Đề tài :
PHƯƠNG PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 NHỚ LÂU TỪ
VỰNG ANH VĂN
Tác giả : Lê Thị Thanh Diễm
Đơn vị : Trường Tiểu Học Bồng Sơn
A. MỞ ĐẦU
I.Đặt vấn đề
1.Thực trạng của vấn đề đòi hỏi phải có giải pháp mới để giải quyết
Trong thời đại ngày nay, thời đại của công nghệ thông tin thì tiếng Anh được
sử dụng rộng rãi như ngôn ngữ quốc tế nó được coi là ngôn ngữ thứ hai của tất cả
các nước trên thế giới . Nhờ có tiếng Anh mà mọi người trên tòan thế giới biết nhau ,
hiểu nhau và thân thiện với nhau hơn . Tiếng Anh là một trong những thứ tiếng có
vốn từ vựng phong phú vì vậy người học và người sử dụng nó không gặp ít khó khăn
.Việc học và nói tiếng Anh trôi chảy là điều hoàn toàn không dễ dàng gì , bởi lẽ
chúng ta chưa hiểu hết về cách phát âm , và sử dụng trọng âm của từ cần dùng là
điều quan trọng . Học sinh chúng ta phần lớn học chưa sâu, chưa có được một vốn từ
vựng cần thiết để sử dụng cho việc học tập và giao tiếp hằng ngày của mình.
Từ vựng là một trong những phần quan trọng nhất của việc học ngoại ngữ.
Nếu muốn giỏi tiếng Anh thì dù ở bất kỳ khả năng nào : nghe , nói , đọc hay viết ta
cũng cần một vốn từ vựng tương đối lớn. Vốn từ này không phải tự dưng hay ngày
một ngày hai mà có , nó phải là một quá trình ôn luyện, học tập và tích lũy lâu dài
mới hình thành nên. Nhìn chung học sinh rất “sợ” và “ngại” học từ mới , việc sử
dụng từ còn nhiều hạn chế: viết sai chính tả , sử dụng từ sai, phát âm sai, sử dụng từ
không chính xác, không phù hợp với ngữ cảnh . Hơn nữa , ở độ tuổi tiểu học , các
em còn bỡ ngỡ trong việc tiếp xúc với môn học hoàn toàn mới. Đây là lứa tuổi còn
ham chơi , chưa ý thức cao trong học tập . Các em dễ tiếp thu nhanh nhưng cũng rất
dễ quên khi về đến nhà. Đa số các em có thói quen học thuộc nghĩa của từ. Một số
em chỉ học vẹt mang tính chất đối phó để xung phong lên bảng hoặc khi giáo viên
kiểm tra, rồi sau đó khi cần sử dụng thì quên mất hoặc không biết sử dụng từ như thế
nào . Tất cả những điều nêu trên là do giáo viên chúng ta chưa biết cách học từ vựng
, chưa áp dụng phương pháp day từ vựng thích hợp. Là một giáo viên trực tiếp giảng
dạy bộ môn tiếng Anh trong thời gian qua ở trường Tiểu Học Bồng Sơn, tôi rất hiểu
và thông cảm với những khó khăn mà các em thường gặp trong việc học tập và sử
dụng vốn từ vựng tiếng Anh. Tôi muốn bằng cách nào đó để giúp các em khắc phục
những khó khăn trên , phần nào dễ dàng và thuận lợi trong việc sử dụng tiếng Anh
thành thạo khi nghe , nói , đọc và viết
1
Trong bài viết này bản thân tôi đã suy nghĩ và xin đưa ra một số phương pháp
giúp các em cách học và nhớ lâu từ vựng tiếng Anh qua kinh nghiệm của bản thân
trong thời gian học tập , làm việc và nghiên cứu
2.Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
- Là một giáo viên vừa mới bước vào nghề , tôi không khỏi trăn trở về thực
trạng học sinh phải học quá nhiều kiến thức , tôi nhận thấy kỉ năng học và nhớ từ
vựng của các em còn hạn chế . Để các em có thể nắm vững và áp dụng vốn từ vựng
đã học một cách hiệu quả , tôi xin đưa ra vài phương pháp giúp nâng dần chất lượng
học từ vựng của các em
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Học sinh lớp 3 Trường Tiểu Học Bồng Sơn
