Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

SKKN Phương pháp dạy học Văn thuyết minh cho học sinh lớp 10 THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.11 KB, 30 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC VĂN THUYẾT MINH CHO HỌC
SINH LỚP 10 THPT"
1
A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn thứ hai của quá trình Công nghiệp hoá- hiện
đại hoá với mục tiêu phấn đấu là đến năm 2020, nước ta sẽ trở thành một nước Công
nghiệp. Để theo kịp xu thế chung của thế giới, chúng ta đã và đang chú trọng đầu tư cho
giáo dục với mục tiêu là: “Đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức,
tri thức, sức khoẻ, thẫm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(điều 2 chương I- Luật
giáo dục).
Để thực hiện những mục tiêu đó, ngành giáo dục đã và đang tiến hành những đổi
mới cải cách về nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục toàn diện cho học sinh nói
chung và cho học sinh THPT nói riêng. Và một trong những yêu cầu đặt ra đối với giáo
viên THPT trong thế kỉ mới là tổ chức các hoạt động dạy- học theo hướng tích cực hoá
hoạt động học tập của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm Bộ môn Ngữ văn cũng
không nằm ngoài quy luật chung đó. Môn Ngữ văn hiện nay được xây dựng trên quan
điểm tích hợp: ba phân môn Văn học, Tiếng việt, Làm văn được kết hợp thành một bộ
môn có tên gọi là Ngữ văn.
Làm văn là một trong ba phân môn của Ngữ văn và nó đóng vai trò quan trọng
trong việc cung cấp các tri thức cơ bản về các kiểu văn bản. Bài làm văn là sản phẩm tinh
thần, kết tinh sự nhận thức, vốn sống, là bằng chứng thể hiện năng lực vận dụng kiến
thức, kĩ năng, tạo lập văn bản để bộc lộ xúc cảm, trí tuệ, tình cảm nhân văn của học sinh.
Nhiệm vụ chủ yếu của Làm văn trong nhà trường là rèn luyện các kĩ năng: tìm hiểu đề,
2
tìm ý, lập dàn ý, dựng đoạn…Thành thục các kĩ năng này học sinh sẽ viết được bài văn rõ
ràng, mạch lạc, đầy đủ ý, đúng yêu cầu.
Từ vị trí, nhiệm vụ của phân môn Làm văn có thể thấy đây là phân môn có vai trò


quan trọng giúp học sinh tạo lập văn bản nói hoặc viết phục vụ mục đích giao tiếp. Tuy
nhiên thực tế giảng dạy môn Làm văn hiện nay còn một số vấn đề bất cập sau:
Trước hết, giáo viên còn tâm lí “ngại”khi giảng dạy Làm văn vì cho rằng phân môn
này khó. Còn học sinh cũng có tâm lí “sợ”trước mỗi bài kiểm tra Làm văn, học sinh còn
viết lan man, nghĩ gì viết nấy, không có định hướng. Từ thực tế trên cho thấy, để giúp
học sinh viết được một bài văn có chất lượng, người giáo viên phải có phương pháp
hướng dẫn học sinh các kĩ năng viết văn theo từng bước có đề cương cụ thể mạch lạc.
Trong nhà trường, văn bản tự sự, miêu tả, hành chính công vụ được học rất sớm ở
tiểu học. Nhưng văn bản thuyết minh thì lại là một kiểu văn bản hoàn toàn mới lạ đối với
các em học sinh. Điều đó gây ra không ít khó khăn đối với cả người dạy và người học .
Đây là kiểu bài chưa có tính truyền thống như kiểu bài tự sự, miêu tả, nghị luận. Vì chưa
có tính truyền thống nên nói chung chúng ta chưa tích luỹ được những kinh nghiệm cần
thiết để dạy học có hiệu quả. Cũng cần nói thêm là vốn sống, vốn tri thức của người học
sinh còn hạn chế nên khi yêu cầu thuyết minh, các em gặp khó khăn.
Mặt khác để làm một bài văn thuyết minh, ngoài việc tìm hiểu đề và tìm ý, lập dàn
bài thì phương pháp thuyết minh là một vấn đề hết sức quan trọng. Nắm được phương
pháp thuyết minh chính là nắm được chìa khoá để mở cánh cửa bài văn thuyết minh.
Không có phương pháp, bài viết của các em sẽ trở nên rời rạc, thiếu căn cứ, lộn xộn dẫn
đến sự thiếu thuyết phục đối với người đọc, người nghe.
3
Trong chương trình Ngữ văn 10 các em được học 1 tiết về phương pháp thuyết
minh (tiết 66). Như vậy là chưa đủ để các em nắm được các phương pháp thuyết minh,
khiến các em còn lúng túng khi làm bài.
Với đề tài “ Phương pháp dạy học văn thuyết minh cho học sinh lớp 10 THPT”
tôi mong rằng sẽ góp phần nhỏ bé mà hữu ích cho đồng nghiệp cũng như các em học sinh
trong việc dạy và học văn thuyết minh.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ
1. Phân biệt văn thuyết minh với các kiểu văn tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị
luận:

Thuyết
minh
Kiểu văn bản cung cấp tri thức khách quan, xác thực, hữu
ích.
Tự sự Trình bày chuỗi sự việc theo một trình tự, có nhân vật và
hành động, ngôn ngữ của nhân vật để thể hiện diễn biến sự
việc
Miêu tả Tái hiện hình ảnh của người, vật, việc một cách sinh động để
người nghe, đọc như thấy nó đang ở ngay trước mắt.
Biểu cảm Bộc lộ tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ, thái độ, đánh giá chủ
quan của người viết, truyền tải cảm xúc, tình cảm ấy tới
người đọc, người nghe.
4
Nghị
luận
Người viết, người nói xác lập tư tưởng, quan điểm và thuyết
phục người đọc, người nghe đồng tình với mình
Văn thuyết minh là loại văn bản khác hẳn với tự sự (vì không có sự việc, diễn
biến), khác với miêu tả ( vì không đòi hỏi tái hiện hình ảnh một cách cụ thể cho người
đọc cảm thấy, mà cốt làm cho người ta hiểu), khác với văn bản nghị luận ( vì ở đây cái
chính là trình bày nguyên lí, quy luật, cách thức…chứ không phải là luận điểm, suy luận,
lí lẽ), nghĩa là văn bản thuyết minh là một kiểu văn bản riêng, mà các loại văn bản tự sự,
miêu tả, nghị luận không thay thế được.
2. Các dạng văn thuyết minh:
Trong văn thuyết minh thường gặp các dạng sau:
- Thuyết minh về một thứ đồ dùng
-Thuyết minh về một loài vật
- Thuyết minh về một phương pháp (cách làm món ăn)
- Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh
- Thuyết minh về một thể loại văn học (hoặc một tác giả văn học)

