Tải bản đầy đủ (.doc) (8 trang)

Thực trạng ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân các cấp hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.46 KB, 8 trang )

8
Đề bài: Thực trạng ban hành Văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân
các cấp hiện nay? Nguyên nhân và giải pháp.
BÀI LÀM
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Xây dựng và ban hành văn bản QPPL là một hoạt động mang tính quyền lực nhà
nước, là hình thức pháp lý quan trọng trong hoạt động của chính quyền địa phương
nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định của Hiến pháp và
pháp luật. Hoạt động ban hành VBQPPL của UBND các cấp trong thời gian vừa
qua đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy nhiên sự thiếu sót, bất hợp lý cũng
không phải là ít, gây nhiều bức xúc trong dư luận. Bài viết sau đây xin được trình
bày về thực trạng ban hành VBQPPL của UBND, qua đó thấy được những thành
tựu và hạn chế còn tồn tại và nguyên nhân của chúng, đồng thời xin được đề ra một
số giải pháp khắc phục những khuyết điểm đó trong tương lai.
PHẦN NỘI DUNG:
1. Cơ sở pháp lý của hoạt động ban hành VBQPPL của UBND:
Vị trí, tính chất, chức năng của ủy ban nhân dân tỉnh, huyện, xã và các cấp
tương đương hiện nay được qui định tại Điều 123, Hiến pháp năm 1992 và Điều 2
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003: “Uỷ ban nhân dân
do Hội đồng nhân dân bầu là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân, cơ quan
hành chính Nhà nước ở địa phương ... chịu trách nhiệm chấp hành Hiến pháp, luật,
các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân
dân cùng cấp...”
UBND có trách nhiệm phải tổ chức thực hiện Hiến pháp, luật, các văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên, nghị quyết của HĐND cùng cấp, chỉ đạo hoạt động của
UBND cấp dưới. Thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ trên, UBND thực hiện
chức năng quản lý nhà nước ở địa phương trong phạm vi quyền hạn của mình do
luật định. Khi thực hiện nhiệm vụ của mình, UBND được quyền ban hành
VBQPPL dưới hình thức các Quyết định, Chỉ thị và tổ chức thực hiện các văn bản
đó. Đây là một hình thức hoạt động cần thiết và quan trọng của UBND.
2. Thực trạng ban hành VBQPPL của UBND các cấp hiện nay:


2.1. Kết quả đạt được của hoạt động ban hành VBQPPL của UBND các cấp:
Một loạt các quy định trong Hiến pháp 1992, Luật ban hành VBQPPL của
HĐND và UBND 2003, Luật ban hành VBQPPL của HĐND và UBND 2004 và
8
Luật ban hành VBQPPL 2008 đã tạo cơ sở pháp lý và hướng dẫn, tạo điều kiện cho
hoạt động ban hành VBQPPL của UBND được thực hiện trơn tru, ổn định và thống
nhất. Số lượng và chất lượng của VBQPPL do UBND các cấp ban hành ngày càng
tăng, VBQPPL đã trở thành công cụ pháp lý quan trọng trong hoạt động quản lý và
điều hành nhà nước ở địa phương, điều chỉnh hầu hết các quan hệ xã hội trong mọi
lĩnh vực của đời sống.
Sau khi Luật ban hành VBQPPL của HĐND và UBND 2004 có hiệu lực thi
hành, hành năm có hàng ngàn văn bản quy phạm pháp luật của địa phương nhất là
cấp tỉnh đã được xây dựng và ban hành. Ví dụ như: trên địa bàn tỉnh Bến Tre trong
bốn năm (2005, 2006, 2007, 2008) ở cấp tỉnh đã ban hành khoảng 340 văn bản quy
phạm pháp luật, riêng từ ngày 01 tháng 10 năm 2009 đến ngày 31 tháng 9 năm
2010 đã ban hành 46 văn bản quy phạm pháp luật (09 nghị quyết của Hội đồng
nhân dân tỉnh và 37 quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh). Các VBQPPL
về cơ bản đã được kịp thời ban hành để thể chế hóa đường lối, chủ trương chính
sách của Đảng và nhà nước, của cấp ủy trong việc hướng dẫn áp dụng các luật,
pháp lệnh và văn bản của cơ quan cấp trên. Các VBQPPL cũng thể hiện sự phù
hợp với tình hình, đặc điểm của từng địa phương. Các văn bản còn quy định những
vấn đề thuộc thẩm quyền của UBND trong lĩnh vực chưa được văn bản của cơ
quan cấp trên quy định hoặc quy định chưa cụ thể nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý
nhà nước.
Chất lượng văn bản ngày càng được nâng cao, nhất là đối với những văn bản
do UBND cấp tỉnh ban hành, ngày càng khắc phục tình trạng văn bản ban hành
không đúng thẩm quyền, không đảm bảo tính thống nhất như: trái nội dung của văn
bản cấp trên ban hành; chồng chéo, mâu thuẫn với văn bản khác do chủ thể cùng
cấp ban hành. Tình trạng văn bản không phù hợp với tình hình địa phương cũng
giảm đáng kể. Hình thức của văn bản cũng cơ bản đáp ứng được theo yêu cầu luật