II. Phương pháp tiến hành
1.Cơ sở lí luận và thực tiễn có tính định hướng cho việc nghiên cứu , tìm
giải pháp của đề tài
* Cơ sở lí luận
1.1 Vị trí nhiệm vụ của việc học tập tiếng Anh .
- Từ vựng tiếng Anh là một công cụ, phương tiện quan trọng nhất trong việc
sử dụng và học tiếng Anh . Ở bất kỳ một kỹ năng nào của việc học ngoại ngữ đều
phải sử dụng đến từ vựng.Vì vậy từ vựng tiếng Anh là nguồn vốn,là sản phẩm vô
giá, là công cụ chính cho người sử dụng từ vựng tiếng Anh .
-Bất cứ một thứ tiếng nào trên thế giới, muốn giao tiếp được với nó, đòi hỏi
chúng ta phải có một vốn từ. Bởi vì từ vựng là một thành phần không thể thiếu được
trong ngôn ngữ, được sử dụng cho hoạt động giao tiếp. Do vậy, việc nắm vững số từ
đã học để vận dụng là việc làm rất quan trọng.
- Trong tiếng Anh chúng ta không thể rèn luyện và phát triển bốn kỹ năng
nghe, nói, đọc, viết của học sinh mà không dựa vào nền tảng của từ vựng. Thật vậy
nếu không có số vốn từ cần thiết, các em sẽ không nghe được và hệ quả của nó là
không
nói được, đọc không được và viết cũng không xong, cho dù các em có nắm vững
mẫu câu.
1.2 Việc dạy và học từ vựng tiếng Anh.
- Trong một bài học môn học tiếng Anh, hầu hết tiết học nào cũng có phần
“giới thiệu từ vựng” . Để bài học đạt kết quả cao, học sinh phải nắm rõ cách phát âm
cũng như cách sử dụng của các từ. Muốn thế giáo viên cần lựa chọn các kỹ năng phù
hợp với từng loại từ để sao cho học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và dễ sử dụng. Có thể là
2
học có khả năng nắm bắt được từ vựng tại lớp nhung các em có thể quên ngay khi về
nhà hoặc khi gặp lại các em lại lúng túng khi không nhớ cách phát âm hay nghĩa của
từ. Vì thế , chúng ta cần phải có phương pháp làm sao để các em có thế vừa nắm bắt
vừa khắc ghi được từ vựng một cách hiệu quả nhất
* Cơ sở thực tiễn
- Như chúng ta đã biết Tiếng Anh là bộ môn không khó nhưng cũng không hề
đơn giản nhất là đối với lứa tuổi tiểu học. Nói đến từ vựng là nói đến cả một kho
tàng , dù là bất cứ ngôn ngữ nào. Dù là mới bắt đầu làm quen với bộ môn mới này
nhưng các em phải tiếp xúc với khá nhiều từ vựng . Hơn nữa các em còn ở độ tuổi
ham chơi nên cũng chưa có ý thức cao trong học tập nên các em có thể sẽ quên ngay
những gì đã được học ở lớp.