- Thuyết minh về một phong tục, một đồ chơi dân gian
3. Các yêu cầu của văn thuyết minh
a. Phải nắm bắt được đặc trưng sự vật
Việc nắm bắt được đặc trưng sự vật là vô cùng quan trọng. Đặc trưng của sự vật
chính là nét phân biệt giữa sự vật này với sự vật khác. Nắm được đặc trưng của sự vật thì
5
trung tâm bài văn mới được biểu đạt một cách rõ ràng, mới giúp người đọc nắm bắt được
chính xác, cụ thể đối tượng cần thuyết minh.
Để nắm bắt được đặc trưng sự vật phải nghiên cứu một cách tỉ mỉ đối tượng được
thuyết minh. Nếu như chỉ hiểu qua loa về đối tượng cần thuyết minh thì chắc chắn yêu
cầu này sẽ không thể đạt được
Ví dụ:
BÔNG CÚC MUÔN HÌNH MUÔN VẺ
“Việc chăm sóc hoa cúc đã có hơn 3000 năm lịch sử . Qua một thời kì dài chọn lọc
tự nhiên và nhân tạo, dáng vẻ của hoa cúc đã trở nên vô cùng phong phú. Đến ngày nay,
giống cúc trên toàn thế giới có đến hơn 2000
Lá và hoa cúc có nhiều biến hoá nhiều vẻ. Phân loại theo hình dạng lá thì cúc có:
cúc lá tròn, cúc lá sen, cúc lá mỏng. Phân loại theo hình dạng hoa thì cúc có: cúc cánh
hoa bằng, cúc cánh hoa hình ống, cúc cánh hoa sợi. Màu hoa cúc, ngoài màu lam thì còn
có nhiều màu khác như đỏ, vàng, trắng, lục, tím, thôi thì đủ loại.
Giống cúc đã nhiều mà tên cũng lắm. Trải qua bao các nhà văn, các hoạ sĩ, các
nghệ nhân trồng tỉa quan sát, liên tưởng và bài viết thì tên gọi của nó cũng có nhiều cái
hay, nào là hạnh hoa, xuân vũ, thập trượng chu liêm, chu sa đỗ đơn, thu thuỷ phù dung,
xích long đằng huy, tuý Dương phi…Nghe tên mà ta có thể hình dung ra dáng vẻ kiều
diễm của hoa.
Vào cuối thu, khách dạo gót bên cánh hoa cúc, trước mắt là cảnh tượng muôn màu
khoe sắc. Những bông hoa cúc lạ mắt thướt tha, có bông như rồng bay hổ vờn, có bông
thì nõn nà đứng sát nhau, có bông thì lung linh trong suốt, có bông thì rực rỡ như mặt
trời hồng, có bông thì lại tinh khiết như ánh trăng, có bông lất phất như lông vũ, có bông
6

quý phái như mệnh phụ. Các bông cúc có bông tựa, bông nghiêng, bông hướng lên, bông
chúc xuống, như đang ca hát, đang nhảy múa, đang mỉm cười…khoe sắc, khoe dáng
khiến ta ngắm nhìn mãi không chán mắt”
b. Phải làm rõ mạch thuyết minh
Mạch lạc là yếu tố cần thiết cho mọi thể văn.Với văn bản thuyết minh thì yêu cầu
này càng cao. Bởi lẽ: mục đích chính của thuyết minh là đem đến cho người đọc một vốn
hiểu biết tương đối hoàn chỉnh về đối tượng (dù chỉ là hoàn chỉnh về một mặt, một
phương diện nào đó). Vậy nên, các tầng thứ trình bày càng rành mạch, rõ ràng, tuân theo
tính quy luật của đối tượng thì chắc chắn sự lĩnh hội ở người đọc sẽ dễ dàng và mang tính
khoa học cao.
Sự mạch lạc trong văn thuyết minh cũng sẽ hiển thị ở trình tự trình bày. Sự vật
khách quan muôn hình muôn vẻ, bởi vậy trình tự thuyết minh cũng phải hết sức linh hoạt.
Có thể thuyết minh theo trình tự: thời gian, không gian, phương diện, cấu trúc…miễn sao
hợp lí, lôgic, rõ ràng, dễ hiểu.
4. Các phương pháp thuyết minh
a. Phương pháp nêu định nghĩa
Đây là phương pháp chỉ ra bản chất của đối tượng thuyết minh, vạch ra phương
pháp lôgic của thuộc tính sự vật bằng lời lẽ rõ ràng, chính xác, ngắn gọn. Muốn thuyết
minh chuẩn xác đối tượng theo cách định nghĩa, cần nắm được hai vấn đề: Một là tính
chất của đối tượng, nó thuộc loại nào. Hai là đặc điểm riêng của đối tượng, tức là chỗ
khác với đối tượng cùng loại. Chẳng hạn:
- Giun là động vật có đốt, gồm khoảng 2500 loài, chuyên sống ở vùng đất ẩm.
- Hát quan họ là một lối hát đối đáp giữa hai bên trai và gái.
7
b. Phương pháp liệt kê.
Đây là phương pháp lần lượt chỉ ra các đặc điểm, tính chất của đối tượng theo một
trật tự nào đó.
c. Phương pháp nêu ví dụ cụ thể
Đây là phương pháp thuyết minh sự thật bằng cách nêu dẫn chứng thực tế. Dùng
cách này ta có thể thuyết minh, giải thích rõ ràng hơn, tạo ấn tượng cụ thể cho người đọc.

