LỜI MỞ ĐẦU
Pháp luật Tố tụng dân sự quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ và
quyền lựa chọn Tòa án của đương sự không chỉ có ý nghĩa bảo đảm tối đa quyền và lợi ích hợp
pháp của các đương sự mà còn tạo thuận lợi cho quá trình giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa
án. Mục đích cuối cùng mà những quy định này hướng tới chính là sự chính xác, công bằng, tính
khoa học và hợp lý trong suốt cả quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Việc tìm hiểu về “Thẩm
quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ và quyền lựa chọn Tòa án của đương sự” một
cách toàn diện, cụ thể là điều rất cần thiết, giúp chúng ta có cái nhìn đúng đắn hơn về vấn đề này.
NỘI DUNG
I. Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ.
1. Một số vấn đề khái quát về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ.
1.1. Khái niệm.
Có thể hiểu thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ là quyền của một Tòa án cụ
thể, trong việc xem xét giải quyết các vụ việc dân sự và quyền hạn ra các quyết định khi lần đầu
tiên giải quyết các vụ việc đó, được xác định dựa trên cơ sở nơi cư trú, nơi có trụ sở của một
trong các bên đương sự, nơi có bất động sản hoặc nơi phát sinh sự kiện hoặc các dấu hiệu khác
mà pháp luật quy định.
1.2. Đặc điểm về thẩm quyền sơ thẩm dân sự Tòa án theo lãnh thổ.
Thứ nhất, thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo lãnh thổ là thẩm quyền của Tòa án lần đầu tiên
xem xét giải quyết các vụ việc dân sự căn cứ vào các dấu hiệu về nơi cư trú, nơi có trụ sở của một
trong các bên đương sự, nơi có bất động sản hoặc nơi phát sinh sự kiện hoặc các dấu hiệu khác
mà pháp luật có quy định. Đây là dấu hiệu giúp phân biệt thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo lãnh
thổ với thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo loại việc.
Thứ hai, thẩm quyền dân sự của Tòa án theo lãnh thổ là loại thẩm quyền có tính cụ thể, theo đó
có thể xác định một Tòa án cụ thể có quyền xem xét giải quyết vụ việc dân sự và quyền hạn ra các
quyết định khi giải quyết các vụ việc đó. Đặc điểm này cho thấy tính cụ thể hay tính cá biệt hóa
của thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo lãnh thổ so với thẩm quyền dân sự theo loại việc và theo cấp
Tòa án.
Thứ ba, thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định dựa trên thẩm
quyền của Tòa án theo loại việc và thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo cấp Tòa án. Xét trong quá
trình xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án thì thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án
theo lãnh thổ là hệ quả không thể thiếu của việc xác định thẩm quyền của Tòa án theo loại việc và
thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo cấp Tòa án. Nói một cách khác, thẩm quyền sơ thẩm dân sự của
Tòa án theo lãnh thổ là kết thúc của quá trình xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án.
1.3. Ý nghĩa của việc quy định thẩm quyền sơ thẩm của Tòa án theo lãnh thổ.
Đối với đương sự, các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Toà án theo lãnh thổ là cơ
sở pháp lý để nguyên đơn chủ động trong việc xác định được Toà án mà mình có thể gửi đơn kiện
1
hoặc lựa chọn Toà án thuận lợi nhất cho mình trong việc tham gia tố tụng. Ngoài ra, các quy định
về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Toà án theo lãnh thổ sẽ giúp đương sự nhanh chóng thực hiện
được quyền khởi kiện để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình, tránh được việc gửi đơn kiện ra
Toà án không có thẩm quyền gây mất thời gian và chi phí không đáng có. Như vậy, các quy định
về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Toà án theo lãnh thổ là một bảo đảm cho việc thực hiện quyền
tiếp cận công lý của công dân.
Đối với Toà án, các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự theo lãnh thổ là cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc xác định một vụ việc cụ thể có thuộc thẩm quyền giải quyết của mình hay
không, tránh được việc áp dụng không thống nhất trong thực tiễn gây kéo dài thời gian giải quyết
do vụ việc phải chuyển đi chuyển lại giữa các toà án, thậm chí bản án, quyết định bị huỷ để xét xử
lại do vi phạm về thẩm quyền. Đồng thời, các quy định về thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Toà án
theo lãnh thổ còn là cơ sở để giải quyết trong trường hợp có tranh chấp về thẩm quyền sơ thẩm
dân sự giữa các Toà án cùng cấp với nhau.
