Tải bản đầy đủ (.doc) (6 trang)

Văn hóa kinh doanh ở Malaysia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.15 KB, 6 trang )

Văn hóa kinh doanh ở Malaysia
Diện tích 127.317 dặm vuông (1 dặm = 1609m), được chia thành hai phần riêng lẻ về mặt
địa lý: bán đảo Malaysia và đông Malaysia. Bán đảo Malaysia là một dải đất dài nằm phía dưới
Thái Lan và điểm đầu giáp với Singapore, ngang qua eo biển Malacca. Còn đông Malaysia được
đặt ở phía bắc đảo Borneo và gồm hai bang: Sarawak và Sabah (Indonesia chiếm giữ phía nam
của hòn đảo, trong khi Brunei nằm ở phía bắc đảo Sarawak). Bán đảo Malaysia có rừng nhiệt đới
dày đặc và núi dốc đứng ở phía bắc, có đồng bằng ven biển màu mỡ ở phía tây.
Khái quát về lịch sử
Khoảng 40.000 năm trước, thời đồ đá đã có người Malaysia sinh sống, và người Oran Asli
nguyên thủy có lẽ đến từ tây nam Trung Quốc. Cách đây 4500 năm, người Malaysia “hất cẳng”
họ và là tổ tiên của người Malaysia hiện đại. Về mặt dân tộc, có lẽ họ liên quan đến người Java,
Sumatra và Philippin. Vào thế kỉ VI sau công nguyên, người Malaysia sống trên bán đảo bị
thống trị bởi người của vương quốc Funan (Campuchia ngày nay). Thế kỉ VII SCN, đế chế
Sumatra Srivijaya tiếp quản vùng đất này cho đến thế khỉ XIII thì bị đạo Hinđu thống trị. Với
nhiều khu vực, đặc biệt là Malacca đã có luật lệ địa phương cho đến năm 1511, khi Bồ Đào Nha
đến, sau đó bị lật đổ bởi người Hà Lan vào năm 1641, và họ chiếm giữ cùng đất này suốt 180
năm. Năm 1795, người Anh tiếp quản, thành lập 1 trung tâm thương mại lớn. Người Anh cố
gắng hợp nhất chính quyền ở đây trong khi họ phát triển nền công nghiệp địa phương. Tháng 12
năm 1941, người Nhật chinh phạt bán đảo Malaysia và cai trị ở đây cho đến khi Thế chiến II thất
bại tháng 8 năm 1945, khi người Anh lấy lại quyền kiểm soát và cố gắng thống nhất mọi thứ.
Năm 1955, Anh trả tự do cho Malaysia, do đó cuộc bầu cử ở đây được tiến hành và chính phủ
liên bang thành lập.
Năm 1963, Malaysia hoàn toàn độc lập, bao gồm 13 bang, 11 trong số đó là của bán đảo
Malaysia, 2 bang còn lại là của Sarawak và Sabah. Với nền kinh tế ổn định nhưng chính trị bất
ổn, quốc gia này đạt thịnh vượng vào những năm 1990 nhờ tập trung vào lợi ích vật chất. Các
Đảng đối lập liên quan nhiều đến tự do chính trị, nhân quyền, và cải thiện mối quan hệ giữ các
dân tộc.
EXHIBIT 13.13
Ngày nay, chính phủ là 1 nền dân chủ thuộc nghị viện dưới chế độ quân chủ với người
đứng đầu là Vua. Kuala Lumpur là thủ đô của Malaysia và là nơi mà chính phủ liên bang và bộ
trưởng làm việc. 13 bang đều có nghị viện và bộ trưởng, ngoại trừ 9 bang được dẫn đầu bởi vua


hồi giáo. Nền quân chủ cung cấp cho chính phủ liên bang quyền lực và các quan tòa độc lập.
