Tải bản đầy đủ (.doc) (54 trang)

Công tác huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh tỉnh Bắc Kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.6 KB, 54 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
LỜI MỞ ĐẦU
Sau gần 30 năm đổi mới, đất nước ta đã giành được nhiều thành tựu trong
sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Các thành phần kinh tế được Nhà nước chủ trương khuyến khích phát
triển đồng đều, đặc biệt là khu vực ngoài quốc doanh; cơ cấu kinh tế đang
chuyển dịch đúng hướng; nhiều ngành kinh tế tiếp tục phát triển khá; thu nhập
người dân đã được nâng lên hơn trước. Tuy nhiên so với các nước cùng khu vực
kinh tế Việt Nam vẫn thuộc loại trung bình, chưa thể so sánh với các nước như
Singapo,Thái Lan, Trung Quốc…Để có thể tiếp tục phát triển đúng theo định
hướng đã chọn và đuổi kịp các nước trong khu vực, chúng ta cần huy một lượng
động vốn lớn hơn nữa để đầu tư phát triển các ngành kinh tế mũi nhọn của đất
nước cũng như các lĩnh vực xã hội (y tế, giáo dục ). Nguồn vốn huy động này
có thể có được từ nhiều kênh, trong đó hệ thống ngân hàng là một kênh huy
động vốn hiệu quả của đất nước. Thông qua các ngân hàng với nghiệp vụ huy
động và cho vay, nguồn vốn huy động từ dân cư và các tổ chức sẽ được chuyển
tới những ngành, những lĩnh vực đang cần vốn đầu tư. Có thể nói, hệ thống ngân
hàng đã và đang làm rất tốt vai trò trung gian vốn của nền kinh tế, góp phần huy
động và chu chuyển vốn nhàn rỗi trong xã hội cho sự phát triển kinh tế xã hội
của đất nước. Nhưng làm thế nào để các ngân hàng có thể huy động vốn có hiệu
quả hơn từ dân cư và các tổ chức kinh tế?
Trong thời gian gần đây có rất nhiều ngân hàng lần lượt được thành lập điều
đó làm cho sự cạnh tranh càng thêm quyết liệt.Nguồn cung vốn huy động càng
bị chia sẻ trong khi nhu cầu ngày một tăng lên để đáp ứng nhu cầu phát triển của
đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn vốn cũng như những khó khăn
mà các ngân hàng hiện nay đang gặp phải trong quá trình huy động vốn, tôi xin
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
1
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
chọn chuyªn ®Ò : “ C«ng t¸c huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát


triển Việt Nam chi nhánh tỉnh Bắc Kạn”.
* Mục tiêu nghiên cứu :
- Hệ thống các vấn đề lý luận về vốn trong NHTM và công tác huy động
vốn tại các NHTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng công tác huy động vốn tại ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam- chi nhánh Bắc Kạn, những mặt đã làm được và
những mặt còn hạn chế, từ đó tìm ra nguyên nhân của những tồn tại.
- Đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác huy động
vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam- chi nhánh Bắc kạn.
* Đối tượng và phạm vi nghiên cứu :
-Đối tượng nghiên cứu của chuyªn ®Ò là những vấn đề về nguồn vốn và
công tác huy động vốn trong các NHTM.
- Phạm vi nghiêu cứu của chuyªn ®Ò là công tác huy động vốn tại BIDV -
Bắc Kạn trong giai đoạn 2009-2011
* Phương pháp nghiên cứu :
Chuyên đề sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử. Với phương pháp nghiên cứu: phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh, suy diễn logic để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu.
* Những đóng góp của chuyên đề :
- Hệ thống và bổ sung các vấn đề lý luận cơ bản về công tác huy động vốn
tại các NHTM nói chung và tại Ngân hàng BIDV nói riêng
- Đánh giá thực trạng cơ chế quản lý huy động vốn tại BIDV- Bắc Kạn
giai đoạn 2009 – 2011.Tổng kết những mặt đã làm được, những công tác còn
yếu kém, tồn tại từ đó tìm ra nguyên nhân.
- Trên cơ sở những nguyên nhân tồn tại, đề xuất các giải pháp góp phần
đẩy mạnh hiệu quả công tác huy động vốn tại Ngân hàng BIDV- Hà Tây
* Kết cấu của chuyªn ®Ò :
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, chuyên đề
được trình bày theo 3 chương :
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1

2
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
Chương I : Những vấn đề về nguồn vốn và huy động vốn tại ngân hàng
thương mại.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam chi nhánh tỉnh Bắc Kạn.
Chương III : Một số giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn cho Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam chi nhánh tỉnh Bắc Kạn.
Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do thời gian thực tập có hạn, kinh nghiệm
thực tế của bản thân còn hạn chế, nên chuyên đề của tôi không tránh khỏi những
thiếu sót. Tôi rất mong các thầy cô giáo nhiệt tình chỉ bảo, sửa chữa giúp chuyên
đề của tôi hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo cùng toàn thể cán bộ trong
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Bắc Kạn đã tạo điều kiện
giúp đỡ tôi trong thời gian thực tập và nghiên cứu viết chuyên đề này.
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
3
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUỒN VỐN
VÀ HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1 NGUỒN VỐN VÀ VAI TRÒ CỦA NGUỒN VỐN ĐỐI VỚI NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI .
1.1.1.Định nghĩa nguồn vốn.
Nguồn vốn trong Ngân hàng thương mại được định nghĩa là toàn bộ tài
sản bên Nợ trong Bảng cân đối Kế toán của Ngân hàng. Nó bao gồm nguồn vốn
chủ sở hữu(vốn tự có và vốn coi như tự có), vốn huy động, vốn đi vay và các
nguồn vốn khác. Trong đó nguồn vốn huy động và vốn đi vay là chủ yếu và
quan trọng bởi nguồn này chiếm tỷ trọng lớn và tạo ra lợi nhuận cho Ngân hàng.
Thông thường kết cấu nguồn vốn của các NHTM là như nhau nhưng xét về số
lượng mỗi thành phần thì không ngân hàng nào giống nhau. Sự khác biệt đó xuất

