1
I HC THI NGUYấN
TRNG I HC NễNG LM
NGễ TH THOA
Tờn ti:
Đánh giá vai trò của công tác khuyến nông trong quá trình
phát triển mô hình nuôi cá lồng trên địa bàn xã Chiềng Bằng
huyện Quỳnh Nhai, tỉnh Sơn La giai đoạn 2011- 2013
KhóA LUậN tốt nghiệp ĐạI HọC
H o to : Chớnh quy
Chuyờn ngnh : Khuyn nụng
Lp : K42 - Khuyn Nụng
Khoa : KT - PTNT
Khoỏ hc : 2010 - 2014
Ging viờn hng dn : ThS. Bựi Th Minh H
Thỏi Nguyờn, nm 2014
2
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình thực tập tốt nghiệp, tôi đã nhận được sự giúp đỡ
tận tình của các Cơ quan, Đơn vị, Nhà trường, các thầy, cô giáo cùng bạn bè
và người thân. Đến nay, tôi đã hoàn thành đề tài tốt nghiệp của mình.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban giám hiệu, Ban
chủ nhiệm khoa Kinh tế & PTNT Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên và
đặc biệt là Cô giáo ThS. Bùi Thị Minh Hà người đã trực tiếp, tận tình hướng
dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các bác, các cô, các chú, các
anh và các chị đang công tác tại UBND xã Chiềng Bằng đã tận tình giúp đỡ
tôi trong việc hướng dẫn, cung cấp các thông tin, tài liệu và tạo điều kiện cho
tôi thực hiện đề tài của mình trong thời gian qua.
Trong quá trình thực tập, bản thân tôi đã cố gắng hết sức nhưng do trình
độ và thời gian có hạn nên đề tài tốt nghiệp của tôi không tránh khỏi những sai
sót. Tôi rất mong nhận được những ý kiến đóng góp chỉ bảo của các thầy, cô
giáo, của bạn bè và người thân để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, ngày tháng năm 2014
Sinh viên
Ngô Thị Thoa
3
DANH MUC CÁC BẢNG
Bảng 4.1. Tình hình sử dụng đất đai của xã Chiềng Bằng qua 3 năm (2011 -
2013) 25
Bảng 4.2. Tình hình dân số và lao động xã Chiềng Bằng qua 3 năm (2011 -
2013) 28
Bảng 4.3. Diện tích, năng suất và sản lượng các loại cây trồng năm 2013 31
Bảng 4.4. Số lượng, năng suất và sản lượng cá lồng của xã Chiềng Bằng qua
3 năm (2011 - 2013) 34
Bảng 4.5. Cơ cấu loài cá nuôi tại xã Chiềng Bằng năm 2013 35
Bảng 4.6. Kết quả thông tin tuyên truyền khuyến nông về mô hình sản xuất cá
lồng qua 3 năm (2011 - 2013) 38
Bảng 4.7. Mức độ theo dõi của hộ nuôi về công tác thông tin, tuyên truyền tại
xã Chiềng Bằng 39
Bảng 4.8. Kết quả đào tạo, tập huấn về mô hình cá lồng qua 3 năm (2011 -
2013) 40
Bảng 4.9. Đánh giá công tác đào tạo tập huấn trên địa bàn xã Chiềng Bằng 41
Bảng 4.10. Kết quả xây dựng mô hình trình diễn cá lồng tại xã qua 3 năm
(2011 - 2013) 43
Bảng 4.11. Đánh giá của nông dân về hiệu quả mô hình trình diễn về cá lồng 44
Bảng 4.12. Đánh giá của người dân về công tác đi tham quan trên địa bàn xã
Chiềng Bằng 46
Bảng 4.13. Số lượng lồng chia theo loại qua ba năm (2011 - 2013) 47
Bảng 4.14. Quy mô lồng nuôi tại xã Chiềng Bằng qua ba năm (2011 - 2013) 48
Bảng 4.15. Yếu tố giúp hộ nuôi nâng cao thu nhập và mức sống của hộ so với
thời kỳ trước khi sản xuất cá lồng 49
Bảng 4.16. Cơ cấu thành viên HTX thủy sản Chiềng Bằng 51
Bảng 4.17. Đánh giá mức độ cung cấp thông tin giá cả của CTKN và kênh
tiêu thụ sản phẩm cá lồng trên địa bàn xã 52
4
DANH MỤC VIẾT TẮT
Bộ NN & PTNT
: Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
BQ : Bình quân
CBKN : Cán bộ khuyến nông
CC : Cơ cấu
CNH - HĐH : Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa
DT : Diện tích
DTTN : Diện tích tự nhiên
ĐVT : Đơn vị tính
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
HTX : Hợp tác xã
KHKT : Khoa học kỹ thuật
KNQG : Khuyến nông Quốc gia
KT - XH : Kinh tế - Xã hội
ND - CP : Nghị định - Chính phủ
NTM : Nông thôn mới
PTNT : Phát triển Nông thôn
PRA : Phương pháp đánh giá nhanh nông thôn có
sự tham gia của người dân
SL : Số lượng
TBKT : Tiến bộ kỹ thuật
TĐC : Tái định cư
TW : Trung ương
UBND : Ủy Ban Nhân Dân
5
MỤC LỤC
PHẦN 1: MỞ ĐẦU 1
1.1. Tính cấp thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu của đề tài 2
1.3. Ý nghĩa của đề tài 2
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học 2
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn 2
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 3
2.1. Cơ sở lý luận 3
2.1.1. Khái niệm về khuyến nông 3
2.1.2. Vai trò, nội dung của công tác khuyến nông 5
2.1.3. Khái niệm về mô hình cá lồng 9
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài 10
2.2.1. Sự hình thành và phát triển của khuyến nông Việt Nam 10
2.2.2. Kết quả hoạt động công tác khuyến nông trong phát triển ngành thủy sản 12
2.3. Vài nét về nghề nuôi cá lồng 15
2.3.1. Sự ra đời và phát triển của nghề nuôi cá lồng 15
PHẦN 3: ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU 20
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 20
3.1.1. Đối tượng nghiên cứu 20
3.1.2. Phạm vi nghiên cứu 20
3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu 20
3.2.1. Địa điểm nghiên cứu 20
3.2.2. Thời gian nghiên cứu 20
3.3. Nội dung nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu 20
3.3.1. Nội dung nghiên cứu 20
3.3.2. Phương pháp nghiên cứu 20
PHẦN 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 22
4.1. Đặc điểm địa bàn nghiên cứu 22
4.1.1. Điều kiện tự nhiên 22
6
4.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội 27
4.1.3. Tình hình phát triển kinh tế 30
4.2. Tình hình sản xuất mô hình cá lồng trên địa bàn xã Chiềng Bằng 33
4.2.1. Năng suất, sản lượng và số lượng lồng nuôi 33
4.2.2. Loài cá nuôi 35
4.3. Vai trò của công tác Khuyến Nông trong quá trình phát triển mô hình
cá lồng tại xã Chiềng Bằng 37
4.3.1. Thông tin, tuyên truyền 37
4.3.2. Đào tạo, tập huấn kỹ thuật 40
