Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Thực trạng công tác huy động vốn của ngân hàng đầu tư và phát triển việt nam – chi nhánh lạng sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (538.59 KB, 83 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vốn là điều kiện tiền đề cho mọi hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung ở
Việt Nam hiện nay,vốn đang trở thành vấn đề cấp thiết cho quá trình tăng trưởng và
phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên để huy động được khối lượng vốn lớn từ nền
kinh tế trong nước là một thách thức lớn đối với nền kinh tế Việt Nam nói chung và
đối với hệ thống ngân hàng thương mại nói riêng. Trong điều kiện thị trường chứng
khoán phát triển chưa tương xứng với nhu cầu rất lớn đối với nền kinh tế thì qua trinh
nhân và điều chuyển vốn trên thị trường chủ yếu được thực thông qua hệ thống ngân
hàng thương mại, nơi tích tụ tập trung khơi dậy và động viên các nguồn lực cho sự
phát triển kinh tế đất nước và trên thực tế ở nước ta có hơn 80% lượng vốn trong nền
kinh tế là do hệ thống ngân hàng cung cấp. Điều nay cho thấy, việc tăng cường công
tác huy động vốn, đảm bảo chất lượng và số lượng vốn luôn là vấn đề được quan tâm
hàng đầu trong qua trinh hoạt động của bất kỳ một NHTM nào.
Là một thành viên của hệ thống ngân hàng việt nam, Ngân hàng ĐT&PT Lạng
Sơn phải thực hiện chung của toàn ngành, làm thế nào để huy động được vốn đáp ứng
cho sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước phát triển kinh tế địa phương là
một vấn đề đang được Ngân hàng quan tâm.
Trong thời gian thưc tập tại trường và thực tập tại Ngân hàng ĐT&PT Lạng
Sơn em nhận thấy công tác huy động vốn luôn giữ vi trí rất quan trọng đối với hệ
thống NHTM trong việc đáp ứng vốn cho nền kinh tế, góp phần thực hiện chủ trương
đường lối của Đảng và nhà nước.Trong thời gian gần đây việc huy động vốn của ngân
hàng đang gặp nhiều khó khăn do tình trạng khan hiếm vốn đối với các NHTM nói
chung, do vậy đây là một vấn đề đang được các Ngân hàng rất quan tâm. Vì lý do này
em đã chọn đề tài “Giải pháp nâng cao chất lượng huy động vốn tại Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển chi nhánh Lạng Sơn”
Đề tài được hệ thống hóa những vấn đề lý thuyết cơ bản về hoạt động huy động
vốn cùng với việc phân tích thực trạng chất lượng huy động vốn tại Ngân hàng ĐT và
PT Lạng Sơn trong những năm gần đây. Qua đó nhận thấy những thành tựu, hạn chế
nguyên nhân để trên cơ sở đó em mạnh dạn đề xuất một số giải pháp và đưa ra một số
kiến nghị nhằm tăng cường chất lượng huy động vốn tại Ngân hàng ĐT & PT Lạng


Sơn
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao chất lượng huy động
vốn của NHTM
- Phân tích thực trạng về vấn đề nâng cao chất lượng huy động vốn tại BIDV
chi nhánh Lạng Sơn từ đó rút ra những kết quả đạt được, những hạn chế và nguyên
nhân cơ bản ảnh hưởng đến hiệu quả huy động vốn tại BIDV chi nhánh Lạng Sơn
1
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động vốn tại BIDV
Lạng Sơn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nâng cao chất
lượng huy động vốn tại NHTM, từ đó vận dụng vào phân tích thực tế trong việc nâng
cao hiệu quả huy động vốn tại BIDV chi nhánh Lạng Sơn, để rút ra kết luận, hạn chế
và nguyên nhân, làm căn cứ đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả huy động
vốn tại BIDV chi nhánh Lạng Sơn
- Phạm vi phân tích: Nghiên cứu hoạt động huy động vốn của BIDV Lạng Sơn.
- Thời gian nghiên cứu: Chủ yếu từ tháng 31/12 / 2008 đến 31/12/ 2010.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Trong khóa luận, các phương pháp nghiên cứu sau đây được sử dụng:
- Phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích,
thống kê có kết hợp các công thức, bảng biểu để tính toán, minh họa, so sánh, phân
tích và rút ra kết luận.
- Phương pháp kế thừa những nghiên cứu đã có cũng như khảo sát thực nghiệm
thu thập thông tin, tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu.
5. Kết cấu của khóa luận:
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, khóa luận được kết cấu theo ba
chương như sau:
Chương 1: Lý luận cơ bản về công tác huy động vốn của NHTM
Chương 2: Thực trạng công tác huy động vốn của Ngân hàng Đầu tư

