Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Mô hình lưỡng đầu chế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.77 KB, 11 trang )

Bài tập cuối kỳ- Đề số 12 ---------------------------- ------------------------ Nguyễn Phương Thanh
Lời mởi đầu:
Mô hình lưỡng đầu chế xuất hiện rất sớm trong lịch sử nước ta, lần đầu tiên
vào năm 40 sau cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng với người đứng đầu nhà nước là hai
chị em Trưng Trắc và Trưng Nhị. Trải qua thời Hậu Ngô Vương (Ngô Xương Văn-
Ngô Xương Ngập) tới thời Trần Hồ Mạc, rồi thời Trịnh-Nguyễn phân tranh thể chế
nhà nước lưỡng đầu dần được hoàn thiện và phát triển. Trong quá trình phát triển
đó, thể chế lưỡng đầu dần được phát triển với một quy mô tổ chức càng mở rộng và
cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ. Đây là một mô hình nhà nước đặc sắc rất ít gặp
trong lịch sử phong kiến Phương Đông. Trong các nhà nước lưỡng đầu đã từng tồn
tại trong lịch sử nước ta, thể chế lưỡng đầu thời Trần, Hồ, Mạc và thể chế lưỡng
đầu thời Lê-Trịnh ở đàng Ngoài là hai thể chế lưỡng đầu tiêu biểu nhất cho các nhà
nước lưỡng đầu đã từng tồn tại ở nước ta về về cả độ dài của thời gian tồn tại và cả
về độ sâu của các yếu tố cấu thành thể chế đó. Tuy nhiên do được hình thành dựa
trên những nguyên nhân và điều kiện xã hội khác nhau nên về cấu trúc và bản chất
nhà nước có rất nhiều điểm khác biệt.
Ở mỗi góc độ nhìn nhận khác nhau ta lại có một cách định nghĩa khác về thể
chế nhà nước lưỡng đầu; tuy nhiên dưới góc độ lịch sử nhà nước và pháp luật ta có
thể hiểu:
- Thể chế nhà nước (thiết chế nhà nước) là toàn bộ cơ cấu xã hội do pháp
luật quy định.
- Thể chế lưỡng đầu là chế độ chính trị trong đó có hai người cùng nắm
quyền cai trị đất nước.
Với cách hiểu đó ta có thể rút ra được các đặc điểm giống và khác nhau giữa
nhà nước lưỡng đầu thời Trần, Hồ Mạc và nhà nước lưỡng đầu Lê-Trịnh.
1
Bài tập cuối kỳ- Đề số 12 ---------------------------- ------------------------ Nguyễn Phương Thanh
I) Những điểm giống nhau:
1. Nhà nước có hai người đứng đầu, cùng điều hành đất nước:
Dưới thời Trần, Hồ, Mạc thì hai người đứng đầu nhà nước phong kiến là
Thượng hoàng và Hoàng đế (vua). Đây được xem như là hai vị vua cùng điều hành


đất nước trên cơ sở Vua cha nhường ngôi cho con để làm Thượng hoàng nhưng
vẫn nắm một số quyền tối cao như quyền giám sát đối với việc trị nước của vua
con, thái tử lên ngôi vua và cai trị đất nước dưới sự hướng dẫn, chỉ dạy và giám sát
của vua cha.
Thời kỳ Lê-Trịnh, hai người đứng đầu là Vua Lê và Chúa Trịnh. Mặc dù về
danh phận thì Chúa là người giúp việc cho vua nhưng thực tế công việc điều hành
đất nước là do cả vua và chúa cùng phối hợp thực hiện. Thậm chí có những công
việc như tổng chỉ huy quân đội, vua Lê giao phó cho Chúa có toàn quyền quyết
định mà không cần thông qua nhà vua.