phát từ cách thức, mục tiêu huy động vốn của mỗi Ngân hàng. Thông qua kết
cấu nguồn vốn của mỗi Ngân hàng người ta có thể đánh giá được rất nhiều điều
về sự hoạt động cũng như khả năng quản trị Ngân hàng của ban lãnh đạo.
1.1.2.Vai trò của nguồn vốn đối với ngân hàng thương mại.
Trước hết, Nguồn vốn là cơ sở cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động của
Ngân hàng. Bất kì một ngân hàng nào muốn tiến hành các hoạt động cho vay
hay cung cấp các dịch vụ đều phải có một số lượng vốn đủ lớn đảm bảo. Số vốn
đó giúp ngân hàng ban đầu nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng, thực
hiện hoạt động tín dụng và mở rộng việc cung cấp các dịch vụ khác như : bảo
lãnh, mua bán ngoại tệ… Trong quá trình hoạt động, nguồn vốn của ngân hàng
không ngừng tăng lên, vượt xa số vốn tự có của ngân hàng nhờ hoạt động huy
động vốn được thực hiện song song với các hoạt động trên. Ngân hàng huy động
vốn từ nhiều nguồn khác nhau: từ dân cư, từ các doanh nghiệp hay trên thị
trường vốn. Quy mô vốn của một ngân hàng càng lớn thì càng khẳng định được
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
4
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
sức mạnh và uy tín của nó trên thị trường tài chính, tạo ra điều kiện tốt nhất cho
sự hoạt động và phát triển của nó. Chính vì thế các ngân hàng không ngừng cạnh
tranh nhau để thu hút được lượng vốn lớn trên thị trường bằng nhiều chiến lược
khác nhau. Mỗi một ngân hàng có những lợi thế và chiến lược riêng trong việc
huy động vốn dẫn tới cơ cấu các thành phần trong nguồn vốn của chúng khác
nhau. Cơ cấu này ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động cho vay và đầu tư của
Ngân hàng, chẳng hạn : một ngân hàng có nguồn vốn trung và dài hạn lớn hơn
nguồn vốn ngắn hạn thì sẽ có cơ hội cho vay đầu tư cho các dự án trung và dài
hạn nhiều hơn. Mặc dù hiện nay các ngân hàng vẫn lấy cả những nguồn ngắn
hạn đem cho vay trung và dài hạn nhưng hoạt động đó luôn tiềm ẩn rất nhiều rủi
ro. Tóm lại, nguồn vốn đóng vai trò cực kì quan trọng trong hoạt động kinh
doanh của tất cả các ngân hàng.
1.2 CÁC NGUỒN HÌNH THÀNH NÊN NGUỒN VỐN CỦA NGÂN HÀNG

THƯƠNG MẠI.
1.2.1.Vốn chủ sở hữu.
Bất kì một ngân hàng nào bắt đầu hoạt động đều phải có một lượng vốn
nhất định,gọi là vốn chủ sở hữu hay vốn tự có. Đây là loại vốn ngân hàng có thể
sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa,kho tàng,bến bãi… cho
ngân hàng. Nguồn vốn này tuy chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng nguồn nhưng
được coi là tấm đệm phòng chống rủi ro, bảo đảm an toàn cho sự hoạt động của
tất cả các ngân hàng. Đồng thời quy mô nguồn vốn tự có cho thấy thực lực của
ngân hàng, là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác. Nguồn hình thành và nghiệp
vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng, tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài
chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Vốn chủ sở
hữu bao gồm các thành phần sau:
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
5
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
1.2.1.1 Nguồn vốn hình thành ban đầu.
Nguồn vốn ban đầu hay Vốn điều lệ của mỗi ngân hàng được hình thành
do tính chất sở hữu của ngân hàng quyết định. Vốn điều lệ được hình thành ngay
từ khi ngân hàng thương mại được thành lập,nguồn vốn này phải lớn hơn hoặc ít
nhất bằng vốn pháp định được quy định theo từng thời kỳ. Vốn điều lệ có thể
được điều chỉnh tăng lên trong quá trình hoạt động của ngân hàng.
Vốn điều lệ được sử dụng vào mục đích mua sắm tài sản,trang thiết bị ban
đầu cần thiết cho hoạt động của ngân hàng,góp vốn liên doanh. Các ngân hàng
không được phép sử dụng nguồn vốn nào khác ngoài vốn điều lệ để đầu tư vào
tài sản cố định của ngân hàng và hùn vốn liên doanh.
1.2.1.2 Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động.
Gia tăng vốn chủ sở hữu là một hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng đối
với mỗi ngân hàng. Vốn chủ sở hữu càng lớn thì uy tín cũng như sức mạnh của
ngân hàng trên thị trường càng lớn. Để tăng vốn chủ sở hữu, các ngân hàng
thường lấy từ các nguồn sau:

- Nguồn từ lợi nhuận ròng
- Nguồn vốn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần , góp thêm, cấp thêm…
1.2.1.3 Các quỹ.
Các quỹ của ngân hàng được lập ra với nhiều mục đích, nhằm hỗ trợ cho
các hoạt động khác nhau của ngân hàng. Những quỹ này đều được hình thành từ
thu nhập của ngân hàng. Hiện nay tại các ngân hàng thường lập các quỹ như
quỹ dự trữ để bổ sung vốn điều lệ, quỹ dự trữ đặc biệt để bù đắp rủi ro, quỹ bão
toàn vốn, quỹ thặng dư,quỹ phúc lợi, quỹ khen thưởng…
1.2.1.4 Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
Đây là thành phần khá đặc biệt trong nguồn vốn chủ sở hữu bởi nó được
hình thành từ các khoản vay trung và dài hạn của ngân hàng. Một số ngân hàng
phát hành các trái phiếu có thời hạn lâu năm nhằm huy động vốn, người nắm giữ
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
6
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
những trái phiếu này đến một thời hạn nào đó sẽ chuyển thành cổ đông của ngân
hàng và được hưởng lợi tức thay vì tiền lãi
Kết luận: Vốn tự có hay vốn điều lệ càng lớn, sức chịu đựng của ngân
hàng càng lớn khi mà tình hình kinh tế và tình hình hoạt động ngân hàng trải qua
những giai đoạn khó khăn. Vốn tự có càng lớn, khả năng tạo lợi nhuận càng lớn
vì có thể đa dạng hoá các nghiệp vụ ngân hàng, có cơ hội làm ra nhiều tiền hơn.
Tuy nhiên không phải vốn tự có càng lớn càng tốt vì nếu nó quá lớn thì lợi
nhuận chia cho các cổ đông cũng sẽ giảm, giá cổ phiếu cũng sẽ giảm theo.
Ngược lại, vốn tự có quá nhỏ sẽ cản trở hoạt động của ngân hàng.
1.2.2.Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi.
Tiền gửi là nguồn vốn huy động từ bên ngoài đầu tiên và quan trọng nhất
đối với mỗi NHTM. Trong cơ cấu vốn của các ngân hàng, tiền gửi luôn chiếm tỷ
trọng lớn nhất và có nhiều ảnh hưởng nhất tới các hoạt động của ngân hàng. Vì
thế để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền
gửi chất lượng ngày càng cao thì các ngân hàng đã đưa ra nhiều hình thức huy

động khác nhau.
1.2.2.1.Tiền gửi không kỳ hạn .
Tiền gửi không kỳ hạn hay còn gọi là tiền gửi thanh toán là loại tiền gửi
mà người gửi có thể gửi thêm tiền hoặc rút ra bất cứ lúc nào. Do tính chất có thể
rút ra bất cứ lúc nào nên dạng tiền gửi này thường chỉ được hưởng lãi suất rất
thấp hoặc không được ngân hàng trả lãi nhưng đổi lại người gửi tiền được sử
dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Đối với ngân hàng, tiền gửi thanh
toán cũng là khoản vốn huy động khá hấp dẫn. Bởi chi phí (lãi suất) cho loại tiền
gửi này thấp nhất trong các loại tiền gửi đồng thời ngân hàng còn có thể thu
được phí giao dịch khi thực hiện các dịch vụ thanh toán cho khách hàng.
1.2.2.2.Tiền gửi có kì hạn .
Bên cạnh những khoản tiền gửi thanh toán, hầu hết các doanh nghiệp
thương mại, tổ chức xã hội đều gửi một lượng tiền nhất định tại ngân hàng với
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
7
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
thời hạn xác định. Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp hay tổ chức luôn
có một lượng tiền tạm thời chưa cần sử dụng, họ gửi nó vào ngân hàng với các
kì hạn khác nhau để hưởng lãi (mức lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn cao hơn lãi
suất của tiền gửi không kì hạn) nhằm tạo thêm thu nhập cho mình , nhưng những
người gửi tiền loại này không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân
hàng.
Về nguyên tắc, tiền gửi có kỳ hạn không được rút ra trước thời hạn,song
để cạnh tranh thu hút khách hàng, các ngân hàng vẫn cho phép rút trước hạn.
Tuy nhiên, người gửi tiền rút trước hạn sẽ phải chịu một khoản phạt,chẳng hạn
chỉ được hưởng lãi suất bằng lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn hoặc không
được hưởng lãi,tùy theo qui định của mỗi ngân hàng trong từng thời kỳ.
1.2.2.3 Tiền gửi tiết kiệm của dân cư.
Các tầng lớp dân cư đều có các khoản thu nhập tạm thời chưa dùng đến,
họ tích luỹ lại cho tương lai. Người dân có nhiều cách để giữ số tiền tiết kiệm

