Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Luận Văn Thẩm định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.29 KB, 60 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam còn là một nước nghèo, điểm xuất phát thấp, để không bị tụt
hậu, chúng ta không còn con đường nào khác là phải tăng cường đầu tư để đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, tạo điều kiện phát triển kinh
tế xã hội. Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng nguồn vốn chưa cao, phương pháp
quản lý còn lỏng lẻo, còn rất nhiều doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) làm ăn
không hiệu quả nên thường xuyên xảy ra tình trạng lãi giả, lỗ thật. Để có thể
giải quyết được các vấn đề trên phải có những biện pháp lâu dài, hiệu quả
nhằm nâng cao trình độ quản lý của các cấp chính quyền, tiến hành cổ phần
hoá các DNNN mới tránh được tình trạng cha chung không ai khóc. Việc tiến
hành cổ phần hoá cũng gặp không ít khó khăn như: khó khăn trong việc xác
định giá trị của doanh nghiệp, muốn xác định đúng thì phải lựa chọn những
phương pháp phù hợp đối với từng loại hình doanh nghiệp, từng doanh nghiệp
cụ thể, trong một thời gian nhất định; khó khăn trong việc xác định nguyên giá
cũng như giá trị hao mòn của tài sản, kiểm kê và phân loại tài sản. Tất cả
những khó khăn này khiến cho việc công tác thẩm định giá tại doanh nghiệp
không được tiến hành một cách nhanh chóng, kết quả xác định giá trị doanh
nghiệp chưa có độ tin cậy cao.Vì vậy, thẩm định giá trị doanh nghiệp là một
trong những vấn đề rất quan trọng trong khi tiến hành cổ phần hoá DNNN
Việc tiến hành định giá doanh nghiệp là đi xác định giá trị thực tế của
doanh nghiệp trong đó có tính đến khả năng sinh lời của các tài sản thuộc sở
hữu của doanh nghiệp trong tương lai. Thẩm định giá trị doanh nghiệp có vai
trò hết sức quan trọng, nó là công cụ quản lý giá cần thiết tồn tại khách quan
trong đời sống kinh tế xã hội của mọi nền kinh tế sản xuất hàng hoá, đặc biệt
đối với các nước phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường. Đây là một hoạt
động không thể thiếu được trong việc hình thành nên giá của doanh nghiệp; nó
được rất nhiều đối tượng, chủ thể cùng quan tâm. Bởi việc thẩm định giá có
1
chính xác hay không sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định và hành động
trong tương lai của các đối tượng quan tâm.
Như vậy thẩm định giá trị doanh nghiệp không thể thiếu được trong nền


kinh tế thị trường và đặc biệt nước ta đang tiến hành cải cách DNNN bằng
hình thức cổ phần hoá. Chính vì vậy khi về thực tập tại: Trung tâm thông tin,
tư vấn, dịch vụ về tài sản và bất động sản trực thuộc Cục quản lý Công sản
– Bộ Tài Chính; với mong muốn tìm hiểu về phương thức thẩm định giá trị
doanh nghiệp và tác dụng của công tác thẩm định giá trị doanh nghiệp trong
quá trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam, em đã chọn chuyên đề thực tập là:
“Thẩm định giá trị doanh nghiệp trong quá trình cổ phần hoá doanh
nghiệp Nhà nước ở Việt Nam hiện nay”
2
CHƯƠNG 1
THẨM ĐỊNH GIÁ TRỊ DNNN TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
1.1.Giá trị doanh nghiệp
Như chúng ta đã biết hàng hoá là sản phẩm của lao động, có thể thoả
mãn nhu cầu nào đó của con người thông qua trao đổi mua bán. Hàng hoá có
hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị.
Giá trị sử dụng của hàng hoá là công dụng của hàng hoá để thoả mãn
nhu cầu nào đó của con người và nó là giá trị sử dụng xã hội. Còn giá trị của
hàng hoá là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng
hoá, hay nói cách khác một sản phẩm đã là hàng hoá thì đều có một giá trị
nhất định. Doanh nghiệp cũng là một loại hàng hoá, và nó cũng có giá trị nhất
định bởi cũng phải mất rất nhiều hao phí sức lao động thì mới có thể tạo dựng
được nên một doanh nghiệp.
Doanh nghiệp là một cơ cấu phức tạp của nhiều yếu tố và mối liên hệ
giữa chúng. Hoạt động của doanh nghiệp phụ thuộc vào các mối liên hệ bên
trong, bên ngoài và môi trường. Tất cả trong một thể thống nhất tạo nên giá trị
doanh nghiệp. Giá trị doanh nghiệp được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau
như giá trị về đặt vốn, về tài sản và về khả năng sinh lời…
Trong cơ chế thị trường giá trị doanh nghiệp được xem là khả năng sản
xuất kinh doanh, sức cạnh tranh, triển vọng đem lại thu nhập của nó trên
thương trường trong tương lai, là giá trị vô hình phi hiện vật của nó tại thời

