Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

Tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.4 KB, 57 trang )

LỜI CẢM ƠN
Thưa các thầy cổ giáo cùng các bạn Việt Nam yêu quý, đến thời điểm khi
em hoàn thiện luận văn tốt nghiệp đại học Luật em đã sinh sống và học tập
xa nhà 5 năm. Trong suốt những năm tháng dài xa nhà đó, em đã nhận được
sự dạy dỗ chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo Việt Nam. Sự giúp đỡ chân
thành của các bạn bè người Việt. Tất cả những điều đó đã giúp chúng em
vượt qua những khó khăn để có thể học tập tại Việt Nam.
Cho em gửi lời biết ơn sâu sắc đến các thầy các cô giáo và các bạn Việt
Nam.
Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện luận văn, Thầy Phạm Hồng
Quang đã ân cần chỉ bảo em để em có thể hoàn thành luận văn. Cho phép em
gửi lời cảm ơn tới thầy.
Em cũng xin chân thành cảm ơn các cô, chú cán bộ thư viện Trường Đại
học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện để em có cơ hội tìm kiếm tại liệ để nghiên
cứu và hoàn thành luận văn.
Do những hạn chế lớn về ngôn ngữ nên trong quá trình thực hiện luận
văn, em vẫn còn mắc phải không ít sai sót về lỗi chính tả về hình thức trình
bày, và nội dung. Em mong nhận được sự đóng góp từ phía các thầy cô và
các bạn để luận văn của em được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn.
1
KHÁI QUÁT VỀ LUẬN VĂN
Nước CHDCD Lào và nước CHXHCN Việt Nam là hai nước có mối liên hệ
lịch sử lâu dài và mật thiết. Từ sau cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
thì mối liên hệ kinh tế- xã hội- chính trị giữa hai nước lại càng có những bước
phát triển mạnh mẽ. Hiện nay, cả Lào và Việt Nam đều xây dựng Nhà nước theo
chế độ Xã Hội chủ nghĩa - Chế độ mà quyền lực của Nhà nước là của dân, do
dân và vì dân. Cả hai nước đều đang nỗ lực xây dựng và vận hành nền kinh tế
theo cơ chế thị trường nhưng có sự quản lý của Nhà nước.
Trong gia đoạn hiện nay, xu thế hội nhập quốc tế đang tác động mạnh mẽ
đến sự phát triển của mỗi quốc gia trong đó có cả Việt Nam và Lào. Đòi hỏi Việt


Nam và Lào cần có những hoạch định đúng đắn.
Nhìn nhận một cách tổng thể các mặt thì Việt Nam có những bước tiến mạnh
mẽ hơn so với Lào.Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đạt được những
thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Mọi mặt của
đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Một trong những yếu tố quan trọng góp
phần tạo nên những thành công đó chính là sự quản lý điều hành hiệu quả của
Chính phủ và các cơ quan hữu quan.
Nhân thức được mối quan hệ than thiết của hai nước trên moị mặt , đặc biệt là
mối quan hệ về chính trị giữa hai nước, nên Nhà nước Lào đã tạo điều kiện cho
chúng em sang học tập tại Việt Nam.
Với mong muốn sau này, khi ra trường được trở về nước làm việc trong cơ
quan quản lý hành chính nhà nước, em đã lựa chọn ngôi trường Đại học Luật Hà
Nội và đặc biệt là khoa hành chính – Nhà nước để học tập và nghiên cứu.
Hiện tại mô hình tổ chức và hoạt động của Chính phủ hai nước Việt Nam
và Lào có những nét khá tương đồng. Tuy nhiên, cách vận hành của Chính phủ
Viêt Nam có rất nhiều điểm để Lào học tập và tham khảo.
2
MỤC LỤC
+ Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ...........................................34
+ Thủ tướng Chính phủ......................................................................35
+ Cơ cấu tổ chức của Chính phủ.........................................................36
Về nguyên tắc, bộ máy hành chính phải đáp ứng yêu cầu phục vụ cho sự
nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, đảm bảo các quyền con người, nó
không thể trở thành gánh nặng hay sự cản trở phát triển kinh tế-xã hội.
Yêu cầu tinh gọn là tất yếu khách quan của chính các quan hệ kinh tế-xã
hội đối với tổ chức của Chính phủ trong nền kinh tế thị trường. Bởi lẽ,
như trên đã phân tích vai trò, chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường là quản lí ở tầm vĩ mô (vai trò gián tiếp so với cơ chế kinh tế
kế hoạch hoá tập trung) nên mỗi cơ quan trong Chính phủ cần phải thực
hiện sự quản lí tổng hợp, đa năng đối với ngành, lĩnh vực được phân

công ở phạm vi tất cả các thành phần kinh tế chứ không chỉ riêng đối với
kinh tế nhà nước. ....................................................................................49
Nhà nước pháp quyền là nhà nước tổ chức và hoạt động trên cơ sở hệ
thống pháp luật hoàn thiện, phù hợp với các quy luật vận động mang
tính khách quan của nền kinh tế-xã hội nhằm mục tiêu vì con người,
cho con người. Trong nhà nước pháp quyền, hoạt động của toàn thể
bộ máy nhà nước và các nhân viên nhà nước đều đặt trên cơ sở pháp
luật, trong phạm vi được giới hạn bởi pháp luật. Trong khi đó, người
dân có quyền làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm, không trái
với các quy tắc đạo đức xã hội hay quy tắc sinh hoạt cộng đồng. ....50
3
4
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước của bất kì quốc gia
nào trên thế giới cũng là vấn đề hết sức rộng lớn và phức tạp. Điều đó do bản
chất của chính đối tượng quản lí nhà nước quy định vì đời sống xã hội vô cùng
đa dạng phong phú và vận động phát triển không ngừng, đòi hỏi luôn phải có
những cải tiến, điều chỉnh các chức năng, nhiệm vụ quản lí hành chính và tổ
chức bộ máy hành chính, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sắp xếp cán bộ cho phù hợp.
Việt Nam và Lào là hai quốc có truyền thống đoàn kết và lòng yêu nước
sâu sắc; nền hành chính của hai nhà nước Lào và Việt có quá trình lịch sử lâu
dài với những bước phát triển thăng trầm. Hiện nay, Cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào đang xây dựng nền kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền theo đường
lối của Đảng nhân dân cách mạng Lào; còn Việt Nam cũng tiến hành công cuộc
xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã Hội chủ nghĩa.
Có những điểm chung về xuất phát điểm, có nền kinh tế nghèo nàn, lạc
hậu lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề và một thời kì duy trì cơ chế quản lý kế
hoạch, tập trung bao cấp. Trên nền tảng các giá trị truyền thống văn hoá dân tộc,
những thành tựu trong đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà

nước thời gian qua rất to lớn, đáng ghi nhận nhưng những khuyết điểm, tồn tại
của cơ chế cũ vẫn còn nhiều biểu hiện phức tạp cần phải nỗ lực nghiên cứu khắc
phục nhằm tăng cường năng lực, hiệu quả của bộ máy hành chính nhà nước đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp đổi mới đất nước của Lào và Việt Nam
hiện nay.
Thực tế cho thấy đời sống quốc tế, sự vận động phát triển của các quan hệ
kinh tế-xã hội trong nền kinh tế thị trường diễn ra vô cùng sinh động, sự vận
động của hệ thống thiết chế và thể chế nhà nước thường có sự lệch pha, chậm
hơn sự phát triển của quá trình kinh tế-xã hội. Chính vì vậy, theo mỗi bước phát
triển của đời sống kinh tế-xã hội hiện nay, việc đổi mới tổ chức và hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước cần phải được xác định là nhiệm vụ thường
xuyên, không ngừng nghỉ.
5
Dưới góc độ chuyên ngành Luật Hành chính, trên cơ sở những đòi hỏi của
thực tiễn sự nghiệp xây dựng nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp
quyền hiện nay ở Lào và Việt Nam, qua nghiên cứu đề tài có thể khẳng định
được rằng việc đổi mới, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính
nhà nước nói chung và hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Chính phủ là vấn đề
rất bức thiết và có ý nghĩa quyết định cho sự thành công của công cuộc đổi mới hệ
thống chính trị và thể chế nhà nước đáp ứng những yêu cầu cho sự phát triển của
Việt Nam và Lào trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy; tác giả mạnh dạn chọn
đề tài: “Tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào” làm luận văn
tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, các vấn đề liên quan đến bộ máy hành chính nhà nước Lào
nói chung và tổ chức – hoạt động của Chính phủ nói riêng vẫn là đề tài còn rất
mới mẻ trong nghiên cứu khoa học không những ở trong nước mà còn cả ở nước
ngoài.
Đã có một số công trình nghiên cứu có đề cập vấn đề tổ chức và hoạt động
của bộ máy hành chính nhà nước Lào nhưng một cách gián tiếp như:

- Luận án tiến sĩ chuyên ngành lịch sử: “Đảng nhân dân cách mạng Lào lãnh
đạo quá trình xây dựng bộ máy hành chính nhà nước (1975 - 1995 )” của nghiên cứu
sinh - On Kẹo Phôm Ma Kon. Đề tài nghiên cứu này đã được bảo vệ thành công tại
Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (Hà Nội) năm 2004.
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Bộ máy hành chính nhà nước Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào hiện nay” của Phatthana Souk Aloun, bảo vệ năm 2003.
- Luận văn thạc sĩ luật học: “Bộ máy nhà nước của nước Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào hiện nay” của NaLan Thammathava, bảo vệ năm 2003.
Bên cạnh đó còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí của Lào liên quan
đến vấn đề đổi mới, kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước như: “Nắm vững quan
điểm của Đảng trong công tác kiện toàn bộ máy tổ chức Chính phủ trong giai đoạn
mới ” của BanNhăng VoLaChít (Tạp chí A-LunMay, tháng 11/1998); “Mốt số vấn
đề về công tác tổ chức bộ máy hành chính trong cơ chế thị trường” của On Kẹo
PhômMa Kon (Tạp chí KoSảng Phăk số 32 năm 2000); “Một số suy nghĩ về việc
kiện toàn bộ máy Chính phủ” của PhănKhăm VịPhaVăn (Tạp chí A-LunMay, tháng
6
04/2001); “Từng bước kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước của Cộng hoà dân chủ
nhân dân Lào” của dự án GPAR (UNDP) (Tạp chí Hành chính năm 2004, 2005).
Nhưng đến nay, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu một cách hệ thống
và hoàn chỉnh về tổ chức và hoạt động của Chính phủ Lào.
Rõ ràng, việc thiếu những công trình nghiên cứu về tổ chức và hoạt động
của Chính phủ của hai nhà nước Lào và Việt Nam là một thiếu sót lớn. Bở lẽ,
Việt Nam và Lào là hai quốc gia có mối quan hệ hữu hảo lâu đời. Hai quốc gia
có sự giao thoa văn hoá sâu sắc. Đặc biệt trong hai cuộc kháng chiến chống
Pháp và chống Mỹ , quân và dân hai nước đã “kề vai, sát cánh” chiến đấu, hỗ trợ
nhau giành độc lập. Từ đó đến nay, mối quan hệ kinh tế, xã hội và chính trị đã
được nâng lên tầm cao mới.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu vấn đề lí luận và thực tiễn vấn đề tổ chức và hoạt động

của Chính phủ của Việt Nam và Lào qua từng giai đoạn lịch sử nhằm:
- Góp phần hoàn thiện lí luận cơ bản về tổ chức và hoạt động bộ máy hành
chính nhà nước Lào, trong đó trọng tâm là quan điểm về khái niệm hành chính
nhà nước, Chính phủ ; chức năng và nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính
phủ của Lào;
- Đánh giá mức độ hoàn thiện của các chế định pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Chính phủ Lào qua từng giai đoạn lịch sử, phân tích thực trạng
tổ chức và hoạt động của Chính phủ , trên cơ sở đó đề xuất một số phương
hướng, giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức và hoạt động Chính phủ trong điều
kiện xây dựng nhà nước pháp quyền hiện nay của cả hai nước hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên đây, luận án có các nhiệm vụ nghiên
cứu như sau:
- Nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn những vấn đề lí luận cơ bản về tổ chức
và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào như khái niệm chung về hành
chính, Chính phủ; các chức năng cơ bản và các nguyên tắc tổ chức, hoạt động
của Chính phủ Việt Nam và Lào;
7
- Làm sáng tỏ quá trình phát triển của Chính phủ Lào và Việt Nam, trình
bày và phân tích nội dung các văn kiện của Đảng và văn bản quy phạm pháp
luật của Nhà nước về tổ chức và hoạt động của Chính phủ các cấp.
- Nêu ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của thực trạng tổ chức và
hoạt động Chính phủ Việt Nam và Lào hiện nay;
- Đưa ra những phương hướng và các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện tổ
chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào trong điều kiện xây dựng
Nhà nước pháp quyền , phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và xu hướng hội nhập quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi của một luận văn tốt nghiệp đại học, tác giả tập trung giải
quyết những vấn đề sau:

- Nghiên cứu lí luận cơ bản về khái niệm tổ chức và hoạt động của Chính
phủ. Trình bày các chức năng cơ bản, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
Chính phủ Việt Nam và Lào;
- Nghiêu cứu quá trình hình thành và phát triển, mức độ hoàn thiện của các
chế định về tổ chức và hoạt động Chính phủ Việt Nam và Lào;
- Đánh giá thực trạng, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện
tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào hiện nay.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Tác giả đã nghiên cứu giải quyết đề tài luận văn dựa trên phương pháp luận
Mác-Lênin về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam
và Đảng nhân dân cách mạng Lào về cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Trong qua trình nghiên cứu, tác giả luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể là: phương pháp lịch sử, thống kê, phân tích, tổng hợp, so
sánh, hệ thống hoá… Thông qua đó, những vấn đề có liên quan tới tổ chức và
hoạt động bộ máy hành chính Nhà nước được xem xét, đánh giá từ nhiều góc độ
khác nhau, bảo đảm tính đầy đủ, toàn diện, có hệ thống và xác thực theo những
nội dung cụ thể trong luận văn
6. Kết cấu của Luận văn
Luận văn được chia thành 3 chương:
8
Chương I – Cơ sở lí luận về tổ chức và hoạt động của Chính phủ - cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất:
Chương II - Quá trình hình thành, phát triển và thực trạng tổ chức hoạt
động của Chính phủ Viêt Nam và Lào
Chương III Phương hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ
Việt Nam và Lào
'
9
CHƯƠNG I

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ -
CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC CAO NHẤT
1.1. Khái niệm quản lý hành chính nhà nước, cơ quan hành chính nhà
nước.
1.1.1.Quản lý hành chính Nhà nước.
Khái niệm hành chính bắt nguồn từ khái niệm quản lí. Theo tiếng Latin,
“hành chính” - “administration” có nghĩa là quản lí, điều hành, phục vụ, hỗ trợ.[22,
tr.9]

Trong lĩnh vực xã hội, quản lí là một dạng hoạt động xã hội, có nghĩa là điều
khiển các hoạt động của con người và quá trình xã hội hướng tới mục tiêu đã định.
Điều này xuất phát từ nhu cầu của hoạt động xã hội là cần phải có sự quản lí, đúng
như C. Mác đã nói: “quản lí là chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của
quá trình lao động”;[1, tr.29-30] “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động
chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn thì ít nhiều cũng cần đến sự chỉ đạo
để điều hoà những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung… Một
người độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình còn dàn nhạc thì phải có nhạc
trưởng”.[2, tr.480]
Trong tiếng Việt, từ “hành chính” có nguồn gốc Hán, nghĩa là thi hành
chính sự [15, tr.91] - thi hành chính sách và pháp lệnh của chính phủ. Có tác giả
còn giải thích thuật ngữ “hành chính” một cách cụ thể là những hành vi, những
biện pháp để thi hành chính sách do cơ quan chính trị thiết lập. Đó là những hoạt
động liên tục và thường xuyên để “thanh thảo những nhu cầu chung của nhân
dân”.
Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát rằng hành chính là hoạt động quản
lí, điều hành, phục vụ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó hoạt
động của cơ quản quản lý hành chính nhà nước (còn gọi là hành chính công) giữ
vị trí đặc biệt quan trọng.
Trong hoạt động của nhà nước, thuật ngữ “hành chính” được hiểu là hoạt
động thi hành, quản lí, cai trị, điều hành công việc chung một cách chính thức.

Theo đó, chủ thể thực hiện hoạt động này là nhà nước, trên cơ sở quyền lực nhà
nước.
10
Hành chính nhà nước là sự quản lí của nhà nước đối với xã hội và đối với
cả chính bộ máy nhà nước, mặc dù về nguyên lí, bộ máy nhà nước không có
mục đích tự thân, sự tồn tại của bộ máy nhà nước là xuất phát từ nhu cầu khách
quan của đời sống xã hội, nhằm phục vụ cho đời sống xã hội. Hành chính nhà
nước còn được gọi là hành chính công, tức là “hoạt động của nhà nước, của các
cơ quan mang tính quyền lực nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước để quản lí
công việc của nhà nước nhằm phục vụ lợi ích chung hay lợi ích riêng hợp pháp
của công dân.” [23, tr.17]
Tuy nhiên, cách hiểu khái niệm hành chính nhà nước như trên mới chỉ xuất
phát từ góc độ mối tương quan giữa nhà nước với xã hội (giữa chủ thể với đối
tượng quản lí) mà chưa nhìn nhận nó dưới góc độ mối tương quan giữa các yếu
tố cấu thành quyền lực nhà nước hay giữa các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Nếu nhìn nhận từ góc độ phân công, phối hợp giữa các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp thì hành chính nhà nước là dạng hoạt động nhà nước thuộc
phạm trù hành pháp. Dưới góc độ này, hành chính nhà nước là một trong ba loại
hoạt động của nhà nước mà đặc trưng của nó là được thực hiện trên cơ sở chấp
hành luật và tổ chức thi hành luật, đảm bảo hiệu lực thực tế của luật, biến các
quy định của luật trở thành hiện thực trong đời sống hàng ngày của xã hội và
nhà nước. Với đặc trưng này, hành chính nhà nước (trên cấp độ cao nhất) được
phân biệt với các hoạt động lập pháp và tư pháp. Nếu sản phẩm của hoạt động
lập pháp là các văn bản luật nhằm tạo cơ sở pháp lí cho các hoạt động xã hội;
sản phẩm của hoạt động tư pháp là các phán quyết về tính hợp pháp của các
hành vi và các tuyên bố về những sự kiện pháp lí đảm bảo trật tự pháp luật và
bảo vệ các quyền con người đã được luật ghi nhận, thì sản phẩm của hoạt động
hành chính là các quyết định hành chính và hành vi hành chính phù hợp với quy
định của luật, hiện thực hoá các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ
chức.