của mình. Một trong những cách đó là gửi tiền tiết kiệm tại ngân hàng. Ngân
hàng thu hút tiền gửi của người dân bằng việc đảm bảo an toàn cho tài sản của
họ đồng thời trả lãi để khuyến khích họ gửi nhiều tiền với thời hạn lâu dài. Huy
động tiền gửi trong dân cư là nghiệp vụ truyền thống đem lại cho ngân hàng một
lượng vốn rất lớn để có thể tiến hành các hoạt động cho vay và đầu tư sinh lợi.
Ở Việt Nam, tiền gửi tiết kiệm bao gồm ba loại sau :
- Tiền gửi tiết kiệm không kì hạn : Loại tiền gửi này gần giống với tiền gửi
không kỳ hạn, chỉ khác nó luôn được hưởng lãi, nhưng đổi lại không được
hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Khách hàng gửi tiền dạng
này nhằm đảm bảo an toàn cho khoản tiền và dự phòng cho các nhu cầu
chi tiêu trong thời gian ngắn đồng thời được hưởng một chút lãi dù thấp.
- Tiền gửi tiết kiệm có kì hạn : Là loại tiền gửi tiết kiệm có thời hạn gửi cố
định trước. Loại tiền gửi này cũng tương tự như tiền gửi có kỳ hạn ở các
điểm là không được phép rút ra trước hạn(nếu rút trước hạn chỉ được
hưởng lãi suất bằng lãi suất của tiền gửi không kỳ hạn hoặc không được
hưởng lãi), được hưởng lãi cao hơn các dạng tiền gửi không kỳ hạn và
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
8
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
không được hưởng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng. Với dạng tiền
gửi này, người gửi chỉ được gửi vào 1 lần và rút ra một lần cả vốn lẫn lãi
khi đến hạn. Mỗi lần gửi được coi là một khoản tiền gửi riêng biệt. Mức
tối thiểu của mỗi lần gửi tiền do từng ngân hàng qui định.
- Tiền gửi tiết kiệm có mục đích : Là hình thức tiết kiệm trung và dài hạn
nhằm mục đích xây dựng nhà ở. Ngoài hưởng lãi, thì người gửi tiền còn
được ngân hàng cho vay nhằm bổ sung thêm vốn cho mục đích xây dựng
nhà ở. Mức cho vay tối đa bằng số dư tiền gửi tiết kiệm .
1.2.2.4 Tiền gửi của các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác.
Giữa các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác thường xuyên có mối
liên hệ với nhau về nhiều mặt trong hoạt động kinh doanh. Các ngân hàng đều

gửi một lượng tiền ở các ngân hàng khác nhằm mục đích tạo sự thuận tiện cho
việc thanh toán hộ, chuyển khoản hay mua bán, giao dịch khác…Lượng tiền gửi
này thường không lớn, biến động nhỏ nên ít ảnh hưởng tới nguồn vốn của ngân
hàng.
1.2.3.Tiền vay và nghiệp vụ đi vay.
Bên cạnh việc huy động vốn từ nhận tiền gửi, các ngân hàng còn đi vay
để tăng lượng vốn nắm giữ nhằm đảm bảo và phát triển hoạt động kinh doanh
của mình. Vốn vay của ngân hàng có thể có được từ nhiều nguồn khác nhau như
: vay từ Ngân hàng nhà nước, vay từ các tổ chức tín dụng khác hoặc vay trên thị
trường vốn…Nguồn vốn vay chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu nguồn vốn
song nó rất cần thiết và quan trọng đối với các ngân hàng.
1.2.3.1 Tiền vay Ngân hàng Nhà nước(NHNN).
Ngân hàng trung ương là ngân hàng của các ngân hàng, là cứu tinh của
các ngân hàng trong các trường hợp khó khăn nhất, là người cho vay sau cùng.
Thông thường tất các ngân hàng thương mại(NHTM) và một số tổ chức tài
chính khác trong nước được NHNN cho phép thành lập đều được hưởng quyền
vay tại ngân hàng NHNN trong những tình huống thiếu hụt dự trữ hoặc thiếu hụt
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
9
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
thanh khoản tạm thời. Ngân hàng Nhà nước cấp tín dụng cho các NHTM qua 2
hình thức:
- Tái chiết khấu (hoặc chiết khấu) hay còn gọi là tái cấp vốn các chứng
từ có giá. Các thương phiếu đã được các ngân hàng thương mại chiết khấu sẽ trở
thành tài sản của họ. Khi cần tiền họ mang chúng lên NHNN để tái chiết khấu.
NHNN kiểm soát việc vay mượn này một cách chặt chẽ. Thông thường NHNN
chỉ chiết khấu cho các thương phiếu có chất lượng (có thời hạn đáo hạn ngắn và
khả năng trả nợ cao) và phù hợp với mục tiêu của NHNN trong từng thời kì.
- Cho vay thế chấp hay ứng trước bảo đảm hay không có bảo đảm. Đây
là hình thức cho vay thời hạn ngắn, chủ nợ không bán các phiếu nợ cho ngân

hàng mà chỉ đem gửi các phiếu đó làm vật bảo đảm cho việc vay tiền.
Ở Việt Nam hiện nay, áp dụng 3 hình thức cấp tín dụng sau :
- Chiết khấu,tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác.
- Cho vay có đảm bảo bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác.
- Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng. Thường là các hồ sơ tín dụng hỗ trợ
theo yêu cầu của nền kinh tế, như mua lương thực, nông sản, dự trữ vật tư,
nguyên liệu, sản xuất hàng hóa xuất khẩu thuộc diện ưu tiên.
1.2.3.2 Tiền vay các tổ chức tín dụng khác.
Khi vay tiền từ NHNN để đáp ứng thiếu hụt dự trữ hay chi trả cấp bách
quá khó khăn (lãi suất chiết khấu cao, điều kiện vay mượn chặt chẽ ) các
NHTM thường vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng. Quá trình vay
mượn này rất đơn giản. Ngân hàng vay chỉ cần liên hệ trực tiếp với ngân hàng
cho vay hoặc thông qua ngân hàng đại lí (hoặc NHNN ). Khoản vay có thể
không cần bảo đảm hoặc được bảo đảm bằng các chứng khoán của kho bạc.
Thông thường, các ngân hàng đang có dự trữ vượt yêu cầu do có kết dư gia tăng
bất ngờ về các khoản tiền huy động hoặc giảm cho vay sẽ sẵn lòng cho các ngân
hàng khác vay để tìm kiếm lãi suất cao hơn. Ngược lại, các ngân hàng đang
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
10
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
thiếu hụt dự trữ có nhu cầu vay mượn tức thời để đảm bảo thanh khoản. Việc
vay mượn giữa các ngân hàng là hoạt động thường xuyên và là một kênh huy
động vốn tốt cho các ngân hàng trong những trường hợp khẩn cấp. Thời hạn của
loại cho vay này rất ngắn thường không quá một tuần.
1.2.3.3 Vay trên thị trường vốn.
Để huy động được lượng vốn dồi dào đáp ứng nhu cầu cho vay thường
xuyên (đặc biệt là cho vay trung và dài hạn), bên cạnh việc thu hút tiền gửi, các
Ngân hàng thường chủ động đi vay trên thị trường vốn. Cũng giống như các