điểm hiện tại chi phối bởi quan hệ cung cầu trên cơ sở quy luật giá trị.
Tóm lại, giá trị thực tế của doanh nghiệp là tổng giá trị thực tế tài sản
(bao gồm tài sản hữu hình, vô hình và lợi thế của doanh nghiệp) tính theo giá
thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
3
Theo lý thuyết kinh tế hiện đại, mục tiêu bao trùm của doanh nghiệp là
tăng giá trị. Giá trị của doanh nghiệp là mối quan tâm hàng đầu của các nhà
quản lý doanh nghiệp, các nhà đầu tư. Trong sản xuất kinh doanh, hoạt động
tài chính, mọi chiến lược, mọi quyết lược được đưa ra đều phải chú ý đặc biệt
đến điều này. Thẩm định giá trị doanh nghiệp hay việc xác định giá trị doanh
nghiệp đã trở thành vấn đề thường nhật của kinh tế thị trường. Giá trị này là
cơ sở để đánh giá chất lượng quản lý để thương lượng trong mua bán sát nhập
doanh nghiệp Như vậy, thẩm định giá trị doanh nghiệp là đánh giá giá trị
thực sự của doanh nghiệp trên cơ sở hiểu biết sâu sắc về nó trong một môi
trường nhất định.
1.2.Phương pháp định giá doanh nghiệp
1.2.1.Phương pháp tài sản
Khái niệm phương pháp: Là phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp
trên cơ sở đánh giá giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại
thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Đối tượng áp dụng là các doanh nghiệp cổ phần hoá, trừ những doanh
nghiệp thuộc diện áp dụng theo phương pháp dòng tiền chiết khấu theo quy
định của pháp luật.
Quy trình thực hiện
Khi doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá thì trước tiên phải kiểm kê,
phân loại tài sản của doanh nghiệp mình sử dụng và xử lý các vấn đề tài chính
tại thời điểm thẩm định giá trị doanh nghiêp.
 Trước tiên là kiểm kê và phân loại tài sản, công nợ
- Đối với tài sản: kiểm kê xác định đúng số lượng và chất
lượng của tài sản thực tế doanh nghiệp hiện có đang quản lý và sử dụng; bên

cạnh đó phải kiểm tra quỹ tiền mặt, đối chiếu số dư tiền gửi của doanh
4
nghiệp tại ngân hàng tại thời điểm thẩm định; xem xét đối chiếu tài sản thực tế
so với sổ sách kế toán.
Doanh nghiệp phân loại tài sản đã kiểm kê theo các nhóm sau:
+ Tài sản doanh nghiệp có nhu cầu sử dụng
+ Tài sản doanh nghiệp không cần dùng, tài sản chờ thanh lý, tồn đọng…
+ Tài sản thuê ngoài, hàng hoá - vật tư giữ hộ, nhận đại lý
+ Tài sản hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi (nếu có)
- Doanh nghiệp tiến hành đối chiếu, xác nhận và phân loại
các khoản công nợ, lập bảng kê chi tiết đối với từng loại công nợ theo quy
định của pháp luật hiện hành.
 Xử lý tài chính: Sau khi đã tiến hành xong các bước ở trên thì doanh
nghiệp sẽ tiến hành xử lý các vấn đề về tài chính trước khi tiến hành thẩm
định giá trị doanh nghiệp. Căn cứ vào kết quả của việc kiểm kê, phân loại và
xử lý các vấn đề tài chính thì tiếp theo sẽ tiến hành các bước xác định giá trị
của doanh nghiệp.
Một là, xác định giá trị doanh nghiệp theo sổ kế toán là tổng giá trị tài
sản thể hiện trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp
Ví dụ: Hãy tính giá trị thực tế vốn Nhà nước của công ty B để cổ phần hoá
theo phương pháp tài sản, với các số liệu sau ( đến ngày 31/12/2005)
1/ Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn: 10.500 triệu đồng
Trong đó:
- Vật tư, hàng hoá tồn kho: 2.500 triệu đồng
5
- Các khoản phải thu : 4.000 triệu đồng
2/ Tài sản cố định : 20.000 triệu đồng
Trong đó:
- Nhà xưởng : 8.000 triệu đồng
- Máy và thiết bị : 10.000 triệu đồng

- Phương tiện vận tải : 2.000 triệu đồng
3/ Nợ: 8.000 triệu đồng
4/ Số dư quỹ khen thưởng, phúc lợi 500 triệu đồng
5/ ĐVT: Đồng
CHỈ TIÊU 2002 2003 2004
Lợi nhuận sau thuế 2.800 3.27 6 3.388
Vốn Nhà nước (khụng bao gồm
Quỹ khen thưởng, phỳc lợi)
20.000 21.000 22.000
Tính lại theo giá thị trường thì.
- Vật tư, hàng tồn kho 2.200 triệu đồng
- Nhà xưởng 9.500 triệu đồng
- Máy và thiết bị 9.800 triệu đồng
- Phương tiện vận tải 1.600 triệu đồng
- Nợ không có khả năng thu hồi 200 triệu đồng
Lãi suất trái phiếu kỳ hạn 10 năm của chính phủ 8,4%/năm
Giải
Vốn Nhà nước tại công ty B tính theo phương pháp tài sản
 chênh lệch giá trị tài sản
ĐVT: triệu đồng
Tài sản Giá thị trường Giá sổ sách Chênh lệch
6
I. TSLĐ và đầu tư
ngắn hạn
- Vật tư, hàng hoá tồn
kho
2.200 2.500 -300
- Các khoản phải thu 4000 -200
Cộng -500
II. TSCĐ

- Nhà xưởng 9500 8000 +1500
- Máy móc thiết bị 9800 10000 -200
- Phương tiện vận tải 1600 2000 -400
Cộng +900
Tổng cộng +400

 Giá trị lợi thế kinh doanh của công ty
- Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế so vốn Nhà nước bình quân 3 năm
liền kề
R2002 = 2.800/20.000 = 14%
R2003 = 3.276/21.000 = 15,6%
R2004 = 3.388/22.000 = 15,4%
R = 15%
- Giá trị lợi thế của công ty
7
22.000 triệu đồng x (15% - 8,4%) = 1.452 triệu đồng
 Giá trị thực tế vốn Nhà nước tại công ty B tại thời điểm 31/12/2005
để cổ phần hoá.