và Phát triển Việt Nam – Chi nhánh Lạng Sơn
Chương 3: Giải pháp tăng cường công tác huy động vốn của Ngân
hàng ĐT&PT chi nhánh Lạng Sơn
CHƯƠNG I : LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG TÁC HUY ĐỘNG CỦA NHTM
1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1.1.1 Khái niệm về NHTM
Trong giai đoạn hiện nay cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và xu
hướng chung của nền kinh tế thế giới thì hệ thống NHTM đã phát triển ngày càng đa
2
dạng về loại hình, phạm vi, về quy mô, về chất lượng hoạt động và có mối liên kết trên
toàn cầu
Sự phát triển của nền sản xuất hàng hóa đòi hỏi phải có một tổ chức kinh doanh
đặc biệt – chuyên kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ trong quan hệ vay mượn – đó là
NHTM, một trung gian tài chính được hình thành lâu đời nhất. Có thể hiểu NHTM là
một tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ với các nội dung chính là:
Nhận tiền gửi và chi trả hộ cho khách hàng.
Sử dụng số tiền của khách hàng gửi để cho vay.
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình cùng với sự phát triển của nền
kinh tế, Ngân hàng đã thực hiện thêm những dịch vụ như: chiết khấu thương phiếu, tài trợ
các hoạt động của Chính phủ, cung cấp các dịch vụ tài khoản tiền gửi, cung cấp các dịch vụ
khác như: thanh toán quốc tế, dịch vụ thuê thiết bị, môi giới đầu tư, dịch vụ ngân hàng điện
tử, dịch vụ ngân hàng tự động…
Như vậy, NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ và cùng với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế hoạt động của NHTM
ngày càng đa dạng hơn. Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền
kinh tế, các Ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ hoặc vai trò
mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.Tuy nhiên, các yếu tố trên đang không ngừng
thay đổi cùng với đời sống kinh tế, chính trị xã hội. Chính vì vậy cách tiếp cận thận
trọng nhất là có thể xem xét Ngân hàng trên phương diện các dịch vụ mà chúng cung
cấp như sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các

dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán
và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào
trong nền kinh tế”, sự đa dạng trong các dịch vụ của Ngân hàng được thể hiện ở chức
năng của nó
Sơ đồ 1.1: Những chức năng cơ bản của ngân hàng đa năng ngày nay
3
Để đưa ra một định nghĩa về Ngân hàng thương mại người ta thường phải dựa vào
tính chất và mục đích hoạt động của nó trên thi trường tài chính.Cho đến thời điểm hiện
nay có rất nhiều khái niệm về NHTM:
Ở Mỹ : Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp
dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: “Ngân hàng thương
mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của
công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài
nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính”.
Ở Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại : Ngân hàng thương mại là tổ
chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ
khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán
Theo điều 4 – luật số 47/2010/QH 12 của luật các tổ chức tín dụng định nghĩa
Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng theo quy định của Luật này. Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại
hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp
tác xã.
4
Ngân hàng hiện đại
Chức năng
bảo hiểm
Chức năng
môi giới

Chức năng ngân
hàng đầu tư và
bảo lãnh
Chức năng ủy
thác
Chức năng tín
dụng
Chức năng
lập kế hoạch
đầu tư
Chức năng
thanh toán
Chức năng
tiết kiệm
Chức năng quản lý tiền mặt
Ngân hàng thương mại: là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm
mục tiêu lợi nhuận.
Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài
chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là
nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung
cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội
1.1.2. Chức năng của Ngân hàng thương mại
1.1.2.1. Chức năng là trung gian tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường các giao dịch kinh tế diễn ra rất sôi động đã tạo ra nhưng
khoản thu nhập, chi tiêu và tích lũy bằng tiền của các tầng lớp trong xã hội. Quá trình đó làm
hình thành nên những người có tiền tích lũy có khả năng cung cấp tín dụng và những người
có nhu cầu tín dụng để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển. Nhưng làm thế nào để họ tìm
gặp được nhau và làm sao có thể cùng thỏa mãn những như cầu vốn đa dạng và to lớn trong
khi các nguồn tiền tiết kiệm đang nằm phân tán trong xã hội mà mỗi khoản tiết kiệm lại theo