doanh nghiệp, Ngân hàng vay mượn bằng cách phát hành các giấy nợ (kì phiếu,
tín phiếu, trái phiếu ) trên thị trường. Thông thường đây là các khoản vay không
có đảm bảo, nên những ngân hàng lớn có uy tín hoặc trả lãi suất cao hơn thì sẽ
vay được nhiều hơn. Các ngân hàng nhỏ thường khó vay mượn trực tiếp bằng
cách đó mà phải thông qua ngân hàng đại lí hoặc được sự bảo lãnh của ngân
hàng khác lớn và có uy tín hơn. Có thể nói thị trường tài chính với vai trò trung
gian điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu đã hỗ trợ tích cực cho hoạt động của
các ngân hàng. Thị trường tài chính càng phát triển thì khả năng chuyển đổi các
công cụ nợ dài hạn của các ngân hàng càng tăng.
1.2.3.4 Vay nợ khác.
Ngoài những nguồn vốn đi vay cơ bản trên, Ngân hàng còn có các nguồn
vốn vay khác như:
- Nguồn uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như uỷ thác cho
vay, uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và thu hộ….Trong đó Uỷ
thác Đầu tư là dịch vụ khá hấp dẫn của ngân hàng. Với dịch vụ này, khách hàng
uỷ thác tiền bạc, tài sản của mình cho ngân hàng để ngân hàng tiến hành đầu tư
vào những dự án khả thi để sinh lãi.
- Nguồn trong thanh toán: Các hoạt động thanh toán không dùng tiền
mặt có thể hình thành nguồn trong thanh toán ( séc trong quá trình chi trả, tiền
ký quỹ L/C…), Hoặc các ngân hàng là ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ có
kết dư tiền gửi từ tiền của các ngân hàng thành viên chuyển về để cho vay. Đặc
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
11
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
điểm của nguồn này là thời gian tồn tại ngắn vì phần lớn chúng đều ở trong
trạng thái chờ luân chuyển, do đó các ngân hàng ít khi chỉ sử dụng chúng để cho
vay lâu dài mà chỉ để bổ sung thêm nguồn ở thời điểm hiện tại.
- Nguồn khác: Các khoản nợ khác như Thuế chưa nộp, lương chưa trả…
Đây là nguồn mà ngân hàng tạm thời chiếm dụng, không có ảnh hưởng đáng kể
tới nguồn vốn cũng như hoạt động huy động vốn của ngân hàng.

1.3 CÁC CHIẾN LƯỢC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI.
1.3.1.Đa dạng hoá sản phẩm huy động vốn.
Để thu hút được nhiều tiền gửi từ dân cư và các tổ chức kinh tế, các ngân
hàng thương mại không ngừng đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn của
mình. Các NHTM có thể tiến hành phát triển, đa dạng hoá sản phẩm dựa trên
nhiều tiêu chí như sau:
• Theo kì hạn và lãi suất:
Với các sản phẩm tiền gửi, NHTM thường chia ra nhiều kì hạn khác nhau
để khách hàng có thể chọn lựa các kì hạn gửi tiền phù hợp với nhu cầu của
mình.
- Đối với tiền gửi ngắn hạn (< 12 tháng): ngân hàng phân loại tiền gửi
theo thời gian từng quý: không kì hạn, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng.
- Đối với tiền gửi trung và dài hạn (> 12 tháng): các kì hạn tiền gửi được
chia ra thành: 18 tháng, 24 tháng, 36 tháng và 60 tháng.
Hầu hết các NHTM hiện nay đều phân loại tiền gửi theo các kì hạn trên;
do đó, để tạo sự khác biệt thu hút khách hàng gửi tiền, nhiều ngân hàng đã chia
nhỏ thời gian của kì hạn hoặc đưa ra nhiều kì hạn mới như: kì hạn 1 tháng, 2
tháng và 13 tháng. Các kì hạn mới này sẽ tạo cho người gửi tiền sự linh hoạt
trong khi rút và gửi tiền, đồng thời tăng thêm mức thu nhập từ lãi suất tiền gửi.
Tương ứng với các kì hạn tiền gửi là các mức lãi suất khác nhau, tăng dần
theo thời gian của kì hạn gửi tiền. Biên độ giữa các mức lãi suất này dao động
trong khoảng 0,1%/tháng và rất khác nhau giữa các ngân hàng thương mại.
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
12
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
Bên cạnh đó, các NHTM hiện nay cũng phát triển các chứng chỉ tiền gửi
tương ứng với nhiều lượng tiền gửi khác nhau và áp dụng biểu lãi suất bậc thang
cho các chứng chỉ tiền gửi loại này để khuyến khích khách hàng gửi nhiều tiền
vì càng gửi nhiều càng được hưởng lãi cao.

• Theo tiện ích của sản phẩm.
Nói chung, những sản phẩm huy động vốn đều giống nhau về bản chất
nên để tạo sự khác biệt các NHTM thường tăng thêm nhiều tiện ích cho các sản
phẩm khiến cho khách hàng ưa thích chúng hơn. Việc làm này đòi hỏi sự sáng
tạo của bộ phận phát triển sản phẩm trong mỗi ngân hàng. Các ngân hàng
thường đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn của họ dựa trên 2 cách:
Một là, đưa thêm các tiện ích mới vào các sản phẩm huy động truyền
thống. Chẳng hạn như đối với thẻ ATM,thẻ ghi nợ, thẻ tín dụng ngoài chức năng
chính là cho phép khách hàng rút tiền mặt tại máy ATM, thanh toán hoá đơn qua
các máy POS, ngân hàng có thể đưa thêm một số tiện ích mới như: Thanh toán
các loại cước phí (điện, nước, điện thoại ), trả lương, quản lý chi tiêu cá nhân,
được ưu đãi ở một số cửa hàng Đối với các loại tiền gửi có kì hạn, hiện nay
ngân hàng có thể cho phép người gửi rút tiền trước kì hạn, dễ dàng chuyển đổi
kì hạn theo ý mình Chi phí cho việc tăng thêm các tiện ích mới cho các sản
phẩm truyền thống cũng chiếm một phần đáng kể trong chi phí huy động vốn
chung. Do đó, tuỳ thuộc vào khả năng của từng ngân hàng mà số tiện tích mới
của các sản phẩm huy động vốn của chúng ít hay nhiều.
Hai là, phát triển sản phẩm hoàn toàn mới với những tiện ích nổi trội. Đây
là công việc rất khó khăn đối với hầu hết các ngân hàng thương mại. Hiện nay,
các loại sản phẩm huy động vốn được phát triển đã khá đầy đủ, đa dạng, việc tạo
ra một sản phẩm mới hoàn toàn khác biệt những sản phẩm cũ là điều ít ngân
hàng nào dám nghĩ tới, mà hầu hết họ đều đa dạng các sản phẩm huy động vốn
theo cách thứ nhất (dựa trên nền tảng các sản phẩm cũ).
Tóm lại, việc đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, chú ý phát triển
sản phẩm riêng biệt sẽ tạo dựng cho các ngân hàng thương mại những dấu ấn
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
13
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
nhất định đối với khách hàng gửi tiền, khuyến khích họ gửi tiền nhiều hơn, làm
tăng lượng vốn huy động cho các ngân hàng thương mại.