d. Phương pháp so sánh.
Đây là cách đối chiếu hai hoặc hơn hai đối tượng để làm nổi bật bản chất của đối
tượng cần được thuyết minh. Có thể dùng so sánh cùng loại hoặc so sánh khác loại nhưng
đến cuối cùng là nhằm để người đọc hình dung rõ hơn về đối tượng được thuyết minh.
Sau đây là đoạn văn tiêu biểu cho phương pháp này
“ Loài cá sống dưới nước, trong đó có nhiều giống biết phát ra âm thanh. Tiếng
kêu của cá bò như tiếng ong bay qua, âm thanh vù vù… Cá mè bơi thành đàn y như đàn
chim nhỏ vậy, tiếng kêu “chíp chíp”. Cá nhám thì tiếng kêu như tiếng lá xào xạc”sa,
sa…” Cá trích thì ồn ĩ như tiếng sóng vỗ biển trong đêm. Cá nóc và cá nhím thì lại kêu “
cù rù, cù rù ”như tiếng trống vậy. Còn các bạc má thì tiếng kêu phát ra như cách ta lấy
móng tay cạo thật nhanh trên hàng răng lược…”
( Âm thanh của cá)
e. Phương pháp dùng số liệu
Đây là phương pháp dẫn con số cụ thể để thuyết minh về đối tượng. Bài văn thuyết
minh càng có thêm tính khoa học chính là nhờ vào phương pháp này. Đoạn văn thuyết
minh về hoa quân tử lan là dùng phương pháp này.
8
“ Ta chỉ cần chăm sóc đúng cách, từ khi trồng đến khi đơm hoa chỉ khoảng 3 năm.
Năm nào cây giống đâm chồi lá thì năm sau sẽ được 5 đến 6 lá, hai năm sau là 8 đến 10
lá, ba năm sau là 15 đến 20 lá. Lúc này sẽ đơm hoa. Nếu ta chăm sóc không đúng cách
thì giống quý sẽ bị kém đi, không đơm hoa được”
g. Phương pháp phân loại phân tích
Đối với những loại sự vật đa dạng, sự vật có nhiều bộ phận cấu tạo, có nhiều mặt
người ta dùng phương pháp này. Đây là cách chia đối tượng ra từng loại, từng mặt để
thuyết minh
Chẳng hạn, muốn thuyết minh về một thành phố, có thể đi từng mặt: vị trí địa lí,
khí hậu, dân số, lịch sử, con người, sản vật…
h. Dùng hình thức tự thuật.
Một trong những biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong văn thuyết minh là cho
sự vật tự thuật về mình .

Như vậy, khi làm một bài văn thuyết minh phải vận dụng nhiều phương pháp khác
nhau. Bởi vì văn bản thuyết minh do yêu cầu nội tại, đòi hỏi sự đa dạng của các phương
pháp trình bày. Đây là một đặc trưng quan trọng trong phương pháp viết bài văn thuyết
minh.
5. Quy trình làm bài văn thuyết minh.
Làm một bài văn thuyết minh cũng phải tiến hành qua 5 bước: Tìm hiểu đề , tìm ý,
lập dàn ý, viết văn bản, kiểm tra.
II.THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ
Thực tiễn trong quá trình dạy và học văn thuyết minh ở trường THPT, giáo viên và
học sinh gặp một số thuận lợi và khó khăn,
9
Trước hết, văn thuyết minh là kiểu loại văn bản mới mẻ nhưng cũng rất thông dụng
trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội nhất là đã học ở THCS. Vì vậy, người giáo viên có
điều kiện tìm được nhiều ví dụ quen thuộc trong đời sống hàng ngày để học sinh có thể
tìm hiểu và thấy được kiểu văn bản này mang tính ứng dụng lớn. Từ đó có thể khích lệ
các em sử dụng kiểu văn bản thuyết minh vào những trường hợp cụ thể, thích hợp.
Bên cạnh đó, trong quá trình làm bài văn thuyết minh, học sinh được chủ động tìm
hiểu và tiếp cận với nhiều tri thức đôi khi là rất mới mẻ về các vật dụng có thể nói là quen
thuộc trong đời sống (Ví dụ: chiếc bút bi, cái nón…). Điều này đem đến sự hứng thú cho
học sinh trong học tập và tạo cho các em thói quen tìm hiểu sự vật một cách cặn kẽ để tạo
lập được những văn bản mang tính khoa học. Qua đó, năng lực tư duy và biểu đạt của học
sinh được nâng cao.
Tuy nhiên việc dạy và học văn thuyết minh còn gặp một số khó khăn. Trước hết, ta
thấy tài liệu viết chuyên về văn thuyết minh không nhiều bằng các kiểu loại văn bản khác
như tự sự, miêu tả, nghị luận. Vì thế người giáo viên ít có tài liệu tham khảo để bồi
dưỡng thêm những hiểu biết về đặc trưng của kiểu loại văn bản này .
Bên cạnh đó, để hướng dẫn các em viết được một bài văn thuyết minh tốt, xuất phát
từ đặc trưng của bộ môn, người giáo viên phải tìm tài liệu về đối tượng thuyết minh. Ví
dụ tìm hiểu về nguồn gốc của chiếc nón, lịch sử ra đời của chiếc bút bi… Có nhiều
nguồn để tìm những tư liệu này . Nhưng để tìm được tư liệu đủ và phong phú về một đối