đuổi một mục đích riêng.
Nhờ có thị trường tài chính và cơ chế chuyển giao vốn năng động của thị trường tài
chính mà trong đó hệ thống NHTM giữ vai trò chủ đạo, NHTM hoạt động như một chiếc cầu
nối giữa khả năng cung ứng vốn và nhu cầu về vốn tiền tệ trong xã hội. Là trung gian tín
dụng, Ngân hàng đóng vai trị là người môi giới giữa một bên là người có tiền cho vay và một
bên là những người có nhu cầu chi tiêu cần đi vay vốn. Thông qua cơ chế thị trường, bằng
những biện pháp, chính sách và áp dụng những phương pháp kỹ thuật theo hướng hiện đại
Ngân hàng có khả năng thu hút hầu hết những nguồn tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội để phân bổ
vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh. Như vậy, có nghĩa là Ngân hàng đã biến những đồng
tiền năm phân tán thành nguồn tiền tệ tập trung phục vu cho nhu cầu sản xuất kinh doanh, qua
đó phát triển hoạt đông kinh doanh của Ngân hàng.
1.1.2.2.Chức năng làm trung gian thanh toán
Trong đời sống hàng ngày diễn ra hàng tỷ lượt giao dịch, thanh toán bằng tiền mặt.
Nếu như mọi khoản thanh toán đều thanh toán bằng tiền mặt trao tay thì sẽ kéo theo hàng loạt
các công việc phức tạp và tốn kém mà nhiều khi còn gặp rủi ro không lường trước được. Khi
NHTM ra đời và phát triển trong quá trình làm trung gian tín dụng Ngân hàng đã thu hút
được hầu hết các nhà kinh doanh có quan hệ buôn bán với nhau mở tài khoản tại Ngân hàng
tạo cơ sở cho các Ngân hàng đứng ra làm trung gian thanh toán theo lệnh của chủ tài khoản
bằng cách trích số dư tiền gửi trên tài khoản của người mua chuyển sang tài khoản của người
bán, tiến hành các nghiệp vụ này Ngân hàng trở thành là người thủ quỹ và là bộ máy kế toán
đáng tin cậy của các nhà kinh doanh trong công việc làm trung gian nhận và trả tiền theo yêu
cầu của họ, kế toán và kết toán tài khoản cho họ. Do đó, quá trình thực hiện chức năng này hệ
5
thống NHTM đã góp phần quan trọng làm giảm bớt khối lượng lưu thông tiền mặt, tiết kiệm
chi phí lưu thông thuần túy, giúp cho việc thanh toán tiền hàng hóa dịch vụ được thuận lời,
nhanh chóng, an toàn. Đối với các Ngân hàng thực hiện chức năng này tạo cho Ngân hàng có
thể duy trì và nâng cao khả năng thanh toán, quản lý được tình hình thu chi của các đơn vị
qua đó có các quyết định kịp thời nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và an toàn tài sản cho
khách hàng và Ngân hàng.
1.1.2.3.Chức năng tạo phương tiện thanh toán

Quá trình tạo tiền của NHTM bắt nguồn từ quá trình phát triển hoạt động tin dụng
ngắn hạn gắn liền với việc mở rộng thanh toán qua Ngân hàng. Qua việc thực hiên chức năng
trên Ngân hàng đã thu hút được một lương khách hàng và số lượng tiền gửi quá lớn tại Ngân
hàng, bằng cách dựng tiền gửi của người này để cho người khác vay và người này lại tạo nên
tiền gửi của người khác cùng nằm trong hệ thống Ngân hàng. Quá trình đó NHTM đã tự tạo
được khối lượng tiền gửi tăng thêm nhiều lần từ số tiền gửi đầu tiên, số lượng tiền đó sẵn sàng
cung ứng cho nhu cầu thanh toán vì người ta có thể viết sộc để rút tiền từ tài khoản tiền gửi
của họ, séc được sử dụng làm phương tiện thanh toán thay thế cho tiền trong việc mua bán
hàng hóa và chi trả dịch vụ khác.
1.1.3. Vai trò của các NHTM trong nền kinh tế
Ngân hàng được định nghĩa là một loại hình tổ chức tài chính trung gian có vai
trò quan trọng trong nền kinh tế chuyên cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng nhất-
đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Trên thực tế
một Ngân hàng hiện đại phải thực hiện rất nhiều vai trò mới có thể duy trì khả năng
cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu của xã hội:
Vai trò trung gian : Chuyển các khoản tiết kiệm, chủ yếu từ hộ gia đình, thành
các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và các thành phần khác để đầu tư vào
nhà cửa thiết bị và các tài sản khác
Vai trò thanh toán: Thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng
hóa và dịch vụ (như bằng cách phát hành và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán
điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền đúc, tiền giấy.
Vai trò người bảo lãnh: Cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả
năng thanh toán
Vai trò đại lý : Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát hành
hoặc chuộc lại chứng khoán
Vai trò thực hiện chính sách: Thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ
góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội
6
1.1.4. Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế

1.1.4.1. Nhận tiền gửi
NHTM nhận tiền gửi xuất phát từ:
- Yêu cầu khách quan và khả năng của người gửi tiền:
+ Yêu cầu khách quan: Khi các chủ sở hữu có một lượng tiền nhất định tiết
kiệm được sau khi đã chi tiêu cho các nhu cầu cần thiết hoặc tạm thời nhàn rỗi trong
một khoảng thời gian nhất định họ sẽ nghĩ đến việc bảo quản nó như thế nào cho an
toàn khi đó giải pháp gửi tiền vào Ngân hàng sẽ được chọn vì mục đích cất trữ.
Sau đó khi các chủ sở hữu tính đến việc có thu nhập và sử dụng các dịch vụ
Ngân hàng. Tùy theo lượng tiền nhàn rỗi, tùy kế hoạch sử dụng mà họ sẽ tính toán
xem gửi kỳ hạn nào với số tiền bao nhiêu thì sẽ hiệu quả nhất cho mình. Từ những
năm cuối thập kỷ 60, hoạt động Ngân hàng ngày càng phát triển khi đó người ta nghĩ
đến việc sử dụng các dịch vụ tiện ích của Ngân hàng ví dụ thay vì hàng tháng họ phải
mang tiền mặt đến bưu điện trả phí điện thoại hoặc đi trả tiền điện, tiền thuê nhà, tiền
thuê xe,… thì sẽ mất nhiều thời gian và không thuận tiện vì vậy họ sẽ thông qua các
dịch vụ của ngân hàng, “ủy nhiệm” cho ngân hàng thanh toán hộ trên cơ sở số tiền họ
có trong tài khoản tại các Ngân hàng.
+ Khả năng gửi tiền của các chủ sở hữu: Khi các cá nhân có tiền tiết kiệm họ sẽ
tính đến chuyện đầu tư khoản tiền gửi đó như thế nào để an toàn và có hiệu quả thay vì
giữ nó ở trong két chính vì thế họ sẽ gửi vào ngân hàng để được hưởng lãi đó chính là
hình thức gửi tiết kiệm. Ngoài ra khi hoạt động Ngân hàng phát triển, các phương tiện
thanh toán hiện đại, đa dạng các cá nhân sẽ gửi thu nhập của mình vào Ngân hàng và
thực hiện việc chi trả tất cả những khoản mục cần thanh toán thông qua tài khoản của
họ tại ngân hàng. Các doanh nghiệp, tổ chức trong quá trình sản xuất kinh doanh của
mình có một khoản tiền nhàn rỗi tạm thời như chưa đến kỳ trả lương, chưa đến kỳ
thanh toán tiền mua vật tư,… họ sẽ giữ lượng tiền đó trong tài khoản tại Ngân hàng
hoặc chuyển sang gửi tiết kiệm với kỳ hạn phù hợp.
- Khả năng và nhu cầu của Ngân hàng:
Về khả năng, NHTM có kho tàng chắc chắn, an toàn, hệ thống bảo vệ khá
nghiêm ngặt, các điều kiện về bảo mật rất tốt, điều kiện về môi trường luôn luôn đảm
bảo. Mặt khác thông qua tác nghiệp của nhân viên Ngân hàng, các quy định, quy trình

gửi rút tiền, các ngân hàng luôn sẵn sàng đáp ứng kịp thời các yêu cầu chi trả cũng như
đảm bảo các khoản tiền gửi của người gửi tiền.
Về nhu cầu, bản thân Ngân hàng là những trung gian tài chính, kiếm lời từ
những khoản tiền “tạm thời nhàn rỗi” của người này đem tài trợ cho nhu cầu của người
7
kia với mức lãi suất cao hơn, hoặc đầu tư vào những dự án đem lại mức lợi nhuận cao
hơn. Chính vì vậy Ngân hàng phải huy động vốn hay nhận tiền gửi từ khách hàng.
Nhận tiền gửi là hoạt động tạo điều kiện cho những hoạt động khác của Ngân
hàng và theo suốt quá trình tồn tại và phát triển của mỗi NHTM. Nền kinh tế càng phát
triển thì nhu cầu gửi tiền sẽ càng gia tăng, thông qua hoạt động nhận tiền gửi ngân hàng
tập hợp được một số tiền tạm thời chưa sử dụng của các chủ sở hữu để rồi sử dụng
lượng tiền đó đem tài trợ lại cho nền kinh tế.
1.1.4.2. sử dụng vốn
Là các hoạt động mà Ngân hàng sử dụng nguồn vốn đã huy động được để cung
cấp cho các đối tượng có nhu cầu với những điều kiện do hai bên thỏa thuận. Hoạt
động này bao gồm:
Tín dụng:
Tín dụng Ngân hàng là một quan hệ giao dịch giữa Ngân hàng chuyển giao tiền
cho các chủ thể khác được sử dụng trong một thời gian nhất định và bên nhận tiền phải
cam kết hoàn trả theo thời hạn thỏa thuận.
Đây là hoạt động giữ vị trí đặc biệt quan trọng, có tính chất quyết định đến sự
tồn tại và phát triển của Ngân hàng vì hoạt động này tạo ra cho NHTM khoản thu nhập
chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng thu nhập của NHTM.
Dựa vào các tiêu thức khác nhau người ta có thể chia thành các loại cho vay
khác nhau:
+ Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: Cho vay bất động sản, cho vay công
nghiệp, cho vay cá nhân, cho vay xây dựng,…
+ Căn cứ vào thời hạn vay: Cho vay ngắn hạn, Cho vay trung và dài hạn
+ Căn cứ vào phương pháp hoàn trả: Cho vay trả góp, cho vay hoàn trả theo yêu cầu,
+ Căn cứ vào thành phần kinh tế: Cho vay quốc doanh và ngoài quốc doanh.

