Tải bản đầy đủ (.docx) (48 trang)

Các giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần MB

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (276.93 KB, 48 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Mục tiêu mà Đảng và nhà nước ta đặt ra trong thời gian tới là phải hoàn
thành nhiệm vụ cơ cấu lại nền kinh tế và tiếp tục phát triển công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp tiên tiến.
` Để thực hiện được mục tiêu này thì vốn là một trong những yếu tố rất quan
trọng, vốn là tiền đề cho sự tăng trưởng kinh tế, mức tăng trưởng kinh tế phụ thuộc
vào quy mô và hiệu quả vốn đầu tư. Vì vậy để đáp ứng nhu cầu phát triển và cạnh
tranh các tổ chức kinh tế ở Việt Nam cũng đòi hỏi phải được mở rộng, phát triển
quy mô ngày càng lớn, đổi mới dây chuyền công nghệ, nâng cao chất lượng hàng
hóa, dịch vụ của các nước khác trong khu vực và trên thế giới. Bởi vậy nhu cầu
vốn đầu tư cho nền kinh tế ngày càng tăng và ngân hàng thương mại là nơi lý
tưởng nhất mà người cần vốn tìm đến.
Nhu cầu vốn ngày càng tăng cũng khiến cho việc huy động vốn của các
Ngân hàng thương mại tăng theo và cần được tăng cường, mở rộng cho phù hợp.
Mặt khác việc tăng cường huy động và sử dụng vốn hợp lý cũng giúp cho hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng được an toàn, hiệu quả hơn.
Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội định hướng phát triển, tăng cường
huy động vốn là ưu tiên hàng đầu. Đó cũng là một hoạt động vô cùng cấp thiết góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong điều kiện hội nhập quốc tế, để đảm bảo
đáp ứng đủ nhu cầu hoạt động kinh doanh cho Ngân hàng.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, với những kiến thức đã được học ở
trường cùng với những kiến thức thu nhận trong thời gian thực tập , tìm hiểu tính
hình thực tế tại NHTMCP Quân Đội trong thời gian vừa qua, em xin chọn đề tài: “
Các giải pháp tăng cường huy động vốn tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Quân Đội” làm chuyên đề thực tập của mình.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về công tác huy động vốn tại NHTM
Chương II: Thực trạng huy động vốn của NHTM cổ phần Quân Đội
Chương III: Giải pháp tăng cường huy động vốn tại NHTM cổ phần Quân
Đội
Chương I: Lý luận chung về công tác huy động vốn tại Ngân hàng


thương mại
1.1 Tổng quan về NHTM
1.1.1 Khái niệm NHTM
Hiện nay ở mỗi nước khác nhau có các đặc điểm khác nhau về NHTM
nhưng đều thống nhất NHTM là doanh nghiệp chuyên kinh doanh tiền tệ và cung
ứng những dịch vụ tài chính cho nền kinh tế, là một trong những tổ chức tài chính
trung gian có chức năng là dẫn vốn từ nơi thừa vốn sang thiếu vốn.
Ở Việt Nam, luật các tổ chức tín dụng theo Điều 20 có ghi “ NHTM là loại
hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt
động kinh doanh khác có liên quan trong đó hoạt động ngân hàng là hoạt động
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận gửi, sử
dụng tiền này để cung cấp tin dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán”.
1.1.2 Chức năng của NHTM
• Chức năng trung gian tài chính
Đây là chức năng quan trọng nhất của NHTM . NHTM nhận tiền gửi và cho
vay chính là đã thực hiện việc chuyển tiền tiết kiệm thành tiền đầu tư
Những chủ thể dư thừa vốn cũng có thể trực tiếp đầu tư bằng cách mua các
công cụ tài chính sơ cấp như: cổ phiếu, trái phiếu của doanh nghiệp hoặc chính phủ
thông qua thị trường tài chính. Nhưng thị trường tài chính trực tiếp đôi khi không
đem lại hiểu quả cao nhất cho người đầu tư vì: khó tìm kiếm thông tin, chi phí tìm
kiếm thông tin lớn, chất lượng thông tin không cao, chi phí giao dịch lớn và phải
có sự trùng khớp về nhu cầu giữa người thừa vốn và người thiếu vốn về số lượng,
thời hạn chính vì thế NHTM với tư cách là một trung gian tài chính đứng ra
nhận tiền gửi tiết kiệm và cung cấp vốn cho nền kinh tế với số lượng và thời hạn
phong phú và đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu về vốn của khách hàng có đủ điều kiện
vay vốn. Với mạng lưới giao dịch rộng khắp, các dịch vụ đa dạng , cung cấp thông
tin nhiều chiều, hoạt động ngày càng phong phú và đa dạng đáp ứng mọi nhu cầu
về vốn của khách hàng có đủ điều kiện vay vốn. Với mạng lưới giao dịch rộng
khắp, các dịch vụ đa dạng, cung cấp thông tin nhiều chiều, hoạt động ngày càng
phong phú chuyên môn hóa vào từng lĩnh vực NHTM đã giải quyết được những