- Về phần giáo viên thì vẩn còn trung thành với cách dạy từ mới tức là chỉ
cung cấp nghĩa theo hướng một chiều và các em sẽ học thuộc mà ít khi áp dụng các
thủ thuật hay phương pháp dạy mới . Vì thế không thể không tránh khỏi trường hợp
học sinh dễ chán hay dễ quên ngay sau khi học vì không khắc sâu những từ đã học
- Ngoài giáo viên giảng dạy tại lớp thì gia đình cũng đóng vai trò quan trọng
trong việc khích lệ , nhắc nhở các em học tập tiến bộ . Đa phần cha mẹ bây giờ đều
lo chú tâm vào công việc mà quên đi việc quan tam đến việc học hành , giao phó cả
cho giáo viên . Hơn nữa , không phải cha mẹ nào cũng biết tiếng Anh để mà chỉ cho
con mình. Vì thế không thể tránh khỏi việc học sinh lơ là , sao nhãng việc học tập
của mình , dẫn đến chất lượng hoc sinh càng ngày càng thấp ,nếu gia đình không có
sự quan tâm đúng mức và giáo viên không có phương pháp hiệu quả.
Vì thế ,việc giúp các em tiếp thu và nhớ từ vựng để có thể áp dụng vào thực
tiễn cuộc sống là một điều không dễ dàng gì nếu ta không có phương pháp phù hợp
2. Các biện pháp tiến hành , thời gian tạo ra giải pháp
* Biện pháp tiến hành
- Tiến hành điều tra thống kê , phân tích xử lý số liệu thu thập để đưa ra giải
pháp
- Ngoài việc vận dụng những phương pháp giảng dạy đặc thù của phân môn
kết hợp với việc sử dụng tranh ảnh , vật thật , nhiều thủ thuật mới cùng với
thực hành giao tiếp
- thường xuyên kiểm tra , củng cố từ vựng
- phối hợp với gia đình để giáo dục học sinh hiệu quả hơn
- tuyên dương , khen thưởng kịp thời để khích lệ học sinh
* Thời gian tạo ra giải pháp
- Bản thân tôi đã thục hiện từ năm 2012 – 2014 vừa nghiên cứu vừa thực hiện
bổ sung , sữa chữa hoàn thiện và đã vận dụng có hiệu quả
3
B. NỘI DUNG
I. Mục tiêu
Trên cơ sở lí luận , thực tế và tiếp xúc với học sinh . Tôi nhận thấy khả năng
nhớ và vận dụng từ vựng đã học còn nhiều hạn chế . Tôi quyết định chọn đề tài
“phương pháp giúp học sinh lớp 3 nhớ lâu từ vựng Tiếng Anh” nhằm :
+ giúp học sinh tiếp thu nhanh , nhớ lâu và có thể vận dụng một cách tích cực
từ vựng tiếng Anh trong học tập lẫn trong thực tế cuộc sống
+ rèn cho các em ý thức tự học từ vựng bằng những phương pháp đơn giản
nhưng hiệu quả
II. Mô tả giải pháp của đề tài
1. Thuyết minh tính mới
- Trước khi đi vào những vấn đề cụ thể, chúng ta thống nhất với nhau rằng,
phương pháp chủ đạo trong dạy học ngoại ngữ của chúng ta là lồng ghép, nghĩa là từ
mới cần được dạy trong ngữ cảnh, ngữ cảnh có thể là một vật thật, tranh ảnh hay một
bài hội thoại. Tuy nhiên, nói đến cùng thì việc dạy và học ngoại ngữ vẫn là việc dạy
từ mới như thế nào, dạy cấu trúc câu mới như thế nào để học sinh biết cách sử dụng
từ mới và cấu trúc mới trong giao tiếp bằng tiếng nước ngoài.
Ngay từ đầu, giáo viên cần xem xét các thủ thuật khác nhau cho từng bước xử lý từ
vựng trong các ngữ cảnh mới : gợi mở, dạy từ, kiểm tra và củng cố từ vựng.
- Có nên dạy tất cả những từ mới không ? dạy bao nhiêu từ trong một tiết thì
thừa ?
- Dùng sẵn mẫu câu đã học hoặc sắp học để giới thiệu từ mới.
- Dùng tranh ảnh , dụng cụ trực quan để giới thiệu từ mới .
- Đảm bảo cho học sinh nắm được cấu trúc , vận dụng từ vựng vào cấu trúc để
hoàn thiện chức năng giao tiếp. Thiết lập mối quan hệ giữa cấu trúc mới và
vốn từ đã có.