Thông qua hoạt động tín dụng các NHTM đã và đang thực hiện chức năng xã
hội của mình, góp phần làm cho sản phẩm xã hội tăng lên, vốn đầu tư được mở rộng
và từ đó đời sống dân chúng được cải thiện.
Đầu tư:
NHTM có thể sử dụng nguồn vốn để đầu tư như đầu tư vốn trực tiếp vào các
doanh nghiệp dưới dạng góp vốn, thành lập công ty, hùn vốn dưới hình thức liên
doanh, liên kết. Đây cũng là hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng trong việc tạo ra lợi
nhuận ngân hàng. Trong hoạt động kinh doanh của mình cũng giống như các doanh
nghiệp, tổ chức trong nền kinh tế Ngân hàng có những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi,
Ngân hàng có thể gửi khoản tiền đó vào các tổ chức tín dụng khác hay đầu tư trái
phiếu Chính phủ để tăng thêm lợi nhuận.
8
Cho thuê tài chính:
Là hoạt động tín dụng trung gian, dài hạn trên cơ sở các hợp đồng cho thuê tài
sản giữa bên cho thuê là NHTM với khách hàng. Khi kết thúc hợp đồng khách hàng có
thể mua lại hoặc tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp
đồng thuê. Trong thời gian thuê các bên không được đơn phương chấm dứt hợp đồng.
1.1.4.3. Thực hiện các dịch vụ
Ngoài hoạt động huy động vốn, cho vay các NHTM còn thực hiện một loạt các
dịch vụ khác cho khách hàng như:
Dịch vụ thanh toán trong và ngoài nước:
Ngày nay, khi nền kinh tế càng phát triển thì hoạt động thương mại càng trở
nên đa dạng nhu cầu thanh toán qua Ngân hàng không dựng tiền mặt ngày càng chiếm
vị trí chủ đạo trong các hoạt động kinh tế. Hàng loạt các phương thức thanh toán được
các ngân hàng thực hiện như ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, thanh toán séc, thanh toán
bù trừ, thực hiện chuyển tiền nhanh qua mạng, thanh toán qua thẻ tín dụng,…Đồng
thời, các ngân hàng cũng chú trọng đầu tư các trang thiết bị, cơ sở vật chất áp dụng
công nghệ tiên tiến vào hoạt động Ngân hàng để đảm bảo thời gian thanh toán nhanh
nhất và chính xác, an toàn.
Thực hiện tốt các dịch vụ thanh toán góp phần tăng thu nhập ổn định cho Ngân

hàng. Hiện nay xu hướng nguồn thu về dịch vụ thanh toán ngày càng tăng và chiếm
một tỷ lệ lớn về tổng thu trong kinh doanh của Ngân hàng. Đồng thời góp phần làm
tăng tốc độ chu chuyển nguồn vốn, tiết kiệm thời gian, làm giảm khối lượng tiền tệ lưu
thông, tiết kiệm chi phí in ấn, kiểm đếm tiền,… Ngân hàng thực hiện tốt công tác
thanh toán sẽ thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đến giao dịch từ đó sẽ tạo điều
kiện thuận lợi cho công tác huy động vốn và cho vay của Ngân hàng.
Dịch vụ bảo lãnh:
Bảo lãnh ngân hàng là sự cam kết của Ngân hàng( bên bảo lãnh) với bên có
quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghiệp vụ tài chính thay cho khách
hàng( bên được bảo lãnh) trong trường hợp khách hàng không thực hiện hoặc thực
hiện không đúng nghĩa vụ cam kết với bên nhận bảo lãnh. Thông thường các NHTM
áp dụng các hình thức bảo lãnh như: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh
thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng,…
Bảo quản vật có giá:
Đây là một trong những dịch vụ lâu đời nhất được các NHTM thực hiện.Có hai
hình thức bảo quản vật có giá là két sắt bảo quản ký thác và bảo quản an toàn vật có
giá.
9
Két sắt bảo quản ký thác được lập ra để cho khách hàng thuê, khách hàng có
quyền kiểm tra tài sản có giá của họ bất kỳ thời điểm nào. Ngân hàng chỉ cung cấp kho
bảo quản, két sắt và điều kiện an toàn.
Bảo quản an toàn vật có giá là nhiệm vụ trông nom, quản lý giấy tờ có giá như
là một đại lý đối với khách hàng.
Các dịch vụ khác:
Ngoài những nghiệp vụ chủ yếu nêu trên ngân hàng còn thực hiện các dịch vụ khác
như mua bán, trao đổi ngoại tệ, dịch vụ ủy thác, quản lý tiền mặt,…Các hoạt động của
NHTM đều có mối quan hệ mật thiết hữu cơ, làm tiền đề, điều kiện cho nhau vì vậy
NHTM phải thực hiện tốt đồng bộ tất cả các hoạt động.
1.2. Nghiêp vụ huy độnng vốn của NHTM
1.2.1.Vốn trong hoạt động kinh doanh

