009 là 1.600 tác giả uỷ
quyền cho Trung tâm.
4
2. Những hạn chế khi thực hiện công ước Berne ở Việt Nam:
2.1. Trên phương diện pháp lý
Mặc dù đã có nhiều văn bản pháp luật được ban hành cũng như điều chỉnh để
phù hợp với nội dung của Công ước Berne nhưng trên thực tế vẫn còn khá nhiều
tồn tại trong vấn đề xây dựng pháp luật về bảo hộ quyền tác giả và tác phẩm hiện
nay.
Ngay trong Luật sở hữu trí tuệ Việt Nam cũng còn nhiều mâu thuẫn, bất cấp
còn tồn tại liên quan đến quyền tác giả cũng như những vấn đề pháp lý liên quan.
Ví dụ như những khái niệm về tác giả, đồng tác giả chưa được giải thích trong
Luật Sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi bổ sung năm 2009. Hay những quy định về
chuyển quyền tác giả là trái với thông lệ chung của quốc tế…
2.2. Trên phương diện thực tiễn:

Dễ dàng nhận thấy, công chúng Việt Nam đã dần làm quen với cái tên Công
ước Berne, làm quen với việc khi sử dụng âm nhạc phải trả tiền bản quyền nhưng
việc đưa hoạt động bảo vệ quyền tác giả âm nhạc vào cơ quan quản lý Nhà nước
vẫn còn gặp nhiều khó khăn.
Có một thực tế đang tồn tại là ai tôn trọng bản quyền, tác quyền thì cứ việc
mua, còn vi phạm bản quyền thì cứ tiếp diễn. Việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
và vi phạm pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ngày càng có dấu hiệu trở
thành phổ biến, và mức độ phức tạp, nghiêm trọng của tình hình xâm phạm quyền
sở hữu trí tuệ ngày càng có dấu hiệu gia tăng.
Từ ngày Công ước Berne có hiệu lực thi hành tại Việt Nam, trên các trang báo
thường xuyên có những thông tin về nạn sách giả, sách lậu… Tiêu biểu như vào
năm 2008, việc Công ty First News phát hiện hai trường ngoại ngữ Đông Âu và
Âu Mỹ photo sách do First News mua bản quyền để bán cho học viên. Thông tin
từ First News cho biết, bộ sách Anh ngữ được công ty mua bản quyền xuất bản tại
VN sau 3 năm thương lượng với số tiền mua bản quyền là 100.000 USD. Thế
nhưng khi sách ấn hành tại VN, First News chưa kịp thu hồi vốn và công sức bỏ ra
thì đã bị photo. Theo điều tra của công ty này, gần như 80% các trường ngoại ngữ
trên toàn quốc đều “hồn nhiên” photo sách không riêng của First News để bán cho
học viên. Ông Đỗ Thành, Giám đốc công ty Nhân Trí Việt, đơn vị cũng thường
xuyên bị vi phạm bản quyền cho biết: “Họ dùng sách của mình để quảng cáo
5

×