Đvt:triệu đồng
Chỉ tiờu Giỏ trị sổ
sỏch
Đánh giá
lại
Chờnh
lệch
I. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn
II. Tài sản cố định
III.Giỏ trị lợi thế kinh doanh
IV.Giỏ trị thực tế của Cụng ty

V. Cỏc khoản giảm trừ
- Nợ phải trả
- Số dư Quỹ khen thưởng, phỳc lợi
VI.Giỏ trị vốn Nhà nước
10.500
20.000
0
30.500
8.000
500
22.000
10.000
20.900
1.452
32.352
8.000
500
23.852
- 500
+ 900
+ 1.452
+ 1.852
0
0
+ 1.852


Vậy giá trị vốn Nhà nước tại công ty B 12/2004 là 23.852 triệu đồng.
Giá trị thực tế của doanh nghiệp không bao gồm:
8

- Giá trị các tài sản do doanh nghiệp thuê, mượn, nhận vốn góp liên
doanh, liên kết.
- Giá trị các tài sản của doanh nghiệp không cần dùng, ứ đọng, chờ
thanh lý.
- Các khoản nợ phải thu khó đòi
- Tài sản thuộc công trình phúc lợi (bệnh xá, nhà trường…) được đầu
tư bằng nguồn quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi của doanh nghiệp và nhà ở của
cán bộ nhân viên
- Chi phí xây dựng dở dang của công trình đã bị đình hoãn trước thời
điểm xác định giá trị doanh nghiệp
Các khoản đầu tư dài hạn vào các doanh nghiệp khác được chuyển giao
cho đối tác khác theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Hai là, xác định giá trị tài sản thực tế:
- Đối với tài sản là hiện vật: chỉ đánh giá lại những tài sản mà công ty
cổ phần tiếp tục sử dụng
Giá trị thực tế của
tài sản =
Nguyên giá tính
theo giá thị
trường
X
Chất lượng còn lại
của tài sản tại thời
điểm định giá

Trong đó, giá thị trường là giá tài sản mới đang mua bán trên thị trường bao
gồm cả chi phí vận chuyển, lắp đặt (nếu có). Nếu là tài sản đặc thù không có
trên thị trường thì tính theo giá mua mới của tài sản cùng loại, cùng nước sản
xuất có tính năng như nhau. Nếu không có tài sản tương đương thì tính theo
giá tài sản ghi sổ kế toán.

Đối với công trình xây dựng cơ bản , suất đầu tư do cơ quan có thẩm
quyền quy định đối với tài sản là sản phẩm xây dựng cơ bản trường hợp chưa
9
có quy định thì tính theo giá trị quyết toán công trình đựơc cơ quan có thẩm
quyền phê duyệt.
Chất lượng của tài sản được xác định bằng tỉ lệ phần trăm so với chất
lượng tài sản cùng loại mua sắm mới hoặc đầu tư xây dựng mới, phù hợp với
các quy định của Nhà nước, nếu chưa có quy định thì chất lượng tài sản được
đánh giá không thấp hơn 20%.
- Đối với tài sản bằng tiền bao gồm: tiền mặt, tiền gửi và các giấy tờ có
giá của doanh nghiệp được xác định. Tiền mặt được xác định theo biên bản
kiểm quỹ, tiền gửi được xác định theo số dư đã đối chiếu xác nhận với ngân
hàng; các giấy tờ có giá thì xác định theo giá giao dịch tren thị trường.
Bên cạnh việc xác định giá trị của tài sản hữu hình thì việc xác định giá
trị tài sản vô hình là rất khó khăn. Có tài sản vô hình có thể đưa ra giá xác
định được, bên cạnh đó cũng có những tài sản không thể đưa ra một mức giá
cụ thể được, bởi tài sản vô hình là những tài sản được thể hiện bằng lợi ích
kinh tế. Nó được xác định theo giá còn lại đang hạch toán trên sổ kế toán.
1.3. Phương pháp dòng tiền chiết khấu
Phương pháp dòng tiền chiết khấu là phương pháp xác định giá trị doanh
nghiệp trên khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai.
Đối tượng áp dụng: Là các doanh nghiệp có ngành nghề kinh doanh chủ
yếu trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thương mại, tư vấn, thiết kế xây
dựng, tin học và chuyển giao công nghệ, có tỷ suất lợi nhuân sau thuế trên vốn
Nhà nước bình quân 5 năm liền kề trước khi cổ phần hoá cao hơn lãi suất trả
trước của trái phiếu chính phủ có kỳ hạn 10 năm trở lên tại thời điểm gần nhất
với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
 Căn cứ để xác định giá trị doanh nghiệp
- Báo cáo tài chính của doanh nghiệp trong 5 năm liền kề
trứơc khi xác định giá trị doanh nghiệp

10
- Phương án hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
cổ phần hoá từ 3 đến 5 năm sau khi chuyển thành công ty cổ phần.
- Lãi suất trả trước của trái phiếu chính phủ có kỳ hạn từ 10
năm trở lên ở thời điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp
và hệ số chiết khấu dòng tiền của doanh nghiệp
- Giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất được giao.
 Giá trị phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp được xác định như sau:

Giá trị thực tế
phần vốn Nhà
nước
=
n
n
ni
i
i
K
P
K
D
)1()1(
1
+
+
+

→=
+/-

Chênh lệch về giá trị
quyền sử dụng.
Trong đó
i: thứ tự các năm kế tiếp từ khi xác định giá trị doanh nghiệp
(i: 1-> n )
D
i
: khoản lợi nhuận sau thuế dùng chia cổ tức năm thứ i
N: số năm tương lai được chọn (3 -5)
P
n:
: Giá trị phần vốn Nhà nước năm thứ n

g -K
D

1n
+
=
n
P
D
n+1
: Khoản lợi nhuận sau thuế dùng để chia cổ tức dự kiến của năm thứ n+1
11
K: Tỷ lệ chiết khấu hay tỉ lệ hoàn vốn cần thiết của các nhà đầu tư khi mua cổ
phần
K = R
f
+ R

p
R
f
: Tỷ suất lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư không rủi ro, được tính
bằng lãi suất trả trước của trái phiếu chính phủ có kì hạn 10 năm trở lên ở thời
điểm gần nhất với thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp
R
p
: Tỷ lệ phụ phí rủi ro khi đầu tư mua cổ phần của các công ty ở VN, được
xác định theo bảng chỉ số phụ phí rủi ro chứng khoán quốc tế tại niên giám
định giá hoặc do các công ty định giá xác định cho từng doanh nghiệp, nhưng
không vượt quá tỷ suất lợi nhuận thu được từ các khoản đầu tư không rủi ro
g: tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của cổ tức, được xác định như sau
g = b * R
Với b: Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế để lại bổ sung vốn.
R: Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân của các năm
tương lai.
Còn phần chênh lệch về giá trị quyền sử dụng đất được xác định như
sau: doanh nghiệp phải xác định lại giá trị quyền sử dụng đất theo giá do Uỷ
ban nhân dân tỉnh quy định. Khoản chênh lệch giữa giá trị quyền sử dụng đất
xác định lại với giá trị hạch toán trên sổ kế toán được tính vào giá trị thực tế
phần vốn Nhà nước tại doanh nghiệp
12
Giá trị
thực tế
doanh
nghiệp
Nợ
thực tế
phải trả

=
=
Giá trị thực tế
phần vốn Nhà
nước
Tổng nợ phải
trả trên sổ kế
toán
+
-
Nợ thực
tế phải trả
Giá trị các
khoản nợ
không
phải
thanh
toán
+
+
Số dư quỹ
khen
thưởng
Giá trị
quyền sử
dụng đất
của dt đất
mới được
giao
+


Nguồn
kinh phí
sự
nghiệp
1.4Các phương pháp khác
 Phương pháp lợi nhuận
Phương pháp này cũng tính đến khả năng sinh lời của doanh nghiệp
trong tương lai giống như phương pháp dòng tiền chiết khấu. Chúng ta có
thể xác định được giá trị của doanh nghiệp nhờ vào những dự đoán về lợi
nhuận sau thuế của doanh nghiệp có thể thu được trong tương lai.
 Phương pháp hiện tại hoá các dòng thu nhập của doanh nghiệp trong
tương lai.
13
Phương pháp này được sử dụng khi doanh nghiệp dự đoán được thu
nhập của mình trong tương lai. Vì gía trị thực tế của doanh nghiệp tính theo
phương pháp này dựa trên cơ sở các luòng thu nhập trong tương lai.
1.5.Thẩm định giá trị DNNN
1.5.1. Khái niệm thẩm định giá trị doanh nghiệp
Thẩm định giá trị doanh nghiệp: Là quá trình ước tính giá trị của doanh
nghiệp hay lợi ích của nó. Mặc dù những nguyên tắc, phương pháp và kỹ
thuật thẩm định giá trị doanh nghiệp tương tự so với những lĩnh vực khác
trong ngành thẩm định giá, nhưng thẩm định giá trị doanh nghiệp vẫn đòi hỏi
có sự đào tạo, có những kỹ năng và kinh nghiệp chuyên môn riêng.
1.5.2. Mục đích thẩm định giá trị doanh nghiệp
Thẩm định giá trị doanh nghiệp trong những trường hợp khác nhau đều
nhằm những mục đích khác nhau nhưng phải đảm bảo là có hiệu quả. Trong
các hoạt động thường xuyên của doanh nghiệp, có nhiều lúc các chủ doanh
nghiệp cũng như nhiều đối tượng cần quan tâm đến giá trị của một doanh
nghiệp cụ thể nào đó; họ quan tâm đến giá trị doanh nghiệp để có phương án

kinh doanh trong những năm tới hay có phương án đầu tư cho doanh nghiệp
để thu lợi nhuận… chính vì vậy mà công tác thẩm định giá doanh nghiệp là rất
cần thiết trong hoạt động của nền kinh tế thị trường.
Doanh nghiệp ở mỗi thời điểm khác nhau thì có một giá trị khác nhau, do
đó kết quả của mỗi lần thẩm định giá trị của doanh nghiệp là không giống
nhau. Hoạt động thẩm định giá trị doanh nghiệp là rất cần thiết bởi nó nhằm
mục đích:
14
- Kết quả thẩm định giá trị doanh nghiệp là cơ sở cho các hoạt động
sát nhập, mua lại, hợp nhất, giải thể, thanh lý tài sản hay thành lập các liên
doanh, cổ phần hoá
- Kết quả thẩm định giá sẽ giúp cho ông chủ doanh nghiệp nắm được tình
hình hoạt động của doanh nghiệp mình tại thời điểm đó như thế nào trên cơ sở
so sánh với giá trị của doanh nghiệp ở thời điểm trước, để từ đó có những giải
pháp cải tiến quản lý cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
hơn nữa. Trong trường hợp doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá, thì định giá
doanh nghiệp là cơ sở để xác định giá trị phần vốn Nhà nước và cũng là cơ sở
để xác định quy mô vốn điều lệ, cơ cấu cổ phần bán lần đầu, thực hiện chính
sách ưu đãi với người lao động của doanh nghiệp.
- Kết quả thẩm định giá cũng là cơ sở cho các tổ chức, các cá nhân
và công chúng đầu tư ra quyết định đầu tư vào các loại chứng khoán do doanh
nghiệp phát hành trên thị trường tài chính. Ngoài ra hoạt động thẩm định giá
trị doanh nghiệp còn đem lại lợi ích to lớn cho nền kinh tế, các doanh nghiệp
và các tổ chức, cá nhân có quyền lợi trong doanh nghiệp.
- Thẩm định giá trị doanh nghiệp là công cụ cho phép doanh nghiệp
đánh giá khả năng cạnh tranh của chính nó với các đối thủ cạnh tranh. Trên cơ
sở đó, có thể đưa ra những quyết định thích hợp.
1.5.3.Vai trò của thẩm định giá trị doanh nghiệp
Ngày nay các doanh nghiệp đang hoạt động trong một môi trường kinh
doanh luôn luôn biến động và sự biến động này diễn ra rất nhanh chóng và