- Khắc sâu vốn từ trong trí nhớ của học sinh thông qua các mẫu câu và qua
những bài tập thực hành.
1.1. Giải pháp 1: Lựa chọn từ để dạy
Tiếng Anh là một môn học có tầm quan trọng, nó là công cụ để giao tiếp với
các nước trên thế giới. Muốn giao tiếp tốt chúng ta phải có vốn từ phong phú.
Ở môi trường tiểu học hiện nay, khi nói đến ngữ liệu mới là chủ yếu nói đến ngữ
pháp và từ vựng, từ vựng là ngữ pháp luôn có mối quan hệ khắng khích với nhau,
luôn được dạy phối hợp để làm rõ nghĩa của nhau. Tuy nhiên việc dạy và giới thiệu
4
từ vựng là vấn đề cụ thể. Thông thường trong một bài học luôn xuất hiện những từ
mới, xong không phải từ mới nào cũng cần đưa vào để dạy. Để chọn từ cần dạy, giáo
viên cần xem xét những vấn đề:
- Từ chủ động (active vocabulary)
- Từ bị động (passive vocabulary)
Chúng ta đều biết cách dạy hai loại từ này khác nhau. Từ chủ động có liên
quan đến bốn kỹ năng (nghe – nói – đọc – viết). Đối với loại từ này giáo viên cần
đầu tư thời gian để giới thiệu và cho học sinh tập nhiều hơn.
Với từ bị động giáo viên chỉ cần dừng ở mức nhận biết, không cần đầu tư thời
gian vào các hoạt động ứng dụng. Giáo viên cần biết lựa chọn và quyết định xem sẽ
dạy từ nào như một từ chủ động và từ nào như một từ bị động.
- Khi dạy từ mới cần làm rõ ba yếu tố cơ bản của ngôn ngữ là:
+ Form (dạng từ).
+ Meaning (ý nghĩa).
+ Use (cách sử dụng).
Đối với từ chủ động ta chỉ cho học sinh biết chữ viết và định nghĩa như từ
điển thì chưa đủ, để cho học sinh biết cách dùng chúng trong giao tiếp, giáo viên cần
cho học sinh biết cách phát âm, không chỉ từ riêng lẻ, mà còn biết phát âm đúng
những từ đó trong chuỗi lời nói, đặc biệt là biết nghĩa của từ.
-Số lượng từ cần dạy trong bài tuỳ thuộc vào nội dung bài và trình độ của học
sinh. Không bao giờ dạy tất cả các từ mới, vì sẽ không có đủ thời gian thực hiện các
hoạt động khác. Tuy nhiên, trong một tiết học chỉ nên dạy tối đa là 6 từ.
- Trong khi lựa chọn từ để dạy, bạn nên xem xét đến hai điều kiện sau:
+ Từ đó có cần thiết cho việc hiểu văn bản không ?
+ Từ đó có khó so với trình độ học sinh không ?
- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản và phù hợp với trình độ của học
sinh, thì nó thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn phải dạy cho học sinh.
- Nếu từ đó cần thiết cho việc hiểu văn bản nhưng khó so với trình độ của học
sinh, thì nó không thuộc nhóm từ tích cực, do đó bạn nên giải thích rồi cho học sinh
hiểu nghĩa từ đó ngay.
- Nếu từ đó không cần thiết cho việc hiểu văn bản và cũng không khó lắm thì
bạn nên yêu cầu học sinh đoán.
1.2 Giải pháp 2 : Các thủ thuật gợi mở giới thiệu từ mới:
- Để học sinh có thể nhớ từ thì bước đâu tiên phải giúp các em tiếp thu một
cách hiệu quả bằng những thủ thuật hợp lí. Giáo viên có thể dùng một số thủ thuật
gợi mở giới thiệu từ mới như:
5
a. Visual (nhìn): cho học sinh nhìn tranh ảnh, vẽ phác họa cho các em nhìn,
giúp giáo viên ngữ nghĩa hoá từ một cách nhanh chóng.