Chính phủ hiện nay có chính sách nâng cao sự tham gia của người dân trong việc kinh doanh và
đưa công nghiệp đến những nơi kém phát triển. Malaysia xuất khẩu chủ yếu là cao su, thiếc, dầu
cọ, gỗ, dầu mỏ, hàng dệt may, thuốc, linh kiện điện tử,…, nhập khẩu máy móc, hàng tiêu dùng…
Các nguyên tắc trong văn hóa Malaysia
Các khái niệm cơ bản của Budi quanh các hệ thống đạo đức của con người Ma-lay-xi-a.
budi minh họa hành vi lý tưởng được chờ đợi của một người Malaysia. Quy tắc cơ bản là tôn
trọng và lịch sự, đặc biệt là về người lớn tuổi; yêu mến và tình yêu cho cha mẹ, và một địa vị và
hài hòa trong gia đình, các khu phố, và trong xã hội. có hai hình thức Budi: Adab, điều đó có
nghĩa là các cá nhân có trách nhiệm để diễn tả lịch sự tại tất cả các lần, và Rukun, điều đó có
nghĩa là các cá nhân phải hành động để có được sự hài hòa, hoặc trong một gia đình hay trong xã
hội. Người Malaysia cực kì đặt tầm quan trọng về các mối quan hệ với người thân, bạn bè, và
đồng nghiệp.
Người Malaysia có vẻ không theo đuổi những giá trị của sự giàu có cho lợi ích của chính
họ. Những gì bạn làm, tuy nhiên, tin rằng khó khăn trong việc làm và nỡ lực của chính bản thân
họ. Cuộc sống là đi qua, đã được xem như là một điều, và những gia đình và bạn cầm lấy mức ưu
tiên qua những sự quan tâm được đặt đúng tâm bởi bản thân, chẳng hạn như việc tích lũy của lợi
nhuận và chủ nghĩa duy vật. Những tình cảm mà người Malaysia dành cho trẻ em được phản ánh
trong thái đô dịu dàng và trong đó họ chăm sóc chúng.
Những cử chỉ và lời chào
Trong xã hội đa văn hóa này, bạn nên xác định xem những gì dân tộc đầu tiên đại diện của
bạn là giao tiếp với Mã Lai, ấn độ, Trung Quốc. Người Malaysia hay nói những ngôn ngữ chính
thức của ngôn ngữ Malaysia. Ấn độ nói một trong nhiều ngôn ngữ và thông dụng trong lời thề
của họ, như là luật sư và các nhà báo, cũng như người lao động. Tiếng Trung Quốc thường nói
tiếng địa phương trong ngôn ngữ của họ và chiếm phần lớn các doanh nhân phong lưu. cuối cùng
hai nhóm chủ yếu là người nhập cư và văn hoá phản ánh được thực tiễn của quê hương của họ,
trước đó đã mô tả. Tiếng Trung Quốc di cư trong thế kỷ 15, trong khi chủ yếu người ấn độ xây
dựng lại trong thế kỷ 20, họ theo dõi sự hiện diện của họ ở đây trên 400 năm trước, khi họ đến
như là người buôn bán và cả đạo hồi của họ. Nói chung, việc giáo dục trong ba nhóm nói tiếng
anh.

Có một số hình thức giao tiếp không có của người Malaysia. Quen với chào và kiến thức
trong đó có cử chỉ để tránh các sự cố sẽ dẫn đến một chuyến đi thành công việc kinh doanh. sau
đây là một số ví dụ:
+ Khi gặp một người Malaysia, người già cần phải được đề cập trước khi trẻ hơn, (kẻ) quan
trọng hơn trước khi (kẻ) ít quan trọng hơn, và người phụ nữ trước khi người đàn ông
+ Ở các vùng nông thôn, cả phong tục cho nam và nữ, để lắc tay với nhau. Khi tiếp xúc một
người, một phụ nữ Mã Lai có thể chào theo kiểu Salam, là cử chỉ rất thấp trong khi đặt quyền
trên trán, và sau đó bao gồm các tay nếu là một người ta tin rằng không có ý thức của xã hội liên
quan đến Lễ Tân Giao Tiếp bằng bắt tay. Truyền thống Malaysia chào bằng bắt tay với cả hai
tay, nhưng mà không nắm bắt. người đàn ông đưa cả hai tay để bạn bè của mình, chạm nhẹ tay
người bạn của anh ta đang đưa tay, và sau đó mang tay đến hong người đó. chỉ đơn giản này có
nghĩa là, "Tôi chào bạn từ tâm tôi."