tượng thuyết minh cũng là một công việc mất thời gian. Nhiều sự vật, hiện tượng trong
đời sống dù quen thuộc nhưng cũng rất khó tìm tư liệu cho thật chính xác. Với điều kiện
như vậy, việc tìm tư liệu về các đối tượng thuyết minh cũng đặt ra nhiều khó khăn cho
người giáo viên.
10
Về phía chương trình: một số tiết lí thuyết tương đối nặng. Mặc dù cách làm bài
văn thuyết minh cũng có nét tương tự như các kiểu văn bản khác qua các bước: tìm hiểu
đề, tìm ý, lập dàn ý, viết bài. Tuy nhiên văn thuyết minh cũng có những đặc điểm riêng
nên cần có thêm thời gian để hướng dẫn học sinh một cách cụ thể các thao tác. Ví dụ thao
tác tìm ý rất quan trọng nhưng cũng không có bài riêng. Đây là một khó khăn đặt ra cho
người giáo viên. Bên cạnh đó, vì thời gian tiết học ít nên người giáo viên cũng không thể
hướng dẫn cụ thể từng bước cách làm bài văn thuyết minh dẫn đến học sinh chưa làm tốt
một số bước khi làm bài văn thuyết minh.
Đối với học sinh, thực tế việc viết văn thuyết minh cũng có những hạn chế. Để viết
tốt một bài văn thuyết minh, bên cạnh các kĩ năng làm bài văn, học sinh còn cần có các tri
thức về đặc điểm, tính chất, lai lịch, nguồn gốc của đối tượng cần thuyết minh. Tuy
nhiên, với một số sự vật, hiện tượng, học sinh rất khó tìm thấy tư liệu, đặc biệt là tư liệu
về nguồn gốc, lịch sử. Có nhiều nguồn để học sinh tìm tư liệu như qua sách báo,
internet…Nhưng không phải em nào cũng có điều kiện để tìm được tư liệu đủ và chính
xác. Điều này dẫn đến khâu tìm ý của học sinh gặp khó khăn. Bài làm của các em còn
chưa có nhiều ý phong phú, các ý tản mạn hay sự sắp xếp ý của các em cũng còn chưa
thực sự hợp lí, khoa học nên bài viết còn lan man.
Trong quá trình viết bài, học sinh cũng chưa thực sự đảm bảo về ngôn ngữ. Văn
thuyết minh đòi hỏi cách trình bày tri thức khoa học. Vì vậy học sinh cũng cần viết câu
văn mang phong cách khoa học, chính xác, ngược lại với cách viết văn biểu cảm…
Có thể nói, trên thực tế, việc hướng dẫn để học sinh viết tốt bài văn thuyết minh là
một công việc đòi hỏi nhiều sự nỗ lực của giáo viên. Và chính người học sinh cũng cần
có nhiều cố gắng trong quá trình học văn thuyết minh. Bởi lẽ, hiện nay, nhiều học sinh
xuất hiện tâm lí ngại khi phải làm bài văn thuyết minh. Điều đó dẫn đến việc một số học
11

sinh còn có thói quen ỷ lại vào văn mẫu để trả bài trên lớp. Nguyên nhân trên dẫn đến
chất lượng bài văn thuyết minh do học sinh tạo lập có chất lượng chưa cao…
Xuất phát từ thực tiễn dạy và học văn thuyết minh trong chương trình Ngữ Văn 10
(những thuận lợi, khó khăn, những việc đã làm được, những hạn chế gặp phải), việc
hướng dẫn các kĩ năng làm văn gắn với kiểu văn bản thuyết minh cho học sinh là điều
cần thiết. Đặc biệt, văn thuyết minh là kiểu bài cung cấp tri thức khoa học nên vấn đề
phương pháp càng cần được quan tâm để giúp học sinh có chất liệu phong phú để viết bài
giúp các em tự tin hơn, cố gắng tạo ra được một bài văn thuyết minh tốt- một sản phẩm
mang tính cá nhân người viết.
III. GIẢI PHÁP VÀ CÁCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN VẤN ĐỀ
1.Phương pháp dạy lý thuyết “Phương pháp thuyết minh”:
Trong dạy học tập làm văn nói chung và trong dạy học văn thuyết minh nói riêng thì
phương pháp phân tích và dạy học theo mẫu, có thể nói là phương pháp tối ưu hơn cả.
Nhưng muốn sử dụng thành thạo và hiệu qủa phương pháp này thì người giáo viên phải
nắm được bản chất, quy trình thực hiện, ưu điểm, hạn chế và một số lưu ý của phương
pháp này
1.1. Nhận thức chung.
Phương pháp dạy học theo mẫu là phương pháp thông qua mẫu cụ thể về lời nói để giáo
viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu dặc điểm của mẫu, cơ chế tạo mẫu, biết cách tạo ra
những lời nói theo định hướng của mẫu .
Quy trình thực hiện phương pháp này gồm 4 bước:
- Bước 1: Giáo viên chọn lọc giới thiệu mẫu chứa hiện tượng ngôn ngữ cần tìm hiểu.
12
- Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh phân tích mẫu để nhận biết các bộ phận tạo
thành mẫu và đặc điểm của mẫu.
- Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh mô phỏng mẫu để tạo ra lời nói của mình
(khuyến khích sự sáng tạo của học sinh).
- Bước 4:Giáo viên hướng dẫn học sinh kiểm tra đánh giá, rút kinh nghiệm về sản phẩm
tiếp nhận hoặc sản sinh ra lời nói qua rèn luyện theo mẫu.
Một số lưu ý:

* Tiêu chuẩn mẫu văn:
- Mẫu được giới thiệu cần đảm bảo tính chính xác, đảm bảo tính tư tưởng
- Mẫu có sự hấp dẫn giúp học sinh hứng thú và sáng tạo khi tạo lập theo mẫu.
- Mẫu ngắn gọn, chứa đựng nhiều nội dung lý thuyết cần giảng, dễ quan sát.
- Mẫu cần đảm bảo tính thẫm mỹ, đảm bảo việc giáo dục cho học sinh biết nhìn nhận,
thưởng thức và đánh giá cái đẹp một cách đúng đắn.
- Mẫu phải phù hợp với tâm lý học sinh.
- Mẫu phải phù hợp với đối tượng nhận thức trong từng trường hợp cụ thể
* Nguồn mẫu văn:
- SGK, SGV, sách bài tập.
- Sách báo và các tài liệu bên ngoài
- Giáo viên tự viết
- Giáo viên lựa chọn, sửa chữa, nâng cao những bài, những đoạn viết phù hợp từ những
bài tập làm văn của học sinh.
13
* Phân tích mẫu:
- Vấn đề hệ thống câu hỏi phân tích - tổng hợp được tính toán kỹ lưỡng để tới mục đích
hình thành khái niệm lý thuyết.
- Vấn đề học sinh đọc mẫu, trả lời các câu hỏi và tự hình thành khái niệm lý thuyết
1.2. Minh hoạ: Minh hoạ cụ thể phương pháp dạy học theo mẫu trong dạy học phương
pháp thuyết minh trong văn thuyết minh:
a. Phương pháp nêu định nghĩa, giải thích:
* Bước 1: Cung cấp mẫu:
Giáo viên cho học sinh đọc kĩ mẫu
BÁNH CỐM
Thuở ban đầu người làm bánh cốm chỉ suy nghĩ đơn giảnlà muốn làm loại bánh gần
giống như bánh chưng, nhưng khác với bánh chưnglà có ngọt. Bởi vậy nguyên liệu làm
bánh cốm cũng là gạo nếp và đậu xanh. Loại gạo nếp làm bánh cốm là gạo nếp non
được chế biến ra dạng cốm, dùng làm vỏ bánh. Nhân bánh được làm từ đậu xanh và dừa.
Cả nhân và vỏ bánh đều được xào lẫn với đường tạo cho bánh vị ngọt, thơm ngon.

Bánh cốm có ngon hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào khâu chọn nguyên liệu. Cốm
làm bánh phải là cốm già, nếu non quá khi xào với đường sẽ bị nhão không dùng làm vỏ
bánh được. Nếu bánh được làm đúng vào mùa cốm, người ta thường pha thêm cốm tươi
để bánh dẻo và thơm mùi cốm mới. Trước khi xào đường, cốm được ủkhoảng một giờ
đồng hồ. Tiếp đến là làm nhân bánh. Đậu xanh thường dùng là loại đậu của vùng Thái
Bình, Sơn La, Bắc Ninh vì loại đậu này khi ngâm nước có độ nở vừa phải. Còn đậu xanh
của các vùng khác, đặc biệt là đậu trồng ở khu vực phía Nam, khi ngâm nước nở nhiều,
dễ bị thiu, không thể dùng làm nhân bánh được.
14
Những người chuyên làm bánh cho rằng chẳng có một công thức cụ thể nào để làm bánh
cốm. Bí quyết để có bánh ngon hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm và thói quen của mỗi
người làm bánh. Ví dụ ở khâu ủ cốm, nhiều người cho rằng khi đặt tay lên bề mặt cốm
cảm giác hết độ dính thì mới đem xào đường. Do vậy tuỳ thuộc vào điều kiện thời tiết, khí
hậu, tuỳ loại cốm, thời gian ủ có xê dịch đôi chút. Khi xào cốm phải xác định thời gian
vừa phải, không kĩ quá làm vỏ bánh bị cứng, hoặc không quá nhanh, cốm chưa kịp ngấm
đường, không để được lâu. Khi xào nhân cũng vậy, phải xào cho đến khi nước bốc hơi
hết, chỉ còn lại đường và đậu dính quyện vào nhau mới ngon. Bánh cốm làm xong được
ướp hương hoa bưởi và một số vị thuốc bắc hoặc bằng vani, vừa nhanh, vừa tiện.
Hàng Than là một phố chuyên làm bánh cốm của Hà Nội. Ở phố này có tới hơn 20 cửa
hàng bánh cốm với những cái tên gần giống nhau như Ạn Ninh, Ninh Hương, Anh Ninh,
Nguyên Ninh…Có những gia đình nổi tiếng với năm đời làm bánh cốm. Bánh cốm ở đây
đặc biệt bán chạy vào mùa cưới, khi mà các gia đình của họ nhà trai mua bánh cốm, chè
sen, hạt sen…làm đồ ăn hỏi. Bình thường số lượng bánh cốm làm ra mỗi ngày không
nhiều, chỉ vài trăm chiếc, chủ yếu là làm theo đơn đặt hàng. Và có lẽ người ta theo đuổi
nghề này bởi đó là nghề cha truyền con nối và những người làm bánh cốm không muốn
để mất đi một nghề mà tổ tiên để lại cho họ.
(Theo Tạp chí Việt Nam hương sắc)
*Bước 2: Phân tích đặc điểm của mẫu.
Giáo viên đưa các câu hỏi gợi ý để giúp học sinh tìm hiểu đặc điểm của mẫu. Có thể chia
học sinh thành nhóm nhỏ để các em trao đổi tìm câu trả lời.