Ví dụ: a car ví dụ: a flower
b. Mine (điệu bộ): Thể hiện qua nét mặt, điệu bộ.
Ví dụ: happy
Teacher looks students, makes
happy face, smile
Teacher asks: “How do I feel?”
Ví dụ: (to) jump
Teacher jumps
Teacher asks: “What am I doing?”
c. Realia (vật thật): Dùng những dụng cụ trực quan thực tế có được.
Ví dụ: cakes , bad
T. brings real cakes and bag into the
class.
T. asks, “What’s this?”
Ví dụ: open (adj.), closed (adj.)
Teacher opens and closes the book
Teacher asks ss “ what I am doing ?”
d. Situation / explanation(tình huống/giải thích):
Ví dụ: untidy
T. explains, “ this room is untidy .The boy leaves his clothes on the floor.”
T asks “Tell me the word “untidy” in Vietnamese.”
e. Example(ví dụ):
Ví dụ: food
T. lists examples of school things –
schoolbag , rubber , ruler…these
are all school things Give me
another example of school
things ”
Ví dụ: (to) complain
T. say, “This room is too noisy and
too small. It’s no good (etc.)”
T. asks, “What am I doing?”
6
f. Synonyon \ antonyon (đồng nghĩa \ trái nghĩa):
Giáo viên dùng những từ đã học rồi để giảng từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa.
Ví dụ: table
T. asks, “What’s another eord for
desk?”
Ví dụ: short
T. asks, “What’s the opposite of
long?”
g. Translation (dịch):
Giáo viên dùng những từ tương đương trong tiếng Việt để giảng nghĩa từ
trong tiếng Anh. Giáo viên chỉ sử dụng thủ thuật này khi không còn cách nào khác,
thủ thuật này thường được dùng để dạy từ trừu tượng, hoặc để giải quyết một số
lượng từ nhiều nhưng thời gian không cho phép, Giáo viên gợi ý học sinh tự dịch từ
đó.
Ví dụ: (to) forget
T. asks, “How do you say “quên” in English?”
h. T’s eliciting questions (câu hỏi gợi ý) :
Để giới thiệu từ mới, giáo viên dạy cho học sinh theo bốn kỹ năng nghe – nói
– đọc – viết.
+ Nghe: Giáo viên đọc mẫu, học sinh lắng nghe.
+ Nói: Giáo viên đọc từ, học sinh đọc lại.
+ Đọc: Giáo viên viết từ lên bảng, học sinh đọc từ bằng mắt, bằng miệng.
+ Viết: Học sinh viết từ vào tập.
Trong khi dạy từ mới phải ghi nhớ các điểm sau: Nên giới thiệu từ trong mẫu
câu, ở những tình huống giao tiếp khác nhau, giáo viên kết hợp việc làm việc đó,
bằng cách thiết lập được sự quan hệ giữa từ cũ và từ mới, từ vựng phải được củng cố
liên tục.
Giáo viên thường xuyên kiểm tra từ vựng vào đầu giờ bằng cách cho các em
viết từ vào bảng con và giơ lên, với cách này giáo viên có thể quan sát được toàn bộ
học sinh ở lớp, bắt buộc các em phải học bài và nên nhớ cho học sinh vận dụng từ
vào trong mẫu câu, với những tình huống thực tế giúp các em nhớ từ lâu hơn, giao
tiếp tốt và mang lại hiệu quả cao.
Để học sinh tiếp thu bài tốt đòi hỏi khi dạy từ mới, giáo viên cần phải lựa
chọn các phương pháp cho phù hợp, chúng ta cần chọn cách nào ngắn nhất, nhanh
7
nhất, mang lại hiệu quả cao nhất, là sau khi học xong từ vựng thì các em đọc được,
viết được và biết cách đưa vào các tình huống thực tế.