Tại Malaysia, thay vì chỉ đến một địa điểm, đối tượng, hoặc người có quyền chỉ một ngón
tay, mà được xem là bất lịch sự, nó là phổ biến hơn đến với các điểm với ngón tay cái (của) bàn
tay phải với những ngón tay được gấp ở dưới
Trong việc yêu cầu một xe tắc xi, một trong những cách sử dụng các ngón tay của bàn tay
phải, di chuyển họ cùng với bàn tay giáp mặt xuống trong một gợn sóng hay " đến đây " cử chỉ,
mà đối diện của beckoming Mỹ tiêu biểu (của) một xe tắc xi
Một cử chỉ để tránh đang vuốt ve một đứa trẻ trên cái đầu. cái đầu được coi như là trung
tâm (của) trí tuệ và sức mạnh thần thánh, do đó nó là thánh thần và không nên đụng.
Tôn giáo, thiên nhiên và bản chất con người
Đạo hồi là tình trạng tôn giáo của Malaysia, sử dụng một ảnh hưởng lớn không chỉ trên các
phương thức tôn thờ, mà còn trên cách sống của người Malaysia. đại diện doanh nghiệp nước
ngoài hy vọng vận hành có hiệu quả vai trò của Malaysia phải hiểu đạo hồi của các nền văn hóa.
(Tham khảo trở lại quan sát về đạo hồi trong chương 11). những thực hành tôn giáo như vậy là
một phần gắn liền với cuộc sống hằng ngày
Một tín đồ Đạo Hồi được hướng(lái) bởi những sự ra lệnh của kinh ko-ran, những chi tiết
nào của những quy tắc (của) hành vi, bao gồm mọi buổi họp mặt thân mật và những hoạt động
doanh nghiệp. Người ta hy vọng những Các tín đồ Đạo Hồi sẽ kể lại tín ngưỡng, “ở đó không có
là chúa trời nhưng thánh A-la, và muhammad là nhà tiên tri (của) anh ấy." Họ phải cầu nguyện

năm lần một ngày và thánh A-la kính trọng như chúa trời thật sự duy nhất
Cung cấp cho hội từ thiện, giúp đỡ (kẻ) nghèo túng, sự ăn kiêng trong tháng (của) tháng
nhịn ăn của đạo hồi, và, nếu khả dĩ, một lần sử dụng lưỡi khoan tới thành phố mecca được bổ
sung các thực hành mà người ta hy vọng những người Malaysia tín đồ Đạo Hồi sẽ thực hiện. họ
cũng cần phải kiềm chế từ việc ăn thịt lợn và uống đồ uống có cồn. nói chung phần (của) nhà thờ
Hồi giáo, chỗ tín đồ Đạo Hồi (của) sự kính trọng, phụ nữ Mã lai ngồi ngoài những người đàn ông
và (thì) không phải được cho phép vào bất kỳ thời gian nào để tiếp xúc tình cờ hay ăn với họ.
như vậy, những người nước ngòai coi trọng những điều cấm kỵ của họ- chào hỏi và chỉ ăn với
bàn tay phải; đừng bao giờ cho thấy những đế giày (của) các bạn; đừng bao giờ chạm trên đầu
của bất cứ ai.
Người Malaysia sâu sắc tôn trọng truyền thống phong tục, ngay cả những người của các
tôn giáo, dân tộc thiểu số. các phương pháp truyền thống và tín ngưỡng được gọi là adat, có
nghĩa là phong tục. tầm quan trọng của adat được minh họa bằng câu tục ngữ, "cho phép mất con
cái, nhưng không phải là adat"
Ở một số văn hóa phương Tây, tồn tại một niềm tin rằng con người có thể chiến thắng tự
nhiên. Nhưng trong tín ngưỡng Hồi Giáo, người Malaysia cho rằng mối liên hệ giữa con người
và tự nhiên phụ thuộc hay dựa trên sự hài hòa của tự nhiên. Đôi khi người Malaysia phụ thuộc
vào nhiều yếu tố bởi vì các quan điểm về vận mệnh của họ, họ tin tưởng vào quyền lực tối cao
của thần thánh. Người Malaysia còn tin rằng chúng ta là một phần của thế giới tự nhiên, điều này
phản ánh qua niềm tin của họ về thuyết duy tâm-quan điểm rằng thực vật lẫn động vật đều có
linh hồn có thể cảm nhận được.