phức tạp. Xu thế toàn cầu hoá trong kinh doanh đang từng ngày từng giờ tạo
ra những áp lực cạnh tranh hết sức gay gắt, đòi hỏi doanh nghiệp phải liên tục
đổi mới và cải tiến không ngừng để có thể tồn tại và phát triển bền vững. Cùng
với sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của thị trường tài chính, các hoạt
15
động hợp nhất, sát nhập, thôn tính hay thành lập các liên doanh…diễn ra một
cách thường xuyên nhất hay thành lập các liên doanh diễn ra một cách
thường xuyên. Cơ sở nền tảng của các hoạt động này đều dựa trên kết quả
đánh giá và thẩm định giá trị doanh nghiệp điều này đã làm cho thẩm định giá
trị doanh nghiệp ngày càng giữ một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó là
cơ sở để các đối tượng trong nền kinh tế đưa ra các quyết định nên hay không
nên đầu tư vào một doanh nghiệp nào đấy thông qua các hoạt động tín dụng,
đứng trên phương diện là các nhà đầu tư; còn đối với người bán doanh nghiệp
hay với những người chủ doanh nghiệp thì họ quan tâm tới kết quả thẩm định
để đưa ra giá ban đầu là bao nhiêu? Để họ hình thành nên một khung giá hợp
lý đối với họ và họ có phương hướng hoạt động trong thời gian sắp tới. Tuy
nhiên, trong mỗi lĩnh vực khác nhau thì thẩm định giá có những vai trò khác
nhau và cũng có những phương pháp tiếp cận khác nhau.
1.5.Những nội dung cần xem xét khi thẩm định giá trị doanh nghiệp
Muốn định giá doanh nghiệp một cách chính xác và hiệu quả thì trước
tiên phải khảo sát thực tế tại doanh nghiệp: kiểm kê tài sản, khảo sát tình hình
sản xuất kinh doanh thực tế.
Thu thập thông tin trước hết là các thông tin, tư liệu từ nội bộ doanh
nghiệp: tư liệu về tình hình sản xuất kinh doanh, các báo cáo tài chính – kế
toán – kiểm toán, hệ thống đơn vị sản xuất và đại lý, đặc điểm của đội ngũ
quản lý điều hành, nhân viên và công nhân… Ngoài ra còn phải chú ý thu thập
thêm thông tin bên ngoài doanh nghiệp như thị trường tiêu thụ sản phẩm của
doanh nghiệp, môi trường kinh doanh, các đối thủ cạnh tranh, chủ trương của
Nhà nước … Thẩm định viên cần phải tiến hành các bước để đảm bảo rằng
các thông tin đều đang tin cậy và phù hợp cho quá trình thẩm định giá.

Đánh giá điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp trên các mặt: sản
xuất kinh doanh, máy móc thiết bị, đội ngũ công nhân viên…
16

1.5.Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả thẩm định giá trị DNNN
Thành tích và triển vọng của một doanh nghiệp bất kỳ nào đó được hình
thành từ rất nhiều yếu tố, cả những yếu tố khách quan bên ngoài lẫn các yếu tố
chủ quan bên trong của doanh nghiệp. Những yếu tố này có những tác động
trực tiếp hoặc gián tiếp đối với doanh nghiệp và mức độ ảnh hưởng của chúng
có thể diễn ra ở nhiều mức độ khác nhau, ở trong lĩnh vưc ngành hay chỉ trong
phạm vi doanh nghiệp. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp
như:
- Môi trường kinh tế (yếu tố lạm phát, tăng trưởng kinh tế, tỷ giá hối đoái,
lãi suất…): Khi nền kinh t ế phát triển tốt thì doanh nghiệp có xu hướng đi lên
và ngược lại, như vậy nếu dự báo được xu hướng phát triển của nền kinh tế,
thì có thể dự báo được xu thế phát triển chung của doanh nghiệp.
- Các yếu tố về công nghệ: Những tiến bộ về công nghệ có tác động
rất mạnh mẽ và có thể đem lại nhiều nguy cơ và thách thức cho doanh nghiệp.
Vì vậy, khi định giá một doanh nghiệp cần xem xét tác động của yếu tố công
nghệ tới sự phát triển của doanh nghiệp, bên cạnh đó cũng cần xem xét những
hoạt động của doanh nghiệp và những giải pháp đối phó với sự thay đổi công
nghệ mà doanh nghiệp đang hoạt động.
- Môi trường chính trị pháp luật: Các yếu tố về chính trị và pháp luật
cũng có những ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của doanh nghiệp. Do đó
cần xem xét những tác động của yếu tố này tới đối tượng đánh giá ở thời điểm
hiện tại và khuynh hướng thay đổi trong tương lai
- Môi trương xã hội:
- Môi trường ngành: chu kỳ kinh doanh, triển vọng tăng trưởng của
ngành, cạnh tranh trong ngành, các nguồn cung ứng trong ngành.
17