4.3.3. Xây dựng mô hình trình diễn 43
4.3.4. Công tác đi tham quan 45
4.4. Tác động của công tác khuyến nông trong phát triển sản xuất cá lồng tại
xã Chiềng Bằng 47
4.4.1. Tác động của khuyến nông tới phát triển quy mô sản xuất cá lồng 47
4.4.2. Tác động của khuyến nông đến sự phát triển kinh tế hộ 49
4.4.3. Tác động của khuyến nông tới hình thức tổ chức sản xuất 50
4.4.4. Tác động của khuyến nông tới tiêu thụ sản phẩm 52
4.5. Đánh giá tình hình công tác khuyến nông trong quá trình phát triển mô
hình cá lồng tại xã Chiềng Bằng 54
4.5.1. Đánh giá kết quả đạt được 54
4.5.2. Những tồn tại 54
4.5.3. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tại 55
4.6. Định hướng và giải pháp công tác khuyến nông trong việc thúc đẩy
phát triển sản xuất mô hình cá lồng tại xã Chiềng Bằng 55
4.6.1. Định hướng 55
4.6.2. Giải pháp 56
PHẦN 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 60
5.1. Kết luận 60
5.2. Kiến nghị 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO 62
1
PHẦN 1
MỞ ĐẦU
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Chiềng Bằng là xã thuộc điểm tái định cư thủy điện Sơn La. Sau khi hồ
thủy điện Sơn La tích nước, gần một nửa diện tích đất trồng trọt, chăn nuôi
của người dân xã Chiềng Bằng ngập dưới lòng hồ. Trước khó khăn đó, xã đã
tập trung chỉ đạo người dân thuộc 16 bản phải chuyển đổi cơ cấu sản xuất từ
sản xuất nông nghiệp thuần nông sang phát triển nuôi trồng, khai thác tiềm
năng mặt hồ đặc biệt là phát triển nuôi cá lồng, cá bè. Với mục tiêu ứng dụng
tiến bộ KHKT, quy mô sản xuất, chăn nuôi chuyên canh, vào sản xuất mô
hình nuôi cá lồng, từng bước xây dựng hệ thống cơ sở sơ chế, bảo quản tại
chỗ kết hợp khai thác, đánh bắt thủy sản trên lòng hồ thủy điện Sơn La tại xã
Chiềng Bằng, sau đó tiếp tục nhân rộng ra toàn vùng lòng hồ, nhằm chuyển
đổi sản xuất sau khi đồng bào dân tộc tái định cư tại cơ sở mới, tạo việc làm
cho đồng bào dân tộc trên chính lòng hồ của mình, ổn định đời sống, cung cấp
thực phẩm cho thị trấn huyện Quỳnh Nhai và các vùng lân cận. Chính vì thế
mô hình nuôi cá lồng có ý nghĩa rất lớn trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất,
góp phần xóa đói giảm nghèo và đảm bảo an ninh chính trị trật tự xã hội. Do
vậy, nó đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển nông nghiệp nông
thôn của xã.
Trong những năm gần đây người dân trong xã đã thấy được những ưu
điểm của mô hình, vì vậy mà cơ cấu và diện tích mô hình của xã tăng lên
nhanh chóng từ quy mô 20 lồng năm 2010 lên 49 lồng năm 2013. Có kết quả
như vậy phải kể đến hệ thống khuyến nông xã kết hợp với trạm khuyến nông
huyện đã có những hoạt động cụ thể giúp đồng bào TĐC phát triển sản xuất,
mở các lớp tập huấn chuyển giao KHKT và dạy nghề cho hội nông dân vùng
ven hồ phát triển nghề thủy sản.
Tuy nhiên, diện tích nuôi thuỷ sản trong xã đến nay vẫn còn ít so với
tiềm năng của địa phương, mới phần nào giải quyết được những vấn đề khó
khăn của đồng bào TĐC trong xã. Vậy công tác khuyến nông trong phát triển
sản xuất mô hình của xã như thế nào? Vị trí, vai trò của nó? Đây là vấn đề cấp
2
thiết đặt ra cần phải được nghiên cứu, đánh giá một cách đúng đắn. Cần phải
xem xét cái gì đã đạt được, cái gì chưa đạt được, cái gì mạnh, cái gì yếu từ đó
có những giải pháp để phát huy các thế mạnh và hạn chế những mặt yếu, thúc
đẩy nghề nuôi cá lồng tại xã Chiềng Bằng phát triển nhanh và bền vững. Vì
vậy, tôi lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Đánh giá vai trò của công tác khuyến
nông trong quá trình phát triển mô hình nuôi cá lồng trên địa bàn xã
Chiềng Bằng huyện Quỳnh Nhai - tỉnh Sơn La giai đoạn 2011- 2013".
1.2. Mục tiêu của đề tài
Trên cơ sở đánh giá vai trò của công tác khuyến nông trong quá trình
phát triển mô hình nuôi cá lồng trên địa bàn xã Chiềng Bằng. Từ đó đề ra giải
pháp khuyến nông nhằm phát triển sản xuất mô hình cá lồng, góp phần vào
việc thực hiện các mục tiêu phát triển nông nghiệp, nông thôn của xã.
1.3. Ý nghĩa của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa trong học tập và nghiên cứu khoa học
- Giúp sinh viên củng cố lại kiến thức lý thuyết đã được học trên lớp.
- Giúp sinh viên có phương pháp làm việc và nghiên cứu khoa học, tiếp
thu thực tế để thấy rõ được những việc mà một cán bộ khuyến nông phải làm.
- Bổ sung thêm kiến thức về các hoạt động khuyến nông cho sinh viên.
- Bổ sung thêm tài liệu cho khoa, trường, cán bộ khuyến nông và các cơ
quan trong ngành.
1.3.2. Ý nghĩa trong thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của đề tài làm cơ sở cho cán bộ khuyến nông, cơ
quan trong ngành có thêm căn cứ để lựa chọn phương hướng hoạt động phù
hợp nhất nhằm nâng cao vai trò và hiệu quả hoạt động của công tác khuyến
nông góp phần thúc đẩy phát triển mô hình cá lồng tại xã.
3
PHẦN 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý luận
2.1.1. Khái niệm về khuyến nông
2.1.1.1. Nguồn gốc của thuật ngữ khuyến nông
Thuật ngữ “Extension” có nguồn gốc ở Anh. Năm 1866 ở một số
trường Đại học như Cambridge và Oxford đã sử dụng thuật ngữ “Extension” -
có nghĩa là “Mở rộng - triển khai”, nhằm mục tiêu mở rộng giáo dục đến với
người dân, do vậy “Extension” được hiểu với nghĩa là triển khai, mở rộng,
phổ biến, phổ cập, làm lan truyền. Nếu ghép với từ “Agriculture” thành
“Agriculture Extension” có nghĩa là “mở rộng nông nghiệp - triển khai nông
nghiệp” và dịch là “khuyến nông” hiện nay đôi khi chỉ nói “Extension” người
ta cũng hiểu là khuyến nông.