định.
Nhiều địa phương đã coi trọng công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa VBQPPL
thành một hoạt động thường xuyên và xác định đây là một hoạt động rất quan
trọng gắn liền với công tác xây dựng văn bản và thực hiện pháp luật. Công tác này
giúp địa phương nhiều trong việc phát hiện những văn bản mâu thuẫn, chông chéo,
hết hiệu lực để trình cấp có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ.
Các sở tư pháp, phòng tư pháp trực thuộc UBND tình ngày càng khẳng định
được vị trí của mình. Chúng góp phần đáng kể vào việc tham gia soạn thảo, soạn
thảo, kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của dự thảo văn bản. Về
8
kỹ thuật soạn thảo, nhiều cơ quan tư pháp địa phương còn góp ý về mặt hợp lý,
hợp thời của văn bản mới khi trình cơ quan có thẩm quyền xem xét, thông qua.
Thành lập trung tâm công báo cũng là một thành tựu trong hoạt động xây dựng
VBQPPL của UBND. Hiện nay, ở hầu hết các tỉnh, thành phố đều thành lập trung
tâm công báo để thực hiện chức năng công báo các VBQPPL do địa phương mình
ban hành. Đến nay, các địa phương đã công bố được một số lượng lớn các
VBQPPL trên công báo cấp tỉnh, công báo điện tử cũng đang từng bước được xây
dựng nhằm sớm đưa vào sử dụng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của công tác
quản lý.
Công tác ban hành văn bản đã được triển khai tương đối hiệu quả, góp phần rất
lớn trong việc cùng với Trung ương giải quyết các vấn đề bức xúc hiện nay của xã
hội, nhằm góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội cũng như xây dựng thành
công công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2. Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động ban hành VBQPPL của UBND:
Luật ban hành VBQPPL của HĐND và UBND năm 2004 đã cụ thể hóa, hướng
dẫn chi tiết các công việc trong hoạt động ban hành VBQPPL của UBND, là cơ sở
pháp lý quan trọng để UBND thực hiện tốt công việc ban hành văn bản của mình.
Tuy vậy, những hạn chế, thiếu sót trong quá trình thực hiện công việc này của
UBND vẫn còn tồn tại nhiều, gây không ít tranh cãi và bức xức trong dư luận.
Việc xây dựng Chương trình ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh;

Chương trình xây dựng quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân tỉnh chưa đảm bảo
đúng trình tự, thủ tục luật định. Số lượng văn bản đăng ký ban hành theo các
Chương trình này đạt tỷ lệ không cao, vì vậy chương trình lập quy của chính quyền
cấp tỉnh còn mang tính hình thức. Công tác rà soát và hệ thống hoá văn bản quy
phạm pháp luật ở cấp tỉnh hàng năm chưa được quan tâm đúng mức. Việc gửi văn
bản phục vụ cho công tác kiểm tra chưa kịp thời và chưa đầy đủ theo quy định của
pháp luật;
Trong nhiều văn bản, việc sử dụng căn cứ pháp luật để ban hành còn rất tùy tiện.
Ví dụ: Nhiều văn bản ban hành không có căn cứ pháp lý, hoặc căn cứ vào công
văn, thông báo, kết luận miệng của lãnh đạo, căn cứ không chính xác, căn cứ vào
văn bản hết hiệu lực. Ở môt số văn bản còn không ghi ngày tháng ban hành, hoặc
sau đó tự tiện sửa đổi ngày tháng, hay văn bản không có dấu của cơ quan ban hành
hoặc do cấp phó ký nhưng không ghi rõ là ký thay. Tình trạng ban hành VBQPPL
trái thẩm quyền về hình thức còn tồn tại ở cả ba cấp, nhưng tập trung chủ yếu ở cấp
huyện và xã, đặc biệt là cấp xã.
8
Ở một số địa phương còn tình trạng ban hành văn bản có tính quy phạm dưới
hình thức không do luật định như công văn, thông báo, kết luận…
Theo đánh giá chung, trong số những văn bản do UBND ban hành thì những văn
bản có tính chất pháp lý tất ít còn căn bản cá biệt thì chiếm tỉ lệ lớn. Do tập trung
ban hành quá nhiều văn bản cá biệt, UBND các cấp còn chưa quan tâm ban hành
các VBQPPPL dẫn đến tình trạng, một số lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội còn
chưa được điều chỉnh và cụ thể hóa. Việc không có quy phạm pháp luật dẫn đến
thực trạng cùng một sự việc có những cách giải quyết rất khác nhau trong cùng
một địa phương.
Nhiều quy định của pháp luật còn chưa phù hợp với yêu cầu chủ động trong
quản lý hành chính và mục tiêu hoạt động của UBND, đặc biệt trong lĩnh vực đất
đai, đầu tư nước ngoài, văn hóa, giáo dục đã làm xuất hiện mâu thuẫn trong trách
nhiệm công vụ, không đảm bảo tính công khai, minh bạch trong quản lý hành
chính cũng như sự miễn cưỡng giải trình việc ban hành các quyết định không phù