hạn chế của thị trường tài chính trực tiếp, góp phần nâng cao hiệu quả luân chuyển
vốn trong nền kinh tế thị trường.
• Chức năng tạo tiền
Chức năng tạo tiền là chức năng cực kỳ quan trọng của NHTM. Chức năng
này được thể hiện trong quá trình NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế và hoạt
động đầu tư của NHTM, trong mối quan hệ với NHTW đặc biệt trong quá trình
thực hiện chính sách tiền tệ mà mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá trị
đồng tiền. Từ một lượng tiền cơ sở do NHTW phát hành hệ thống NHTM sẽ được
tăng lên gấp bội khi NHTM cấp tín dụng cho nền kinh tế. Khối lượng tiền qua hệ
thống ngân hàng được tính qua công thức :
D=m.MB
D: khối lượng tiền qua hệ thống ngân hàng
MB: khối lượng tiền cơ sở
M=1/rd: hệ số nhân tiền
Rd: tỷ lệ dự trữ bắt buộc
NHTW có thể điều tiết khối lượng tiền cung ứng bằng cách thay đổi lượng
tiền tỷ lệ dự trữ bắt buộc để tăng hoặc giảm khả năng tạo tiền của NHTM từ đó ảnh
hưởng đến khả năng cấp tìn dụng cho nền kinh tế do đó đạt được hiệu quả mà mục
tiêu chính sách tiền tệ đặt ra.
• Chức năng cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán
Thông qua chức năng làm trung gian tài chính NHTM làm tăng lượng tiền
trong lưu thông và cung cấp cho những người đầu tư những chính khoán có tính
lỏng cao hơn và rủi ro thấp hơn do đó sẽ an toàn hơn khi nà đầu tư nắm giữ những
chứng khoán sơ cấp do danh nghiệp, công ty phát hành.
Các NHTM còn cung cấp một danh mục phương tiện thanh toán rất đa dạng
và phong phú : sec chuyển tiền , sec chuyển khoản, thẻ tín dụng… sự xuất hiện của
các phương tiện thanh toán này tạo điều kiện cho các doanh nghiệp dễ dàng giao
dịch thương mại, mua bán hàng hóa an toàn nhanh chóng, chi phí thấp.
• NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính
Ngoài các dịch vụ truyền thống là huy động và cho vay, NHTM ngày nay còn

cung cấp một danh mục dịch vụ khá đa dạng và phong phú : dịch vụ thanh toán ,
dịch vụ môi giới, bảo lãnh tư vấn bảo hiểm …
Cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, các loại dịch vụ ngân hàng
cũng phát triển và mang lại tiện ích cho khách hàng, chưa bao giờ các dịch vụ tài
chính ngân hàng lại phát triển như bây giờ, tỷ trọng thu nhập từ thu phí dịch vụ ở
các ngân hàng hiện đại có thể chiếm 40-50% tổng thu nhập của ngân hàng. Đồng
thời việc phát triển các dịch vụ này cũng làm tăng hiệu quả sử dụng vốn, tăng chu
chuyển vốn trong nền kinh tế, làm giảm lượng tiền mặt trong lưu thông do đó tiết
kiệm được các chi phí ấn kiểm đếm tiền.
Ngày nay trong điều kiện cạnh tranh rất khốc liệt giữa các ngân hàng việc
đưa ra các dịch vụ mới làm tăng tiện ích cho khách hàng là một yếu tố để cạnh
tranh. Chính vì vậy mà các ngân hàng ngày nay rất tích cực đầu tư trang bị cơ sở
vật chất, áp dụng công nghệ tin học, khoa học kĩ thuật vào hoạt động của mình.
Nếu các NHTM có thể đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng về dịch vụ, tạo được uy
tín với khách hàng thì đây cũng là một biện pháp, yếu tố để tăng khả năng huy
động vốn.
1.1.3 Các hoạt động cơ bản của NHTM
Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ cho công chúng và doanh
nghiệp. Thành công của ngân hàng phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài
chính mà xã hội có nhu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách hiệu quả.
Mua bán ngoại tệ: ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại
tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường ngày nay, mua bán ngoại tệ
thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có
mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
Nhận tiền gửi: ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có
tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được
các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho
khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu trước mắt và cho phép ngân hàng sử
dụng tạm thời để kinh doanh.
Cho vay: cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng, tài trợ dự án.

Bảo quản vật có giá: các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có
giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho
khách tờ biên nhận. Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận nên nó
được sử dụng như tiền dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng
của ngân hàng phát hành
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: khi các doanh nhân
gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực
hiện các lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu
cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi không cần phải đến ngân
hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách, khách hàng mang giấy đến
ngân hàng sẽ nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt( an
toàn, chính xác, nhanh chóng, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian
kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Cùng với sự phát triển của
công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như Ủy nhiệm chi,
nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
Quản lý ngân quỹ: các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các
doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ
với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng
trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý
ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh
doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán
sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Tài trợ cho các hoạt động của Chính phủ: khả năng huy động và cho vay với
khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành trọng tâm chú ý của các Chính phủ. Do
nhu cầu chỉ tiêu lớn và thường là cấp bách trong khi thu không đủ Chính phủ các
nước đều muốn tiếp cận với các khoản cho vay của ngân hàng. Các ngân hàng
được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức
độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng
thương mại phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng
tiền gửi mà ngân hàng huy động được, hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi

cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
Bảo lãnh: do khả năng thanh toán của ngân hàng cho mọi khách hàng rất lớn
và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong
bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng
đa dạng và phát triển mạnh, ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình
mua chịu hàng hóa và trang thiết bị phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức
tín dụng khác…
Cho thuê trang thiết bị trung và dài hạn: nhằm để bán được các thiết bị, đặc
biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê
các thiết bị. Cuối cùng hợp đồng khách hàng có thể mua( do vay còn gọi là hợp
đồng thuê mua).
Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn: do hoạt động trong lĩnh vực tài chính
các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân
và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính
hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác
phát hành, ủy thác đầu tư…
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: nhiều ngân hàng đang phấn
đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu.
Đây là một trong những lí do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ
môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và
các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.
Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc
công ty môi giới chứng khoán.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo
hiểm cho khách hàng, điều đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng
bị chết hoặc bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
Cung cấp các dịch vụ đại lý: nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể
thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng( thường là
ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như
thanh toán hộ, phát hành hộ các chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mới trong