Để làm rõ khái niệm hành chính, chúng ta cũng cần phân biệt giữa hành
chính và hành pháp. Hai khái niệm này rất gần gũi và có liên hệ mật thiết nhưng
không phải là những khái niệm đồng nhất. PGS.TS. Lê Minh Thông đã từng
viết: “Quyền hành pháp là khái niệm chung dùng để chỉ một bộ phận (nhánh,
loại) quyền lực đặc thù - quyền thi hành pháp luật và phản ánh mối quan hệ
quyền lực ở cấp độ cao nhất giữa các bộ phận hợp thành của quyền lực nhà nước
11
nói chung còn quyền hành chính là khái niệm cụ thể hơn, phản ánh tiểu hệ thống
quyền lực thống nhất từ trung ương xuống địa phương gắn với việc quản lí điều
hành và phục vụ của toàn bộ hệ thống cơ quan hành chính.”[21, tr.285]
Từ những phân tích nêu trên, có thể đưa ra khái niệm chung về hành chính
nhà nước như sau:
Hành chính nhà nước là sự tác động có tổ chức bằng quyền lực nhà nước do
các cơ quan trong hệ thống hành pháp từ trung ương đến cơ sở tiến hành đối với
các hoạt động xã hội và hành vi của công dân nhằm mục đích thực hiện những
chức năng và nhiệm vụ của nhà nước, phát triển các mối quan hệ xã hội, duy trì
trật tự, an ninh, thoả mãn các nhu cầu hợp pháp của công dân.
Hành chính nhà nước là hoạt động quản lí của nhà nước đối với các lĩnh
vực đời sống xã hội trên cơ sở chấp hành và tổ chức thi hành pháp luật một cách
độc lập, chủ động và sáng tạo. Nếu xuất phát từ vai trò của nhà nước nói chung
là quản lí xã hội, tức là sự tác động có mục đích đến đời sống xã hội thì các hoạt
động lập pháp, hành pháp và tư pháp đều có ý nghĩa quản lí. Nhưng nếu xét từ
góc độ phân công chức năng của bộ máy nhà nước thì hành chính nhà nước
thuộc hoạt động của một trong ba hệ thống thực thi quyền lực nhà nước, đó là
quyền hành chính do hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước thực hiện.
Chính vì thế, người ta thường nói quản lí nhà nước với ý nghĩa là quản lí hành
chính nhà nước là nói ở góc độ này.
Đặc điểm chủ yếu của quản lý hành chính nhà nước với tính cách là
hoạt động chấp hành và điều hành được thể hiện trên những nét chính sau:
- Quản lý hành chính nhà nước là loại hoạt động mang tính tổ chức trực tiếp

là chủ yếu
- Quản lý hành chính nhà nước là loại hoạt động mang tính chủ động, độc
lập sáng tạo cao
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động được đảm bảo về phương diện
tổ chức - bộ máy
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động được đảm bảo bằng cơ sở vật
chất to lớn
Quản lý hành chính nhà nước mang tính chất chính trị rõ rệt
- Quản lý hành chính nhà nước là hoạt động có tính liên tục và chuyên
nghiệp sâu sắc
12
Từ những điểm trên, có thể nhận thức chung về quản lý hành chính nhà nước là
hoạt động quản lí, điều hành và phục vụ của nhà nước trên tất cả các lĩnh vực,
phạm vi của nền kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh. Hành chính nhà
nước là loại hoạt động mang tính chấp hành và điều hành – tính tổ chức thực
tiễn là chủ yếu. Với hệ thống tổ chức bộ máy to lớn, thống nhất, chặt chẽ, với
tính chuyên nghiệp cao, hoạt động hành chính nhà nước mang tính động lập,
sáng tạo, hiệu lực và hiệu quả cao đáp ứng các yêu cầu của quản lí nhà nước
trong nhà nước pháp quyền.
1.1.2. Cơ quan hành chính Nhà nước
Trong nền hành chính nhà nước, với tính cách là thể thống nhất về mặt cơ cấu tổ
chức các cơ quan hành chính nhà nước, bộ máy hành chính nhà nước là yếu tố
hợp thành giữ vị trí vô cùng quan trọng. Đứng trên phương diện lý luận về nhà
nước, bộ máy hành chính nhà nước được hiểu là hệ thống các cơ quan nhà nước
thực hiện chức năng của nền hành chính nhà nước-chức năng chấp hành và điều
hành, các cơ quan đó được gọi là cơ quan hành chính nhà nước.
Theo “Từ điển giải thích thuật ngữ luật học” do Trường Đại học Luật Hà
Nội biên soạn, bộ máy hành chính nhà nước “là hệ thống các cơ quan chấp
hành-điều hành được thành lập để quản lí mọi mặt của đời sống xã hội với sự đa
dạng về chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức và phương pháp hoạt động…[24,

tr.18]
Như vậy, nói đến bộ máy hành chính nhà nước, trước hết cần phải đề cập
cơ quan hành chính nhà nước. Cũng giống như bất cứ cơ quan nhà nước nào
khác, các cơ quan hành chính nhà nước được thành lập trên cơ sở luật định để
thực hiện những nhiệm vụ và quyền hạn trong từng lĩnh vực nhất định. Ngoài
các dấu hiệu chung của cơ quan nhà nước, cơ quan hành chính nhà nước còn có
những dấu hiệu đặc thù, nhờ đó chúng ta có thể phân biệt với các cơ quan khác
của nhà nước.
Thứ nhất, cơ quan hành chính nhà nước là cơ quan có chức năng quản lí
hành chính nhà nước - hoạt động chấp hành và điều hành là hoạt động mang tính
dưới luật;
Thứ hai, cơ quan hành chính nhà nước có phạm vi thẩm quyền nhất định giới hạn
trong lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước do pháp luật quy định;
13
Thứ ba, các cơ quan hành chính nhà nước có mối liên hệ trong hệ thống trực
thuộc, cấp trên cấp dưới tạo thành một hệ thống thống nhất từ trung ương đến cơ
sở.
Tổng thể các cơ quan hành chính nhà nước là hợp thành hệ thống tổ chức bộ
máy hành chính nhà nước. Tuy nhiên, mỗi cơ quan hành chính nhà nước cũng là
một hệ thống tổ chức chặt chẽ theo những nguyên lí chung của cả hệ thống bộ
máy hành chính nhà nước.
Các cơ quan hành chính nhà nước liên kết chặt chẽ với nhau hợp thành hệ
thống thống nhất, gọi là bộ máy hành chính nhà nước. Điều này cho thấy tính
thống nhất chặt chẽ, với hiệu lực và hiệu quả cao của bộ máy hành chính nhà
nước từ trung ương đến cơ sở là yêu cầu khách quan cần phải có đối với một nền
hành chính hiện đại.
Về mặt nguyên tắc chung, bộ máy hành chính nhà nước với tư cách là một hệ
thống phải được vận hành trên cơ sở đảm bảo các yêu cầu sau:
- Tổ chức bộ máy hành chính phải phù hợp với những yêu cầu của việc thực
hiện nhiệm vụ của cơ quan hành pháp mà chính phủ là thiết chế đứng đầu