2.1.1.2. Khái niệm khuyến nông
Khuyến nông là một hệ thống các biện pháp giáo dục nông dân nhằm
đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nông dân, xây dựng và phát triển nông thôn mới. Khuyến nông được
tổ chức bằng nhiều cách khác nhau và phục vụ nhiều mục đích có qui mô
khác nhau. Vì vậy khuyến nông là một thuật ngữ khó định nghĩa được một
cách chính xác, nó thay đổi tùy theo lợi ích nó mang lại. Tùy vào từng nhà
khoa học và từng thời điểm nó có khái niệm khác nhau:
Theo nghĩa cấu tạo của từ ngữ Hán - Việt thì: “Khuyến nông là những
hoạt động nhằm khuyến khích, giúp đỡ và tạo điều kiện để phát triển sản xuất
nông nghiệp trên tất cả các lĩnh vực: Trồng trọt, chăn nuôi, lâm sinh, thuỷ sản
ở nông thôn” [2].
Ở Việt Nam, khuyến nông được hiểu là một hệ thống các biện pháp
giáo dục không chính thức cho nông dân nhằm đẩy mạnh phát triển sản xuất
nông nghiệp, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, xây dựng
và phát triển Nông thôn mới.
Theo tổ chức lương thực và nông nghiệp của liên hợp quốc đã đúc kết
và trên cơ sở hoạt động khuyến nông của Việt Nam ta có thể định nghĩa
4
khuyến nông như sau: “Khuyến nông là cách đào tạo và rèn luyện tay nghề
cho nông dân, đồng thời giúp họ hiểu được những chủ trương, chính sách về
nông nghiệp, những kiến thức về kỹ thuật, kinh nghiệm về quản lý kinh tế,
những thông tin về thị trường để họ có đủ khả năng để giải quyết được các
vấn đề của gia đình và cộng đồng nhằm đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời
sống, nâng cao dân trí, góp phần xây dựng và phát triển nông thôn mới”.
Còn theo định nghĩa của Trung tâm Khuyến nông Khuyến lâm Quốc gia
thì: “Khuyến nông là một quá trình, một dịch vụ thông tin nhằm truyền bá những
chủ trương, chính sách về nông nghiệp, những kiến thức về kỹ thuật, kinh
nghiệm tổ chức và quản lý sản xuất, những thông tin về thị trường giá cả, rèn
luyện tay nghề cho nông dân, để họ có đủ khả năng tự giải quyết vấn đề của sản
xuất, đời sống, của bản thân họ và cộng đồng, nhằm phát triển sản xuất, nâng cao
dân trí, cải thiện đời sống và phát triển Nông nghiệp Nông thôn”[2].
Tóm lại, chúng ta có thể hiểu Khuyến nông theo hai nghĩa:
Theo nghĩa hẹp: Khuyến nông là một tiến trình giáo dục không chính
thức mà đối tượng của nó là người nông dân. Tiến trình này đem đến cho
người nông dân những thông tin và những lời khuyên nhằm giúp họ giải
quyết những vấn đề hoặc những khó khăn trong cuộc sống. Khuyến nông hỗ
trợ phát triển các hoạt động sản xuất, nâng cao hiệu quả canh tác để không
ngừng cải thiện chất lượng cuộc sống của nông dân và gia đình họ.
Theo nghĩa rộng: Khuyến nông là khái niệm chung để chỉ tất cả những
hoạt động hỗ trợ sự nghiệp xây dựng và phát triển nông thôn.
Như vậy khuyến nông là cách giáo dục không chính thức ngoài học
đường cho nông dân, là cách đào tạo người lớn tuổi. Khuyến nông là quá trình
vận động quảng bá, khuyến cáo cho nông dân theo các nguyên tắc tự nguyện,
chứ không áp đặt. Đây là một quá trình tiếp thu dần dần và tự giác của nông
dân. Nói cách khác, khuyến nông là những tác động vào quá trình sản xuất
kinh doanh của người nông dân, giúp họ sản xuất đạt hiệu quả cao nhất. Tiến
trình sản xuất bao gồm các yếu tố kiến thức và kỹ năng, những khuyến cáo kỹ
thuật, tổ chức của nông dân, động cơ và lòng tin. Vì vậy, cán bộ khuyến nông
cần đến với họ, giúp đỡ họ và khuyến khích họ tham gia các chương trình
khuyến nông. Nhưng điều quan trọng hơn cả là cần phải thuyết phục và động
5
viên để họ tin tưởng rằng họ hoàn toàn có thể tự giải quyết và hành động để cải
thiện cuộc sống của chính mình. Nội dung của hoạt động khuyến nông phải
khoa học, kịp thời và thích ứng với điều kiện sản xuất của người nông dân.
2.1.1.3. Mục tiêu khuyến nông
Mục tiêu của khuyến nông là làm thay đổi cách đánh giá, cách nhận
thức của nông dân trước những khó khăn trong cuộc sống. Khuyến nông
không chỉ nhằm mục tiêu phát triển kinh tế mà còn hướng tới sự phát triển
toàn diện của bản thân người nông dân và nâng cao chất lượng cuộc sống ở
nông thôn. Muốn đạt được những mục tiêu đó, khuyến nông phải thảo luận
với nông dân, giúp họ có cách nhìn thực tế và lạc quan hơn đối với mọi vấn
đề trong cuộc sống để họ tự giải quyết, tự tìm những biện pháp để vượt qua
những khó khăn, trở ngại.
Ngày 08/01/2010, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 02/2010/NĐ -
CP về khuyến nông, và có 03 mục tiêu như sau [6]:
- Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của người sản xuất để tăng thu
nhập, thoát đói nghèo, làm giàu thông qua các hoạt động đào tạo nông dân về kiến
thức, kỹ năng và các hoạt động cung ứng dịch vụ để hỗ trợ nông dân sản xuất kinh
doanh đạt hiệu quả cao, thích ứng các điều kiện sinh thái, khí hậu và thị trường.
- Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng phát triển
sản xuất hàng hóa, nâng cao năng suất, chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm
đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu; thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, xây dựng Nông thôn mới, bảo đảm an ninh
lương thực Quốc gia, ổn định Kinh tế - Xã hội, bảo vệ môi trường.
- Huy động nguồn lực từ các tổ chức, cá nhân trong nước và nước
ngoài tham gia khuyến nông.
2.1.2. Vai trò, nội dung của công tác khuyến nông
2.1.2.1. Vai trò của công tác khuyến nông
Khuyến nông có vai trò là cầu nối
Cầu nối nông dân với nhà nước: Đất nước ta có 70% dân số hoạt động
trong lĩnh vực nông nghiệp, trình độ dân trí chưa cao, nên mọi người dân không
thể hiểu được mọi đường lối chủ trương chính sách của Đảng, chỉnh phủ về nông
6
nghiệp. Khuyến nông có vai trò giúp nông dân nâng cao nhận thức trong quá
trình sản xuất sao cho sản xuất có hiệu quả và phù hợp với đường nối lãnh đạo
của Nhà nước. Ngược lại, thông qua cầu nối khuyến nông Đảng và Chính phủ
hiểu được tâm tư nguyện vọng của nông dân, những nhu cầu bức xúc của nông
dân trong sản xuất, cuộc sống và phát triển nông thôn.
Cầu nối nông dân với nghiên cứu: Khuyến nông giúp nông dân lựa
chọn áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới phù hợp với địa phương
mình, gia đình mình. Ngược lại qua quá trình nông dân áp dụng những sáng
tạo kỹ thuật mới mà các nhà khoa học, cơ quan nghiên cứu khoa học biết nên
nghiên cứu những gì cho phù hợp với sản xuất.