đồng tài trợ…
1.2 Hoạt động huy động vốn của các Ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm về huy động vốn
Huy động vốn là một nghiệp vụ cơ bản của các ngân hàng thương mại nói
chung và ngân hàng thương mại cổ phần nói riêng nhằm thu hút vốn từ các tổ chức
và cá nhân trong nền kinh tế nhằm phục vụ mục đích kinh doanh của mình.
• Đối tượng huy động vốn
Hiện nay các ngân hàng thương mại cổ phần chủ yếu huy động vốn từ bốn
đối tượng sau:
- Dân cư
Đây là đối tượng có nhiều tiềm năng nhất, cung cấp cho ngân hàng một
nguồn vốn có quy mô lớn và tính ổn định cao. Người dân có thu nhập nhưng lại
không có nhu cầu đầu tư vào các hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng vẫn muốn
sinh lời, vì vậy họ đầu tư gián tiếp bằng cách gửi tiền vào ngân hàng, ủy thác vốn
cho ngân hàng.
- Các tổ chức kinh tế
Ngày nay hầu hết các tổ chức kinh tế đều mở tài khoản tại Ngân hàng nhằm
phục vụ cho các hoạt động của mình. Nhìn chung các tài khoản này đem lại cho
các ngân hàng một lượng vốn khá ổn định. Phát triển và quản lý tốt các tài khoản
này sẽ cho phép ngân hàng có một nguồn vốn đáng kể với chi phí thấp.
- Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tin dụng khác
Đây là đối tượng không thường xuyên của các ngân hàng thương mại cổ
phần, chỉ nhằm mục đích đảm bảo khả năng thanh toán hay bù đắp thiếu hụt tạm
thời.
- Ngân hàng Trung Ương
Chỉ khi không còn huy động được nguồn nào nữa, các ngân hàng thương
mại sẽ tìm đến ngân hàng Trung Ương nhằm bù đắp thiếu hụt tạm thời hay đảm
bảo khả năng thanh toán. Khi đó ngân hàng Trung Ương sẽ cho các ngân hàng
thương mại cổ phần vay chủ yếu dưới hình thức tái chiếu khấu hoặc cầm cố các
thương phiếu mà ngân hàng Trung Ương nắm giữ.

1.2.2 Các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại.
• Nguồn tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại. Khi ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các khoản
tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy
động tiền gửi của các doanh nghiệp, các tổ chức và dân cư.
Tiền gửi là nguồn quan trọng, chiếm tỉ trọng lớn trong tổng nguồn tiền gửi
của ngân hàng. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được
nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng dã đưa ra và thực hiện
nhiều hình thức huy động khác nhau.
a. Tiền gửi thanh toán:
Đây là tiền gửi của doanh nghiệp hoặc cá nhân gửi vào ngân hàng để nhờ
ngân hàng giữ và thanh toán hộ. Trong phạm vi số dư cho phép, các nhu cầu chi trả
của doanh nghiệp và cá nhân đều được ngân hàng thực hiện. Các khoản thu bằng
tiền của doanh nghiệp và cá nhân đều có thể được nhập vào thanh toán theo yêu
cầu. Nhìn chung, lãi suất của khoản tiền gửi này rất thấp( hoặc bằng không), thay
vào đó chủ tài khoản có thể được hưởng các dịch vụ của ngân hàng với mức phí
thấp. Ngân hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán( tài khoản có thể phát séc) cho
khách hàng. Thủ tục mở rất đơn giản, yêu cầu của ngân hàng là khách hàng phải có
tiền và chỉ thanh toán trong phạm vi số dư. Một số ngân hàng kết hợp tài khoản
tiền gửi thanh toán với tài khoản cho vay( thấu chi- chi trội trên số dư của tài
khoản tiền gửi thanh toán). Một số ngân hàng sử dụng nhiều hình thức “ biến
tướng” của tài khoản thanh toán để nâng lãi suất loại tiền gửi này nhằm cạnh tranh
với các tổ chức tín dụng khác.
b. Tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp tổ chức xã hội
Nhiều khoản thu bằng tiền của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội sẽ
được chi trả sau một thời gian xác định. Tiền gửi thanh toán tuy rất thuận tiện cho
hoạt động thanh toán nhưng lãi suất thấp. Để đáp ứng nhu cầu tăng thu của người
gửi tiền, ngân hàng đã đưa ra hình thức tiền gửi có kì hạn. Người gửi không được
sử dụng các hình thức thanh toán đối với tiền gửi thanh toán để áp dụng đối với