- Sản phẩm của doanh nghiệp, địa bàn hoạt động của doanh nghiệp,
cơ cấu tài sản và cân đối nợ.
Tất cả các yếu tố trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và có tác động
trực tiếp tới hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, khi thẩm định giá trị của
doanh nghiệp cần phải quan tâm xem xét tới các yếu tố này.
18
CHƯƠNG 2
CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH GIÁ TRỊ DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM
2.1.Tiến trình cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam
Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước nó có ảnh hưởng đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị,
xã hội. Đối với Nhà nước nó là một chiến lược lâu dài, còn đối với doanh
nghiệp nó là một cơ hội tốt.
Nhìn nhận và nắm bắt cơ hội kịp thời sẽ làm nên thành công trong bất cứ
công việc nào cho dù là nhỏ hay cổ phần hoá thể hiện sự năng động. Xét về
quản lý thì tính năng động là việc sắp xếp bộ máy sản xuất kinh doanh được
hợp lý, không chịu sức ép của bất kỳ cấp nào. Bộ máy quản lý làm việc có
hiệu quả sẽ giảm được chi phí quản lý, giảm tiêu cực trong cách nghĩ và làm
việc. Xét về hoạt động sản xuất kinh doanh thì tính năng động thể hiện trong
việc nghiên cứu tìm tòi phương hướng chiến lược và kế hoạch phát triển công
ty riêng phù hợp với công ty và phù hợp với nhu cầu thị trường. Sản xuất linh
hoạt, tư duy sáng tạo, thể hiện hết mình của các thành viên trong công ty.
Sau gần 20 năm triển khai thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước
về việc đổi mới, sắp xếp và phát triển DNNN, mặc dù có những thăng trầm
nhưng đã đem lại những kết quả đáng tự hào. Có rất nhiều giải pháp sắp xếp
DNNN như sáp nhập, hợp nhất, cổ phần hoá, bán cho thuê doanh nghiệp,
giao, khoán, tổ chức lại tổng công ty và t hành lập tập đoàn kinh tế. Trong các
giải pháp trên thì cổ phần hoá DNNN được xem là một giải pháp cơ bản và
quan trọng nhất để cải cách DNNN. Đây là một trong những chủ trương rất

quan trọng trong quá trình nhằm đổi mới tư duy kinh tế, là một trong những
giải pháp nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu trong các DNNN, xác định chủ
19
sở hữu đích thực của doanh nghiệp, huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội
để đầu tư đổi mới công nghệ máy móc, phát triển doanh nghiệp tạo thêm động
lực cho doanh nghiệp phát triển, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, tăng sức
cạnh tranh với các doanh nghiệp trong và ngoài nước tạo bước đệm cho quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế được dễ dàng và thuận lợi.
Thực hiện chủ trương này, ngay từ đầu năm 1990 Đảng và Nhà nước đã
ra các văn bản pháp luật để hướng dẫn chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá DNNN.
Đầu tiên là quyết định số 143 – HĐBT của chủ tịch hội đồng bộ trưởng cho
phép thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Hai năm sau ngày
08/6/1992 là quyết định số 202/CT của chủ tịch hội đồng bộ trưởng và chỉ thị
số 84/TTg ngày 04/8/1993 của thủ tướng chính phủ, đã có 5 DNNN có quy
mô vừa và nhỏ tự nguyện thực hiện thí điểm cổ phần hoá với tổng vốn điều lệ
là 38,393 tỉ đồng. Quá trình cồ phần hóa DNNN từ khi bắt đầu cho tới nay đã
trải qua một số giai đoạn:
 Giai đoạn từ năm 1992 đến 6/1998 (trước khi có Nghị định
44/1998/NĐ-CP)
Trong giai đoạn này, cả nước đã cổ phần hoá được 30 DNNN. Trong đó 5
doanh nghiệp được cổ phần hoá theo cơ chế, chính sách thí điểm quy định tại
quyết định số 202/CT của chủ tịch hội đồng bộ trưởng, 25 doanh nghiệp được
thực hiện th eo cơ chế chính sách quy định tại Nghị định 28/CP của chính phủ.
Các DNNN cổ phần hoá trong giai đoạn này nhìn chung đều có những tiến bộ
với mức độ khác nhau về năng suất, chất lượng hiệu quả. Việc thực hiện cổ
phần hoá đã giúp doanh nghiệp thu hút được một nguồn vốn nhất định trong
cán bộ công nhân viên tại doanh nghiệp và nhân dân đầu tư vào sản xuất kinh
doanh. Tạo được động lực trong quản lý và phát huy tốt tính tích cực, sáng tạo
của người lao động, tạo cho DNNN có cơ cấu thích hợp, quy mô lớn, tập trung
vào những ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, cơ chế quản lý năng