Cầu nối nông dân với môi trường: Nông nghiệp một nước đang phát
triển và phát triển phải quan tâm đến vấn đề môi trường, sản xuất nông nghiệp
theo mục tiêu sản xuất hàng hóa lại càng phải lưu ý đến môi trường để sản
xuất ra những sản phẩm nông nghiệp an toàn cho đời sống và môi trường
sống của mọi người dân trong cộng đồng và xã hội.
Cầu nối nông dân với thị trường.
Cầu nối nông dân với nông dân sản xuất giỏi.
Cầu nối nông dân với các doanh nghiệp: Các doanh nghiệp có tầm quan
trọng giải quyết đầu vào và đầu ra cho sản xuất nông nghiệp. Khuyến nông đã
góp phần tăng cường mối liên kết giữa nông dân với các doanh nghiệp.
Cầu nối nông dân với các tổ chức chính quyền, đoàn thể và các ngành
hữu quan: Khuyến nông không hiệu quả nếu hoạt động đơn độc. Hoạt động
khuyến nông mang tính cộng đồng. Thực hiện một nội dung nào đó cần có sự
giúp đỡ phối hợp chặt chẽ của mọi cấp, mọi ngành, mọi đoàn thể.
Cầu nối nông dân với quốc tế: Để có được sự giúp đỡ của các tổ chức
quốc tế, tiếp cận thị trường thế giới cần có vai trò của khuyến nông. Khuyến
nông giúp nông dân nhận biết trong cơ chế kinh tế hội nhập hiện nay nên sản
xuất cái gì, sản xuất như thế nào và thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Mối liên kết bốn nhà: Một trong những cầu nối khuyết nông quan tâm
đến hiện nay là mối liên kết bốn nhà trong công tác khuyến nông là khá quan
trọng có tác dụng nâng cao kết quả sản xuất nông nghiệp.
7
- Nhà nước trong mối liên kết này thể hiện xác định định hướng và kế
hoạch thực hiện cho các hoạt động của các doanh nghiệp cũng như nghiên
cứu của cơ quan khoa học, các nhà khoa học, Nhà nước xây dựng pháp chế,
các tiêu chuẩn kỹ thuật ngành.
- Các nhà khoa học cần nghiên cứu những gì đáp ứng cho nhu cầu sản
xuất nông nghiệp của nông dân thì nghiên cứu đó mới có ý nghĩa. Họ cần liên
kết với các doanh nghiệp để thu hút nguồn vốn phục vụ nghiên cứu thúc đẩy
nhanh đưa TBKT học vào sản xuất. Các nhà khoa học cũng là lực lượng quan
trọng tham gia trực tiếp triển khai đưa các TBKT vào sản xuất.
- Nhà doanh nghiệp thường phải phối hợp chặt chẽ với các nhà khoa
học và khuyến nông công tác nghiên cứu cũng như chuyển giao kết quả
TBKT vào sản xuất. Nhà doanh nghiệp còn có vai trò giải quyết đầu vào và
đầu ra cho sản xuất nông nghiệp của nông dân. Họ giải quyết vốn, vật tư đầu
vào và tiêu thụ sản phẩm đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp.
- Mọi tác động của Nhà nước, nhà khoa học cũng như nhà doanh
nghiệp ở mối liên kết này đều tác động đến nông dân mới thể hiện hiệu quả.
Khuyến nông có vai trò kết nối trong mối liên kết này. Nông dân là yếu tố bên
trong quyết định nhưng khuyến nông là tác nhân bên ngoài rất quan trọng.
Khuyến nông có vai trò trong chuyển đổi nền kinh tế của đất nước
Thứ nhất: Giai đoạn sản xuất nông nghiệp HTX, nông trường quốc
doanh, nông dân làm ăn tập thể, sản xuất theo kế hoạch hóa nhà nước. Mỗi
HTX cũng như nông trường quốc doanh đều có tổ KHKT để thực thi những
nhiệm vụ chỉ đạo của ban quản trị HTX, mọi TBKT, tiến bộ trong tổ chức quản
lý sản xuất từ cấp trên quán triệt đến HTX, nông trường quốc doanh được xem
như hoàn thành. Khi chuyển sang kinh tế hộ gia đình “khoán 10”, người nông
dân tự do kinh doanh trên mảnh đất, chuồng trại, của mình nên khuyến nông
cần đến từng hộ gia đình và thậm chí phải đến từng người lao động.
Thứ hai: Chúng ta chuyển từ nền nông nghiệp tự cung tự cấp, từ sản
xuất nông nghiệp theo kế hoạch hóa Nhà nước sang sản xuất nông nghiệp
hàng hóa đã gặp rất nhiều khó khăn rất cần vai trò cầu nối của khuyến nông.
8
Khuyến nông đã huy động được lực lượng cán bộ kỹ thuật từ Trung
ương đến địa phương
Khuyến nông đã huy động được lực lượng cán bộ kỹ thuật từ Trung
ương đến địa phương. Cơ cấu tổ chức hệ thống khuyến nông Quốc gia có số
lượng cán bộ khuyến nông của nhà nước còn rất hạn chế.
Khuyến nông góp phần xóa đói giảm nghèo
Mục tiêu cơ bản của khuyến nông là làm thế nào để nông nghiệp phát
triển, nông thôn phát triển nhằm nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa xã hội
nông thôn, chúng ta đã phân biệt sự khác nhau rất cơ bản khuyến nông với
khuyến mại nông nghiệp. Dự án lớn 135 coi trọng vấn đề dân số, sinh đẻ có
kế hoạch, nước sạch nông thôn,… nhằm xóa đói giảm nghèo. Nhiều chương
trình dự án về an ninh lương thực ở các nơi, đặc biệt vùng sâu vùng xa được
khuyến nông coi trọng.
Khuyến nông đã liên kết nông dân, tăng cường sự hợp tác, hỗ trợ
nhau sản xuất
Khi chuyển sang kinh tế hộ gia đình ở nông thôn có sự phân hóa. Có
những hộ gia đình sản xuất rất thành đạt do họ có trình độ nhận thức cao, có
vốn, có lao động, có những hộ gia đình làm ăn yếu kém, gặp rủi ro dẫn đến
cuộc sống khó khăn. Nhà nước ta không thể không lưu tâm đến tính tiêu cực:
“Đèn nhà ai nhà đó rạng” của sản xuất kinh tế hộ. Khuyến nông đã làm tốt vai
trò cầu nối giữa người nông dân sản xuất giỏi với mọi người nông dân, nhất là
nông dân sản xuất yếu kém trong cộng đồng. Ví dụ khuyến nông coi trọng tổ
chức các hội nghị, hội thảo, tham quan học tập các điển hình, tổ chức các câu
lạc bộ khuyến nông. Những việc làm đó đã liên kiết nông dân, tăng cường sự
hợp tác, hỗ trợ nhau sản xuất.
2.1.2.2. Nội dung hoạt động của công tác khuyến nông
Nghị định số 13 - CP ngày 2/3/1993 của Chính phủ về nội dung của
công tác khuyến nông là [4]:
- Phổ biến những tiến bộ kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, công nghệ
chế biến, bảo quản nông, lâm, thuỷ sản và những kinh nghiệm điển hình
sản xuất giỏi.