loại tiền gửi này. Nếu cần chi tiêu, người gửi phải đến ngân hàng rút tiền ra. Tuy
không thuận lợi cho tiêu dùng bằng hình thức tiền gửi thanh toán, xong tiền gửi có
kì hạn được hưởng lãi suất cao hơn tùy theo độ dài của kì hạn.
c. Tiền gửi tiết kiệm của dân cư
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa đủ sử
dụng( các khoản tiền tiết kiệm). Trong đó điều kiện có khả năng tiếp cận với ngân
hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện mục tiêu bảo toàn. Nhằm thu hút
ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư
thay đổi thói quen giữ vàng và giữ tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới
huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn
( ví dụ như tiền gửi vơi các kì hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng
vàng…) Ngân hàng có thể mở cho mỗi người tiết kiemeh nhiều chuyên mục tiết
kiệm( hoặc là sổ tiết kiệm) cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ tiết kiệm
này không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể chấp nhận vay vốn
nếu được ngân hàng cho phép.
- Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn:
Thực chất đây là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Đối với khoản tiền
này chủ tài khoản có thể rút ra bất kì lúc nào mà không phải báo trước. Khác với
loại tiền gửi thanh toán, người gửi tiền không được sử dụng các công cụ thanh toán
để chi trả cho người khác. Số dư tài khoản này thường không lớn nhưng có ưu
điểm hơn với các tài khoản thường giao dịch ở chỗ số dư này ít biến động. Chính
vì vậy đối với các loại tiền gửi này, các NHTM thường phải trả lãi suất cao so với
tiền gửi thanh toán. Đó là điều kiện để các NHTM có thể dễ dàng huy động số vốn
này.
- Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn :
Khi cá nhân gửi tiền vào ngân hàng loại tiền gửi tiết kiệm có kì hạn trên cơ
sở thỏa thuận giữa các khách hàng và ngân hàng về thời hạn gửi, lãi suất theo quy
định và khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn. Về nguyên tắc một khi khách
hàng đã gửi tiền vào tài khoản này, họ sẽ không được rút ra( cả gốc và lãi) trừ khi
đến hạn gửi tiền. Để tăng sức cạnh tranh trong thu hút tiền gửi, một số ngân hàng

vẫn cho phép khách hàng rút tiền trước hạn. Tuy nhiên, nhằm tránh việc khách
hàng rút tiền trước hạn, một phần trong tiền lãi mà khách hàng được hưởng đã bị
chiết khấu.
Do nguồn vốn huy động từ loại tiền gửi này mang tính ổn định cho nên các
NHTM thường đưa ra nhiều loại kì hạn khác nhau như 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng,
24 tháng… nhằm thu hút ngày càng nhiều nguồn vốn với lãi suất của các kì hạn
khác nhau. Thông thường kì hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
- Tiết kiệm dài hạn
Loại tiết kiệm này rất phổ biến ở một số nước công nghiệp, nhằm thu hút số
tiền nhàn rỗi trong thời hạn dài. So với các loại hình tiết kiệm khác, đối với tài
khoản này, bất kì lúc nào chủ tài khoản cũng có thể gửi tiền vào tài khoản với số
lượng không hạn chế, nhưng chỉ được rút ra khi đến hạn. Đây là loại hình tiết kiệm
ngân hàng cần tận dụng nhằm tạo các nguồn vốn có tính ổn định cao phục vụ cho
hoạt động cấp tín dụng dài hạn của mình.
Nguồn vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của dân cư có số lượng lớn thứ 2
trong số các loại tiền gửi vào ngân hàng, nó phụ thuộc rất lớn vào thu nhập bình
quân theo đầu người, tỷ lệ tiết kiệm trên tổng thu nhập của dân cư, đặc tính tâm lý
của dân cư, chất lượng phục vụ của ngân hàng, sự ổn định của đồng tiền và nền
kinh tế tăng trưởng vững chắc.
d. Huy động vốn nội tệ và ngoại tệ.
• Huy động vốn nội tệ
Tiền gửi bằng nội tệ của các tầng lớp dân cư: Đây chủ yếu là tiền gửi tiết
kiệm, nguồn này có qui mô, cơ cấu lớn trong tổng nguồn huy động bằng nội tệ
nhưng tăng trưởng không ổn định. Nhược điểm huy động tiền gửi tiết kiệm có lãi
suất huy động bình quan cao, kì hạn gửi tiền danh nghĩa của người dân thường
ngắn( nhỏ hơn 12 tháng). Điều này ảnh hưởng tới khả năng sử dụng vốn, khả năng
dịch chuyển kì hạn dư nợ, kết quả kinh doanh và sức cạnh tranh ngân hàng thương
mại.
Tiền gửi bằng nội tệ của các tổ chức kinh tế xã hội: Nguồn tiền này cũng có
quy mô, cơ cấu lớn trong nguồn huy động. Tiền gửi này thường là tiền gửi hiao

dịch hoặc có kì hạn ngắn, hưởng lãi suất thấp. Nếu ngân hàng huy động được nhiều
để cho vay và đầu tư thì không những kéo dài được chênh lệch lãi suất hai đầu trần
và sàn, giảm được chi phí vốn bình quân, tăng lợi nhuận.
Tiền gửi bằng nội tệ của các tổ chức khác: tiền này có qui mô, cơ cấu nhỏ
trong tổng nguồn tiền gửi bằng nội tệ. Nguồn tiền gửi của các tổ chức tín dụng
khác thường có mức độ tăng trưởng khá cao nhưng chủ yếu là nguồn trong thanh
toán, ngân hàng cũng không sử dụng nguồn này để cho vay và đầu tư.
Đi vay bằng nội tệ: Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM, tuy nhiên
khi cần ngân hàng có thể vay mượn thêm. Việc đi vay bằng đồng nội têj chủ yếu để
đáp ứng nhu cầu thiếu hụt dự trữ.
• Huy động vốn bằng ngoại tệ
Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tầng lớp dân cư: tiền gửi bằng ngoại tệ của
các tầng lớp dân cư chiếm tỷ trọng nhỏ. Việc huy động vốn bằng ngoại tệ luôn bị
tác động mạnh bởi lãi suất ngoại tệ trên thị trường quốc tế và tình trạng khan hiếm
tiền đồng VND
Tiền gửi bằng ngoại tệ của các tổ chức kinnh tế -xã hội: đây chủ yếu là
khoản tiền gửi trong thanh toán, tiền gửi có kì hạn ngắn thường từ 1-3 tháng
Tiền gửi bằng ngoại tệ của các TCTD khác: Nguồn tiền này chiếm tỷ trọng
cao nhất trong tổng số vốn huy động bằng ngoại tệ. Tại Việt Nam đối tượng cho
vay chủ yếu là các ngân hàng thương mại nhà nước.
Tiền vay bằng ngoại tệ: cũng giống như tiền vay bằng nội tệ, chỉ khi thật sự
cần thiết NHTM mới đi vay nhất là băng ngoại tệ với lãi suất cao và đầy biến động.
Do vậy lượng vay này thường nhỏ.
e. Tiền gửi của các ngân hàng khác
Nhằm mục đích nhờ thanh toán hộ và một số mục đích khác, ngân hàng
thương mại này có thể gửi tiền tại ngân hàng khác. Tuy nhiên quy mô này thường
không lớn.
• Nguồn đi vay và phát hành giấy tờ có giá
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của NHTM. Tuy nhiên khi cần, ngân
hàng thường vay mượn them. Tại nhiều nước ngân hàng Trung Ương thường quy