Vốn đóng vai trị rất quan trọng trong hoạt động của các ngân hàng thương mại.
Nhìn chung, có thể hiểu vốn là khoản hình thành nên tài sản của ngân hàng, giúp cho
ngân hàng hoạt động một cách hiệu quả, nó có thể hình thành từ nhiều kênh khác nhau
có thể tăng giảm tùy theo tình hình hoạt động của ngân hàng tùy từng thời kỳ. Khi bàn
về vốn của Ngân hàng thương mại chúng ta có nhiều cách tiếp cận khác nhau, có nhiều
cách phân chia vốn của Ngân hàng thương mại khác nhau: Có thể phân chia theo thời
gian (ngắn hạn, dài hạn), theo loại tiền tệ (nội tệ, ngoại tệ), theo đặc điểm của nguồn
(nợ, tiền vay), nếu tiếp cận theo cách phân chia trên bảng tổng kết tài sản vốn của ngân
hàng thương mại được chia thành:
1.2.1.1. Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng (Vốn chủ sở hữu)
Về khía cạnh kinh tế, vốn chủ sở hữu là vốn riêng có của NHTM do các chủ sở hữu
đóng góp và các quỹ của ngân hàng được hình thành trong quá trình kinh doanh thể hiện
dưới dạng lợi nhuận để lại. Nguồn vốn này có tính ổn định cao, NHTM không phải hoàn
lại, nó có vai trò quan trọng đối với các hoạt động mở rộng quy mô của mình như liên
doanh, liên kết, mở rộng mạng lưới,…
Vốn thuộc sở hữu của Ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau:
Vốn tự có ban đầu:
Vốn này được hình thành từ ban đầu khi mới thành lập ngân hàng. Tùy theo
từng loại hình ngân hàng( quốc doanh hay cổ phần) mà vốn này có thể do ngân sách
Nhà nước cấp hay do các cổ đông góp vốn. Vốn này là một trong những điều kiện
pháp lý bắt buộc khi thành lập ngân hàng.
Vốn bổ sung trong quá trình hoạt động:
10
Trong quá trình hoạt động ngân hàng có thể gia tăng vốn của chủ sở hữu theo
nhiều phương thức khác nhau tùy thuộc từng điều kiện cụ thể.
Trong điều kiện thu nhập ròng của ngân hàng lớn các ngân hàng có xu hướng
chuyển một phần thu nhập ròng thành vốn chủ sở hữu.
Vốn chủ sở hữu còn được bổ sung từ việc phát hành thêm cổ phần, góp thêm
nếu là ngân hàng cổ phần hoặc được cấp thêm từ NSNN nếu là ngân hàng quốc doanh
để mở rộng quy mô hoạt động, hoặc để đổi mới trang thiết bị, công nghệ hoặc để đáp

ứng yêu cầu gia tăng vốn chủ sở hữu do Nhà nước quy định.
Đây không phải là nguồn thường xuyên song nó giúp ngân hàng có được lượng
vốn chủ sở hữu khi cần thiết.
Các quỹ của ngân hàng:
Quỹ dự phòng rủi ro: được trích lập hàng năm và được tích lũy lại nhằm bù đắp
những tổn thất xảy ra.
Quỹ bảo toàn vốn: Nhằm bù đắp hao mòn của vốn dưới tác động của làm phát.
Ngoài ra còn có các quỹ khác như: quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi,… nguồn
hình thành các quỹ này là thu nhập sau thuế của ngân hàng. Tuy nhiên khả năng sử
dụng các quỹ này vào hoạt động kinh doanh tùy thuộc vào mục đích sử dụng của các
quỹ.
1.2.1.2. Vốn huy động
Theo quan niệm của nhà kinh tế học và các nhà Ngân hàng trong tổng nguồn
vốn của Ngân hàng ngoài nguồn vốn thuộc chủ sở hữu thì tất cả các nguồn vốn còn lại
được coi là nguồn vốn huy động. Như vậy nguồn vốn huy động của Ngân hàng
Thương mại chiếm tỷ trọng tới hơn 90% trong tổng nguồn vốn. Vì vậy các hoạt động
sử dụng vốn của Ngân hàng tồn tại và phát triển được là nhờ nguồn vốn huy động này.
Vốn huy động như tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán, phát hành giấy tờ có giá, hay
tiền vay của NHTW, vay từ các tổ chức tín dụng, vay từ nước ngoài………. Và các
kênh huy động khác.
1.2.2. Vai trò của vốn trong hoạt động kinh doanh của NHTM
Để thuận tiên cho việc đi sâu vào nghiên cứu nguôn vốn của Ngân hàng thương
mại , trước hết cần nắm bắt được định nghĩa nguồn vốn của NHTM là gì?
“Vốn của ngân hàng thương mại là những giá trị tiền tệ do Ngân hàng thương
mại tạo lập hoặc huy động được dựng để đầu tư, cho vay hoăc thưc hiện các dịch vụ
11
kinh doanh khác. Nó chi phối toàn bộ hoạt động của NHTM . Nó quyết định sự tồn tại
và phát triển của Ngân hàng”
Nguồn vốn của NHTM phần lớn do thu nhập quốc dân tạm thời nhàn rỗi trong sản
xuất kinh doanh được gửi vào Ngân hàng với các mục đích khác nhau. Ngân hàng đóng vai