Người Malaysia rất ít chú tâm đến quá khứ nhưng họ chú trọng đến tương lai mặc dù cả 2
điều này đều rất mơ hồ và khó nắm bắt. Việc lập kế hoạch cho tương lai, hy vọng vào tương lai
sẽ tốt hơn hiện tại và quá khứ dường như không phải là lối sống của họ, mặc dù chính phủ rất
khuyến khích những kế hoach dài hạn.
Từ những định luật về trước sau trong tín ngưỡng của đạo Hồi, có một sự liên tưởng mạnh
mẽ đến vận mệnh, điều này được nhận ra bởi các thuật ngữ phổ biến như là “Thần thánh sẽ phù
hộ” ,”Thần thánh muốn tôi như thế nào tôi sẽ như vậy, nếu tôi không như vậy, thần thánh cũng
sẽ làm cho tôi trở thành như thế”. Những nhân tố trên đã góp phần vào việc thiếu hụt động lực
cho những thành công trong thực tế, những động lực để phát triển sâu rộng và tạo mối quan hệ

bền vững lâu dài với bạn bè và người thân. Theo truyền thống, người Malaysia tin rằng khi mà
chúng ta nhận được những thành công về vật chất chúng ta sẽ phải trả một giá rất cao bằng gia
đình và bạn bè. Phần lớn những người nhâp cư Trung Quốc tự gọi họ là đạo Phật, nhưng có thể
tin theo truyền thống này ngay lập tức.
Sự tín nhiệm, sự tôn trọng và sự lãnh đạo
Sự tín nhiệm đối với người Malaysia là cơ sở để thành công trong mối quan hệ giữa các cá
nhân. Khả năng của một cá nhân có thể là trung thành, tận tụy hay là tình bạn bè đều là những
đặc tính cốt lỗi trong sự tín nhiệm cơ bản của hầu hết người dân Malaysia. Quá trình để phát
triển sự tín nhiệm xảy ra bên trong của chính mỗi cá nhân. Một vài văn hóa của các nước phương
Tây, căn bản của sự tín nhiệm là biểu hiện bên ngoài và khả năng hoàn thành xuất sắc công việc,
chú trọng nhiều đến sự đánh giá chuyên môn và cách trình diễn.
Vào lúc đầu trong một mối quan hệ, người Malaysia thể hiện sự tôn trọng theo đúng kiểu
cách suốt quá trình. Tuy nhiên, trong tiến trình phát triền một mối quan hệ, những nghi thức ứng
xử dần dần được loại bỏ đi cho đến khi không còn nghi thức gì cả. Sự chuyển đổi từ từ này có
thể làm bối rối những nhà kinh doanh. Những người Malaysia tôn trọng những người hòa giải,
những người sẵn sàng “khoan dung và tha thứ”. Trong một buổi đàm phán của người Malaysia,
người đứng ra hòa giải thường là người được tôn trọng nhất và nhận được nhiều hơn những gì
đoán trước.
Trong những cơ quan và tổ chức ở phương Tây, các địa vị hay chức vụ được giao cho
những người nào chứng tỏ được năng lực lãnh đạo của mình. Ở Malaysia, quá trình này có hơi
khác. Người Malaysia sinh ra là đã có sẵn chức vụ và địa vi trong xã hội, và nếu chức vụ này rất
cao và quan trọng, thì những người này thường được mong đợi sẽ chứng tỏ được năng lực lãnh
đạo của mình. Đối với người Malaysia tính chất quan trọng nhất đối với người lãnh đạo là sự tự
tin và năng lực bản thân để hiểu mọi người. Một người lãnh đạo ở Malaysia còn được trông chờ
sẽ trở thành một người sùng đạo, khiêm tốn, thành thật và khéo léo, lịch thiệp. Thậm chí nếu
người đó không xứng đáng với sự mong đợi thì vị trí đó vẫn yêu cầu anh ấy hay cô ấy tiếp tục
đảm nhận nó. Người Malaysia cảm thấy thoải mái nhất là trong tôn ty trật tự với một vai trò
được định nghĩa rõ ràng và nhấn mạnh khả năng phát triển mối quan hệ giữa các cá nhân.