định tỉ lệ giữa nguồn tiền huy động và vốn chủ sở hữu. Do vậy nhiều ngân hàng
vào những giai đoạn cụ thể phải vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả
năng huy động bị hạn chế.
a) Vay NHNN
Đây là khoản vay nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách trong chi trả NHTM.
Trong trường hợp thiếu hụt dự trữ, NHTM thường vay NHNN. Hình thức cho vay
chủ yếu là tái chiết khấu hoặc tái cấp vốn. Các thương phiếu đã được NHTM chiết
khấu trở thành tài sản của họ. Khi cần tiền ngân hàng mang những thương phiếu
này lên tái chiết khấu tại NHNN. NHNN điều hành vay mượn này một cách chặt
chẽ, NHTM phải thực hiện các điều kiện đảm bảo và kiểm soát nhất định. Trong
điều kiện chưa có thương phiếu, NHNN cho NHTM vay dưới hình thức tái cấp vốn
theo hạn mức tín dụng nhất định.
b) Vay tổ chức tín dụng khác
Đây là nguồn các ngân hàng vay mượn lẫn nhau và vay các tổ chức tín dụng
khác trên thị trường lien ngân hàng. Các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu sẽ
có thể sẵn long cho các ngân hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược
lại, các ngân hàng đang thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo
thanh khoản. Như vậy nguồn vay mượn từ các ngân hàng khác là để đáp ứng nhu
cầu dự trữ và chi trả cấp bách.
c) Vay trên thị trường vốn
Giống như các doanh nghiệp khác, các ngân hàng cũng vay mượn bằng cách
phát hành các giấy nợ( kì phiếu, tín phiếu, trái phiếu) trên thị trường vốn. Rất nhiều
NHTM thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn dẫn đến không đáp ứng được nhu
cầu cho vay trung và dài hạn. Thông thường đây là khoản vay không có bảo đảm.
Nhưng ngân hàng có uy tín và trả lãi suất cao sẽ vay được nhiều hơn. Các ngân
hàng nhỏ thường khó vay mượn bằng cách này.
• Các nguồn khác
- Nguồn ủy thác:
NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác như ủy thác cho vay, ủy thác cấp phát,
ủy thác giải ngân và thu hộ…Các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân

hàng
- Nguồn trong thanh toán:
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn
trong thanh toán( séc trong quá trình chi trả, tiền kí quỹ để mở L/C…) Những ngân
hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có kết quả số dư tiền của các ngân
hàng thành viên chuyển về để thực hiện cho vay.
1.2.3 Tầm quan trọng của nghiệp vụ huy động vốn
• Đối với ngân hàng thương mại
Nghiệp vụ huy động vốn là một nghiệp vụ rất quan trọng góp phần mang lại
nguồn vốn cho ngân hàng thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh. Không có nghiệp
vụ huy động vốn xem như không có hoạt động của NHTM, NHTM sẽ không đủ
nguồn vốn tài trợ cho mọi hoạt động của mình. Hay nói cách khác, thông qua hoạt
động huy động vốn NHTM có thể đo lường được uy tín và sự tín nhiệm của khách
hàng đối với ngân hàng. Từ đó ngân hàng có những biện pháp không ngừng hoàn
thiện mọi hoạt động của mình để giữ vững và mở rộng quan hệ với khách hàng. Có
thể nói, nghiệp vụ huy động vốn góp phần giải quyết “đầu vào” của ngân hàng
• Đối với khách hàng
Nghiệp vụ huy động vốn cung cấp cho khách hàng một kênh tiết kiệm và
đầu tư nhằm làm cho tiền của họ sinh lời, tạo cơ hội cho họ có thể gia tăng tiêu
dùng trong tương lai. Nghiệp vụ huy động vốn còn cung cấp cho khách hàng một
nơi an toàn để cấp trữ và tích lũy nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi. Mặt khác, nghiệp
vụ huy động giúp cho khách hàng có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ khác của ngân
hàng như dịch vụ thanh toán qua ngân hàng, dịch vụ tín dụng khi khách hàng cần
vốn cho sản xuất, kinh doanh hoặc cần tiền cho tiêu dùng. Vì vậy nghiệp vụ huy
động vốn có ý nghĩa rất lớn không chỉ với ngân hàng mà còn với cả khách hàng.
1.3 Hiệu quả huy động vốn của NHTM
1.3.1 Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả huy động vốn
• Chi phí huy động vốn:
a. Lãi suất huy động
Lãi suất huy động vốn luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của các chủ thể