9
- Bồi dưỡng và phát triển kỹ năng, kiến thức quản lý kinh tế cho nông
dân để sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
- Phối hợp với các cơ quan chức năng cung cấp cho nông dân thông tin
về thị trường, giá cả nông sản để nông dân bố trí sản xuất kinh doanh đạt hiệu
quả kinh tế cao.
Theo Nghị định 02/2010/NĐ - CP của Chính phủ ra ngày 08/01/2010
về công tác khuyến nông thay cho Nghị định 56/2005/NĐ nêu rõ: Nội dung
hoạt động khuyến nông, khuyến ngư bao gồm [6]:
(1) Bồi dưỡng, tập huấn và đào tạo.
(2) Thông tin, tuyên truyền.
(3) Trình diễn và nhân rộng mô hình.
(4) Tư vấn và dịch vụ khuyến nông.
(5) Hợp tác quốc tế về khuyến nông.
2.1.3. Khái niệm về mô hình cá lồng
2.1.3.1. Khái niệm
Nuôi lồng là hình thức nuôi các loài thủy sản trong các lồng làm bằng
lưới có kích cỡ rất khác nhau từ dưới 10 m
3
/lồng đến hơn 1.000 m
3
/lồng
(trường hợp là nuôi lồng biển). Tuy nhiên, nuôi lồng cũng có thể chỉ hình
thức nuôi trong lồng làm bằng gỗ, tre/nứa, kích thước thường nhỏ.
Nuôi cá lồng là một hình thức nuôi cá tiên tiến với việc áp dụng các
biện pháp kỹ thuật tổng hợp để đạt một năng suất cao trong một thể tích nước
nhỏ. Ưu điểm của phương pháp nuôi cá lồng là:
- Nuôi cá lồng là hình thức nuôi cá thâm canh, do môi trường nước lưu
thông nên cá nuôi lồng có thể thả với mật độ dày, vật liệu làm lồng dễ kiếm.
Có thể nuôi những loài cá ăn trực tiếp như cá trắm cỏ, trê lai, rô phi, quả,
chép, bống tượng,…
- Kỹ thuật nuôi cá lồng đơn giản, dễ làm và tận dụng được sức lao động
của mọi độ tuổi.
- Tận dụng nguồn nước tự nhiên, nguồn thức ăn tự nhiên để nuôi cá,
không cạnh tranh ảnh hưởng tới đất sản xuất nông nghiệp.
10
- Các chất thải của cá và thức ăn thừa được nước thải ra khỏi lồng nên
môi trường nước sạch thích hợp cho sự tăng trưởng của cá.
- Thuận tiện cho việc chăm sóc, quản lý nên ít bị hao hụt, thu hoạch
chủ động, dễ dàng, thuận lợi. Năng suất cao, chu kỳ sản xuất ngắn.
- Các đối tượng nuôi lồng thường có giá trị kinh tế cao nên lợi nhuận
mang lại lớn nếu nuôi thành công.
- Có thể nuôi với quy mô nhỏ hay lớn tuỳ vào điều kiện của từng hộ
gia đình.
- Tuy nhiên nuôi cá lồng dễ bị mắc bệnh và lây lan nhanh, nên việc
nuôi phải thận trọng, theo đúng qui trình kỹ thuật và bảo vệ môi trường.
2.1.3.2. Tầm quan trọng của nghề nuôi cá lồng
Nuôi cá lồng bè được xem như là một giải pháp được lựa chọn để phát
triển cá với nhũng ưu việt về kỹ thuật, sinh thái, kinh tế và xã hội hơn hẳn so
với đánh bắt tự nhiên và nuôi cá trong ao hồ:
- Kỹ thuật nuôi cá lồng bè đáp ứng được mục tiêu cơ bản của chính phủ
về sản xuất thực phẩm có chất lượng cao.
- Tạo ra việc làm mới, tăng thu nhập cho ngư dân.
- Khai thác, sử dụng nguồn lực tự nhiên của khu vực.
- Kỹ thuật nuôi không đơn giản nhưng có thể áp dụng ở mọi quy mô và
phù hợp với người dân không có đất.
- Hiệu quả kinh tế cao.
2.2. Cơ sở thực tiễn của đề tài
2.2.1. Sự hình thành và phát triển của khuyến nông Việt Nam
Nông nghiệp là ngành sản xuất truyền thống và phát triển cùng nền văn
minh lúa nước ở nước ta. Vì vậy, khuyến nông Việt Nam đã có từ rất sớm và
có bước phát triển ngày càng lớn mạnh.
Trong thời kỳ phong kiến, công tác khuyến nông đã đặc biệt được chú
trọng. Thời tiền Lê, hàng năm vua Lê Hoàn đã tự mình xuống ruộng cày
đường cày đầu tiên cho vụ sản xuất đầu xuân. Năm 1226, dưới thời Trần lập
chức quan “Khuyến nông sứ” là viên quan chuyên chăm lo khuyến khích phát
11
triển nông nghiệp. Năm 1789, vua Quang Trung ban bố chiếu khuyến nông
sau khi đại phá quân Thanh nhằm phục hồi lại ruộng bị bỏ hoang…
Từ năm 1964, Bộ nông nghiệp chính thức có chủ trương thành lập các
đoàn chỉ đạo, đưa sinh viên mới tốt nghiệp xuống cơ sở (các HTX, nông lâm
trường) xây dựng các mô hình và mở các lớp tập huấn cho cán bộ chủ chốt
của địa phương về công tác sản xuất, công tác thuỷ lợi.
Năm 1981, Ban bí thư Trung ương Đảng đã ra Chỉ thị 100 chính thức
thực hiện chủ trương “khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao
động”. Đến tháng 12/1986 Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam đã nhìn
thẳng vào sự thật với tinh thần “đổi mới”, rút ra bài học hành động phù hợp
với quy luật khách quan để thực hiện chủ trương đổi mới cơ chế quản lý, đưa
nông nghiệp đi lên sản xuất hàng hoá.
Ngày 05/04/1988 Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 10 về “Đổi mới quản
lý trong nông nghiệp”. Nhằm giải phóng sản xuất trong nông thôn đến từng
hộ nông dân, khẳng định hộ xã viên là đơn vị kinh tế tự chủ ở nông thôn. Từ
đó, nhờ việc nắm vững và thực hiện Nghị quyết 10 (Khoán 10) đã đem lại
những tác dụng tích cực cho sản xuất.
Nghị định 13/CP của Chính phủ ra ngày 02/03/1993 về công tác
khuyến nông, Thông tư 02/LB/TT hướng dẫn việc tổ chức hệ thống khuyến
nông và hoạt động khuyến nông đã kịp thời đáp ứng được những đòi hỏi nói
trên. Hệ thống khuyến nông của Việt Nam chính thức được thành lập năm
1993. Ở cấp Trung ương có cục khuyến nông (TTKNQG), cấp tỉnh có
TTKN tỉnh, cấp huyện có Trạm khuyến nông huyện, cấp xã có mạng lưới
khuyến nông cơ sở.
Ở Trung ương, giai đoạn 1993 - 2004, Cục Khuyến nông - Khuyến lâm
thuộc Bộ Nông nghiệp thực hiện cả 2 chức năng quản lý nhà nước về sản xuất
nông nghiệp và hoạt động sự nghiệp khuyến nông; Vụ Nghề cá thuộc Bộ
Thủy sản cũng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước và công tác khuyến ngư.