20
động hiệu quả thích nghi với nền kinh tế thị trường tạo điều kiện về mặt pháp
lý và vật chất cho người lao động nâng cao vai trò làm chủ doanh nghiệp.
Doanh thu, lợi nhuận, các khoản nộp ngân sách, tích luỹ vốn của doanh nghiệp
và thu nhập của người lao động đều tăng dẫn tới việc làm của người lao động
được đảm bảo tốt hơn, tiêu cực trong DNNN cũng vì thế mà giảm đi.
Theo đánh giá của các nhà quản lý doanh nghiệp, ở thời điểm năm đầu cổ
phần hoá, việc chuyển sang mô hình mới chưa có tác dụng đột biến tức thời
tới các yếu tố liên quan trực tiếp đến doanh thu như: tăng sức sản xuất, khả
năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
 Giai đoạn từ tháng 6/1998 đến 31/12/1999
Trong giai đoạn này có thêm 340 DNNN và bộ phận DNNN được chuyển
thành công ty cổ phần, riêng năm 1999 có 250 doanh nghiệp, tăng nhiều hơn
so với các năm trước. Như vậy, về mặt số lượng, tốc độ cổ phần hoá sau khi
có Nghị định 44/1998/NĐ-CP được đẩy mạnh. Nhiều ngành, bộ và các địa
phương, tổng công ty Nhà nước đã có những kết quả bước đầu đáng khích lệ
như thành phố Hà Nội, tp Hồ Chí Minh, tỉnh Nam Định, Thanh Hoá, bộ xây
dựng, tổng công ty cà phê, tổng công ty than… bên cạnh đó còn một số ngành
địa phương chưa đạt được kết quả mong muốn trong công tác cổ phần hoá, tốc
độ cổ phần hoá còn chậm.
Đến hết năm 199 vẫn còn 6/13 bộ, 7/17 tổng công ty 91 và 21/61 tỉnh
thành chưa có DNNN nào đựơc chuyển đổi sang công ty cổ phần.
Nhìn chung sau khi có nghị định 44/1998/NĐ-CP của chính phủ, cổ phần
hoá DNNN đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Các DNNN, các bộ, ngành và
địa phương đã có những nhận thức đúng đắn hơn về việc cổ phần hoá doanh
nghiệp. Bởi Nghị định đã thể hiện sự quan tâm đúng mức của Đảng và Nhà
nước tới những người lao động trong doanh nghiệp cổ phần hoá một cách rõ
21
ràng hơn, cụ thể hơn, quyền lợi của họ được đảm bảo hơn. Điều đó đã khiến
cho chủ trương cổ phần hoá trở nên hấp dẫn hơn đối với doanh nghiệp

 Giai đoạn từ tháng 1/2000 đến 12/2002
- Năm 2000: 212 đơn vị
- Năm 2001: 204 đơn vị
- Năm 2002: 164 đơn vị
Qua những số liệu trên đây ta thấy mặc dù tiến trình cổ phần hoá DNNN có
những thăng trầm song nhìn chung số lượng các doanh nghiệp được cổ phần
hoá đều đã tăng. Riêng năm 2002 có 427 DNNN được sắp xếp lại trong số
164 DNNN được cổ phần hoá
 Năm 2003 có 766 DNNN được sắp xếp lại (48% so với kế
hoạch) trong đó có 425 doanh nghiệp đã được cổ phần hoá
 Năm 2004 đã cổ phần hoá được 753 DNNN , năm 2005 là 754
DNNN được cổ phần.
Qua đó ta có thể thấy nhiều đơn vị đã thực hiện tốt lộ trình cổ phần hoá
đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt như bộ xây dựng, bộ công nghiệp,
tổng công ty dệt may… có thể nói quá trình cổ phần hoá trong giai đoạn vừa
qua đã đạt được các mục tiêu đề ra: cổ phần hoá đã tạo ra loại hình doanh
nghiệp có nhiều chủ sở hữu bao gồm: Nhà nước, người lao động trong doanh
nghiệp, các cổ đông ngoài doanh nghiểp trở thành người chủ thực sự của công
ty đã tạo ra động lực mở rộng thị trường, tăng thêm tiềm lực tài chính cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của công ty cổ phần. Tính đến cuối năm 2004 chúng
ta đã cổ phần gần 2500 doanh nghiệp, trong cơ cấu vốn điều lệ thì chủ sở hữu
Nhà nước nắm giữ 46.5%, người lao động trong doanh nghiệp chiếm 38.1%,
cổ đông ngoài doanh nghiệp là 18.4%.
22
Trong số các doanh nghiệp đã cổ phần hoá, ngành công nghiệp giao thông vận
tải và xây dựng chiếm tỷ trọng 65.5%, thương mại - dịch vụ chiếm 28.7% và
ngành nông lâm- ngu nghiệp chiếm 5.8%. Năm 2005 đã xuất hiện một điếm
sáng mới cần được nhấn mạnh đó là trong số các doanh nghiệp cổ phần hoá đã
có nhiều doanh nghiệp làm ăn tốt, quy mô lớn, hấp dẫn các nhà đầu tư, tạo
công ăn việc làm ổn định cho người lao động, điển hình là thuỷ điện Thác Bà,