hợp.
Theo quy định của pháp luật thì Nghị quyết của HĐND sẽ đề ra chủ trương
chính sách, quyết định các vấn đề cơ bản của địa phương, có tính chất mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ chung. Nghị quyết sẽ được UBND thực hiện, và các quy
định cụ thể sẽ do UBND ban hành. Thực tế lại cho thấy, hệ thống VBQPPPL do
UBND ban hành có nhiều văn bản không phù hợp với Luật hoặc các quy định của
cơ quan cấp trên. Quyết định, chỉ thị của UBND còn mâu thuẫn, chồng chéo, thể
hiện trong từng văn bản cũng như trong cả hệ thống. Sai sót về thẩm quyền ban
hành cũng như hình thức văn bản vẫn còn tồn tại. Nhiều văn bản có nội dung
không hợp pháp, hợp lý, không khả thi.
Việc quản lý, lưu trữ VBQPPL còn thiếu đồng bộ, chặt chẽ, chưa đảm bảo tính
khoa học, nhất là cấp huyện, xã. Công tác hệ thống hóa văn bản mới chỉ dừng lại ở
cáp tỉnh. Công tác rà soát, hệ thống hóa văn bản được thực hiện theo định kỳ
nhưng việc xuất bản tập hệ thống văn bản còn hiệu lực còn chưa được áp dụng. Vì
vậy, việc nắm được kết quả rà soát trở nên khó khăn, nên tình trạng cơ quan quản
lý áp dụng văn bản đã bị bãi bỏ hoặc hết hiệu lực còn tồn tại.
Việc ban hành văn bản của UBNĐ bộc lộ tính không thống nhất, thiếu khả thi,
không đúng hình thức theo quy định của pháp luật. Trình tự ban hành văn bản
thiếu chặt chẽ, khoa học và hợp lý, văn bản cũng không đúng hình thức theo quy
định của pháp luật.
8
3. Nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động ban hành VBQPPL của
UBND:
Trước hết, đối tượng điều chỉnh của văn bản qui phạm pháp luật là các quan hệ
xã hội phong phú, đa dạng, luôn tồn tại khách quan. Đặc biệt nước ta hiện là một
nền kinh tế đang phát triển nhanh và hội nhập mạnh mẽ với thế giới, việc nắm bắt
thực trạng và phán đoán qui luật vận động của các quan hệ xã hội tương đối khó
khăn, các văn bản pháp luật dần trở nên không phù hợp với tình hình thực tế,
nhanh chóng bị lạc hậu. Đây là nguyên nhân khách quan gây khó khăn trong việc
thực hiện nhiệm vụ thể chế hóa pháp luật.

Nước ta đã trải qua một thời quan dài trong cơ chế tập trung bao cấp, đã tạo ra
tập quán,thói quen thụ động trong mọi lĩnh vực, kể cả lĩnh vựu ban hành văn bản
của UBND, nên việc xóa bỏ nó không thể thực hiện trong một thời gian ngắn. Một
bộ phận cán bộ lãnh đạo cấp tỉnh vẫn còn lối tư duy cũ trong việc soạn thảo ban
hành văn bản quy phạm pháp luật; chưa thấy được tầm quan trọng của công tác
soạn thảo, ban hành văn bản quy phạm pháp luật đối với hoạt động quản lý điều
hành ở địa phương
Luật ban hành VBQPPL của HĐND và UBND 2004 tuy đã cụ thể hóa và có ý
nghĩa quan trọng trong hoạt động ban hành văn bản của UBND nhưng trong quá
trình thực hiện những quy định của luật này, UBND các cấp vẫn gặp nhiều khó
khăn, nhất là trong giai đoạn các quan hệ kinh tế phát triển nhanh, các quy định
ngày một không phù hợp với thực tế. Các quy định về phân cấp, phân quyền của
Trung ương cho địa phương chưa rõ ràng thậm chí còn chồng chéo, mâu thuẫn
giữa thẩm quyền của tập thể Ủy ban nhân dân tỉnh với cá nhân Chủ tịch Ủy ban
nhân dân tỉnh hoặc có chồng chéo về thẩm quyền của Hội đồng nhân dân với Ủy
ban nhân dân
Nguyên nhân về con người cũng đáng chú ý đến. Đội ngũ cán bộ, công chức làm
công tác văn bản ở một số tỉnh, thành phố còn thiếu và yếu về trình độ năng lực.
Nhận thức máy móc về công tác soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp
luật nên thường sao chép lại các quy định của trung ương, dẫn đến có sự chồng
chéo trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của địa phương không được
thường xuyên tập huấn. Các địa phương chưa có chính sách thu hút đội ngũ luật
sư, luật gia và người có trình độ trong việc tham gia vào hoạt động ban hành văn
bản quy phạm pháp luật ở cấp tỉnh. Do đó, việc sai sót tỏng quá trình ban hành,
kiểm tra, xử lý văn bản là khó tránh khỏi.

×