A. Lời mở đầu
Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế
chính trị. Ở Việt Nam, từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 nhân dân ta giành
được chính quyền, nước ta đã có nguyên thủ quốc gia gọi là Chủ tịch nước
(được quy định trong Hiến pháp 1946). Với bản Hiến pháp 1992 được sửa đổi
bổ sung năm 2001, chế định Chủ tịch nước đã có nhiều đổi mới quan trọng về
vị trí của chủ tịch nước và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan nhà
nước khác ở Trung ương. Bài viết sau đi sâu phân tích mối quan hệ giữa Chủ
tịch nước với các cơ quan nhà nước ở trung ương theo quy định của pháp luật
hiện hành.
B. Nội dung
I. Vị trí, tính chất và trật tự hình thành của Chủ tịch nước theo quy định
của pháp luật hiện hành
Về vị trí và tính chất, "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay
mặt nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại" (Điều
101 Hiến pháp năm 1992). Như vậy, cũng như các Hiến pháp năm 1959 và năm
1980, Chủ tịch nước chỉ đóng vai trò nguyên thủ quốc gia, người đứng đầu Nhà
nước, thay mặt nước ta về đối nội và đối ngoại, chứ không đứng đầu Chính phủ
như chế định Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946.
Về trật tự hình thành, "Chủ tịch nước do Quốc hội bầu trong số đại biểu
Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội".
Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết
nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khoá mới
bầu Chủ tịch nước mới" (Điều 102 Hiến pháp năm 1992). Trật tự hình thành
1
của Chủ tịch nước nói lên mối quan hệ chặt chẽ với cơ quan quyền lực Nhà
nước cao nhất - Quốc hội.
II. Mối quan hệ giữa chủ tịch nước và các cơ quan nhà nước khác theo quy
định của pháp luật hiện hành
Về tổ chức bộ máy Nhà nước trong Hiến pháp 1992, quan điểm cơ bản đã
được khẳng định là: Toàn bộ quyền lực Nhà nước tập trung thống nhất vào
Quốc hội, và có sự phân công phân nhiệm giữa Quốc hội, Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để mỗi cơ quan thi hành có
hiệu lực chức năng, quyền hạn của mình với sự phối hợp chặt chẽ tạo nên sức
mạnh tổng hợp của quyền lực Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng. Cùng với
quy định "Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước"(Điều 101 Hiến pháp
năm 1992), các quy định khác về mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao thể hiện rõ quan điểm đó.
1. Với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội
Về mối quan hệ với Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 (có sửa đổi, bổ sung)
và Luật tổ chức Quốc hội hiện hành có những quy định cơ bản sau:
Chủ tịch nước do Quốc hội bầu (trong số đại biểu Quốc hội), miễn nhiệm
và bãi nhiệm, với nhiệm kì theo nhiệm kì của Quốc hội.
Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước.
Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
Chủ tịch nước trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông
qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành.
Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái với Hiến
pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội.
2
Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch nước phải
trả lời trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có
thể quyết định cho trả lời trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp sau
của Quốc hội hoặc cho trả lời bằng văn bản.
Trong mối quan hệ với Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hiến pháp đã quy định:
Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội. Quy định này nhằm mục đích tạo điều kiện để Chủ tịch nước theo được sát
ý kiến của tập thể Uỷ ban thường vụ Quốc hội khi thảo luận và quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước, đồng thời cũng để Chủ tịch nước có thể
đóng góp kịp thời ý kiến của mình.
Pháp lệnh, Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội phải được công
bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày được thông qua. Tuy nhiên, Chủ tịch nước
có quyền "Đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh, Nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại điểm 8 và điểm
9 Điều 91 trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Pháp lệnh hoặc Nghị quyết được
thông qua; nếu Pháp lệnh, Nghị quyết đó vẫn được Uỷ ban thường vụ Quốc hội
biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước
trình Quốc hội quyết định tại kì họp gần nhất" (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp năm
1992), về sau được sửa đổi, bổ sung tại Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001
thì Chủ tịch nước chỉ có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét lại
Pháp lệnh vì thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy
định tại Điểm 8 và Điềm 9 Điều 91 đã bị huỷ bỏ. Đây là một quyền hạn mới
được bổ sung mà Hội đồng Nhà nước không có. Quyền này khác quyền phủ
quyết của Tổng thống ở một số nước.
3
Những quy định trên cho thấy tính phái sinh và gắn bó giữa Chủ tịch
nước với Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Mặc dù Hiến pháp 1992
tách Chủ tịch nước thành thiết chế riêng song vẫn nghiêng về phía Quốc hội,
gắn bó chặt chẽ với Quốc hội chứ không gắn với Chính phủ như ở Hiến pháp
năm 1946 và 1959 hoặc thuộc về hành pháp như nguyên thủ quốc gia ở các
nước tư bản.
2. Với chính phủ
Mối quan hệ này được Hiến pháp năm 1992 (có sửa đổi, bổ sung vào năm
2001) và Luật tổ chức Chính phủ hiện hành quy định như sau:
Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng
Chính phủ.
Chủ tịch nước căn cứ Nghị quyết của Quốc hội hoặc Uỷ ban thường vụ
Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ (Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp năm 1992), quy
định này được sửa lại tại Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, theo đó
thì Chủ tịch nước chỉ phải căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội để thực hiện
những vấn đề này vì thẩm quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong lĩnh vực
này đã bị huỷ bỏ.
Trong thời gian Quốc hội không họp, Chủ tịch nước quyết định tạm đình
chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo
đề nghị của Thủ tướng.
Chính phủ mời Chủ tịch nước tham dự phiên họp của Chính phủ, trình
Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước.
Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những quyết định
của Chủ tịch nước. Các báo cáo công tác của Chính phủ truớc Chủ tịch nước
4
phải được Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số.
Việc xác định mối quan hệ như vậy thể hiện sự tăng cường vai trò của Chủ tịch
nước đối với bộ máy hành pháp và bảo đảm sự phối hợp gắn bó giữa Quốc hội,
Chủ tịch nước và Chính phủ.
3. Với Tòa án nhân dân tối cao
Theo Hiến pháp 1992 sửa đổi bổ sung năm 2001 và Luật tổ chức Tòa án
nhân dân 2002 có những quy định sau:
Chế độ bầu cử Thẩm phán đã được thay bằng chế độ Thẩm phán bổ
nhiệm, chỉ trừ đối với chức vụ Chánh án Toà án nhân dân tối cao do Chủ tịch
nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Các chức vụ khác từ Phó
Chánh án Toà án nhân dân tối cao đến Thẩm phán Toà án nhân dân cấp huyện,
từ Chánh án Toà án quân sự Trung ương đến Thẩm phán Toà án quân sự khu
vực đều do Chủ tịch nước bổ nhiệm. Nhưng hiện nay, theo Luật tổ chức Toà án
nhân dân năm 2002 thì việc bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán
Toà án các cấp được giao về cho Chánh án Toà án nhân dân tối cao thực hiện.
Chủ tịch nước chỉ còn bổ nhiệm Phó Chánh án và Thẩm phán Toà án nhân dân
tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Toà án quân sự Trung ương.
Trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án Toà án nhân dân tối cao
chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ
tịch nước.
Chánh án Toà án nhân dân tối cao trình xin Chủ tịch nước ý kiến của
mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.
4. Với Viện kiếm sát nhân dân tối cao
Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành
quy định về vấn đề này như sau:
5