- Hoàn chỉnh, thống nhất
- Phân định rõ ràng hợp lí phạm vi quản lí, thẩm quyền quản lí cho các cấp,
các bộ phận
- Bảo đảm sự thống nhất trong hoạt động quản lý điều hành của trung
ương đối với địa phương, của chính phủ đối với các bộ ngành.
- Tiết kiệm và hiệu quả
- Sự tham gia của người dân vào công việc quản lí một cách dân chủ; phát
huy tối đa tính tích cực của con người trong tổ chức
Như vậy, có thể nhận thức khái niệm chung về bộ máy hành chính nhà
nước là toàn bộ hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước từ trung ương đến cơ
sở để thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước. Bộ máy đó bao gồm
tổng thể các cơ quan hành chính nhà nước từ Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang
bộ đến những cơ quan chính quyền địa phương các cấp theo vùng lãnh thổ. Khái
niệm bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam và Lào cũng cần phải được nhận
thức một cách tổng hợp cả về cơ cấu tổ chức các cơ quan hành chính nhà nước
và cơ chế phân công, phối hợp hoạt động của các cơ quan đó.
14
Các cơ quan hành chính nhà nước được tổ chức và hoạt động theo một hệ
thống thống nhất, thông suốt trên những nguyên tắc chung theo quy định của
Hiến pháp và pháp luật có thể được hình dung như một “bộ máy”. Thuật ngữ
“bộ máy hành chính nhà nước ” thể hiện rõ đặc điểm và yêu cầu khách quan là
toàn bộ các cơ quan hành chính, cán bộ công chức nhà nước Việt Nam và Lào
được tổ chức thành một hệ thống với cơ chế sắp xếp, phân định các chức năng
nhiệm vụ, quyền hạn và tiến hành phối hợp các hoạt động theo những nguyên
tắc, chuẩn mực, trình tự do Hiến pháp và pháp luật của mỗi nước quy định. Tất
cả nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của chính quyền nhà nước, phát huy tối đa
hiệu lực và hiệu quả của nền hành chính Lào đáp ứng các yêu cầu phát triển đất
nước.
Ngoài những đặc điểm chung so với bộ máy hành chính nhà nước các nước
trên thế giới cũng như bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam, bộ máy hành

chính nhà nước Lào còn có những điểm đặc thù riêng.
. Về tổ chức bộ máy, để phù hợp với thực trạng nền kinh tế-xã hội, các điều
kiện thiên nhiên và lịch sử văn hoá, yêu cầu phát triển của đất nước hiện nay, hệ
thống các cơ quan hành chính nhà nước Lào ở địa phương đã được tổ chức
thành ba cấp tỉnh, huyện và bản (không có cấp xã). Ngoài ra, ở mỗi cấp hành
chính lãnh thổ như trên đều không có hội đồng nhân dân với tư cách là cơ quan
đại diện như Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Về tổ chức bộ máy và cơ chế
hoạt động, bộ máy hành chính nhà nước Lào hiện nay còn có điểm đặc thù nữa
là vai trò của người đứng đầu cơ quan hành chính ở mỗi cấp chính quyền địa
phương - tỉnh trưởng, huyện trưởng, trưởng bản. Người đứng đầu cơ quan hành
chính nắm quyền điều hành toàn bộ hoạt động của bộ máy hành chính của địa
phương. Dưới sự điều hành của người đứng đầu cơ quan hành chính nhà nước ở
địa phương là một bộ máy văn phòng giúp.
Nhìn chung, điểm đặc thù trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành
chính nhà nước Lào thể hiện rõ nét ở tính gọn nhẹ, thông suốt của hệ thống các
cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Cách thức tổ chức và hoạt động đó
mang lại sự phù hợp của nền hành chính nhà nước Lào với những điều kiện tự
nhiên, lịch sử và hoàn cảnh chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội của đất nước Lào.
1.2. Chính phủ - cơ quan hành chính nhà nước cao nhất
15
Hiến pháp của cả Việt Nam và Lào đều khẳng định Chính phủ là cơ quan
hành pháp của Nhà nước nước Cộng hoà Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng
Hoà dân chủ nhân dân Lào. Vị trí này của Chính phủ được Hiến pháp xác định
trong mối quan hệ thống nhất giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Nhưng nếu xét trong hệ thống bộ máy hành chính nhà nước thì Chính phủ lại là
cơ quan hành chính nhà nước cao nhất. Với nhiệm kì bằng nhiệm kì của Quốc
hội, Chính phủ đóng vai trò là cơ quan thống nhất quản lí việc thực hiện các
nhiệm vụ của Nhà nước về mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hoá-xã hội, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại.
Các nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ được Hiến pháp quy định gồm

các điểm như sau:
- Thi hành Hiến pháp, pháp luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh của Chủ tịch nước;
- Trình dự thảo luật trước Quốc hội, dự thảo pháp lệnh trước Uỷ ban
thường vụ Quốc hội;
- Quy định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà
nước hàng năm trình Quốc hội xét và phê chuẩn;
- Báo cáo công tác trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội (khi Quốc
hội không họp) và báo cáo trước Chủ tịch nước;
- Ra các quyết định về quản lí kinh tế-xã hội, khoa học, kĩ thuật, quốc
phòng, an ninh và đối ngoại;
- Tổ chức chỉ đạo và kiểm tra hoạt động của các ngành và chính quyền địa
phương;
- Tổ chức và kiểm tra hoạt động của các lực lượng quốc phòng, an ninh;
- Kí hiệp ước, hiệp định với nước ngoài và chỉ đạo việc thi hành các hiệp
ước, hiệp định đó;
- Đình chỉ việc thi hành hoặc huỷ bỏ các quyết định, chỉ thị của bộ, cơ quan
ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan chính quyền địa phương trái
pháp luật.
Ngoài 9 nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể nêu trên, Chính phủ còn thực hiện
những quyền hạn, nhiệm vụ khác theo luật định đó là:
16
- Thực hiện hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, sắc lệnh, pháp lệnh
của Chủ tịch nước, tổ chức tuyên truyền pháp luật, giáo dục việc tôn trọng pháp
luật, quy định các biện pháp bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân;
- Xây dựng các chính sách phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước
đề nghị Quốc hội xem xét và phê chuẩn;
- Quản lí thống nhất việc xây dựng cơ sở hạ tầng, mở rộng cơ sở kinh tế,
văn hoá - xã hội, khoa học và kĩ thuật, thực hiện chính sách tài chính và tiền tệ,
quản lí và đảm bảo việc sử dụng hiệu quả tài sản của Nhà nước, tập thể, cá nhân