trị tập trung nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế để chuyển đến các nhà đầu tư có nhu cầu về
vốn để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh qua đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ngân hàng và các hoạt động về nguồn vốn quyết định trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của
các NHTM. Nguồn vốn đóng vai trị chi phối và quyết đinh đối với các hoạt động của các
NHTM trong việc thực hiên chức năng của mình.
Cùng với sự phát triển của nhiều ngành nghề khác, từ khi ra đời và phát triển NHTM
đã đóng góp vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế thế giới. Ở tất
cả các nước, hệ thống NHTM đã không ngừng phát triển, đúng vai trò tập trung những khoản
tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế để cung ứng vốn của các NHTM. Bằng hoạt động của mình
NHTM đã đóng góp một lương lớn vốn đáng kể và hàng loạt các dịch vụ ngân hàng khác cho
nền kinh tế.
Một là: NHTM là nơi cung cấp tín dụng cho nền kinh tế, là cầu nối giữa tiết kiệm và
đầu tư.
Là một trung gian tín dụng NHTM đã tích tụ và tập trung được một khối lượng lớn
tiền tạm thời nhàn rỗi thông qua nghiệp vụ huy động vốn và thực hiên các dịch vụ Ngân hàng
cho khách hàng. Từ nguồn tiền đó cấp phát tín dụng cho các thành phần kinh tế, những tổ
chức và cá nhân cần vốn để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu của mình. Tức Ngân hàng đóng vai
trị là người môi giới giũa một bên là những người có tiền nhàn rỗi có thể cho vay và một bên
là những người cần vay vốn. Thực hiện chức năng này tức là Ngân hàng đã trở thành người
khơi thông và kích hoạt các nguồn vốn, làm cho nguồn tiền tệ luôn hoạt động và sinh lãi.
Những hoạt động đó của NHTM đã thực sự tác động điều hòa cung cầu tiền tệ, biến những
đồng tiền nhàn rỗi thành những đồng tiền hoạt động có ích, tập trung vốn vào việc tài trợ cho
các ngành kinh tế khác phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động và bằng những
khoản tin dụng nhỏ thích hợp giúp người lao động có thêm điều kiện ổn định và cải thiện đời
sống.
Hai là: Ngân hàng giúp cho nhà kinh doanh trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn.
Ngân hàng tài trợ vốn cho các Doanh nghiệp trên cơ sở phải tuân thủ các điều kiện do
Ngân hàng đặt ra. Trong đó các khoản tín dụng mà Doanh nghiệp nhận được đều phải trả lãi
và khi hết hạn sử dụng phải hoàn trả gốc. Vỡ vậy để đảm bảo an toàn tài sản cho Ngân hàng

và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho Doanh nghiệp thì trước khi cho vay, Ngân hàng cần
phải thẩm định phương án sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp, thẩm định tính khả thi của dự
án, thẩm định các yếu tố liên quan đến Doanh nghiệp (Uy tín, trình độ nhân viên tài sản đảm
12
bảo….) một cách chính xác rõ ràng, chi tiết, qua đó cán bộ tín dụng giúp Doanh nghiệp xây
dựng phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Sau khi cho doanh nghiệp vay vốn, Ngân
hàng vẫn tiếp tục giám sát quá trình sử dụng vốn vay của Doanh nghiệp và thông qua hoạt
động thanh toán hộ thì Ngân hàng có thể giúp Doanh nghiệp quản lý tốt hơn về vốn và sử
dụng vốn.
Ba là: Ngân hàng khuyến khích tiết kiệm trong nền kinh tế.
Bất kỳ đối tượng nào trong nền kinh tế gửi tiền vào Ngân hàng đều được hưởng lãi,
điều đó có nghĩa là thu nhập của người gửi tiền sẽ tăng lên. Người gửi tiền có thể gửi tiền có
thể gửi theo bất cứ phương thức nào, bất cứ thời hạn nào, các cá nhân có số tiền nhàn rỗi chưa
sử dụng đến thì có thể gửi vào Ngân hàng khi cần có thể rút ra bất cứ lúc nào. Thông qua
chính sách lãi suất Ngân hàng đã khuyến khích khách hàng tiết kiện tiêu dùng trong tương lai.
Bốn là: Hoạt động Ngân hàng có tác dụng điều tiết sự chuyển dịch của vốn đầu tư dẫn
đến bình quân hóa tỷ suất lợi nhuận, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và phát triển vùng.
Trong hoạt động tài trợ của mình,Ngân hàng có thể tài trợ đối với tất cả các đơn vị và
cá nhân trong nền kinh tế dưới các hình thức khác nhau. Với các hệ thống Ngân hàng chuyên
doanh cùng với mạng lưới chân rết của mình, NHTM có mặt ở hầu hết các đia bàn trong
pham vi cả nước. Thông qua đó Ngân hàng sẽ tiến hành cho vay đối với những ai cần vốn mà
đáp ứng được các điều kiện của Ngân hàng thì Ngân hàng tiến hành cho vay. Ngoài ra khi có
sự ưu tiên của nhà nước về phát triển ngành nghề hoặc vùng kinh tế nào đó thì Chính phủ đưa
ra những chính sách riêng cho từng vùng thông qua hệ thống NHTM sẽ tiến hành cung ứng
vốn cho những vùng đó. Hoạt động tín dụng Ngân hàng ngày càng phát triển đã làm cho việc
di chuyển vốn diễn ra một cách dễ dàng, tập trung duy trì lực lượng bình quân từ tất cả các
ngành. Đồng thời với sự tác động của Ngân hàng vốn được dịch chuyển từ vùng thừa vốn
sang vùng thiếu vốn đảm bảo cho sự phát triển đồng đều giữa các ngành, xóa dần sự khác
biệt, thúc đẩy kinh tế phát triển ổn định.
Năm là: Hoạt động của Ngân hàng góp phần chống lạm phát.