Ngoài ra, các quy tắc về phân định thẩm quyền theo lãnh thổ được nhà lập pháp xây dựng là cơ
sở pháp lý để tránh việc đương sự lạm dụng quyền khởi kiện để cùng một lúc khởi kiện vụ việc ở
nhiều Toà án khác nhau gây ra tình trạng có nhiều Toà án cùng giải quyết về một vụ việc và ra
những phán quyết trái ngược nhau, gây mất niềm tin vào cơ quan bảo vệ pháp luật và khó khăn
trong công tác thi hành án dân sự sau này.
2. Thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
2004.
Việc phân định thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ là sự phân định thẩm quyền sơ thẩm vụ
việc dân sự giữa các tòa án cùng cấp với nhau. Về nguyên tắc, việc phân định thẩm quyền của
Tòa án theo lãnh thổ phải được tiến hành trên cơ sở đảm bảo việc giải quyết vụ việc dân sự của
Tòa án được nhanh chóng, đúng đắn; bảo đảm việc bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự; tạo thuận lợi cho các đương sự tham gia tố tụng, tránh sự chồng chéo
trong việc thực hiện thẩm quyền giữa các tòa án cùng cấp. Ngoài ra, việc phân định thẩm quyền
của tòa án theo lãnh thổ còn phải đảm bảo quyền tự định đoạt của đương sự. Trong một số trường
hợp pháp luật quy định cho nguyên đơn, người yêu cầu có quyền lựa chọn một trong các tòa án có
điều kiện giải quyết vụ việc mà không phụ thuộc vào ý chí của bị đơn, người bị yêu cầu giải quyết
việc dân sự.
Theo quy định tại điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự(BLTTDS) thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm của
Tòa án được xác định theo các trường hợp cụ thể sau:
1.1. Đối với vụ án dân sự:
- Thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ sẽ được xác định là thuộc về
Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc nếu bị đơn là cá nhân hoặc nơi bị đơn có trụ sở nếu bị đơn là
cơ quan, tổ chức trong các lĩnh vực tranh chấp về dân sự được quy định tại điều 25 BLTTDS, hôn
nhân và gia đình quy định tại điều 27 BLTTDS, kinh doanh thương mại quy định tại điều 29
BLTTDS, lao động quy định tại điều 31 BLTTDS. Bị đơn trong vụ án dân sự là người bị buộc
phải tham gia tố tụng. Về mặt tâm lý bị đơn thường không muốn tham gia tố tụng và thường nêu
ra những khó khăn để không đến tòa án. Việc quy định tòa án có thẩm quyền giải quyết là tòa án
2
nơi cư trú, làm việc của bị đơn sẽ tạo điều kiện để bị đơn tham gia tố tụng. Mặt khác, tòa án này
cũng có khả năng điều tra và nắm được các vấn đề của vụ án, trên cơ sở đó có đường lối giải
quyết phù hợp.
- Thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ sẽ được xác định là thuộc về
Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn nếu nguyên đơn là cá nhân hoặc nơi có trụ sở của
nguyên đơn nếu nguyên đơn là cơ quan, tổ chức sau khi các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau
bằng văn bản yêu cầu gửi lên Tòa án. Áp dụng đối với những tranh chấp về dân sự, hôn nhân gia
đình, kinh doanh thương mại, lao động quy định tại các điều 25, 27, 29, 31 của BLTTDS. Quy
định này thể hiện quyền tự định đoạt của bị đơn nếu như bị đơn đồng ý với yêu cầu của nguyên
đơn về việc giải quyết vụ kiện tại Tòa án nhân dân nơi mà nguyên đơn đang cư trú.
- Thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ sẽ thuộc về Tòa án nơi có bất
động sản khi giải quyết những tranh chấp về bất động sản. Bởi lẽ, bất động sản là một loại tài sản
gắn liền với đất không thể dịch chuyển được và thông thường các giấy tờ, tài liệu liên quan đến
bất động sản sẽ do cơ quan nhà đất hoặc chính quyền địa phương nơi có bất động sản đó lưu giữ.
Do vậy, Tòa án nơi có bất động sản sẽ là Tòa án có điều kiện tốt nhất để tiến hành xác minh, xem
xét tại chỗ tình trạng của bất động sản và thu thập các giấy tờ, tài liệu liên quan đến bất động sản.
Đối với các tranh chấp về bất động sản, các đương sự không có quyền thỏa thuận về việc yêu cầu
tòa án nơi không có bất động sản giải quyết.