1.3 Giải pháp 3 : Các bước tiến hành giới thiệu từ mới:
Bước giới thiệu bài, giới thiệu chủ đề là bước khá quan trọng trong việc dạy
từ vựng. Bước này sẽ quyết định sự thành công của tiết học, nó sẽ gợi mở cho học
sinh liên tưởng đến những từ sắp học qua chủ điểm vừa mới được giới thiệu.
Điều quan trọng nhất trong giới thiệu từ mới là phải thực hiện theo trình tự: nghe,
nói, đọc, viết. Đừng bao giờ bắt đầu từ hoạt động nào khác “nghe”. Hãy nhớ lại quá
trình học tiếng mẹ đẻ của chúng ta, bao giờ cũng bắt đầu bằng nghe, bắt chước phát
âm rồi mới tới những hoạt động khác. Hãy giúp cho học sinh của bạn có một thói
quen học từ mới một cách tốt nhất:
- Bước 1: “nghe”, bạn cho học sinh nghe từ mới bằng cách đọc mẫu hoặc mở
băng đĩa cho học sinh nghe.
- Bước 2: “nói”, sau khi học sinh đã nghe được ba lần bạn mới yêu cầu học
sinh nhắc lại. Khi cho học sinh nhắc lại, bạn cần chú ý cho cả lớp nhắc lại trước, sau
đó mới gọi cá nhân.
- Bước 3: “đọc”, bạn viết từ đó lên bảng và cho học sinh nhìn vào đó để đọc.
Cho học sinh đọc cả lớp, rồi đọc cá nhân và sửa lỗi cho học sinh tới một chừng mực
mà bạn cho là đạt yêu cầu.
- Bước 4: “viết”, sau khi học sinh đã đọc từ đó một cách chính xác rồi bạn
mới yêu cầu học sinh viết từ đó vào vở.
- Bước 5: bạn hỏi xem có học sinh nào biết nghĩa của từ đó không và yêu cầu
một học sinh lên bảng viết nghĩa của từ đó bằng tiếng Việt.
- Bước 6: đánh trọng âm từ: phát âm lại từ và yêu cầu học sinh nhận diện âm
tiết có trọng âm và đánh dấu.
- Bước 7: cho câu mẫu và yêu cầu học sinh xác định từ loại của từ mới học.
1.4. Giải pháp 4 : Các thủ thuật kiểm tra và củng cố từ mới
Chúng ta biết rằng chỉ giới thiệu từ mới thôi không đủ, mà chúng ta còn phải
thực hiện các bước kiểm tra và củng cố. Các thủ thuật kiểm tra và củng cố sẽ khuyến
khích học sinh học tập tích cực và hiệu quả hơn. Trong hoạt động này, chúng ta có
thể sử dụng để kiểm tra từ mới. Sau đây là năm thủ thuật kiểm tra từ mới:
- Rub out and Remember
- Slap the board
- What and where
- Matching
- Bingo
- Order vocabulary
8
1.5. Giải pháp 5 :Hướng dẫn học sinh học từ vựng ở nhà:
Để phát huy tốt tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong học tập, thì
chúng ta cần tổ chức quá trình dạy học theo hướng tích cực hoá hoạt động của người
học, trong quá trình dạy và học, giáo viên chỉ là người truyền tải kiến thức đến học
sinh, học sinh muốn lĩnh hội tốt những kiến thức đó, thì các em phải tự học bằng
chính các hoạt động của mình.
Hơn nữa thời gian học ở trường rất ít, cho nên đa phần thời gian còn lại ở gia đình
các em phải tổ chức cho được hoạt động học tập của mình. Làm được điều đó, thì
chắc chắn hoạt động dạy và học sẽ ngày càng hoàn thiện hơn.