2. Thể chế lưỡng đầu là kết quả của quá trình liên kết lực lượng nhằm duy
trì sự ổn định của đất nước:
Dưới thời Trần, Hồ, Mạc, mối liên kết này thể hiện sự đồng lòng nhất trí trong
dòng họ trị vì đất nước nhằm giữ vững ngôi vua và tập hợp lực lượng chống ngoại
xâm. Nhà Trần, Hồ, Mạc đều đặt việc củng cố ngôi vua và sớm ổn định đất nước
lên hàng đầu là do các triều đại này có được ngôi vị bằng con đường phế bỏ triều
đại trước và tự lập làm vua. Việc dòng họ của vua đồng lòng để người kế vị sớm
lên ngôi hoàng đế chính là nhắm đến việc ngăn chặn những ý định tranh giành ngôi
vua và giúp cho vua con học cách điều hành đất nước dưới sự chỉ bảo của vua cha
(người thực chất nắm quyền tối cao). Ngoài ra còn phải kể yếu tố tác động từ mối
đe doạ xâm lược của phong kiến phương Bắc. Sự phối hợp điều hành đất nước giữa
vua và Thượng Hoàng trong hoàn cảnh chiến tranh sẽ giúp công việc thuận lợi hơn
và việc hai vua cầm quân chỉ huy đã góp phần động viên tinh thần quân dân đồng
lòng chống giặc. Việt Nam sử lược đã ghi nhận vấn đề này dưới thời Trần như sau:
“vua tôi hòa hợp, lòng người như một, nhân tài lũ lượt kéo ra” khiến cho “quân nhà
Nguyên thua tan nát là sự tất nhiên vậy”.
Thời Lê-Trịnh, nguyên nhân chủ yếu là sự suy yếu của nhà Lê khiến cho cuộc
chiến giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến diễn ra quyết liệt, đất nước bị
chia cắt. Họ Trịnh nổi lên là một thế lực mạnh và việc liên kết giữa Vua Lê với
Chúa Trịnh đã tập hợp được lòng dân cùng hướng về vua Lê, qua đó dần dẹp yên
được các cuộc tranh đoạt quyền lực, duy trì sự ổn định của đất nước, không để đất

nước rơi vào vòng xoáy tranh giành quyền lực để rồi cuối cùng bị ngoại bang nô
dịch như giai đoạn cuối Trần-đầu Hồ.
B. Những điểm khác biệt:
1) Mối quan hệ giữa hai người đứng đầu Nhà nước.
a) Quan hệ huyết thống;
2
Bài tập cuối kỳ- Đề số 12 ---------------------------- ------------------------ Nguyễn Phương Thanh
Các triều đại Trần, Hồ, Mạc đều là thể chế lưỡng đầu cùng dòng họ, được
hình thành chủ yếu trên cơ sở mối quan hệ huyết thồng thân thuộc; hai người đứng
đầu nhà nước chủ yếu có quan hệ cha-con, một số ít trường hợp là anh–em ( Trần
Nghệ Tông-Trần Duệ Tông) hoặc bác-cháu (Trần Nghệ Tông-Trần Phế Đề).
Hoàng đế (con) là nguyên thủ thực sự, là người mang danh thiên tử, còn thượng
hoàng (cha) là nguyên thủ cố vẫn tối cao, có thực quyền (cả về chính trị lẫn về
huyết thống) đối với hoàng đế.
Chính quyền Lê-Trịnh lại là thể chế lưỡng đầu của hai dòng họ là họ Lê và
họ Trịnh; như vậy giữa hai người đứng đầu nhà nước là vua Lê và chúa Trịnh
không hề có mối quan hệ huyết thống nào. Chính việc không cùng quan hệ huyết
thống nên trong suốt quá trình tồn tại của mình thể chế lưỡng đầu thời Lê Trịnh đã
gặp phải nhiều vấn đề trong mối quan hệ giữa hai người đứng đầu nhà nước.