1.2. Đối với việc dân sự:
Căn cứ vào dấu hiệu về nơi cư trú của đương sự đồng thời đảm bảo trong việc giải quyết chính
xác vụ án và thuận lợi cho người bị yêu cầu trong việc tham gia tố tụng, nhà lập pháp đã thiết lập
quy tắc để xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ tại Khoản 2 Điều 35
BLTTDS. Theo đó, thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ được xác định trên cơ sở
Tòa án nơi cư trú, nơi làm việc, nơi có trụ sở của người bị yêu cầu. Việc quy định thẩm quyền sơ
thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ là Tòa án nơi cư trú, nơi làm việc, nơi có trụ sở của người
bị yêu cầu là phù hợp với cơ sở lý luận về xác định thẩm quyền theo lãnh thổ, tạo thuận lợi không
chỉ cho Tòa án giải quyết các vụ việc mà cho cả đương sự khi tham gia tố tụng. Trước đây ba
pháp lệnh về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, kinh tế và lao động chưa có quy định riêng về
thủ tục giải quyết các việc dân sự không có tranh chấp nên vấn đề thẩm quyền dân sự theo lãnh
thổ đối với việc dân sự không được đặt ra. BLTTDS liệt kê tương đối chi tiết các trường hợp mà
Tòa án nơi cư trú, nơi làm việc, nơi có trụ sở của người bị yêu cầu có thẩm quyền giải quyết:
- Khi có yêu cầu tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế hành vi dân sự thì thẩm
quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ sẽ thuộc về Tòa án nơi người bị yêu cầu
mất năng lực hành vi dân sự hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự cư trú, làm việc. Quy định
này đảm bảo cho Tòa án có điều kiện thuận lợi để xác minh đúng tình trạng của người bị yêu cầu
và cũng tạo điều kiện thuận lợi cho người bị yêu cầu tham gia tố tụng.
- Khi có yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người
đó, yêu cầu tuyên bố một người đã mất tích hoặc đã chết thì thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự
của Tòa án sẽ thuộc về Tòa án nơi cư trú cuối cùng của người bị yêu cầu thông báo tìm kiếm
vắng mặt tại nơi cư trú, bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc đã chết. Tòa án nơi người bị yêu cầu
thông báo tìm kiếm vắng mặt, bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoăc là đã chết sẽ là Tòa án tốt nhất có
3
thể xác minh nhữngt hông tin cần thiết và chính xác về tình trạng vắng mặt của đương sự từ đó
đưa ra được quyết định đúng đắn.
- Khi có yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người đã mất tích hoặc đã chết, thẩm quyền
xét xử sơ thẩm dân sự sẽ thuộc về Tòa án đã ra quyết định trên. Tòa án đã ra quyết định tuyên bố
một người mất tích hoặc là đã chết là Tòa án quản lý hồ sơ vụ việc, đã từng xác minh và quyết
định không đúng đắn về tình trạng của đương sự. Do vậy, Tòa án này có điều kiện tốt nhất để
khắc phục sai lầm. Nếu căn cứ vào nơi người bị yêu cầu tuyên bố mất tích hoặc là đã chết thì Tòa
án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú của đương sự nhưng nếu căn cứ vào sự kiện Tòa án tuyên
bố một người là mất tích hoặc là đã chết thì có thể coi đây là trường hợp xác định thẩm quyền của
Tòa án căn cứ vào nơi phát sinh sự kiện.
- Khi có yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết định dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài, thẩm quyền xét xử sơ thẩm
dân sự theo lãnh thổ sẽ thuộc về Tòa án nơi người phải thi hành bản án, quyết định dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài cư trú làm việc (đối với
người thi hành án là cá nhân) hoặc nơi người thi hành án là trụ sở (đối với người thi hành án là
cơ quan, tổ chức) hoặc nơi có tài sản liên quan đến việc thi hành bản án, quyết định của Tòa án
nước ngoài.
- Khi có yêu cầu không công nhận bản án, quyết định dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động của Tòa án nước ngoài không có yêu cầu thi hành tại Việt Nam,
thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ sẽ thuộc về Tòa án nơi người gửi đơn
cư trú, làm việc nếu người gửi đơn là cá nhân hoặc nơi người gửi đơn là cơ quan, tổ chức.Việc ra
quyết định không công nhận một bản án quyết định dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại sẽ dẫn đến không có quá trình thi hành bản án quyết định đó. Do vậy, không đòi hỏi
Tòa án có thẩm quyền là Tòa án nơi cư trú, làm việc hoặc có trụ sở của người phải thi hành bản
án, quyết định đó mà Tòa án có thẩm quyền được xác định là Tòa án nơi cư trú, làm việc hoặc có
trụ sở của người gửi đơn. Quy định này nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người yêu cầu.