Cho nên ngay từ đầu từ năm học, giáo viên cần hướng dẫn học sinh xây dựng
hoạt động học tập ở nhà.
a/. Chuẩn bị từ vựng.
b/. Học thuộc lòng từ vựng.
c/.Yêu cầu mỗi học sinh có một quyển vở ghi từ vựng . Mỗi học sinh cần có
một quyển vở ghi từ vựng hằng ngày, mỗi từ các em có thể ghi từ 10 – 15 lần . Giáo
viên có thể thu chấm theo định kỳ, khuyến khích lấy điểm bổ sung kiểm tra miệng
hoặc điểm kiểm tra 15 phút. Với cách này học sinh có thể luyện tập từ thường xuyên
hơn và nhớ từ lâu hơn .
d/. Hướng dẫn học sinh ghi từ vào một miếng giấy nhỏ Ngoài việc viết từ vào
vở ghi từ vựng học sinh có thể sử dụng những miếng giấy nhỏ và viết từ vào đó, sau
đó học chúng bất kỳ mọi lúc , mọi nơi . Theo cách này học sinh tiết kiệm được rất
nhiều thời gian , học sinh có thể vừa học vừa làm , một cách thuận lợi .
1.6 . Giải pháp 6 : tăng cường công tác phối hợp
* phối hợp phụ huynh
- đồ dùng học tập sách vở , dụng cụ đầy đủ
- cần tạo điều kiện cho các em có một môi trường học tập lành mạnh và quản
lí thời gian học tự học chặc chẽ hơn
- thường xuyên quan tâm , kiểm tra , nhắc nhở con em chuẩn bị bài ( từ vựng
+ bài tập) và làm bài tập về nhà đầy đủ
- Thường xuyên thông tin 2 chiều : 2 tuần / 1 lần
* Phối hợp đồng nghiệp
- thường xuyên trao đổi với đồng nghiệp để tạo ra giải pháp mới nhằm nâng
cao chất lượng học sinh
Ngoài ra bản thân người giáo viên cần phải gương mẫu , phát âm đúng ,
thường xuyên học tập , trau dồi vốn từ vựng nhiều nhất có thể , giảng dạy nhiệt tình ,
tâm huyết , biết nhìn cái cũ mà phát huy cái mới , áp dụng nhiều thủ thuật phương
9
pháp mới , thường xuyên quan tâm sâu sắc , động viên , khích lệ học sinh tiến bộ
trong học tâm
2. Khả năng áp dụng
2.1 Thời gian áp dụng hoặc thử nghiệm thành công
Đề tài này tôi tiến hành thử nghiệm vào đầu năm học 2012. Trong một năm
học, việc áp dụng đề tài này vào học sinh khối lớp 3 bước đầu đã có kết quả khá tốt
so với năm học tốt
2.2 Có khả năng thay thế giải pháp hiện có
- Các giải pháp trên đã phát huy được tính tích cực của học sinh trong việc
học và vận dụng từ vựng . Tạo cho các em niềm say mê học tập hơn nữa hình thành
cho các em ý thức tự học
2.3 Khả năng áp dụng ở đơn vị hoặc trong ngành
- Đề tài có thể áp dụng cho học sinh khối lớp 3 nói riêng và khối lớp 4 , 5
trường Tiểu học Bồng Sơn chung , cũng như cho tất cả học sinh tiểu học các trường
trên địa bàn Huyện
3. Lợi ích kinh tế - xã hội
- Nhờ vận dụng các giải pháp trên vào việc giảng dạy đã giúp các em ngày
càng tiến bộ trong việc tiếp thu và tích lũy vốn từ vựng
- Các tiết học trở nên sôi nổi và sinh động hơn.
- Học sinh đã thuộc các từ mới ngay tại lớp học.
- Vốn từ vựng của các em tăng lên rõ rệt.
- Học sinh có thể khắc sâu vốn từ vựng và sử dụng chúng lâu dài
- Các em học sinh yếu kém có thể sử dụng được từ vựng vào những câu đơn
giản. Những học sinh khá có thể sử dụng từ vựng trong những câu phức tạp hơn.