công ty vận tải xăng dầu đường thuỷ 1, công ty Kinh Đô, công ty sữa
Vinamilk, giá trị của Vinamilk lên tới 2500 tỷ đồng trong đó vốn là 1500 tỷ
đồng.
Sau 15 năm cổ phần hoá DNNN, có thể nhận thấy các chuyển biến sau:
Một là, sự chuyển hướng từ cổ phần hoá các DNNN trong một số lĩnh
vực sang cổ phần hoá DNNN ở hầu hết ngành, lĩnh vực, trong cả kinh tế, dịch
vụ và văn hoá, kể cả ngân hàng thương mại, chỉ trừ loại DNNN trong lĩnh vực
dầu khí và an ninh quỗc phòng.
Hai là, chuyển biến từ việc chỉ cổ phần hoá các DNNN quy mô nhỏ và
vừa về vốn và lao động, làm ăn thua lỗ, nay sang cả những doanh nghiệp làm
ăn có lãi với quy mô lớn trong các ngành trọng yếu của nền kinh tế như điện,
xi măng, viễn thông… với kết quả hoạt động sau cổ phần hoá ngày một tiến
bộ
Ba là, việc cổ phần hoá không chỉ nhằm thu hút vôn của các nhà đầu tư,
của người lao động doanh nghiệp mà còn thu hút cả vốn của những nông dân
cung câp nguyên liệu sản xuất công nghiệp, chuyển họ thành những cổ đông,
gắn bó họ với sự phát triển của doanh nghiệp. Ví dụ như công ty mía đường
Lam Sơn, công ty mía đường La Ngà đã thực hiện cổ phần hóa theo hướng đó.
ở công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, Nhà nước giữ 465, nông dân trồng
mía và cổ đông ngoài doanh nghiệp mua 26%, người trong doanh nghiệp mua
23
24% cổ phần, công ty cổ phần mía đường Lam Sơn là một doanh nghiệp làm
ăn rất hiệu quả. Sau 5 năm cổ phần hoá từ năm 2000 đến 2005 nộp ngân sách
tăng từ 10 tỷ lên 38 tỷ đồng và lợi nhuận đạt tới 77.5 tỷ đồng và cổ tức là
20%/ năm.
Tác động của cổ phần hoá đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp cổ phần: Bên cạnh những kết quả về mặt số lượng đã đề cập ở trên thì
cổ phần hoá cũng đem lại những hiệu quả quan trọng về mặt kinh tế xã hội.
- Tác động đến hiệu qủa sản xuất kinh doanh: Theo kết quả điều tra
của viện quản lý kinh tế trung ương cho biết, ngay sau khi cổ phần hoá năng

suất lao động của doanh nghiệp tăng bình quân 26%, tiền lương tăng bình
quân trên 20% và đầu tư tài sản cố định tăng khoảng 23.1% so với trước khi
cổ phần hoá. Trong số các các chỉ tiêu đạt được trên thì tăng năng suất lao
động là yếu tô ảnh hưởng tích cực nhất tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp cổ phần hoá. Đó là do sự gắn bó về lợi ích của toàn bộ cán bộ
quản lý và người lao động với doanh nghiệp và động lực. Trách nhiệm của
người quản lý doanh nghiệp và người lao động đã được nâng cao và gắn bó
chặt chẽ với nhau hơn.
Nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, các DNNN thực hiện cổ
phần hoá là những công ty cổ phần đầu tiên được niêm yết trên thị trường
chứng khoán ở Việt Nam. Điều này không những nâng cao uy tín và vị thế của
các doanh nghiệp được cổ phần hoá trên thương trường mà còn minh chứng
cho tính đúng đắn chủ trương cổ phần hoá DNNN như một biện pháp quan
trọng để thực hiện sắp xếp lại các DNNN ở nước ta.
- Về việc làm và thu nhập cho người lao động:
Hầu hết trong các DNNN được cổ phần hoá, việc làm và thu nhập của
người lao động đều được đảm bảo ổn định và có xu hướng tăng, với cơ chế
24
quản lý mới, người lao động được coi là chủ nhân thực sự trong công ty cổ
phần. Nhờ đó, họ đã nâng cao tính chủ động, tinh thần tự giác, ý thức kỷ luật
trong lao động vì thế tiết kiệm được chi phí sản xuất, nhằm tránh lãng phí
trong hoạt động sản xuất góp phần làm cho hiệu quả sản xuất của doanh
nghiệp ngày một nâng cao, mang lại lợi ích cho bản thân họ, cho công ty và
cho đất nước.
- Về huy động vón:
Sau khi cổ phần hóa các doanh nghiệp đã thu hút được một lượng vốn
đầu tư khá lớn từ các cổ đông ngoài doanh nghiệp, lalàm cho lượng vốn của
Nhà nước trong doanh nghiệp được giảm bớt tạo điều kiện cho nguồn vốn của
Nhà nước được sử dụng vào các mục đích khác. Mặc dù các doanh nghiệp sau
khi cổ phần hóa có những đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế, giải

quyết công ăn việc làm cho người lao động, huy động nguồn vốn nhàn rỗi
trong xã hội vào sản xuất kinh doanh.
Nhưng trong hoạt động của các doanh nghiệp cổ phần vẫn còn một số
mặt hạn chế, những bất cập trong việc khai thác tiềm năng về vốn, công nghệ,
lao động của các doanh nghiệp, quá trình cổ phần hoá diễn ra còn chậm…
- Tốc độ tiến hành cổ phần hoá còn chậm: Hiện nay tiến độ cổ phần
hoá DNNN con chậm, tốc độ và quy mô tiến hành cổ phần hoá không đồng
đều giữa các ngành, địa phương. Các mục tiêu của cổ phần hoá chưa đạt được
như mong muốn, năm 2003 chỉ đạt được 63% kế hoạch cổ phần ho, 6 tháng
đầu năm 2004 chỉ đạt 20% mục tiêu đề ra…Mục tiêu huy động vốn của toàn
thể xã hội để phát triển doanh nghiệp, nhưng vẫn chưa thu hút được đông đảo
các nhà đầu tư. Một phần không nhỏ là do lâu nay các doanh nghiệp vẫn còn e
ngại là sau khi cổ phần hộáh sẽ mất quyền được “bảo hộ”, sẽ phải bước vào
25

×