Quy tắc trong công việc
Ở Malaysia làm việc được xem là một trong nhiều hoạt động. Người Malaysia bỏ ra một

lượng lớn thời gian của mình để phát triển sâu thêm trong các mối quan hệ với gia đình và bạn
bè bằng cách là họ thường xuyên rãnh rỗi để có thể trò chuyện với mọi người. Một ví dụ về luật
trước sau của người Malaysia là cách họ đối xử với những người lớn tuổi. Những người lớn tuổi
ở Malaysia được tôn kính như là những người cố vấn thong thái, những người đóng vai trò quan
trọng trong xã hội của ngưởi Malaysia. Tuy nhiên để tiến lên phía trước, cả hai điều là mối quan
hệ và đức hạnh luôn cần thiết. Giáo dục và đào tạo được xem là chìa khóa cấu thành nên sự phát
triển của kinh tế và xã hội Malaysia.
Đối với một số tín đồ Hồi giáo, những ngày làm việc trong tuần bắt đầu bình thường từ
ngày thứ 7 cho đến ngày thứ 4, tuy nhiên phải khuôn phép, gương mẫu trong ngày thứ 6 như là
một ngày linh thiêng hoặc tối thiểu cũng phải dành ra 2 giờ để đến nhà thờ. Cuối tuần bắt đầu từ
ngày thứ 5. Ở một số nơi, thời gian làm việc bắt đầu từ 8h sáng cho đến 5h chiều từ thứ 2 cho
đến thứ 6, tuy nhiên cũng có một ít khác biệt đối với cơ quan chính phủ, ngân hàng và nhiều cửa
hàng bán lẻ. Những lễ nghi và phong tục không đươc chú trọng nhiều trong lúc làm việc.
Chính trị và quyền lực
Malaysia là một quốc gia có sự chuyển đổi nhanh chóng sang nước công nghiệp hiện đại,
vì thế nhiều phong tục tập quán của người dân cũng từ từ biến mất. Điều cơ bản quan trọng đối
với những người làm việc ở đây là sự thấu hiểu về sự nhạy cảm đối với các vấn đề về tôn giáo.
Để thành công ở đất nước này, chúng ta phải biết rõ những điểm giống và khác nhau cũng như
những khác biệt giữa những người Malaysia với người Bumiputra, người Hoa và người Ấn Độ.
Sau nhiều tình trạng căng thẳng chủng tộc và những cuộc nổi loan, một kế hoạch phát triển
trong 20 năm của chính phủ đã được phát động vào năm 1970 giữa người Malaysia và người
Trung Quốc. Kế hoạch bao gồm 2 hiệp định kinh tế cơ bản: (1) Kiểm soát sự vượt trội của kinh
tế Trung Quốc bằng một điều khoản là một số lượng lớn xác định trong lực lượng lao động sẽ là
người Malaysia; và (2) giảm thị phần của người nước ngoài tại thị trường Malaysia từ 60%
xuống còn 30% năm 1990. Mặc dù có những sự nỗ lực về hiện đai hóa cũng như giáo dục, nhưng
kết quả không hoàn toàn như mong đợi. Thậm chí dù có sự giảm xuống của các nhà đầu tư nước
ngoài tại thị trường Malaysia, nhưng thị phần của người nước ngoài vẫn còn nhiều chỗ để mở
rộng thị trường tại Malaysia.
Gần như có một sự cân bằng về quyền lực giữa người Malaysia và người Trung Quốc, và
cần phải nhanh chóng có sự liên kết giữa hai nền văn hóa này. Tuy nhiên do sự khác nhau về

phong tục tập quán, văn hóa và các giá trị nên vẫn có sư căng thẳng lớn trong thỏa thuận giữa hai
bên, tại thời điểm này, quan hệ sản xuất có thể dễ dàng đổ vỡ. Mối quan hệ không tốt giữa người
Malaysia và người Trung Quốc vẫn tiếp tục tiếp diễn, có lẽ là do sự khác nhau mạnh mẽ giữa
Đạo Phật của người Trung Quốc và Đạo Hồi của người Malaysia
Kết luận
Với tỷ lệ tăng trưởng kinh tế trung bình 7-8%/năm, Malaysia đã trở thành 1 cường quốc
vào cuối thập kỷ. Nhiều vùng đã mở cửa ra bên ngoài, các doanh nhân nước ngoài ở Malaysia bị
thách thức để những kỹ năng điều phối của họ được thuận lợi trong các mối quan hệ với người
dân ở đây. Điều này sẽ vun đắp không chỉ cho sự hợp tác giữa 2 hay nhiều bên mà còn sẽ đóng
góp cho sự cộng tác với nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×