(1) Đối tượng thuyết minh của văn bản là gì ?
15
(2)Tác giả đã đề cập đến nhiều mặt của chiếc bánh cốm, đó là những mặt nào?
Học sinh thảo luận theo nhóm trả lời.
*Bước 3: Giáo viên hướng dẫn học sinh dựa vào mẫu vừa phân tích để luyện viết câu nêu
định nghĩa, giải thích về đối tượng thuyết minh.
Học sinh chọn một đối tượng thuyết minh bất kỳ để viết câu định nghĩa theo mô hình: A
là B.
Ví dụ:
(1) Ca dao-dân ca là loại tác phẩm trữ tình dân gian…(bài làm của học sinh)
(2) Văn Miếu Quốc Tử Giám là biểu tượng về truyền thống hiếu học của dân tộc Việt.
(3) Hà Nội- thủ đô của nước Việt Nam, là một thủ đô văn hiến với bề dày văn hóa-lịch sử
1000 năm…(bài làm của học sinh)
* Bước 4: Giáo viên hướng dẫn học sinh tự kiểm tra, đánh giá lẫn nhau, rút kinh nghiệm
về câu vừa được tạo lập của học sinh (đối chiếu mẫu):
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát 3 bài làm của 3 học sinh để nhận xét.
Gợi ý trả lời:
- Mẫu 1: Định nghĩa quá rộng, chưa nêu rõ được đặc điểm riêng của ca dao- dân ca
- Mẫu 2: Giới thiệu được đối tượng thuyết minh là Văn Miếu Quốc Tử Giám nhưng vẫn
còn chung chung, trừu tượng.
- Mẫu 3: Đã nêu được đối tượng cụ thể để thuyết minh là Hà Nội và nêu khái quát về vai
trò, vị trí và giá trị của Hà Nội: thủ đô nước Việt Nam, thủ đô văn hiến, bề dày văn hoá-
lịch sử 1000 năm.
Kết luận về phương pháp nêu định nghĩa, giải thích cho bài văn thuyết minh:
16
- Không nên nêu định nghĩa quá rộng, quá hẹp hay trùng lặp.
- Không định nghĩa một cách quá trừu tượng, chung chung.
b. Phương pháp liệt kê:
* Bước 1: Giáo viên cung cấp mẫu văn:
“Ta đến Viện Nghiên cứu các bệnh tim mạch, bác sĩ viện trưởng cho biết:

Chất ni-cô-tin của thuốc lá làm các động mạch co thắt lại, gây những bệnh nghiêm trọng
như huyết áp cao, tắc động mạch, nhồi máu cơ tim. Có thấy một bệnh nhân bị tác động
mạch chân lên những cơn đau như thế nào, rồi phải cắt dần từng ngón chân đến cả bàn
chân; có thấy những người 40-50 tuổi đã chết đột ngột vì nhồi máu cơ tim; có thấy
những khối ung thư ghê tởm mới nhận ra tác hại ghê ghớm của thuốc lá…”.
(Ôn dịch thuốc lá- Nguyễn Khắc Viện)
*Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, phân tích đặc điểm của mẫu:
Đọc đoạn văn trên và trả lời câu hỏi:
(1) Đoạn văn trên sử dụng biện pháp gì? Biện pháp đó có tác dụng như thế nào trong việc
diễn đạt nội dung thuyết minh?
(2) Để sử dụng tốt phương pháp liệt kê trong văn thuyết minh, cần phải chú ý điều gì?
* Bước 3: Thực hành theo mẫu:
Giáo viên yêu cầu học sinh viết đoạn văn (khoảng 3 câu) về đối tượng bất kỳ, trong đó sử
dụng phương pháp liệt kê. Ví dụ về 2 bài làm của học sinh:
(1) Mai rất đa dạng và phong phú, nếu dựa vào màu sắc thì mai sẽ có 4 loại chính: hoàng
mai, bạch mai, thanh mai và hồng mai. Nhưng mai vàng lại là loại hoa mà tôi thích
nhất…
17
(2) Đời sống của trâu rất đa dạng và phong phú. Trâu có rất nhiều loại: có con màu đen,
có con lại màu trắng, và lại có con màu vàng nữa…
* Bước 4: Nhận xét, đánh giá:
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát và nhận xét 2 mẫu của 2 bạn:
Gợi ý trả lời:
- Mẫu 1: Chọn đối tượng thuyết minh là 1 loại hoa- hoa mai. Việc liệt kê các loại khác
nhau của hoa mai giúp cho bài viết giàu kiến thức phong phú, thể hiện sự am hiểu của
người viết về hoa mai.
- Mẫu 2: Đối tượng thuyết minh là con trâu, một con vật quen thuộc của nhà nông. Người
viết đã liệt kê các loại trâu khác nhau dựa theo màu sắc da chứng tỏ trâu cũng có nhiều
chủng loại đa dạng.
c. Phương pháp nêu ví dụ:

* Bước 1: Giáo viên cung cấp mẫu:
Ngày nay đi các nước phát triển, đâu đâu cũng nổi lên chiến dịch chống thuốc lá. Người
ta cấm hút thuốc lá ở tất cả các nơi công cộng, phạt nặng những người vi phạm (ở Bỉ từ
năm 1987, vi phạm lần thứ nhất phạt 40 đôla, tái phạm phạt 500 đôla).
(Ôn dịch thuốc lá- Nguyễn Khắc Viện).
* Bước 2: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát, phân tích đặc điểm mẫu:
Giáo viên yêu cầu học sinh đọc mẫu và trả lời các câu hỏi:
(1) Chỉ ra các ví dụ được sử dụng trong đoạn văn trên và nêu tác dụng của nó trong việc
trình bày cách xử phạt những người hút thuốc lá nơi công cộng?
(2) Khi sử dụng phương pháp nêu ví dụ, cần chú ý những điều gì?
18
* Bước 3: Thực hành theo mẫu:
Giáo viên yêu cầu học sinh viết đoạn văn ngắn thuyết minh về đối tượng bất kỳ, có sử
dụng phương pháp nêu ví dụ:
Cây lúa đòi hỏi một lượng nước lớn hơn nhiều so với các cây trồng khác. Việc gieo trồng
lúa là một công việc chứa đựng các yếu tố mâu thuẫn tại một vài khu vực, chẳng hạn tại
Hoa Kỳ và Australia, là các khu vực mà việc gieo trồng lúa chiếm tới 7% tài nguyên
nước của các quốc gia này nhưng chỉ tạo ra 0,02% GDP.
* Bước 4: Nhận xét đánh giá:
Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát và đánh giá bài làm của bạn:
Gợi ý trả lời: Đối tượng thuyết minh là một loại cây- cây lúa. Đoạn văn sử dụng phương
pháp nêu ví dụ về việc gieo trồng lúa ở Hoa Kỳ và Ausstralia chiếm tới 7% lượng nước
của quốc gia nhưng chỉ tạo ra 0,02% GDP. Qua đó người viết cho thấy cây lúa sử dụng
rất nhiều nước.
d. Phương pháp dùng số liệu:
* Bước 1: Giáo viên cung cấp mẫu:
Sản xuất gạo toàn cầu đã tăng lên đều đặn từ khoảng 200 triệu tấn vào năm 1960 tới 600
triệu tấn vào năm 2004. Gạo đã xay xát chiếm khoảng 68% trọng lượng thóc ban đầu.
Năm 2004, ba quốc gia sản xuất lúa gạo hàng đầu là Trung Quốc( 31% sản lượng thế
giới), Ấn Độ( 20%) và Inđônêxia(9%).