kinh tế. Người gửi muốn có lãi suất cao, người vay lại muốn có lãi suất thấp. Là
trung gian đóng vai trò cầu nối giữa 2 đối tượng trên, ngân hàng phải tìm hiểu điều
chỉnh mức lãi suất sao cho hợp lý nhất đối với các bên trong đó phải đảm bảo lợi
ích của ngân hàng. Vì vậy, trong huy động vốn, mỗi ngân hàng đều phải cố gắng
áp dụng mọi biện pháp có thể nhằm tìm kiếm được những nguồn vốn sao cho vay
với một lãi suất chấp nhận trên thị trường. Chi phí huy động được đánh giá qua hệ
thống các chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân, lãi suất huy động của từng nguồn và
đặc biệt là lãi suât cạnh tranh NEC
Mặt khác, cũng với một mức lãi suất chi phí trả lãi bình quân, sự đa dạng
hóa trong lãi suất cho phù hợp với mỗi hình thức huy động vốn cần thiết, sự đa
dạng hóa lãi suất làm cho tăng tính hiệu quả của chính sách lãi suất mà ngân hàng
đưa ra. Nếu có chính sách lãi suất phù hợp, hiệu quả, ngân hàng sẽ tối thiểu hóa
được chi phí trong khi vẫn hoàn thành kế hoạch nguồn vốn.
• Chi phí khác
Bên cạnh chi phí lãi suất, trong quá trình huy động vốn còn có các chi phí
khác như chi phí tiền lương cho cán bộ huy động, chi phí in ấn phát hành, chi phí
cơ sở vật chất, chi phí giao dịch quảng cáo…Tuy chi phí này chỉ chiếm một tỷ
trọng tương đối nhỏ nhưng nếu tiết kiệm được cũng góp phần giảm bớt gánh nặng
cho ngân hàng
• Quy mô vốn huy động
Quy mô vốn huy động càng lớn thì chứng tỏ nguồn vốn huy động
càng dồi dào.
Ta có tốc độ tăng trưởng vốn năm I
Tốc độ tăng trưởng > 100: vốn của ngân hàng tăng
Tốc độ tăng trưởng <100: quy mô vốn của ngân hàng giảm
• Cơ cấu nguồn vốn huy động
Một yếu tố quan trọng khác đưa ra để đánh giá khả năng huy động vốn
của NHTM là cơ cấu vốn. Cơ cấu vốn được phản ánh thông qua tỷ trọng
của từng loại vốn trong tổng vốn của Ngân hàng.
• Cân đối giữa huy động vốn và sử dụng vốn

Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là huy động vốn để sử
dụng nhằm thu lợi nhuận. Theo đó ngân hàng sẽ chuyển hóa nguồn vốn
– tiền gửi,tiền vay- vốn của chủ thành các loại tài sản như ngân quỹ,tín
dụng, chúng khoán, các tài sản khác theo phương thức thích hợp, nhằm
thỏa mãn các mục tiêu mà ngân hàng đặt ra
• Các hình thức huy động vốn
Hình thức huy động vốn càng đa dạng thì vốn chảy vào ngân hàng càng
nhiều. Vì vậy độ đa dạng của huy động vốn chính là chỉ tiêu đánh giá hiệu quả của
công tác huy động vốn ở các NHTM. Sự đa dạng các công cụ huy động được thể
hiện trước hết là ở số lượng các công cụ ngân hàng đã sử dụng. Đa dạng về công
cụ là chưa đủ, mà ngân hàng phải đa dạng về kì hạn huy động, loại tiền sử dụng.
Do vậy để công tác huy động vốn của ngân hàng đạt hiệu quả cao, ngân hàng cần
phải tính toán, nghiên cứu tìm hiểu thị trường, trên cơ sở năng lực bản than đưa ra
các sản phẩm huy động vốn đa dạng.
• Tính ổn định của nguồn vốn
Tính ổn định ở đây bao gồm ổn định về khối lượng, tốc độ tăng trưởng, cơ
cấu nguồn. Khối lượng vốn huy động phản ánh quy mô vốn. Quy mô vốn lớn sẽ
tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng hoạt động kinh doanh của mình. Trong tổng
nguồn vốn của ngân hàng thì quy mô vốn huy động là một bộ phận chiếm tỷ trọng
cao nhất và có vai trò quan trọng hơn cả.
1.3.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn
Để tồn tại và phát triển bền vững các NHTM phải không ngừng nâng cao
năng lực cạnh tranh trên thị trường. Để làm được điều đó thì đầu tiên các ngân
hàng phải tạo được nguồn vốn vững chắc thong qua hoạt động huy động vốn. Để
hiệu quả hoạt động huy động vốn như mong muốn thì các NHTM phải phân tích
các nhân tố tác động đến hoạt động huy động vốn một cách chính xác để xác định
được khó khăn và thuận lợi gồm cả nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
• Nhân tố khách quan:
Môi trường kinh tế- xã hội: một môi trường kinh tế phát triển sẽ là điều kiện
thuận lợi cho bất cứ hoạt động nào của NHTM chứ không chỉ là hoạt động huy