b) Quan hệ quyền lực:
Như đã nói ở trên các triều đại Trần, Hồ, Mạc đều là thể chế lưỡng đầu cùng
dòng họ vì vậy hầu như không có sự mâu thuẫn về quyền lực; giữa hai người đứng
đầu nhà nước luôn có sự hoà hợp về quyền lực. Vua con hầu hết đều nghe theo
hướng dẫn chỉ bảo của vua cha. Vua cha giúp đỡ vua con trong việc trị nước vì
mục tiêu giữ gìn ngôi vị cho dòng họ nên không có sự mâu thuẫn quyền lực giữa
hai người đứng đầu đất nước. Nếu như vua cha không hài lòng với vua con thì
cũng chỉ như một người cha khiển trách con. Thượng hoàng và hoàng đế tuy có
danh xưng, vai trò, địa vị, quan hệ... khác nhau nhưng cùng là nguyên thủ, cùng
hoà hợp về quyền lực và cùng trị vì quốc gia nên trong sử sách, nhiều khi họ được
gọi chung là hai vua. Ví dụ như trong "Đại việt sử ký toàn thư", Ngô Sỹ Liên cùng

các sứ thần triều Hậu Lê cũng dùng từ hai vua khi viết về Hội nghị Diên Hồng
tháng chạp năm Giáp Than 1284: "Giặc Hồ vào cướp là nạn lớn của đất nước. Hai
vua hiệp mưu, bầy tôi họp bàn..." và về việc duyệt quân chuẩn bị đi đánh Chiêm
Thành tháng mười năm Bính Thìn 1376 ".. đại duyệt quân thuỷ bộ ở bãi cát sông
Bách Hạc, hai vua đích thân làm tướng". Đến đây ta có thể kết luận mối quan hệ về
quyền lực giữa hai người đứng đầu nhà nước ở thể chế lưỡng đầu thời Trần, Hồ,
Mạc là mối quan hệ thống nhất và hoà hợp.
Ngược lại thể chế lưỡng đầu thời Lê-Trịnh lại được xây dựng trên mối quan
hệ giữa hai dòng họ khác nhau; vì vậy giữa hai dòng họ này luôn có những mâu
thuẫn về mặt quyền lợi gia tộc và dẫn đến mối quan hệ về quyền lực trở nên phức
tạp. Trên thực tế chúa Trịnh nắm hầu hết quyền bính trong tay luôn luôn tìm cách
củng cố, tăng cường quyền lực của mình, hạn chế quyền lực của nhà vua đến mức
thấp nhất có thể. Thậm chí khi mâu thuẫn lên đến cao, chúa Trịnh còn dựa vào binh
quyền của mình để phế lập các Thái tử, phế vua cũ lập vua mới.Tuy nhiên với sức
mạnh áp đảo chúa Trịnh vẫn không thể nào hoàn toàn phế bỏ vua Lê bởi lẽ sự tồn
tại của vua Lê chính là tấm bình phong tốt nhất cho sự tồn tại của chúa Trịnh.
Đồng thời vua Lê mặc dù trên danh nghĩa là người đứng đầu đất nước nhưng
không có thực quyền không thể tự mình điều hành đất nước nên phải dựa vào chúa
3
Bài tập cuối kỳ- Đề số 12 ---------------------------- ------------------------ Nguyễn Phương Thanh
Trịnh. Như vậy mối quan hệ về quyền lực giữa vua Lê và chúa Trịng là mối quan
hệ rất phức tạp vừa có sự mâu thuẫn đối kháng vừa có sự thống nhất kết hợp hài
hoà. Dân gian có câu ca về mối quan hệ đặc biệt Vua Lê-Chúa Trịnh này như sau:
Lê tồn Trịnh tại
Lê bại Trịnh vong.