Tuy vậy, sau 12 năm thực hiện Nghị định 13/CP, công tác khuyến nông
đã gặp không ít khó khăn, vướng mắc, chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi
ngày càng cao của sản xuất, khoa học công nghệ và xu hướng hội nhập kinh
12
tế quốc tế, Chính vì vậy, Bộ Nông nghiệp và PTNT, Bộ Thuỷ sản đã trình
Chính phủ để sửa đổi, bổ sung một số nội dung hoạt động khuyến nông, thay
thế cho Nghị định 13/CP. Ngày 26/4/2005, Chính phủ đã chính thức ban hành
Nghị định 56/2005/NĐ - CP về khuyến nông, khuyến ngư. Ở Trung ương,
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia được thành lập (tách từ Cục Khuyến nông
và Khuyến lâm) trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; Trung
tâm Khuyến ngư thuộc Bộ Thủy sản. Đến năm 2008, khi hợp nhất Bộ Nông
nghiệp và PTNT và Bộ Thủy sản, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia và Trung
tâm Khuyến ngư Quốc gia được hợp nhất thành Trung tâm Khuyến nông -
Khuyến ngư Quốc gia.
Nghị định 56/2005/NĐ - CP ra đời đã quy định rõ hơn về hệ thống tổ
chức khuyến nông, khuyến ngư (nhất là tổ chức khuyến nông cơ sở), mục
tiêu, nguyên tắc, chính sách và nội dung hoạt động khuyến nông (bổ sung
thêm nội dung tư vấn, dịch vụ khuyến nông và hợp tác quốc tế về khuyến
nông); mở rộng đối tượng tham gia đóng góp nhằm thực hiện mục tiêu xã hội
hoá công tác khuyến nông - khuyến ngư.
Ngày 08/01/2010 bằng việc ban hành Nghị định 02/2010/NĐ - CP về
công tác khuyến nông, khuyến ngư thì hệ thống khuyến nông Việt Nam đã
thêm một bước được hoàn thiện cả về cơ cấu lẫn nội dung hành động. Hệ
thống khuyến nông Nhà nước đã nhanh chóng phối hợp với các cơ quan, ban
ngành có liên quan, nhất là các tổ chức quần chúng.
2.2.2. Kết quả hoạt động công tác khuyến nông trong phát triển ngành thủy sản
Trải qua 20 năm hoạt động đồng hành với tiến trình Đổi mới của
Ngành nông nghiệp, tổ chức khuyến nông không ngừng phát triển, lớn mạnh
và trở thành một hệ thống khá đồng bộ từ Trung ương đến cơ sở thôn bản, gắn
bó mật thiết với nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Hoạt động khuyến nông
ngày càng phát triển kể cả về tổ chức và nội dung. Từ khi được thành lập tới
nay khuyến nông đã có những đóng góp đáng kể vào thành tựu sản xuất nông
- lâm nghiệp, thủy sản. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới đã
được chuyển giao, áp dụng vào sản xuất hàng hóa theo hướng chất lượng cao,
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Tăng thu nhập cho người
13
lao động, góp phần xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn miền núi, khuyến nông
đã trở thành địa chỉ tin cậy của nông dân.
Trong phát triển thủy sản hoạt động đào tạo, huấn luyện khuyến nông
đã góp phần nâng cao năng lực và trình độ cho cán bộ khuyến nông các cấp,
kỹ năng tổ chức quản lý sản xuất của người nông dân: Nội dung đào tạo, tập
huấn phong phú, sát nhu cầu của đối tượng tập huấn; Phương pháp đào tạo
thường xuyên được đổi mới; Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, tập huấn
khuyến nông như đào tạo trực tiếp tại lớp học và hiện trường, đào tạo gián
tiếp thông qua các phương tiện truyền thông và internet.
Có TBKT tốt thì việc chuyển giao là nhiệm vụ của khuyến nông. Cán
bộ khuyến nông phải bám sát dân, phải biết cách thuyết phục dân, phải “cầm
tay chỉ việc” để có thể thay đổi nhận thức và thực hành của người dân. Trong
quá trình chuyển giao, cán bộ khuyến nông cũng cần đúc rút kinh nghiệm và
tổ chức các cuộc tham quan, hội thảo để tuyên truyền và nhân rộng. Công tác
xây dựng mô hình trình diễn và chuyển giao công nghệ thủy sản, hệ thống
khuyến nông có những hoạt động thiết thực như:
- Tổng kết các mô hình có kết quả tốt về: Nuôi trồng, khai thác, bảo
quản, chế biến, dịch vụ hậu cần nghề cá, lưu thông, tiếp thị để tuyên truyền
nhân ra diện rộng.
- Xây dựng các loại mô hình khuyến nông cho hộ nông ngư dân, hộ
trang trại, chủ doanh nghiệp thủy sản.
- Xây dựng các loại mô hình khuyến nông áp dụng công nghệ mới,
công nghệ cao ở các mức khác nhau phù hợp với điều kiện kinh tế, trình độ
sản xuất và sinh thái từng vùng.
Công tác tuyên truyền, hay nói cách khác là “kênh” để kết nối giữa nhà
khoa học và người nông dân cũng được chú trọng. Trong thời đại bùng nổ
thông tin như hiện nay thì hoạt động thông tin tuyên truyền rất quan trọng,
nhất là thông tin đến người nông dân. Phải thông tin, tuyên truyền như thế nào
để nông dân hiểu đúng, làm đúng.
Thông tin tuyên truyền trong phát triển thủy sản nói chung và sản xuất
cá lồng nói riêng ngày càng đa dạng về hình thức, phong phú về nội dung và
14
chú trọng nâng cao chất lượng. Bao gồm thông tin thị trường, thông tin đại
chúng, thông tin về văn bản quy phạm pháp luật trong ngành Thủy sản, xuất
bản các ấn phẩm khuyến ngư dưới nhiều hình thức đa dạng.
Các chương trình, dự án khuyến nông đã bám sát các chủ trương,
định hướng phát triển của Bộ, ngành, chuyển giao thành công nhiều tiến bộ
khoa học kỹ thuật mới, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về năng suất và chất
lượng sản phẩm, nâng cao hiệu quả, tăng thu nhập và cải thiện đời sống
nông dân, góp phần rất quan trọng thúc đẩy ngành thủy sản phát triển vượt
bậc trong 2 thập niên gần đây.
Trong giai đoạn từ năm 1993 đến 2007 công tác khuyến nông, khuyến
ngư đã xây dựng được hơn 9.000 mô hình trình diễn, nhập và chuyển giao
hơn 70 công nghệ, tổ chức gần 28.000 lớp tập huấn cho khoảng 1,3 triệu
người, 128 lớp tập huấn xoá đói giảm nghèo cho 2.700 lượt người tham dự.