1.3.2.Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, khuyến mại sản phẩm.
Bên cạnh việc đa dạng hoá các sản phẩm huy động vốn, các NHTM đều
không ngừng đẩy mạnh hoạt động tiếp thị, khuyến mại sản phẩm của mình đến
với khách hàng. Đây là chiến lược huy động vốn rất hiệu quả trong điều kiện
cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng. Các hoạt động tiếp thị sản phẩm huy
động vốn được các ngân hàng tiến hành bằng nhiều phương thức khác nhau, chủ
yếu là thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: truyền hình, báo chí,
tờ rơi, thư tay Nội dung của các chương trình quảng cáo này cũng được các
ngân hàng thiết kế sao cho sản phẩm cũng như hình ảnh của ngân hàng mình
thật hấp dẫn người xem nhất. Bên cạnh hoạt động tiếp thị sản phẩm, các ngân
hàng cũng tổ chức các đợt khuyến mại để tăng cường huy động vốn. Các đợt
khuyến mại này thường được triển khai vào các thời điểm trong năm như: đầu
năm, giữa năm hay cuối năm, hoặc cũng có khi tuỳ thuộc vào chiến lược huy
động vốn của mỗi ngân hàng.
Những chi phí cho hoạt động tiếp thị và khuyến mại này cũng chiếm phần
khá lớn trong chi phí huy động vốn, đòi hỏi các ngân hàng phải tính toán, cân
nhắc kì lưỡng trước khi triển khai, để tránh việc lượng vốn huy động được nhiều
nhưng chi phí huy động lại quá lớn, thì hiệu quả huy động vốn không cao.
1.3.3.Mở rộng mạng lưới chi nhánh; nâng cao trình độ, nghiệp vụ
cho cán bộ.
• Mở rộng mạng lưới chi nhánh.
Để thu hút được nhiều vốn từ dân cư, các ngân hàng thương mại còn
không ngừng mở rộng mạng lưới chi nhánh của mình. Quy mô, khả năng tài
chính của ngân hàng nào càng lớn thì số lượng chi nhánh của nó càng nhiều và
trải rộng trên nhiều nơi, khả năng thu hút càng lớn. Tuy nhiên trước khi lập thêm
chi nhánh các ngân hàng phải tìm hiểu rõ địa bàn đặt chi nhánh, dự đoán được
khả năng phát triển của chi nhánh trong tương lai, nếu không việc lập thêm chi
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
14
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng

nhánh sẽ không có tác dụng thu hút vốn mà còn làm tăng chi phí hoạt động cho
ngân hàng.
• Nâng cao trình độ, nghiệp vụ cho cán bộ huy động vốn.
Cán bộ huy động vốn là những người trực tiếp xây dựng và triển khai các
chương trình huy động vốn của ngân hàng. Trình độ và nghiệp vụ của những
người này sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả huy động vốn của các ngân hàng.
Hiện nay các ngân hàng đều cố gắng lựa chọn cũng như đào tạo các cán bộ của
mình thành thạo về nghiệp vụ cũng bồi dưỡng nâng cao các kiến thức về
marketing và ngân hàng. Bên cạnh việc đào tạo trực tiếp cán bộ tại nơi làm việc,
các NHTM thường tổ chức các khoá bồi dưỡng, nâng cao kiến thức nghiệp vụ
cho cán bộ ở các cơ sở trong nước và nước ngoài. Đây là việc làm có ý nghĩa
khá quan trọng cho công tác huy động vốn trong hiện tại cũng như tương lai của
ngân hàng.
1.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.4.1 Các nhân tố khách quan.
1.4.1.1.Chính sách chỉ đạo của ngân hàng Nhà nước.
NHNN ban hành các chính sách chỉ đạo về hoạt động nhằm đảm bảo các
ngân hàng thương mại hoạt động theo đúng định hướng của nó, phù hợp và thúc
đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước. Các chính sách của Ngân hàng Nhà nước
thay đổi theo từng thời kì, tùy thuộc vào chính sách kinh tế chung của nhà nước
và sự phát triển của thị trường tài chính. Để kiểm soát việc huy động vốn của
các NHTM, NHNN có các quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết
khấu,trần lãi suất huy động Tất cả những quy định, chính sách này được áp
dụng cho tất cả các NHTM nên ảnh hưởng của chúng tới các ngân hàng không
khác nhau nhiều.
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
15
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
1.4.1.2.Hoạt động kinh tế - xã hội của đất nước.

Hoạt động của các NHTM nằm trong hoạt động kinh tế chung của đất
nước dĩ nhiên chịu sự ảnh hưởng mạnh mẽ từ sự tăng trưởng hay suy thoái của
nền kinh tế. Khi nền kinh tế đang ở vào thời kì tăng trưởng, sản xuất phát triển
tạo điều kiện tích luỹ nhiều hơn, do đó tạo môi trường cho việc thu hút vốn của
ngân hàng thuận lợi hơn. Mặt khác, nó cũng tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi
cho ngân hàng, từ đó ngân hàng phải tìm biện pháp để huy động vốn sao cho có
hiệu quả thiết thực cho hoạt động kinh doanh của mình. Khi môi trường đầu tư
mở rộng thì thu nhập của ngân hàng không ngừng phát triển, tạo tiền để cho việc
mở rộng vốn tự có của ngân hàng. Khi nền kinh tế suy thoái, lạm phát tăng làm
thu nhập của người dân giảm khiến cho họ không muốn gửi tiền vào ngân hàng
mà chuyển sang tích luỹ bằng các tài sản khác như : vàng, ngoại tệ mạnh…
Lượng tiền gửi của ngân hàng sẽ sụt giảm cùng với việc môi trường đầu tư của
ngân hàng bị thu hẹp do các doanh nghiệp không muốn vay vốn để mở rộng sản
xuất kinh doanh trong điều kiện sản suất thua lỗ.
1.4.1.3.Sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường vốn.
Trong quá trình thu hút vốn, các ngân hàng luôn phải đối mặt với sự cạnh
tranh không những của các ngân hàng trong ngành mà còn của các tổ chức tài
chính khác. Sản phẩm tiền gửi của ngân hàng dễ bắt chước đòi hỏi các ngân
hàng phải rất cố gắng trong việc đưa thêm những tiện ích vào sản phẩm cũng
như triển khai những chương trình huy động vốn hấp dẫn nhằm thu hút được
khách hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng còn bị cạnh tranh bởi các tổ chức tài
chính khác như : Các công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty bảo hiểm…Các tổ
chức này tuy không có chức năng nhận tiền gửi như ngân hàng song lại có nhiều
dịch vụ phong phú thu hút tiền đầu tư của người dân và các doanh nghiệp. Ngày
này, sự phát triển mạnh mẽ của thị trường chứng khoán lại càng khiến cho thị
trường vốn của các ngân hàng thu hẹp lại, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt trong
việc thu hút vốn
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
16
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng

1.4.1.4.Tâm lý, thói quên của người tiêu dùng.
Tập quán tiêu dùng cũng ảnh hưởng tới nghiệp vụ tạo vốn của ngân hàng.
Nếu những vùng dân cư người ta quen sử dụng số tiền nhàn rỗi dưới hình thức
cất trữ là chính thì việc huy động vốn sẽ gặp khó khăn. Chẳng hạn vào thời kì
vàng còn có giá trị thì người ta dùng tiền nhàn rỗi đi mua vàng về cất trữ…Còn
khi người dân có nhu cầu hưởng lãi hoặc bảo quản tài sản thì họ sẽ gửi tiền vào
ngân hàng nhiều hơn. Khi đó cơ hội huy động vốn của ngân hàng tăng lên.
Mức thu nhập và chu kì chi tiêu của người dân cũng là những yếu tố
trực tiếp tác động đến lượng tiền gửi vào ngân hàng. Nhìn chung thu nhập của
người dân càng cao; nhu cầu đầu tư và giao dịch của họ tăng lên.
Chu kì chi tiêu ảnh hưởng tới quy mô và tính ổn định của nguồn tiền.
Vào những dịp nghỉ lễ trong năm, nguồn tiền tiết kiệm cũng như tiền gửi của
doanh nghiệp có xu hướng giảm sút, đặc biệt là trong điều kiện thanh toán bằng
tiền mặt còn phổ biến.
1.4.2 Các nhân tố chủ quan.
1.4.2.1.Chính sách huy động vốn của ngân hàng.
Chính sách huy động vốn của ngân hàng là tổng thể các chiến lược và
biện pháp huy động vốn của một ngân hàng nhằm mục tiêu thu hút vốn tối đa.
Chính sách này thay đổi theo từng thời kỳ, phù hợp với mục tiêu cụ thể của ngân
hàng nhưng nhìn chung luôn bao gồm các nội dung sau :
- Hình thức huy động vốn : Ngân hàng muốn dễ dàng tìm kiếm nguồn
vốn thì trước hết phải đa dạng hoá hình thức huy động. Hình thức huy động
càng phong phú thì ngân hàng càng dễ huy động hơn. Ngân hàng có thể đưa ra
nhiều hình thức huy động như : phát hành trái phiếu, kì phiếu, huy động tiền gửi
tiết kiệm trong đó đưa ra nhiều thời hạn và lãi suất khác nhau. Các hình thức huy
động vốn được đưa ra phải dựa trên cơ sở nghiên cứu phân tích thị trường và
tâm lí khách hàng một cách kĩ lưỡng thì mới có thể hấp dẫn khách hàng gửi tiền.
- Lãi suất huy động :Bên cạnh bộ phận tiền gửi không kì hạn thì vốn huy
động của ngân hàng còn bao gồm cả tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và tiền
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1

17
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
gửi tiết kiệm của dân cư. Bộ phận tiền gửi này họ gửi vào ngân hàng nhằm mục
đích hưởng lãi, vì vậy lãi suất là điều họ quan tâm và bộ phận này rất nhạy cảm
với lãi suất. Ngoài ra khi chưa đủ vốn để sử dụng thì ngân hàng còn đi vay từ
các tổ chức tín dụng khác, từ Ngân hàng Trung ương…Để tạo được nhiều vốn
thì ngân hàng phải có chính sách lãi suất hợp lí vừa đảm bảo kích thích người
gửi tiền lại vừa phù hợp với lãi suất cho vay của ngân hàng để tránh thua lỗ.
- Bảo hiểm tiền gửi : Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, rủi ro
xảy ra là điều không tránh khỏi. Vì vậy sự an toàn của các ngân hàng thương
mại luôn là mối quan tâm hàng đầu của các cổ dông, các nhà điều hành và đặc
biệt là đối với người gửi tiền. Bởi vì phần lớn vốn kinh doanh của ngân hàng là
vốn huy động từ bên ngoài. Để lấy được niềm tin từ người gửi tiền đồng thời
bảo vệ lợi ích cho họ tránh được những tổn thất khi ngân hàng gặp rủi ro mất
khả năng thanh toán thì các ngân hàng thương mại phải tham gia bảo hiểm tiền
gửi. Các công ty bảo hiểm tiền gửi sẽ đứng ra chịu trách nhiệm chi trả toàn bộ
tiền cho người gửi tiền trong giới hạn bảo hiểm.
1.4.2.2.Nhân sự và công nghệ thông tin.
- Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng:
+ Về phương diện quản lý : Nếu ngân hàng quản ly tốt về mặt nhân sự.
Về Tài sản, Nguồn vốn tức là trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng
dự đoán được những rủi ro xảy ra, dự đoán được môi trường đầu tư của mình có
hiệu quả hay không, nắm bắt được những biến đổi ngoài thị trường một cách
nhanh chóng để tư vấn cho khách hàng của mình nên đầu tư vào đâu có hiệu quả
cao nhất. Từ đó thu hút được khách hàng làm cho môi trường đầu tư của ngân
hàng ngày càng mở rộng
+ Về trình độ nghiệp vụ: Trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng cao
thì trong quá trình hoạt động kinh doanh, mọi thao tác nghiệp vụ đều được thực
hiện nhanh chóng chính xác và có hiệu quả, từ đó ngân hàng có điều kiện mở
rộng kinh doanh, giảm thấp chi phí hoạt động và thu hút được nhiều khách hàng.

Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
18
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
+ Thái độ phục vụ khách hàng : Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến tâm
lý cũng như tình cảm của người gửi tiền. Nếu các nhân viên ngân hàng luôn cởi
mở nhiệt tình trong giao dịch với khách hàng, luôn tạo điều kiện tốt cho khách
hàng thì sẽ gây được thiện cảm và uy tín đối với họ, sẽ ngày càng có nhiều
khách hàng đến giao dịch, gửi tiền tại ngân hàng hơn.
- Công nghệ thông tin:
Công nghệ thông tin giữ một vai trò không thể thiếu trong hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Hoạt động ngân hàng luôn gắn liền với công nghệ thông
tin ở hầu hết các nghiệp vụ từ việc nhận, nhập tiền gửi, hay thanh toán qua tài
khoản khách hàng đến việc cho vay, đầu tư trên thị trường tài chính. Hệ thống
công nghệ và thông tin càng hiện đại thì càng phục vụ hữu ích cho các hoạt động
kinh doanh của ngân hàng, giúp ngân hàng tiết kiệm thời gian, chi phí trong việc
tìm kiếm, quản lý thông tin về khách hàng, thị trường cũng như toàn bộ ngân
hàng.
1.4.2.3.Mạng lưới hoạt động của ngân hàng
Với những ngân hàng sát địa bàn dân cư hoặc gần với những trung tâm
thương mại thì sẽ có thuận lợi khi thu hút vốn. Lẽ tự nhiên, khi dân chúng có
tiền nhàn rỗi họ sẽ đến các chi nhánh ngân hàng gần nhà mình nhất để gửi, như
thế vừa tiết kiệm thời gian đi lại vừa đảm g. bảo an toàn. Ngày nay, các ngân
hàng đều cố gắng mở thật nhiều chi nhánh để thu hút tiền gửi của người dân
cũng như đẩy mạnh các hoạt động kinh doanh khác.
1.4.2.4.Uy tín của ngân hàng.
Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng, uy tín là điều tối quan trọng.
Uy tín của ngân hàng chính là vị trí, hình ảnh tốt đẹp của ngân hàng trong lòng
khách hàng. Để có được niềm tin và uy tín đối với khách hàng (cả mới và cũ) thì
các ngân hàng đều phải trải qua một thời gian gây dựng hoạt động mới có được.
Uy tín của ngân hàng biểu hiện qua thâm niên, kinh nghiệm hoạt động của ngân