* Bước 2: Hướng dẫn học sinh phân tích đặc điểm của mẫu:
Yêu cầu học sinh đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi:
19
(1) Đoạn văn trên cung cấp những số liệu nào? Nếu không có số liệu thì có thể làm sáng
tỏ được vấn đề thuyết minh không?
(2) Khi sử dụng số liệu trong phương pháp thuyết minh, phải chú ý điều gì?
* Bước 3: Thực hành theo mẫu:
Học sinh dựa vào mẫu để viết một đoạn văn thuyết minh có sử dụng phương pháp trên:
Gạo là nguồn thu nhập và cuộc sống của hàng triệu nông dân trên toàn thế giới. Họ
dùng khoảng 150 triệu hecta hàng năm để trồng lúa, với sản lượng khoảng 600 triệu tấn.
Châu Á là nơi sản xuất và cũng là nơi tiêu thụ khoảng 90%lượng gạo toàn thế giới. Châu
Phi gần như toàn bộ 38 nước đều trồng lúa, song diện tích lúa ở Madagasca và Nigieria
chiếm 60% tổng diện tích lúa là 8,5 triệu hecta của châu lục này.
*. Bước 4: Nhận xét, đánh giá:
Yêu cầu học sinh quan sát bài làm của bạn và nêu nhận xét, đánh giá.
Gợi ý trả lời:
- Đoạn văn trên thuyết minh về vai trò của gạo đối với thế giới, nhất là người nông dân.
- Đoạn văn đã sử dụng số liệu minh hoạ: 150 triệu hecta, 600 triệu tấn, 90% lượng gạo
thế giới được tiêu thụ ở châu Á,38 nước châu Phi trồng lúa, tổng diện tích là 8,5 triệu
hecta, Madagasca và Nigieria chiếm 60% tổng diện tích
- Tác dụng: cung cấp số liệu chính xác, thuyết phục người đọc về sự hiện diện của cây
lúa, vai trò của nó trong đời sống nông dân, nhất là khu vực châu Á, châu Phi .
e. Phương pháp so sánh:
* Bước 1: Giáo viên cung cấp mẫu:
20
“ Ôn dịch thuốc lá đe doạ sức khoẻ và tính mạng loài người còn nặng hơn cả
AIDS… Nếu giặc đánh như vũ bão thì không đáng sợ, đáng sợ là giặc gặm nhấm như
tằm ăn dâu”.
( Ôn dịch thuốc lá- Nguyễn Khắc Viện)
* Bước 2: Hướng dẫn học sinh quan sát và phân tích đặc điểm của mẫu.

Học sinh đọc đoạn văn và trả lời câu hỏi:
(1) Đoạn văn trên sử dụng phương pháp gì? Tác dụng của phương pháp đó?
(2) Muốn sử dụng phương pháp này có hiệu quả phải lưu ý điều gì?
* Bước 3: Thực hành theo mẫu:
Yêu cầu học sinh viết đoạn thuyết minh về một đối tượng bất kỳ, có sử dụng phương
pháp so sánh:
Hàng ngàn hòn đảo ở Hạ Long với muôn dáng vẻ khác nhau như những viên ngọc
bích long lanh đính trên chiếc khăn voan xanh biếc. Từ trên cao nhìn xuống, Hạ Long
như một bức tranh thuỷ mặc khổng lồ, sống động với những tác phẩm tạo hình tuyệt mĩ
của tạo hoá
( Bài làm của học sinh)
* Bước 4: Nhận xét đánh giá:
Yêu cầu học sinh đọc đoạn bài làm của bạn và nhận xét
Gợi ý trả lời:
- Đoạn văn thuyết minh về vịnh Hạ Long
21
- Đoạn văn đã sử dụng phương pháp so sánh: so sánh hàng ngàn hòn đảo với những viên
ngọc bích đính trên chiếc khăn voan xanh biếc; so sánh Hạ Long với bức tranh thuỷ mặc
khổng lồ, sống động.
- Tác dụng: làm cho đối tượng thuyết minh trở nên thơ mộng, gần gũi với con người, làm
nổi bật vẻ đẹp của kỳ quan thiên nhiên thế giới- Hạ Long.
2. Phương pháp dạy thực hành về “ Phương pháp thuyết minh”
Giờ dạy thực hành về phương pháp thuyết minh là việc soi sáng, củng cố lý thuyết về
phương pháp thuyết minh mà học sinh đã được học trước đó, đồng thời cũng là lúc các
em được hình thành và rèn luyện những kĩ năng tạo lập văn bản thuyết minh theo những
phương pháp đã học .
Giờ thực hành về phương pháp thuyết minh được tiến hành theo 3 bước:
2.1. Bước 1: Xác định nội dung lý thuyết.
- Học sinh nắm được các phương pháp thuyết minh cơ bản .
- Nắm được đặc điểm, cách làm, tác dụng của mỗi phương pháp thuyết minh.