động vốn. Những biến động của nền kinh tế chính là nhân tố tác động vào việc
người dân gửi tiền vào ngân hàng, mua USD, mua vàng hay mua những tài sản
khác.Trong tình hình nền kinh tế ổn định người dân có cái nhìn khả quan hơn thì
việc gửi tiền vào một ngân hàng là tất yếu.
Nhân tố tiết kiệm trong nền kinh tế: ngày nay cùng với sự phát triển chung
của nền kinh tế thì nhiều người dân càng giàu hơn,lượng tiền tiết kiệm ngày càng
tăng. Trong thực tê, khi thu nhập của người dân càng cao thì lượng tiền dung cho
tiết kiệm càng lớn và khi thu nhập bình quân đầu người đạt đến tỉ lệ nhất định thì
tỷ lệ tiết kiệm không phải tăng tương quan với tỷ lệ thu nhập mà tăng với một tỷ lệ
lớn hơn bởi lúc này những nhu cầu cấp thiết đã được đáp ứng và lượng tiền dôi ra
càng nhiều.
Các chính sách chính phủ: mọi tổ chức kinh tế đều chịu sự kiểm soát và điều hành
của chính phủ, và các NHTM cũng không phải ngoại lệ. Các chính sách vĩ mô của
chính phủ không nhằm mục đích cụ thể cho từng giai đoạn phát triển của nền kinh
tế. Hiện nay, nhằm đáp ứng đủ vốn cho nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Chính phủ đã có những văn bản hướng dẫn cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho các
NHTM tạo điều kiện thuận lợi cho công tác huy động vốn
Nhu cầu vốn của nền kinh tế: Trong quá trình phát triển nền kinh tế luôn có
nhu cầu dung vốn, cả vốn ngắn hạn lẫn vốn dài hạn để phục vụ cho phát triển. Tuy
nhiên tự bản thân nó không đáp ứng được lượng vốn cần thiết về khối lượng và
thời gian, bởi nơi này thì thừa vốn, nơi kia thì thiếu vốn mà thời hạn lại không
trùng nhau. Nên việc xuất hiện NHTM với vai trò là người trung gian ở giữa điều
hòa vốn trong tổng nền kinh tế đã làm cho quá trình đầu tư phát triển được diễn ra
thuận lợi hơn.
Vị trí địa lí và môi trường kinh tế xã hội: là yếu tố mang tính chất quyết định
đến hiệu quả huy động vốn. Bởi đơn giản, ở các thành phố lớn thu nhập của người
dân cao, cơ hội việc làm nhiều thì người dân sẽ có cơ hội tích lũy nhiều. Chỉ có
những khu vực dân cư đông đúc, thành phố lớn, nhiều doanh nghiệp thì mới có độ
nhảy cảm cao về lãi suất dịch vụ dành cho khách hàng gửi tiền, chính vì vậy mà
hiệu quả huy động vốn ở những nơi này thường cao hơn so với nông thôn và miền

núi.
• Nhân tố chủ quan
Mạng lưới huy động và uy tín của NHTM: NHTM có chi nhánh hệ thống
rộng khắp từ nông thôn đến thành thị thì sẽ có cơ hội tiếp xúc với nguồn nhàn rỗi
trong dân cư nhiều hơn, đưa mọi người dân đến gần ngân hàng hơn. Hệ thống chi
nhánh rộng khắp cũng chứng tỏ được sự phát triển của ngân hàng làm cho mọi
người quen với ngân hàng và giao dịch sẽ nhiều hơn. Tuy nhiên việc người dân có
quyết định gửi tiền vào NH hay không còn phụ thuộc vào uy tín của ngân hàng
Chính sách lãi suất của Ngân hàng thương mại: NHTM cạnh tranh bằng
chính sách lãi suất hợp lý bao gồm cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay. Lãi
suất là yếu tố quyết định đến sự thành công của huy động vốn, chính sách lãi suất
phải hấp dẫn người gửi, điều chỉnh lien tục theo những biến động của thị trường
vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho ngân hàng và đảm bảo tính thu hút. Lãi suất
và quy mô tiền gửi tỉ lệ thuận với nhau. Tuy nhiên với khách hàng là tổ chức kinh
tế thì ngoài lãi suất họ còn quan tâm đến nhiều dịch vụ khác của ngân hàng cung
cấp, thái độ phục vụ của nhân viên ngân hàng, công nghệ và hệ thống chi nhánh để
phục vụ một cách tối đa nhất có thể.
Chính sách sản phẩm: khách hàng quan tâm đến một ngân hàng không chỉ là
lãi suất kì vọng mà NH mang lại, mà còn phụ thuộc vào các dịch vụ khác mà ngân
hàng cung cấp cho khách hàng. Ngày nay, các NHTM đang cố gắng đa dạng hóa
các loại sản phẩm để phục vụ tối đa nhu cầu của khách hàng như : kì hạn khác
nhau, mệnh giá và chủng loại khác nhau của các loại tiền gửi… Như vậy sẽ đa
dạng hóa được khách hàng.
Chính sách Marketing: NHTM cũng là một tổ chức kinh doanh nên việc
quảng cáo và quảng bá thương hiệu đóng một vai trò quan trọng. Để có được hình
ảnh đẹp và sự tin tưởng của khách hàng thì NHTM phải thực hiện được đồng bộ
các yêu cầu đó. Các hình thức quảng bá được đa dạng hóa như: báo hình, báo nói,
báo viết, báo điện tử… đưa ngân hàng đến gần tầng lớp dân cư hơn.
Bên cạnh các nhân tố ảnh hưởng trên,hoạt động huy động vốn của ngân
hàng còn phụ thuộc vào các yếu tố khác như: chính sách khách hàng,dịch vụ ngân