Thông qua các chương trình trọng điểm như: Chương trình phát triển nuôi
tôm sú, tôm thẻ chân trắng, chương trình nuôi thủy sản nước mặn, lợ, chương
trình nuôi thủy sản nước ngọt, chương trình phát triển giống thủy sản, chương
trình khai thác hải sản xa bờ và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản đã góp phần nâng
cao nhận thức và kiến thức khoa học kỹ thuật cho nông, ngư dân thay đổi sâu
sắc về phương thức sản xuất thủy sản từ chỗ chủ yếu dựa vào khai thác và
nuôi thả quảng canh sang nuôi trồng bán thâm canh và thâm canh, từ nuôi tự
phát phân tán sang nuôi trồng tập trung theo quy hoạch, gắn với cơ sở chế
biến, xuất khẩu. Tạo nguồn thu xuất khẩu ngoại tệ đáng kể cho đất nước: năm
2008 đạt 4,5 tỷ USD và đến năm 2011 đạt trên 6,1 tỷ USD [7].
Ngoài ra công tác khuyến nông không ngừng xúc tiến hợp tác quốc tế,
thông qua hợp tác quốc tế, khuyến nông, khuyến ngư tiến hành nhập công
nghệ sản xuất, giống mới, tiến hành trao đổi kinh nghiệm nhằm nâng cao trình
độ quản lý, kinh nghiệm công tác của cán bộ, từ đó giúp cho nhà nước có biện
pháp hữu hiệu đẩy mạnh sản xuất thủy sản, xúc tiến thương mại phù hợp điều
kiện cụ thể từng địa phương.
15
2.3. Vài nét về nghề nuôi cá lồng
2.3.1. Sự ra đời và phát triển của nghề nuôi cá lồng
2.3.1.1. Trên thế giới
Nuôi cá lồng, bè được biết đến đầu tiên trên thế giới vào cuối thế kỷ
XIX. Sự ghi chép cổ xưa nhất về nghề nuôi cá bè bắt đầu từ Campuchia, ở đây
ngư dân vùng Biển Hồ đã nuôi cá họ Schilbeidae và các loài cá thương phẩm
khác trong lồng bằng tre. Lúc đầu, các ngư dân ở vùng Tonlesap (Campuchia)
chỉ đóng các lồng nhỏ mang kèm bên hông tàu, dùng để dự trữ cá khi khai thác
được nhiều và để ăn dần. Hàng ngày người dân cho cá ăn thức ăn thừa và thấy
cá vẫn lớn, từ đó họ đã nghĩ ra cách nuôi cá trong lồng, bè.
Nghề nuôi cá lồng, bè trên dòng sông Mêkông và các hồ nước lớn nhỏ
ở Campuchia đã có từ gần một trăm năm nay. Lúc đầu, ngư dân Campuchia
chủ yếu dùng cọc gỗ, cành cây chắn ngang các đoạn sông nông, nhánh sông
hẹp. Về sau, người ta đã nuôi cá ngay những vị trí này, những lồng cá bằng gỗ
dần dần đã hình thành và ngày càng cải tiến hơn.
Ngư dân Thái Lan cũng đã nuôi cá lồng bè khoảng 50 năm nay,
Indonesia phát triển nuôi cá lồng bè từ năm 1945. Ở Nhật, cá chép nuôi trong
lồng từ năm 1953, bang Alabana là nơi nuôi cá lồng đầu tiên ở Hoa Kỳ vào
năm 1964. Những nước châu Âu có nghề nuôi cá lồng phát triển như: Đức,
Anh, Pháp, Nauy và Hà Lan. Ở Châu Phi, từ năm 1972 Tandania đã nuôi tăng
sản cá rô phi trong lồng ở hồ Vachtoria, Nigieria cũng nuôi cá lồng bè ở hồ
Kainhi. Tuy nhiên, chỉ đầu những năm 1980 nuôi cá lồng, bè mới thực sự
đóng góp đáng kể vào sản lượng nuôi trồng thủy sản.
Ngày nay, vị trí đặt lồng, bè cá không chỉ giới hạn ở sông mà nó còn
được đặt trong các hồ tự nhiên, hồ chứa nhân tạo của Nigieria, Nhật,
Singapore và Mỹ, ở các hồ vùng núi cao của Chile, Colombia, các ao ở Mỹ, ở
vùng đầm lầy Ấn Độ, các kênh mương thủy lợi ở Indonesia, trong các hồ
chứa nước nóng của Bungari và cả ở biển. Nguyên liệu làm lồng, bè cá cũng
thay đổi, ở các nước châu Á vẫn sử dụng lồng bè bằng tre hoặc gỗ, những
nước có nền nông nghiệp phát triển như Đức, Nhật, lồng, bè có dạng lưới
16
được làm bằng sợi tổng hợp polyamid hoặc sử dụng những tấm kim loại để
làm lồng nuôi cá như ở Mỹ [1].
2.3.1.2. Tại khu vực miền Bắc Việt Nam
Ở Việt Nam, tại khu vực phía Bắc từ những năm 1971 lần đầu tiên ở
tỉnh Sơn La nuôi cá trong lồng, đối tượng nuôi là cá trắm cỏ đặt ở suối, đạt
năng suất cao 20 kg/m
3
. Ngoài ra phương pháp nuôi cá trong lồng cũng phát
triển mạnh ở tỉnh Quảng Ninh, Bắc Ninh năng suất đạt 25 - 40 kg/m
3
. Quảng
Bình, Thanh Hoá đạt 40 - 50 kg/m
3
. Lồng có nhiều dạng: hộp vuông, hộp chữ
nhật , hình chữ nhật, hình khối trụ. Đối tượng nuôi chủ yếu là cá chép, trắm
cỏ, rô phi và cá diếc. Năng suất đạt từ 15 - 50 kg/m
3
tuỳ theo đối tượng nuôi
và tuỳ vào từng nơi [17].
Nuôi cá lồng, cá bè ở ĐBSCL có từ những năm 60 của thế kỷ 20, do
các kiều dân Việt Nam hồi hương từ Campuchia về áp dụng tại vùng Châu
Đốc và Tân Châu (An Giang). Ban đầu ngư dân nuôi cá trong các bè bện bằng
tre, đồng thời bè không có mái che, số lượng rất khiêm tốn và chỉ bán làm khô
cá tra phồng hoặc cá chợ để ăn.
Vào những năm đầu của thập niên 70, nghề nuôi cá lồng, bè phát triển
mạnh, cá tra và basa lúc bấy giờ chủ yếu được tiêu dùng trong nước và xuất
khẩu một số phần sang các nước Hồng Kong, Đài Loan (Trung Quốc) và
Singapore. Sau năm 1975 số lượng bè bị sụt giảm mạnh do công việc làm ăn
của người dân gặp nhiều khó khăn. Đến năm 1980, khi tình hình chiến trang
biên giới Tây Nam kết thúc, số lượng bè cá nuôi tăng lên, nghề nuôi cá bè
phát triển hưng thịnh.
Theo số liệu thống kê của Tổng cục thủy sản, trong lĩnh vực nuôi cá
nước ngọt số lượng lồng nuôi của cả nước năm 2010 là 18.224 lồng, đạt sản
lượng là 42.992 tấn [16].
Các tỉnh miền Bắc có tiềm năng diện tích có thể phát triển nuôi thủy
sản lồng bè rất lớn trên 200.000 ha diện tích mặt nước, nhưng hiện nay mới
chỉ khai thác được một phần rất nhỏ so với tiềm năng diện tích mặt nước của
sông và hồ chứa (tổng diện tích lồng nuôi ước khoảng 300.530 m
3
, số lượng
gần 5.000 lồng, với năng suất đạt hơn 2.000 tấn/năm).