- Các em đã dần hình thành cho mình ý thức áp dụng những phương pháp tự
học tại nhà ngoài việc học ở trường một cách tích cực
C. KẾT LUẬN
1. Những điều kiện kinh nghiệm áp dụng , sử dụng giải pháp
- Qua quá trình giảng dạy tôi đã đúc kết được một số kinh nghiệm nhỏ .Ngoài
việc giảng dạy theo đúng phân môn , người giáo viên cần thường xuyên trau dồi ,
đổi mới phương pháp để quá trình dạy và học hiệu quả hơn
2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp
10
Với việc áp dụng chương trình mới như hiện nay , đặc biệt là phong trao thi
olympic Anh Văn qua mạng đang được đề cao thì việc áp dụng đề tài này là điều cần
thiết
Sau một thời gian vận dụng các thủ thuật giúp học sinh học từ vựng trên lớp
và một số thủ thuật giúp học sinh học từ vựng khi ở nhà. Nguồn từ vựng của học
sinh đã được tăng lên rõ rệt. Số học sinh đọc kém, ít nhớ từ vựng, viết chậm trong
lớp giờ đã giảm xuống rất nhiều chứng tỏ ý thức học tập của các em rất tốt. Những
giờ học tiếng Anh rất hăng say đọc, không những đọc to, rõ ràng mà nhiều em còn
có thể nhớ từ rất giỏi khi chỉ vừa mới học xong bài. Và bước đầu tiên vào học môn
tiếng Anh đã khởi sắc.
Có được nguồn từ vựng này sẽ giúp các em tích cực tham gia học tập, nghiên
cứu, tự tin hơn trong thực hành và giao tiếp, góp phần nâng cao chất lượng học tập
trong bộ môn tiếng Anh của học sinh và hiệu quả trong việc giảng dạy tiếng Anh
của giáo viên. Như vậy, việc vận dụng các thủ thuật giúp học sinh học từ vựng ở trên
lớp, không chỉ tạo không khí vui vẻ, phấn khởi học tập của học sinh, mà là một thủ
thuật khoa học, sáng tạo của người thầy.
Tôi tin rằng nếu tiếp tục thực hiện đề tài này một cách nghiêm túc, xuyên suốt
quá trình giảng dạy thì chất lượng học tập bộ môn Tiếng Anh trong trường Tiểu học
Bồng Sơn nói riêng mà còn trong cả huyện sẽ có được những kết quả khả quan hơn.
* Đề xuất , kiến nghị
Nhằm giúp công tác giảng dạy và học ngày càng thu được kết quả tốt , tôi rất
mong các ban ngành , các cấp lãnh đạo không ngừng quan tâm và tạo điều kiện hơn
nữa cho ngành giáo dục nói chung và từng trường nói riêng về cơ sở vật chất thuận
lợi hơn để tăng cường công tác thực hiện có hiệu quả mục tiêu môn tiếng Anh .
Đối với giáo viên , cần có tận tâm với nghề , tận tình với học trò . Hơn nữa
cần thường xuyên học tập , trau dồi , sáng tạo trong giảng dạy để tạo ra hiệu quả cao
nhất
Đối với học sinh ,nhằm phục vụ tốt cho quá trình học tập , các em cần chuẩn
bị tốt bài tập về nhà cũng như đồ dùng học tập đầy đủ trước khi đến lớp , có ý thức
học tự học để tự mình nâng cao kiến thức
Trên đây là những " phương pháp giúp học sinh lớp 3 nhớ lâu từ vựng tiếng
Anh” mà tôi đã đưa ra. Thiết nghĩ, đây cũng là một vấn đề rất được quan tâm trong
tiếng Anh tiểu học. Rất mong được sự đón nhận những ý kiến đóng góp của các
thầy, cô để trau dồi chuyên môn hơn trong quá trình giảng dạy
Người thực hiện
Lê Thị Thanh Diễm
11