theo quy định của hiến pháp và pháp luật;
- Báo cáo hoạt động của mình trước Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
và Chủ tịch nước;
- Nghiên cứu xây dựng và trình dự thảo luật trước Quốc hội, dự thảo pháp
lệnh trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
- Nghiên cứu và trình dự thảo sắc lệnh của Chủ tịch nước;
- Ban hành nghị định và quyết định về quản lí nhà nước, quản lí kinh tế - xã
hội, khoa học, kĩ thuật, công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; an ninh quốc
phòng và quan hệ đối ngoại;
- Tổ chức, lãnh đạo, quản lí và giám sát mọi hoạt động của các ngành nghề
và cơ quan chính quyền địa phương để bảo đảm việc thực hiện có hiệu quả pháp
luật;
- Tổ chức và quản lí thống nhất về dân số trên phạm vi cả nước;
- Củng cố và tăng cường kiểm tra việc bảo vệ quốc phòng, bảo vệ an ninh-
trật tự an toàn xã hội, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, thực hiện mệnh
lệnh và kỷ luật quân đội cần thiết để bảo vệ an ninh quốc phòng;
- Đình chỉ hoặc xoá bỏ các quyết định, chỉ thị, hướng dẫn và thông tư của
các bộ, cơ quan ngang bộ và các cơ quan khác trực thuộc trực tiếp Chính phủ và
cơ quan chính quyền địa phương nếu các cơ quan này thực thi công việc trái với
pháp luật.
- Quyết định thành lập hoặc giải thể huyện và điều chỉnh địa giới giữa các
huyện theo đề nghị của huyện trưởng và thị trưởng thành phố.
- Tổ chức, thực hiện và giám sát việc thanh tra nhà nước nhằm phát hiện ra
các vi phạm pháp luật, tham nhũng và các yếu kém khác; giải quyết khiếu nại, tố
17
cáo của người dân liên quan đến các hành vi vi phạm pháp luật của cán bộ, công
chức và các cơ quan quản lí nhà nước ở mỗi cấp theo quy định của pháp luật.
- Hợp tác, thương lượng, kí các hiệp định và thoả thuận với các quốc gia
khác, quản lí và giám sát quan hệ đối ngoại và việc thực hiện các hiệp định và
thoả thuận đã kí.

1.3. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam và Lào.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước là
những tư tưởng, quan điểm có tính chủ đạo, xuyên suốt, làm cơ sở cho toàn bộ
các quy định cụ thể của pháp luật và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của bộ
máy hành chính nhà nước Lào.
Mọi nền hành chính đều có những nguyên tắc chung để tổ chức và hoạt
động bộ máy hành chính nhà nước nhưng mỗi nền hành chính lại có những
nguyên tắc riêng để tổ chức và hoạt động bộ máy hành chính nhà nước có tính
đặc thù phù hợp với điều kiện chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi quốc
gia, dân tộc.
Chính phủ là một bộ phận của Bộ máy hành chính Nhà nước, chính vì vậy
những nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước
cũng chi phối đến tổ chức và hoạt động của Chính Phủ các cấp.
Trong quá trình học tập và nghiên cứu tại Việt Nam và Lào, tác giả nhận
thấy tổ chức và hoạt động của Chính phủ các cấp của Việt Nam và Lào chịu sự
chi phối, chỉ đạo của một số nguyên tắc chính như:
1.3.1. Nguyên tắc Đảng lãnh đạo
Trong Hiến pháp- Đạo luật cao nhất của hai nước đều ghi nhận nguyên tắc
Đảng lãnh đạo là một nguyên tắc quan trọng nhất trong việc tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước, bộ máy hành chính nói chung và tổ chức hoạt động
của Chính phủ các cấp nói riêng.
Cụ thể tại Lào, Đảng nhân dân cách mạng Lào là trụ cột của hệ thống chính
trị nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào. Điều 3 Hiến pháp năm 1991 quy định:
“Quyền làm chủ đất nước của nhân dân các bộ tộc được thực hiện và đảm bảo
bằng hoạt động của hệ thống chính trị do Đảng nhân dân cách mạng Lào là hạt
nhân lãnh đạo”. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội Lào nói
chung, bộ máy hành chính nhà nước Lào nói riêng đã có bề dày lịch sử gắn liền
18
với quá trình hình thành và phát triển của Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân
Lào.

Trong lĩnh vực hành chính nhà nước, nguyên tắc Đảng lãnh đạo thể hiện cụ
thể thông qua các hình thức hoạt động của Đảng như sau:
- Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về quản lí nhà nước nói chung
và quản lí hành chính nhà nước nói riêng:
- Vai trò lãnh đạo của Đảng trong quản lí hành chính nhà nước thể hiện
trong công tác tổ chức cán bộ
- Đảng lãnh đạo bộ máy hành chính nhà nước bằng hình thức kiểm tra, việc
thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng trong hoạt động quản
lí hành chính nhà nước
1.3.2. Nguyên tắc tập trung dân chủ
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước nói chung, bộ máy hành chính nhà nước nói riêng. Điều 5 Hiến
pháp năm 1991 quy định: “Quốc hội và tất cả các cơ quan của Nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ”.
Nguyên tắc tập trung dân chủ yêu cầu sự kết hợp hài hoà giữa tập trung và
dân chủ. Trong hoạt động quản lí nhà nước, tập trung nhằm đảm bảo sự thâu
tóm quyền lực nhà nước vào chủ thể quản lí để điều hành, chỉ đạo việc thực hiện
pháp luật, dân chủ là việc mở rộng quyền cho các đối tượng quản lí nhằm phát
huy trí tuệ tập thể trong hoạt động quản lí, phát huy khả năng của đối tượng
quản lí trong quá trình thực hiện pháp luật. Cả hai yếu tố này phải có sự phối
hợp một cách đồng bộ, chặt chẽ với nhau, chúng có mối quan hệ qua lại và thúc
đẩy lẫn nhau cùng phát triển trong quản lí hành chính nhà nước.
1.3.3. Nguyên tắc pháp chế
Trong quản lí hành chính nhà nước, các chủ thể quản lí hành chính sử dụng
pháp luật với tính chất là phương tiện, công cụ quan trọng để đảm bảo thực hiện
có hiệu quả các nhiệm vụ của mình. Tuy nhiên, phương tiện hay công cụ này chỉ
thực sự phát huy vai trò, tác dụng khi nó được tôn trọng và thực hiện một cách
nghiêm chỉnh trên thực tế. Vì vậy, pháp chế xã hội chủ nghĩa với nội dung là sự
tôn trọng và tuân thủ triệt để pháp luật của các cơ quan, cán bộ công chức nhà
nước, các tổ chức và mọi cá nhân đã trở thành nguyên tắc cơ bản trong tổ chức