2) Nguyên nhân hình thành thể chế lưỡng đầu:
a)Triều đại Trần, Hồ, Mạc
Việc hình thành thể chế lưỡng đầu ở thời Trần, Hồ, Mạc là một kỹ thuật cai
trị khôn khéo, cẩn thận của các vua Trần, vì thái tử cần có một thời gian làm quen,
tập dượt việc triều chính; trong lúc đó thượng hoàng vẫn giữ vai trò lãnh đạo tối

cao, quyết định mọi chuyện trọng đại. Cách tập dượt này toàn diện hơn so với ở
các triều Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý trước đó (chỉ cho thái tử thay vua cha làm quen
với một số công việc như cầm quân đi diệt giặc, tổ chức đón tiếp sứ thần nước
ngoài, giải quyết án kiện...). Mặt khác, truyền ngôi khi vua cha còn sống đảm bảo
sự ổn định, suôn sẻ của việc nối ngôi, tránh những rắc rối từng thường xuyên gặp
như chuyện các hoàng tử tranh giành ngôi (đẫm máu nhất là những cuộc tranh
giành ngôi của các con vua Lê Đại Hành năm 1005, của các con vua Lý Thái Tổ
năm 1028 - sau khi cha họ đột ngột băng hà) hoặc ngôi vua bị chiếm bởi người
ngoại tộc (ngôi vua Ngô bị Dương Tam Kha chiếm năm 944 sau khi Ngô Quyền
băng hà, ngôi vua Đinh mất vào tay Lê Hoàn năm 980 sau khi Đinh Tiên Hoàng
băng hà...). Chế độ thượng hoàng - hoàng đế vừa giống các chế độ phụ chính,
nhiếp chính vốn khá phổ biến trong lịch sử (nếu vua còn nhỏ hoặc năng lực kém thì
có một vài quan đại thần làm cố vấn, giúp vua trị vì), lại vừa khác hẳn ở chỗ quan
hệ huyết thống chặt chẽ (cha-con) và vị cố vấn vấn có quyền quyết định tối cao
(đối với cả vua lẫn quốc gia), trực tiếp tham gia điều hành bộ máy Nhà nước, đảm
bảo sự kế thừa liên tục và vững chắc, ngăn chặn những hiện tượng suy thoái hoặc
biến loạn gây bất ổn định chính trị.
Mô hình thượng hoàng - hoàng đế của nhà Trần còn lặp lại ở các triều đại
sau đó. Đoạt được ngôi nhà Trần (năm 1400), Hồ Quý Ly làm vua 1 năm rồi
nhường ngôi cho con (Hồ Hán Thương), lên làm thượng hoàng đến tận lúc nhà Hồ
bị diệt (năm 1407). Mạc Đăng Dung chiếm ngôi nhà Hậu Lê năm 1527, làm vua 3
năm rồi nhường ngôi cho Mạc Đăng Doanh, lên làm thượng hoàng, cùng con trị vì
đất nước (1530-1541).
Như vậy tựu chung lại nguyên nhân để hình thành thể chế lưỡng đầu thời
Trần, Hồ, Mạc chính là để củng cố địa vị của nhà vua sau này, dạy cho vị vua mới
biết cách trị vì đất nước, ổn định tình hình đất nước tránh việc tranh giành quyền
lực. Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", các vua Trần khi "Thực ra, truyền ngôi chỉ để
yên việc sau, phòng lúc vội vàng, chứ mọi chuyện đều do thượng hoàng quyết định"
4
Bài tập cuối kỳ- Đề số 12 ---------------------------- ------------------------ Nguyễn Phương Thanh

b)Triều đại Lê-Trịnh:
Nguyên nhân thiết lập và duy trì mô hình nhà nước lưỡng đầu thời Lê-Trịnh
khá tế nhị. Thực ra, chúa Trịnh cũng đã có nhiều lần có ý định cướp ngôi vua
nhưng không dám thực hiện. Năm 1556, vua Lê Trung Tôn băng hà mà không có
con nối dõi, Trịnh Kiểm mật bàn với những người thân tín việc tự xưng làm vua.