17
Tại khu vực Đồng bằng sông Hồng, trong 5 năm trở lại đây từ năm
2008 đến năm 2013, phong trào nuôi cá lồng phát triển rất mạnh với các đối
tượng cá nuôi chính là cá truyền thống như: trắm cỏ, chép, rô phi và một vài
đối tượng có giá trị kinh tế như: cá tầm, cá lăng, cá nheo, Các tỉnh có sản
lượng lớn như: Hải Dương 500 tấn/năm, Hòa Bình 200 tấn/năm, Yên Bái 200
tấn/năm, Phú Thọ 81,7 tấn/năm… Tại một số hộ nuôi trên sông Kinh Thầy
(Hải Dương), sông Đuống (Bắc Ninh), năng suất nuôi đạt từ 5 - 7 tấn cá/lồng
(108 m
3
), đem lại hiệu quả kinh tế khả quan [17].
Từ năm 2013 Trung tâm Khuyến nông Quốc gia đã triển khai dự án
“Xây dựng mô hình nuôi cá lồng hồ chứa” tại các tỉnh Tuyên Quang, Phú
Thọ, Bắc Giang, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái, Vĩnh Phúc, Bắc Kạn, Thái
Nguyên và Lào Cai.
Trong đó, Hòa Bình là tỉnh được đánh giá có nhiều tiềm năng và lợi thế
để phát triển ngành thủy sản đứng ở khu vực miền núi phía Bắc, trong những
năm gần đây, nuôi cá lồng trên hồ thủy điện Hòa Bình phát triển mạnh mẽ.
Năm 2010 trên lòng hồ thủy điện có 950 lồng nuôi cá, đến tháng 9/2013 có
khoảng 1.300 lồng [17].
Theo Trung tâm Khuyến nông quốc gia, việc nuôi trồng thủy sản ở các
tỉnh phía bắc hiện nay đã dần chuyển sang sản xuất hàng hóa và đang từng
bước trở thành một trong những nghề sản xuất chính mang lại hiệu quả cao,
góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế ở các vùng nông thôn, giải quyết việc làm,
tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo. Chất lượng và giá trị của các sản phẩm
nuôi trồng ngày càng cao, đóng góp đáng kể cho kim ngạch xuất khẩu thủy
sản chung của cả nước.
Với những ưu điểm như cá nuôi ít dịch bệnh, năng suất cao, thuận tiện
trong chăm sóc, thu hoạch và tận dụng khai thác tiềm năng mặt nước. Từ
những thành công bước đầu của một số mô hình nuôi cá lồng trên sông, hồ
chứa, hy vọng sẽ có thêm nhiều mô hình nuôi trồng thủy sản hơn nữa, góp
phần phát triển nghề nuôi trồng thủy sản theo hướng thâm canh, bền vững.
Phát triển cá lồng ở tỉnh Sơn La, là một tỉnh miền núi phía bắc với
nhiều lợi thế về lòng hồ, diện tích nuôi trồng thủy sản lớn, điều kiện khí hậu
thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Nuôi cá lồng là một nghề truyền
18
thống của đồng bào các dân tộc tỉnh Sơn La. Nguồn lợi thủy sản tự nhiên của
tỉnh Sơn La rất phong phú và đa dạng, có nhiều loài cá bản địa có giá trị cao
về khoa học và kinh tế. Tỉnh Sơn La đã sản xuất mô hình cá lồng từ năm
1976, cao điểm nhất là năm 1993 Sơn La có 800 lồng đến năm 1995 do thiếu
kinh nghiệm và kỹ thuật nuôi, quá trình chăm sóc quản lý chưa hợp lý, không
kiểm soát được dịch bệnh dẫn đến bùng phát bệnh đốm đỏ, lở loét gây ảnh
hưởng nghiêm trọng đến sản lượng nuôi cá lồng và khả năng phát triển thêm
số lượng lồng nuôi cá [12].
Sơn La có 2 hồ chứa thủy điện thuộc vào loại lớn nhất của cả nước là
Hồ chứa thủy điện Hòa Bình và Hồ chứa thủy điện Sơn La, Ngoài ra, còn có
gần 60 hồ thủy điện, hồ chứa vừa và nhỏ khác có thể đưa vào nuôi trồng thủy
sản. Riêng hồ chứa thủy điện Sơn La có diện tích trên 13.000 ha, dung tích
nước 9,26 tỷ m
3
, mực nước dâng bình thường 215 m. Đặc biệt lưu vực quanh
hồ không có nhà máy xí nghiệp, mật độ dân cư rất thấp nên không bị ảnh
hưởng bởi chất thải công nghiệp và sinh hoạt, môi trường nước hoàn toàn
trong sạch, đây là tiềm năng và thế mạnh mặt nước của địa phương cần được
khai thác và phát triển.
2.3.1.3. Một số yếu tố về điều kiện thủy văn và chất lượng nước phù hợp cho
nuôi cá lồng tại khu hồ chứa sông Đà tỉnh Sơn La
- Chế độ Thuỷ văn:
Nguồn sinh thuỷ cho hồ thuỷ điện Hoà Bình và hồ thuỷ điện Sơn La
chủ yếu là do nước từ các lưu vực rộng lớn của hồ chảy về. Lòng hồ tương
đối rộng, lưu tốc dòng chảy bình thường không lớn, về mùa mưa lũ do có
nhiều sản phẩm hữu cơ nên nước bị đục gây khó khăn cho việc nuôi trồng
thuỷ sản. Mặt nước của hồ chứa có sự thay đổi lớn, về mùa khô ở mức thấp,
nhất là đầu vụ nước năm sau (tháng 4 - 5). Sự chênh lệch về mực nước giữa
mùa khô và mùa tích nước chênh nhau từ 25 - 30 m, độ trong của nước cũng
có sự thay đổi lớn, mùa mưa độ đục cao, mùa khô trong hơn.
- Chế độ nhiệt độ:
Hồ chứa Sông Đà thuỷ điện Hoà Bình và thuỷ điện Sơn La là những hồ
chứa lớn, nước sâu, nhiệt độ nước trong hồ không có sự thay đổi lớn và đột
ngột. Với hồ thuỷ điện Hoà Bình và thủy điện Sơn La về mùa hè nhiệt độ của
19
nước khoảng 28 - 30
0
C, mùa đông nhiệt độ nước trong hồ thường cao hơn
nhiệt độ không khí và tương đối ổn định từ 20 - 23
0
C rất thích hợp cho các
loài thuỷ sinh vật phát triển.
- Dưỡng khí và các yếu tố khác:
Hồ chứa Sông Đà có mặt thoáng rộng, nước chảy thường xuyên, nhiệt
độ không cao, môi trường nước chưa bị nhiễm bẩn. Riêng hồ thuỷ điện Hoà
Bình có hàm lượng oxy hoà tan trong nước trung bình từ 8 - 13,5 mg/lít thấp
hơn nhiều so với các loại thuỷ vực khác. Ngoài ra các yếu tố khác như PH từ
(7,4 - 8,0), các chất hữu cơ từ 4 - 14 mg/lít, đặc biệt là các loại Ion kim loại
nặng như Cu, Zn, Hg, Pb và các nước thải công nghiệp hầu như không có (số
liệu điều tra của Viện nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản I năm 1995) nên có đủ
điều kiện để phát triển các loại thuỷ sinh vật [12].