19
và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, trong đó có các cơ quan
hành chính nhà nước.
Điều 10 Hiến pháp nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào năm 1991 quy
định: “Nhà nước quản lí xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, mọi tổ chức của
Đảng và Nhà nước, các tổ chức quần chúng, các tổ chức xã hội và mọi công dân
phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Quản lí hành chính nhà nước là công việc phức tạp gồm những lĩnh vực
hoạt động khác. Đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong
quản lí hành chính nhà nước có nghĩa là phải thực hiện đầy đủ các yêu cầu đối
với từng lĩnh vực hoạt động khác nhau đó, cụ thể là:
Thứ nhất, trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật (văn bản dưới luật) là hình thức hoạt động cơ bản
và chủ yếu trong quản lí hành chính nhà nước..
Thứ hai, trong tổ chức thực hiện pháp luật. Tổ chức thực hiện pháp luật
trong quản lí hành chính nhà nước thực chất là hoạt động tổ chức thực hiện nội
dung các văn bản pháp luật do các chủ thể quản lí hành chính nhà nước ban
hành.
1.3.4. Nguyên tắc kết hợp quản lí theo ngành và theo lãnh thổ
Trong quản lí hành chính nhà nước, khái niệm ngành có thể hiểu là tổng thể
những đơn vị sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đơn vị sự nghiệp cung ứng cùng một
loại sản phẩm nhất định, thuộc mọi quy mô và thuộc các thành phần kinh tế
khác nhau. Lãnh thổ là những phạm vi vùng đất, vùng dân cư thuộc chủ quyền
quốc gia, một phạm vi hoạt động quản lí hành chính nhà nước với một cơ cấu tổ
chức bộ máy quản lí hành chính nhà nước tương ứng.
Sự phân chia thành các ngành là quy luật phát triển tất yếu khách quan của
nền kinh tế - xã hội. Tương tự như vậy, sự phân chia đất nước thành các đơn vị
hành chính lãnh thổ để quản lí dân cư là đặc trưng của mọi chế độ nhà nước. Sự
phân chia các mặt hoạt động xã hội thành ngành là kết quả sự phân công lao
động xã hội diễn ra đồng thời với quá trình phát triển sản xuất và chuyên môn

hoá các loại hoạt động khác nhau của con người. Tuỳ theo sự phân loại mà
người ta chia ngành thành các phân ngành, ngành chuyên sâu. Sự phân công lao
động xã hội quy định sự phân công lao động quản lí.
20
Lào là một đất nước có cơ cấu các vùng lãnh thổ mang đặc trưng chủ yếu là
địa bàn rừng núi (đất nước Triệu Voi). Điều kiện kinh tế - xã hội nói chung và
giao thông ở Lào còn nhiều khó khăn. Do vậy, nguyên tắc kết hợp quản lí theo
ngành và theo lãnh thổ càng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong tổ chức và hoạt
động của bộ máy hành chính nhà nước.
1.3.5. Nguyên tắc quản lí theo ngành kết hợp với quản lí theo chức năng và
phối hợp quản lí liên ngành
Sự phát triển của ngành đòi hỏi phải có sự quản lí theo chức năng của các
cơ quan chuyên môn nhằm đảm bảo cho các hoạt động chuyên môn diễn ra
trong phạm vi ngành được thực hiện một cách thống nhất đồng bộ từ trung ương
đến cơ sở. Bên cạnh đó, một ngành không chỉ và không thể tồn tại và hoạt động
một cách biệt lập mà luôn có sự phụ thuộc, liên quan đến các ngành khác.
Ở Lào, theo quy định của pháp luật, hệ thống quản lí theo chức năng gồm
có các bộ, sở, phòng và mỗi cơ quan quản lí theo ngành đều có các bộ phận quản
lí theo chức năng như cục, vụ, ban... Các bộ phận này đều chịu sự quản lí của
các cơ quan quản lí theo chức năng có thẩm quyền cấp trên.
21
CHƯƠNG II
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG TỔ
CHỨC HOẠT ĐỘNG CỦA CHÍNH PHỦ VIỆT NAM VÀ LÀO
2.1. Quá trình hình thành và phát triển của Chính phủ Việt Nam và Lào
trước thời kỳ đổi mới .
2.1.1. Tổ chức và hoạt động của Chính phủ Việt Nam trước năm 1992
Ngày 2/9/1945 đánh dấu một bước ngoặt lớn trong công cuộc giải phóng
dân tộc của dân tộc Việt Nam. Đây là ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản
“Tuyên ngôn độc lập” - khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ công hoà. Sau

hơn,1000 năm Bắc thuộc và hơn 80 năm Pháp thuộc dân tộc Việt Nam đã gìành
được độc lập tự do cho mình.
Khắc phục những khó khăn lớn, từ sự tàn phá của chiến tranh, của chính
sách vơ vét thuộc địa của thực dân Pháp, Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiến hành những
biện pháp thúc đẩy đất nước thoát khỏi khó khăn. Trong đó xây dựng một Nhà
nước, một chính quyền mạnh là một nhiệm vụ cấp bách.
Từ yêu cầu của thực tiễn, và nỗ lực của Chính phủ lâm thời, đặc biệt là
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Hiến Pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã ra đời
vào năm 1946. Đánh dấu một bước đi lớn trong lịch sử của nền lập pháp Việt
Nam.
Không chỉ dừng lại ở đó, bản Hiến Pháp là minh chứng hùng hồn cho
quyền sống, quyền độc lập quyền tự do của người dân lao động trong xã hội dân
chủ Việt Nam. Hiến pháp 1946 đã xác lập nên địa vị Chính trị quan của Chính
phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Từ đó tạo điều kiện xây dựng nền tảng
phát huy mọi tiềm năng điều kiện để đưa đất nước Việt Nam phát triển.
Bước sang giai đoạn cuối năm 1946, thực dân Pháp vẫn chưa từ bỏ ý định
muốn đặt ách nô lệ tại Việt Nam một lần nữa. Chính vì vậy mà chúng liên tục đe
doạ nền hòa bình, độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Chúng đã nổ súng tại
Miền Nam Việt Nam, và tiền hành gây áp lực với Chính Phủ Việt Nam tại Miền
Bắc.
Dân tộc Việt Nam đã không được hưởng sự tự do trọn vẹn, cuối năm
1946 Thực dân Pháp chính thức quay trở lại xâm lược Việt Nam.
22
Trong giai đoạn này, bộ máy chính quyền của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà đã phải chuyển lên thủ đô kháng chiến Việt Bắc. Khắc phục mọi khó
khăn, Chủ tịch Hồ CHí Minh và Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã
tiến hành lãnh đạo cách mạng Việt Nam, tăng cường xây dựng phát triển mọi
mặt đời sống kinh tế, chính trị, xã hội ở những vùng tự do. Lãnh đạo nhân dân
kháng chiến chống Pháp.