hàng, vốn chủ sở hữu lớn, các sản phẩm hấp dẫn, chất lượng phục vụ tốt, hoạt
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
19
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
động kinh doanh hàng năm có lợi nhuận cao, mối liên hệ với các tổ chức tài
chính khác rộng…
1.5 PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH CHI PHÍ HUY ĐỘNG VỐN.
1.5.1.Chi phí huy động.
Chi phí = Lãi suất trả cho + Chi phí huy động
huy động nguồn huy động khác
Định giá nguồn huy động là một mắt xích quan trọng trong việc triển khai
chiến lược huy động vốn, trong đó lãi suất là phần quan trọng ảnh hưởng đến
quy mô và hiệu quả huy động.
Lãi suất trả cho = Quy mô huy động
x
Lãi suất huy động
nguồn huy động
Chi phí huy động khác: Chi phí huy động khác rất đa dạng và không ngừng
gia tăng trong điều kiện các ngân hàng gia tăng cạnh tranh phi lãi suất. Nó bao
gồm chi phí trả trực tiếp cho người gửi tiền (quà tặng, quay số trúng thưởng,
kèm bảo hiểm…), chi phí tăng tính tiện ích cho người gửi tiền ( mở chi nhánh,
quầy, phòng, điểm huy động, trang bị thêm máy đếm. máy soi tiền cho khách
kiểm tra, huy động vốn tại nhà, tại cơ quan…), chi phí lương cho cán bộ phòng
nguồn vốn, chi phí bảo hiểm tiền gửi…Một số chi phí khác được tính chung vào
chi phí quản lý và rất khó phân bổ cho hoạt động huy động vốn.
Xác định lãi suất huy động là công việc phức tạp, quyết định tới chất
lượng nguồn huy động, từ đó tới chất lượng tài sản, đòi hỏi tính nhạy bén của
nhà quản lí ngân hàng. Ngân hàng cẩn phải phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới
quy mô và cấu trúc nguồn huy động để xác dịnh lãi suất và các chi phí huy động
khác.

1.5.2.Xác định lãi suất huy động.
Theo nguyên lý chung, các ngân hàng huy động với lãi suất thị trường,
phản ánh quan hệ cung cầu trên thị trường tiền tệ. Với mỗi nguồn cụ thể ngân
hàng có phương pháp riêng để tính toán lãi suất huy động.
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
20
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng

*Xác định lãi suất huy động dựa theo tỷ lệ lạm phát và thu nhập kì
vọng của người gửi tiền.
Lãi suất = Tỷ lệ lạm phát + Tỷ lệ thu nhập kì vọng
huy động bình quân của người gửi tiền
Để có lãi suất thực dương, lãi suất huy động huy động phải lớn hơn tỷ lệ
lạm phát. Tuy nhiên, không phải nguồn nào cũng trả lãi suất thực dương. Những
nguồn có kì hạn ngắn ( khách hàng lựa chọn tính thanh khoản cao hơn tính sinh
lời), ngân hàng thường trả lãi suất thực âm.
Tỷ lệ thu nhập kì vọng của người gửi tiền phụ thuộc vào rủi ro của mỗi
ngân hàng, tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khách và những tiện ích mà
người gửi kì vọng nhận được từ ngân hàng. Những loại tiền gửi mà tiện ích thu
được từ ngân hàng càng cao, lãi suất ngân hàng trả cho nguồn tiền càng thấp.
* Xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất gốc.
Lãi suất = Lãi suất gốc (lãi suất tái chiết khấu + Tỷ lệ thu nhập
nguồn hoặc lãi suất liên ngân hàng,lãi suất kì vọng của
(nhóm nguồn) trái phiếu ngắn hạn của Chính phủ) người gửi tiền
Trong quá trình phát triển của thị trường tài chính, nguồn cung ứng tiền từ
Ngân hàng Trung ương, từ các tổ chức tài chính khác ngày càng có ý nghĩa hơn
đối với các NHTM. Với môi trường này, NHTM xác định lãi suất huy động dựa
trên lãi suất gốc. Những lãi suất gốc quan trọng là : lãi suất tái chiết khấu của
Ngân hàng Trung ương, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng hoặc lãi suất trái
phiếu ngắn hạn của Chính phủ. Những ngân hàng lớn, ở các trung tâm tài chính

thường lấy các lãi suất này làm điểm xuất phát khi xác định lãi suất huy động.
Ngân hàng sử dụng lãi suất gốc để xác định lãi suất trả cho các nguồn tiền
gửi ngắn hạn. Từ lãi suất gốc, ngân hàng đa dạng các tỷ lệ lãi suất khác nhau
theo nguyên tắc:
• Lãi suất bình quân thực dương, tương quan về an toàn sinh lợi với các hoạt
động đầu tư khác như mua vàng, chứng khoán.
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
21
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
• Lãi suất tiền gửi nhỏ hơn lãi suất cho vay cùng kì hạn;
• Lãi suất tỷ lệ thuận với kì hạn;
• Lãi suất tỷ lệ thuận với quy mô;
• Lãi suất tỷ lệ nghịch với tính thanh khoản;
• Lãi suất tỷ lệ thuận với khả năng sử dụng vốn của tiền gửi;
• Lãi suất tỷ lệ với độ an toàn của ngân hàng và các tiện ích mà ngân hàng
cung cấp.
*Xác định lãi suất huy động dựa trên lãi suất của tài sản sinh lãi.
Trong điều kiện cạnh tranh để tìm kiếm nguồn tiền, nhiều ngân hàng bằng
nỗ lực tiết kiệm chi phí khác (như chi phí quản lý) và chấp nhân tỷ lệ thu nhập
ròng thấp để gia tăng lãi suất huy động. Ngân hàng có thể xác định lãi suất huy
động tối đa trong mối tương quan với lãi suất sinh lời của các tài sản.
Lãi suất Tỷ lệ sinh lời Tỷ lệ chi phí Tỷ lệ thuế thu nhập
nguồn = tính từ tài sản được - khác ròng phân - và thu nhập ròng
(nhóm tài trợ bằng nguồn bổ cho nguồn tính trên nguồn
nguồn) (nhóm nguồn) (nhóm nguồn) (nhóm nguồn)
Ngân hàng có thể điều chỉnh lãi suất cho phù hợp với môi trường cạnh
tranh và chiến lược huy động vốn, trong mối tương quan với các lãi suất khác
trong ngân hàng.
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1
22

Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN
TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
CHI NHÁNH TỈNH BẮC KẠN
2.1 KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
CỦA NH ĐT&PT TỈNH BẮC KẠN
Tỉnh Bắc Kạn được tái lập từ năm 01/01/1997 trên cơ sở tách tỉnh Bắc
Thái ra làm 2 tỉnh Thái nguyên và Bắc Kạn. Là vùng đất chứa đựng nhiều tiềm
năng. Với diện tích tự nhiên 4857.21 km2, dân số hơn 31.4 vạn người. Phía
Đông giáp Lạng Sơn, phía Tây giáp Tuyên Quang, phía Nam giáp Thái Nguyên,
phía Bắc giáp Cao Bằng và 1 phần nhỏ phía Tây Bắc giáp Hà Giang. Bắc Kạn
có đường quốc lộ 3A chạy qua. Tuy vậy, Bắc Kạn là 1 tỉnh miền núi phía bắc,
địa hình chủ yếu là đồi núi với độ dốc cao, hiểm trở, giao thông đi lại khó khăn
lại xa các trung tâm kinh tế lớn nên điều kiện phát triển rất khó khăn, cùng với
khó khăn đó là trình độ dân trí còn thấp nên khả năng nhận thức còn chưa cao,
quan niệm còn lạc hậu.
* Về kinh tế xã hội: Ngành công nghiệp hầu như không phát triển chỉ có
một số ngành như khai thác khoáng sản, xi măng, chế biến nông lâm sản. Dân
cư chủ yếu là đồng bào dân tộc ít người trình độ dân trí thấp, phong tục còn lạc
hậu nên nông nghiệp nông thôn phát triển phân tán và nghèo nàn, thương mại thì
bán lẻ là chủ yếu.
* Du lịch: Bắc kạn có khu du lịch nổi tiếng là hồ nước ngọt Ba Bể nằm
trong vườn quốc gia Ba Bể, là hồ nước ngọt tự nhiên lớn nhất trong cả nước . Tuy
nhiên còn nhiều hạn chế như là vì nằm xa trung tâm thị xã, đường xá đi lại khó
khăn hiểm trở, dịch vụ du lịch chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và vị thế
của nó chính vì vậy chưa thực sự thu hút được đông đảo khách du lịch trong và
ngoài nước đến thăm quan và nghỉ lại đây.
Thực hiện chủ trương nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Kạn những
năm gần đây về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đa dạng hoá nền kinh tế nhiều thành
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1

23
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
phần. Tỉnh Bắc Kạn đã tập trung đầu tư xây dựng và phát triển một số ngành
công nghiệp nhằm cải thiện tình hình kinh tế xã hội của tỉnh như: Nhà máy ô tô
Tralas, Nhà máy luyện gang và đang tiến hành dự án xây dựng khu công nghiệp
gang thép Thanh Bình … Vì vậy thị trường trên địa bàn có nhiều triển vọng
trong tương lai nhưng lại đòi hỏi vốn đầu tư đa dạng, tạo thuận lợi cho hoạt
động kinh doanh của ngành Ngân hàng phát triển.
Trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn có 3 tổ chức NHTM hoạt động và kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng ngân hàng đó là Ngân hàng ĐT & PT tỉnh Bắc
Kạn, Ngân hàng NNo & PTNT tỉnh Bắc Kạn và NHTM CP Công thương, giữa
các ngân hàng có sự cạnh tranh gay gắt vì vậy buộc Ngân hàng ĐT & PT tỉnh
Bắc Kạn phải đưa ra nhiều biện pháp để mở rộng thị phần huy động vốn .
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHĐT&PT Bắc Kạn
Chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT tỉnh Bắc Kạn là một chi nhánh thuộcNH
ĐT & PT Việt Nam được thành lập trên cơ sở tách ra từ ĐT & PT Bắc Thái năm
1997 ngay khi tái lập tỉnh Bắc Kạn. Qua hơn 15 năm thành lập và đi vào hoạt
động từ con số gần như bằng 0 Ngân hàng ĐT & PT tỉnh Bắc Kạn đã tự kiện
toàn bộ máy và phát triển dần dần đi lên cùng với sự lớn mạnh của đất nước.
Là một NHTM nhiệm vụ chủ yếu là huy động vốn ngắn, trung và dài hạn
trong nước và ngoài nước để đầu tư và phát triển kinh doanh đa năng tổng hợp
về tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng với:
Tên giao dich quốc tế: BANK FOR INVESTMENT AND DEVELOPMENT
OF VIET NAM - BAC KAN PROVINCE BRANCH.
Tên giao dịch: Ngân hàng ĐT & PT tỉnh Bắc Kạn
Tên viết tắt: BIDV BAC KAN
Hoà vào công cuộc đổi mới cơ chế quản lí kinh tế của đất nước theo sự
chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, hoạt động của chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT
tỉnh Bắc Kạn có nhiều chuyển biến mới trên tất cả các lĩnh vực hoạt động, bước
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1

24
Chuyên đề tốt nghiệp Học Viện Ngân Hàng
đầu khẳng định được vị thế của mình, từ đó nhanh chóng chuyển hướng hoạt
động, đổi mới toàn diện, sâu sắc theo hình mẫu đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Hiện nay Ngân hàng ĐT & PT tỉnh Bắc Kạn có đội ngũ cán bộ nhân viên
trẻ với nhiệt huyết cao đã và đang đủ sức đảm đương nghiệp vụ hiện đại và lâu
dài. Từ chỗ bám sát định hướng của ngành, thực hiện chính sách kinh doanh
tổng hợp, cùng với sự chỉ đạo của Ngân hàng NH ĐT&PT Việt Nam cũng như
sự thống nhất phương pháp điều hành, với chủ trương lấy hiệu quả an toàn
trong tất cả mọi lĩnh vực hoạt động của mình làm tiêu chuẩn hàng đầu đáp ứng
nhu cầu của khách hàng với chất lượng tốt nhất, rủi ro thấp nhất, mức độ chi phí
thấp nhất để từ đó kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. Tạo điều kiện tốt nhất cho
hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự
án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh dịch vụ và tạo điều kiện phát triển
cho mọi thành phần kinh tế sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
* Thuận lợi: Nằm tại trung tâm thị xã, các loại hình sản xuất kinh doanh
đa dạng, thị trường trên địa bàn có nhiều triển vọng. Trong suốt quá trình hoạt
động luôn được sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của ngân hàng cấp trên, của
Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Bắc Kạn và các ban ngành tại địa phương cùng với sự phấn
đấu không ngừng của tập thể ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên nhằm phát
triển ổn định lâu dài và có hiệu quả.
Bản thân Ngân hàng ĐT&PT tỉnh Bắc Kạn cũng dần từng bước hoàn
thiện mình như: Bố trí cán bộ nhân viên tham gia đầy đủ các lớp tập huấn
nghiệp vụ do NHNNVN và Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam tổ chức, truyền đạt
kịp thời chế độ, chính sách đến người lao động, thường xuyên tổ chức trao đổi
nghiệp vụ nội bộ để nắm vững nội dung, yêu cầu mới, kịp thời nắm bắt và
nghiên cứu kỹ các vấn đề hoặc tình hình mới để chủ động sáng tạo trong chỉ
đạo thực hiện như vấn đề đổi mới tổ chức, đảm bảo vốn vay, phân loại và xử lý
nợ, cơ cấu nợ, các điều kiện tín dụng.
Đỗ Huy Hoàng_lớp Vănbằng2_7a1

25

×