- Vận dụng kiến thức về các phương pháp trong các bài cụ thể.
2.2. Bước 2: Luyện tập dựa trên cơ sở lý thuyết.
Giáo viên xây dựng hệ thống bài tập theo ba mức độ: nhận biết, thông hiểu, vận
dụng (dựa trên nội dụng lý thuyết)
a. Kiểu bài nhận biết:
Đọc đoạn văn thuyết minh sau và cho biết người viết đã sử dụng các phương
pháp thuyết minh nào?
22
Khu di tích đền Hùng gồm đền Thượng, đền Trung, đền Hạ, lăng vua Hùng thứ
6, đền Giếng ở phía Đông Nam dưới chân núi Nghĩa Lĩnh( vì trong đền có Giếng Ngọc,
nơi công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa là hai con gái của vua Hùng thứ 18 thường soi
giếng để chải tóc, vấn khăn , nên gọi là đền Giếng).
Gợi ý trả lời: Đoạn văn sử dụng phương pháp liệt kê, giải thích.
b. Kiểu bài thông hiểu:
Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi nêu bên dưới:
CẢNH BÁO TỪ NƯỚC NGỌT CÓ GAS
Một nghiên cứu mới đây trên báo Cancer Epidemiology đã kết luận, uống nhiều
nước ngọt có gas sẽ làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tuỵ. Nghiên cứu được thực hiện trên
648.387 người Trung Hoa cư trú ở Singapore, được theo dõi trong 14 năm, tất cả đều
tiêu thụ 2 lon nước ngọt có gas hoặc nhiều hơn mỗi tuần. Và hầu hết đã bị tăng 87%
nguy cơ ung thư tuyến tuỵ. Nước ngọt có gas có mật độ đường cao làm tăng mức insulin
trong cơ thể, điều này góp phần vào sự phát triển tế bào ung thư tuyến tuỵ.
Ngược lại, các nhà nghiên cứu đã không tìm thấy sự liên quan giữa việc uống
nước trái cây và các triệu chứng ung thư tuyến tuỵ. Bởi vì nước trái cây có ít chất đường,
nhiều chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, chúng ta lại ít dùng loại này so với nước ngọt có gas.
Ung thư tuyến tuỵ là nguyên nhân gây tử vong thứ 4 đối với cả nam lẫn nữ,
chiếm 6% các bệnh ung thư liên quan đến tử vong …
Để bảo vệ sức khoẻ, tránh uống nước ngọt có gas hoặc uống ít hơn 2 lon mỗi
tuần để ngăn ngừa nguy cơ phát triển bệnh ung thư tuyến tuỵ. Nên ăn nhiều trái cây và
23

cà chua. Uống vitamin C và E không có tác dụng giảm nguy cơ ung thư và có thể phản
tác dụng. Bác sĩ chỉ khuyên bệnh nhân dùng nước ngọt có gas sau khi phẫu thuật, do sự
tác động của khí carbonic trong nó lên lưỡi và thực quản giúp kích thích dạ dày, gây ra
động tác “ợ”.
( Báo Thanh Niên)
- Văn bản trên có phải là văn bản thuyết minh không? Vì sao?
- Văn bản trên đã sử dụng những phương pháp thuyết minh nào?
- Em rút ra được kinh nghiệm gì khi sử dụng các phương pháp thuyết minh?
Gợi ý trả lời:
- Văn bản trên là văn bản thuyết minh vì nó cung cấp cho người đọc nhiều tri
thức khoa học khách quan về những tác hại của nước ngọt có gas, từ đó giúp người đọc
có sự hiểu biết để bảo vệ sức khoẻ cho bản thân và cho những người xung quanh.
-Văn bản trên đã sử dụng nhiều phương pháp thuyết minh khác nhau: so sánh,
nêu số liệu, giải thích…
-Có thể sử dụng phối hợp nhiều phương pháp thuyết minh trong một văn bản
thuyết minh. Các phương pháp sẽ làm cho đối tượng thuyết minh được trở nên rõ ràng, có
sức thuyết phục đối với người đọc( nghe)
c. Kiểu bài vận dụng:
Giáo viên đưa ra đề bài cho học sinh tiến hành luyện tập:
Đề bài: Thuyết minh về con trâu trong công việc nhà nông
Dựa vào kiến thức lý thuyết chung về dạng bài thuyết minh về loài vật, học sinh
trao đổi với nhau để lập dàn ý chi tiết cho bài thuyết minh về con trâu.
24
Mở bài: Giới thiệu chung về con trâu: một con vật rất quen thuộc trong đời sống,
công việc của người nông dân Việt Nam từ xưa tới nay.
Thân bài:
- Đặc điểm chung của loài trâu
- Những bộ phận cơ thể đặc trưng nhất .
- Tập tính sinh trưởng của loài, quá trình tiến hoá.
- Cách nuôi dưỡng, chăm sóc

- Lợi ích, giá trị, ý nghĩa của loài vật đó trong đời sống con người.
Kết bài: Nhấn mạnh ý nghĩa của loài vật đó đối với con người
Sau khi tạo lập dàn ý chi tiết,học sinh viết các đoạn văn để tạo văn bản hoàn chỉnh sao
cho đúng yêu cầu đã nêu ra. Chú ý các em khi viết phải kết hợp nhiều phương pháp
thuyết minh.
Bài viết của học sinh:
Con trâu là con vật rất quen thuộc, thân thiết, gắn bó với nhân dân ta. Nó
giúp người nông dân Việt Nam trong lao động và sản xuất. Chính vì thế mà cha ông xưa
vẫn đánh giá nó là “đầu cơ nghiệp” đối với nhà nông.
Trâu thuộc lớp động vật nhai lạivà rất dễ nuôi. Nó mang lại cho nhân dân nhiều lợi ích.
Con trâu có bộ lông màu đen hoặc xam xám. Đôi khi cũng có con màu trắng nhưng rất
ít. Nó đi bằng bốn chân, nó thích nghi với cả môi trường nước và cạn. Đầu nó đặc biệt
với chiếc mồm nhô ra, hàm răng khoẻ như một chiếc máy nghiền. Đôi mắt to. Đặc trưng
nhất là đôi song dài cong cong, cứng cỏi, vừa hiên ngang vừa nặng nề, vướng víu. Tuy
nó sống trên cạn nhưng khi trời nắng, nó thường tới những nơi có nước để ngâm mình.
25

×