Sau chiến thắng lịch sử Điện biên Phủ, thực dâm Pháp phải ký hiệp định
Giơ- ne- vơ (20/07/1954), Miền Bắc Việt Nam được hàon toàn độc lập nhưng
Việt Nam tạm thưòi bị chai cắt thành hai miền. Nhiệm vụ cách mạng trong giai
đoạn mới này là: Xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc và đấu tranh thống
nhất đất nước.
Ngày 23/1/1957 tại Kỳ họp thứ VI quốc hội khoá 1 đã ra nghị quyết về
việc sửa đổi hiến pháp và thành lập ban sửa đổi Hiến Pháp, đứng đầu là Chủ tịch
Hồ Chí Minh. Ngày 1/4/1959 Dự thảo Hiến pháp sửa đổi công bố để nhân dân
thảo luận, đóng góp ý kiến. Tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá 1, ngày
31/12/1959, Hiến pháp sửa đổi được thông qua và ngày 1/1/1960 Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký quyết định công bố bản Hiến pháp này.
Hiến pháp 1959 chứa đựng nhiều giá trị mới về mặt quy định tổ chức và
hoạt động của Chính phủ: Chế định Chủ tịch nước tách khỏi Chính phủ, quyền
hạn của Chủ tịch nước hạn chế hơn rất nhiều so với Hiến pháp 1946(không còn
đứng đầu Chính phủ, không còn quyền ban hành sắc lệnh..).
Theo quy định của Hiến pháp năm 1980 Hội đồng bộ trưởng là Chính phủ
của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan chấp hành và hành
chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất.
Hội đồng Bộ trưởng thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước;
tăng cường hiệu lực của bộ máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở; bảo đảm
việc tôn trọng và chấp hành pháp luật; phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân
dân; bảo đảm xây dựng chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân.
Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội;
trong thời gian Quốc hội không họp thì chịu trách nhiệm và báo cáo công tác
trước Hội đồng Nhà nước.
23
Tại Điều 105 Hi n phá p 1980 quy nh c c u c a H i ng bế đị ơ ấ ủ ộ đồ ộ
tr ng bao g m: ưở ồ Ch t ch H i ng B tr ng,ủ ị ộ đồ ộ ưở Các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng,

Các bộ trưởng và Chủ nhiệm Uỷ ban Nhà nước.
Hội đồng Bộ trưởng có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
1- Bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật.
2- Trình dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác trước Quốc hội và
Hội đồng Nhà nước.
3- Lập dự án kế hoạch Nhà nước và dự toán ngân sách Nhà nước trình
Quốc hội; tổ chức thực hiện kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước.
4- Thống nhất quản lý việc cải tạo, xây dựng và phát triển nền kinh tế quốc
dân, việc xây dựng và phát triển văn hoá, giáo dục, khoa học, kỹ thuật.
5- Chăm lo cải thiện đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.
6- Bảo hộ quyền lợi chính đáng của công dân và tạo điều kiện cho công dân
hưởng quyền lợi và làm tròn nghĩa vụ của mình.
7- Tổ chức quốc phòng toàn dân và xây dựng các lực lượng vũ trang nhân
dân.
8- Bảo đảm an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
9- Thi hành việc động viên, giới nghiêm và mọi biện pháp cần thiết để bảo
vệ Tổ quốc.
10- Thi hành những biện pháp nhằm bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
lợi ích của Nhà nước và của xã hội.
11- Thống nhất quản lý tài chính, tiền tệ và tín dụng.
12- Tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê và thống kê của Nhà nước.
13- Tổ chức và lãnh đạo công tác trọng tài Nhà nước về kinh tế.
14- Tổ chức và lãnh đạo công tác bảo hiểm Nhà nước.
15- Tổ chức và lãnh đạo công tác thanh tra và kiểm tra của Nhà nước.
16- Tổ chức và quản lý công tác đối ngoại của Nhà nước; chỉ đạo việc thực
hiện các hiệp ước và hiệp định đã ký kết.
17- Xây dựng và kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước từ Trung ương đến cơ
sở; đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp và sử dụng đội ngũ cán bộ Nhà nước.
18- Lãnh đạo công tác của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ
trưởng.

19- Bảo đảm cho Hội đồng nhân dân các cấp thực hiện nhiệm vụ và quyền
hạn của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương.
24
20- Lãnh đạo Uỷ ban nhân dân các cấp.
21- Tạo điều kiện thuận lợi cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các thành
viên của Mặt trận hoạt động.
22- Tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp
luật trong nhân dân.
23- Đình chỉ việc thi hành và sửa đổi hoặc bãi bỏ những quyết định, chỉ thị,
thông tư không thích đáng của các bộ và các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ
trưởng.
24- Đình chỉ việc thi hành những nghị quyết không thích đáng của các Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương, đồng
thời đề nghị Hội đồng Nhà nước sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết đó.
25- Đình chỉ việc thi hành và sử đổi hoặc bãi bỏ những quyết định và chỉ
thị không thích đáng của Uỷ ban nhân dân các cấp.
26- Quyết định việc phân vạch địa giới các đơn vị hành chính dưới cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đơn vị hành chính tương đương.
Quốc hội và Hội đồng Nhà nước có thể giao cho Hội đồng bộ trưởng
những nhiệm vụ và quyền hạn khác, khi xét thấy cần thiết.
Hội đồng Bộ trưởng căn cứ vào Hiến pháp, các luật và pháp lệnh, ra những
Nghị quyết, Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và kiểm tra việc thi hành
những văn bản đó.
Các Nghị quyết, Nghị định và Quyết định của Hội đồng Bộ trưởng phải
được quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng Bộ trưởng biểu quyết tán thành.
T i i u 11 0 Hi n phá p 1 9 80 c ng qu y nhạ Đ ề ế ũ đị : Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng lãnh đạo công tác của Hội đồng Bộ trưởng, đôn đốc, kiểm tra việc thi hành những quyết
định của Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng và thay mặt Hội đồng Bộ trưởng
chỉ đạo công tác đối với các bộ, các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng và Uỷ ban nhân
dân các cấp. Các Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng giúp Chủ tịch và có thể được uỷ nhiệm thay

Chủ tịch khi Chủ tịch vắng mặt.Dưới sự lãnh đạo thống nhất của Hội đồng Bộ trưởng, các Bộ
trưởng và thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng chịu trách nhiệm tổ chức và
chỉ đạo ngành mình trong phạm vi cả nước.
Các Bộ trưởng và Thủ trưởng các cơ quan khác thuộc Hội đồng Bộ trưởng
căn cứ vào Luật của Quốc hội, pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước và Nghị quyết,
Nghị định, Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Hội đồng Bộ trưởng, ra những
Quyết định, Chỉ thị, Thông tư và kiểm tra việc thi hành những văn bản đó.
25

×