Trong lúc lưỡng lữ, Trịnh Kiểm đã sau thuộc hạ tới hỏi ý kiến Nguyễn Bỉnh
Khiêm-một người rất am hiểu thời cuộc và có những nhận định, tiên đoán sáng
suốt. Tương truyền, Nguyễn Bỉnh Khiêm gián tiếp trả lời bằng cách bảo người
nhà :"Năm nay mất mùa, thóc giống không tốt, chúng mày nên tìm giống cũ mà gieo
mạ!" và răn chú tiểu dọn chùa :"Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản!". Ý Nguyễn Bỉnh
Khiêm muốn khuyên Trịnh Kiểm nên tìm con cháu nhà Lê dựng lên làm vua để có
danh nghĩa thu phục lòng người...
Các chúa Trịnh kế tiếp cũng không dám phế bỏ nhà Lê, bởi theo kinh
nghiệm lịch sử và trong hoàn cảnh thực tế đương thời, hành động đoạt ngôi vua sẽ
không có lợi cho vai trò thống trị của họ Trịnh. Họ Trịnh vốn chưa có cơ sở xã hội
vững chắc, không được toàn dân ủng hộ, lại đang phải đối đầu với kẻ thù hùng
mạnh ở cả phía Băc (nhà Mạc) lẫn phía Nam (họ Nguyễn ). Trong điều kiện ấy, họ
Trịnh phải chấp nhận duy trì ngôi vua Lê, mang danh nghĩa nhà Lê - một vương
triều thiết lập trên nền tảng chiến thắng oanh liệt chống ngoại xâm và ít nhiều còn
uy tín đối với nhân dân - để trấn áp các lực lượng đối lập, chiêu dụ dân chúng, (thể
hiện rất rõ với việc chúa Trịnh thường cho vua Lê cùng đi vận động thần dân hoặc
đi đánh chúa Nguyễn ở phía Nam). Nắm giữ thực quyền cao nhất nhưng lại không
lên làm vua là giải pháp chính trị tối ưu cho chúa Trịnh. Điều này lý giải tại sao mô
hình lưỡng đầu chế "vua Lê chúa Trịnh" kỳ dị bậc nhất trong lịch sử lại tồn tại dai
dẳng tới 250 năm - đến tận lúc họ Trịnh bị quân Tây Sơn diệt (tháng 7-1786).
Như vậy có ba nguyên nhân dẫn đến sự hình thành thể chế nhà nước lưỡng
đầu Lê-Trịnh ở Đàng ngoài:
- Thứ nhất, tư tưởng Chính danh của Nho giáo đã trở thành tư tưởng
chính trị chính thống, đã ăn sâu vào ý thức của các sỹ phu phong kiến và thần dân
trong đất nước. Lúc đó chỉ có triều Lê mới được coi là triều đại chính thống nên

chúa Trịnh không dám lật đổ triều Lê.
- Thứ hai, vì lấy danh nghĩa trung hưng nhà Lê, diệt nhà Mạc vốn bị
coi là cướp ngôi, nên sau khi lật đổ nhà Mạc, chúa Trịnh không thể không tiếp tục
duy trì vua Lê.
- Thứ ba, do sự tương quan lực lượng giữa các phe phái phong kiến:
giữa tập đoàn họ Trịnh và tập đoàn nhà Lê, giữa Đàng Ngoài và Đàng Trong.
Không có phe phái nào có đủ sức mạnh để loại bỏ hẳn các phe phái khác. Nhà Lê
đã suy yếu, mục nát và muốn tồn tại được phải dựa vào thế lực của họ Trịnh. Họ
Trịnh là tập đoàn phong kiến mới trội lên nhưng phải dựa vào danh nghĩa vua Lê
thì mới cai trị được thiên hạ và tập hợp lực lượng chống lại chúa Nguyễn ở Đàng
Trong.
5

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×