hàng, tư vấn, chiết khấu kèm theo nghiệp vụ huy động vốn với thời hạn trung và
dài hạn là vô cùng quan trọng.
Chương II: Thực trạng về công tác huy động vốn tại NHTM cổ phần Quân
Đội.
2.1 Khái quát về ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng thương mại cổ phần Quân
Đội
Trong những năm đầu của thập kỉ 90, nhu cầu vốn và các dịch vụ của tài
chính cho hoạt động kinh tế quốc phòng nhằm thực hiện những công trình quốc
phòng, dự án quốc gia… của các doanh nghiệp Quân đội rất lớn. Tuy nhiên việc
đáp ứng các nhu cầu này của các ngân hàng còn hạn chế. Chính vì vậy ngày
04/11/1994 NHTMCP Quân đội đã chính thức đi vào hoạt động theo quyết định số
00374/ GP–UB của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và theo giấy phép hoạt
động số 0054/NH-GP ngày 14/09/1994 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước Việt
Nam. NHTMCP Quân đội là một trong 5 NHTMCP có trụ sơ tại Hà Nội với số
vốn điều lệ là 20 tỷ đồng, thời gian hoạt động là 50 năm.
Trải qua gần 19 năm hoạt động MB ngày càng phát triển lớn mạnh với định
hướng trở thành một tập đoàn với ngân hàng mẹ MB (Một trong số NHTMCP
hàng đầu Việt Nam) và các công ty con hoạt động có hiệu quả, từng bước khẳng
định là các thương hiệu có uy tín trong ngành dịch vụ tài chính (ngân hàng, bảo
hiểm, chứng khoán) và bất động sản tại Việt Nam. Với sản phẩm dịch vụ và đa
dạng, MB phát triển mạnh mẽ và nhanh chóng mở rộng hoạt động của mình ra các
phân khúc thị trường mới bên cạnh thị trường truyền thống ban đầu. Trong vòng 6
năm quá, MB liên tục được NHNN VN xếp hạng A – tiêu chuẩn cao nhất do
NHNN VN ban hành.
ĐẠI HỘI ĐỒNG CỔ ĐÔNG
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
BAN KIỂM SOÁT
CƠ QUAN KIỂM TOÁN NỘI BỘ
CƠ QUAN NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN

BAN ĐIỀU HÀNH
KHỐI QUẢN TRỊ RỦI ROKHỐI KIỂM SOÁT NỘI BỘ
CÁC ỦY BAN CAO CẤP
QUẢN LÝ HỆ THỐNG
HỖ TRỢ KINH DOANH
KINH DOANH
PHÒNG KẾ HOẠCH TỔNG HỢP
PHÒNG PHÁP CHẾ
PHÒNG TRUYỀN THÔNG
KHỐI TÀI CHÍNH KẾ TOÁN
TRUNG TÂM CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
KHỐI TỔ CHỨC NHÂN SỰ
PHÒNG CHÍNH TRỊ
VĂN PHÒNG KHU VỰC PHÍA NAM
KHỐI HỖ TRỢ KINH DOANH
KHỐI HÀNH CHÍNH VÀ QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG
KHỐI QUẢN LÝ MẠNG LƯỚI VÀ KÊNH PHÂN PHỐI
KHỐI TREASURY
KHỐI DOANH NGHIỆP LỚN VÀ CÁC ĐỊNH CHẾ TÀI CHÍNH
KHỐI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
KHỐI KHÁCH HÀNG CÁ NHÂN
KHỐI ĐẦU TƯ
152 CHI NHÁNH VÀ CÁC PHÒNG GIAO DỊCH
VĂN PHÒNG HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Với số vốn điều lệ khi thành lập chỉ có 20 tỷ đồng, chủ yếu là từ vốn góp của
các cổ đông sáng lập cùng với 25 nhân sự, đến nay số vốn điều lệ đã tăng 7.300 tỷ
đồng với hàng vạn cổ đông cùng hơn 4000 cán bộ công nhân viên đang làm việc
tại MB (tính cả công ty con là hơn 4.620 cán bộ nhân viên). MB hiện nay đã có
năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh vững mạnh, tuân thủ các chỉ tiêu an toàn
vốn do NHNN VN quy định, đồng thời không ngừng đáp ứng nhu cầu mở rộng của

Ngân hàng trong tương lai. Tổng tài sản của MB không ngừng gia tăng, đạt
115.182 tỷ đồng tính đến 30/06/2011. Hiện nay, xét về tổng tì sản và vốn điều lệ,
MB là một trong những NHTMCP trong nước có cơ cấu quy mô lớn
2.1.2 Cơ cấu tổ chức bộ máy của NHTM cổ phần Quân Đội.
2.2 Thực trạng huy động vốn tại NHTM CP Quân Đội
2.2.1 Quy mô huy động vốn
Biểu đồ 1: Tổng huy động vốn qua các năm 2008-2011
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy tăng trưởng tổng nguồn huy động vốn của MB
tăng trưởng ổn định theo từng năm.
Cụ thể, năm 2008 tổng nguồn huy động vốn của MB đạt 36.669 tỷ đồng. Đến
năm 2009 thì tổng nguồn huy động đạt 59.279.267 tỷ đồng tăng 22.610.267 tỷ
đồng so với năm 2008.
Năm 2010, nguồn vốn huy động đạt 96.953.943 tỷ đồng,tăng 37.67.676 tỷ đồng
so với năm 2009. Và đến cuối năm 2011 thì tổng nguồn huy động vốn đat
124.228.941 tỷ đồng, tăng so với năm 2010. Như vậy, quy mô huy động vốn của

×