- Khi có yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước ngoài,
thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ sẽ thuộc về Tòa án nơi người thi
hành quyết định của Trọng tài nước ngoài cư trú, làm việc, nếu người thi hành là cá nhân hoặc
nơi người thi hành có trụ sở, nếu người thi hành là cơ quan, tổ chức hoặc nơi có tài sản liên quan
đến việc thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài. Tòa án nơi có tài sản liên quan đến việc
thi hành quyết định của Trọng tài nước ngoài có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận và cho
thi hành tại VIệt Nam quyết định của Tòa án nước ngoài hoặc quyết định của Trọng tài nước
ngoài xuất phát từ yêu cầu tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án sau này.
- Khi có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật, thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án
theo lãnh thổ sẽ thuộc về Tòa án nơi việc đăng ký kết hôn trái pháp luật được thực hiện. Quy định
này dựa trê cơ sở dấu hiệu về nơi phát sinh sự kiện đồng thời Tòa án này cũng là Tòa án có điều
kiện tốt nhất để xác minh vụ việc và thuận lợi cho cơ quan thi hành án trong việc thi hành quyết
định của Tòa án.
- Khi có yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi li hôn, thì thẩm quyền
xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ sẽ thuộc về Tòa án nơi một trong các bên thuận
tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.
4
- Khi có yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn,
thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ sẽ thuộc về Tòa án nơi một trong các
bên thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn cư trú, làm việc.
- Khi có yêu cầu hạn chế quyền cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con
sau khi ly hôn, thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ sẽ được xác định là
Tòa nơi cha hoặc mẹ của con chưa thành niên cư trú, làm việc.
- Khi có yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi, thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án
theo lãnh thổ sẽ thuộc về Tòa án nơi cha, mẹ nuôi hoăc con nuôi cư trú, làm việc.
- Khi có các yêu cầu liên quan đến việc trọng tài thương mại Việt Nam giải quyết các vụ tranh
chấp, thẩm quyền xét xử sơ thẩm dân sự của Tòa án theo lãnh thổ sẽ thuộc về Tòa án theo quy
định của pháp luật về trọng tài thương mại.
Như vậy, do xuất phát từ tính đa dạng của các việc dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án, nhà
lập pháp đã có những quy định riêng về việc xác định thẩm quyền sơ thẩm dân sự của Tòa án theo
lãnh thổ cho phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Các quy định này đều nhằm đáp ứng yêu cầu cơ
bản là đảm bảo điều kiện tốt nhất cho Tòa án giải quyết chính xác vụ việc và thuận lợi cho đương
sự trong việc tham gia tố tụng.
II. Quyền lựa chọn Tòa án của đương sự .
Đương sự trong tố tụng dân sự là cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể khác có quyền, lợi ích
tranh chấp hoặc cần phải xác định tham gia vào quá trình Toà án giải quyết vụ việc dân sự để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Để tạo thuận lợi cho đương sự trong việc tham gia tố tụng, các nhà lập pháp đã quy định cho
đương sự được lựa chọn một trong số các Tòa án có thẩm quyền để giải quyết yêu cầu của mình.
Song cũng để đảm bảo cho việc tham gia tố tụng của các đương sự và việc tiến hành tố tụng của
các cơ quan, người có thẩm quyền diễn ra trong một trật tự nhất định, các nhà làm luật đã quy
định cụ thể các trường hợp mà đương sự có quyền lựa chon Tòa án. Tại điều 36 BLTTDS và Nghị
quyết 01/2005/NĐ-HĐTP đã có những quy định và hướng dẫn chi tiết về các trường hợp mà
đương sự có thể lựa chon Tòa án. Cụ thể như sau:
1. Đối với các tranh chấp về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại,
lao động.
- Nếu không biết nơi cư trú, làm việc, trụ sở của bị đơn thì nguyên đơn có thể yêu cầu Tòa án
nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết. Theo hướng
dẫn tại Nghị quyết 01/2005/NĐ-HĐTP thì trong trường hợp này nguyên đơn chỉ có quyền lựa
chọn Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc, có trụ sở cuối cùng hoặc nơi bị đơn có tài sản giải quyết
khi không biết nơi cư trú, làm việc; trụ sở của bị đơn. Về nguyên tắc, nguyên đơn đi kiện phải xác
định nơi bị đơn đang cư trú, làm việc ở đâu thì Tòa án mới có cơ sở để thụ lý giải quyết. Tuy
nhiên, nếu nguyên đơn chứng minh được bị đơn cố tình giấu địa chỉ hoặc thay đổi địa chỉ liên tục,
không ở một nơi nhất định thì nguyên đơn có quyền vận dụng quy định tại điểm a khoản 1 điều
36 BLTTDS để lựa chọn Tòa án có thẩm quyền giải quyết.
5