Với đặc điểm của NHTM là tổ chức trung gian tài chính với các hoạt động chủ yếu là
huy động vốn, cho vay và thực hiện chức năng trung gian thanh toán. Lượng tiền trong lưu
thông được Ngân hàng kiểm soát. Thông qua các khoản mục của NHTM, NHTW sẽ xác
định được lượng tiền trong lưu thông trong nền kinh tế, từ đó để có các biên pháp kiểm soát
nhằm đề phòng và hạn chế những ảnh hưởng xấu có thể xảy ra.
Trường hợp nếu xảy ra lạm phát thì bằng các nghiệp vụ của mình, NHTW sẽ điều
chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất tái chiết khấu, tham gia vào thị trường mở để tác
động tới NHTM để qua đó làm thay đổi lượng tiền trong lưu thông.
Sáu là: Ngân hàng tài trợ cho các hoạt động xuất nhập khẩu thúc đẩy phát triển
TMQT. TMQT ngày càng phát triển, cùng với xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa thì các
mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các quốc gia đóng vai trị cùng hòa chung với xu thế đó
13
NHTM cũng đóng vai trị rất quan trọng trong việc đưa nền kinh tế của quốc gia mình hội
nhập với nền kinh tế thế giới. Bằng các hoạt động của mình như tài trợ xuất nhập khẩu,thực
hiện các hình thức thanh toán,bảo lãnh …đã góp phần thúc đẩy việc chu chuyển hàng hóa
dịch vụ giữa các quốc gia với nhau một cách thuận lợi và nhanh chóng.
1.2.3. Tầm quan trọng của nguồn vốn huy động đối với hệ thống Ngân hàng Thương
mại.
Cũng như các ngành nghề khác, để cho hoạt động kinh doanh được diễn ra thương
xuyên và lien tục thì cần phải có tư liệu sản xuất. NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh
tiền tệ trong đó tiền là nguyên liệu chính trong việc tạo ra sản phẩm Ngân hàng, là một thứ
nguyên liệu độc ton không thể thay thế. Hoạt động tìm kiếm tư liệu sản xuất của Ngân hàng
là hoạt động huy động vốn. Do đặc trưng của nguồn vốn huy động là luôn có một lượng tồn
khoản này để phục vụ cho quá trình kinh doanh của mình. Nên tình hình hoạt động của Ngân
hàng phụ thuộc phần lớn vào tình hình huy động vốn của chính Ngân hàng đó.
Thứ nhất: Nguồn vốn huy động ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô hoạt động của Ngân
hàng
Nguồn vốn khả dụng của Ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở rộng hay thu
hẹp tín dụng, hoạt động bảo lãnh hay trong hoạt động thanh toán của Ngân hàng. Thông
thường các Ngân hàng nhỏ khác các Ngân hàng lớn có các khoản mục về đầu tư, cho vay đa

dạng hơn, phạm vi và khối lượng tín dụng cũng đa dạng hơn. Nếu khả năng về vốn lớn thì có
thể mở rộng quy mô khối lượng tín dụng có thể tài trợ cho các dự án lớn, sẵn sang đáp ứng
nhu cầu của khách hàng.
Thứ hai: Nguồn vốn lớn giúp Ngân hàng chủ động trong kinh doanh
Trong cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng ngoài phần vốn tự có thì còn có nguồn vốn
huy động, vốn vay và các nguồn vốn khác. Một Ngân hàng không chỉ hoạt động với nguồn
vốn tự có và nguồn vốn đi vay vì vốn tự có của Ngân hàng chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong
tổng cơ cấu nguồn vốn của Ngân hàng còn vốn đi vay thì Ngân hàng phải phụ thuộc vào đối
tượng cho vay về thời hạn, số lượng và các chi phí khác. Do đó Ngân hàng có thể bỏ lỡ
những cơ hội kinh doanh. Ngược lại Ngân hàng có lượng vốn lớn sẽ hoàn toàn chủ động
trong hoạt động của mình. Nguồn vốn lớn làm tăng khả năng hoạt động của Ngân hàng như
chủ động đa dạng hóa câc hình thức và phương thức hoạt động nhằm phân tán rủi ro và tăng
lợi nhuận phục vụ cho mục tiêu cuối cùng của Ngân hàng là an toàn và sinh lời
Thứ ba: vốn huy động giúp Ngân hàng nâng cao vi thế của mình trên thị trường.
Để đảm bảo cho việc thu hút khách hàng đến quan hệ giao dịch với mình thì Ngân
hàng phải tạo được niềm tin cho khách hàng. Điều này được thể hiện ở khả năng sẵn sang
thanh toán cho khách hàng. Khả năng thanh toán của Ngân hàng cao khi Ngân hàng có nguồn
vốn khả dụng lớn. Mặt khác uy tín của Ngân hàng còn thể hiện ở khả năng cho vay và đầu tư
của Ngân hàng. Ngân hàng chỉ có thể cho vay những dự án lớn, thời hạn dài nếu như Ngân
14
hàng có nguồn vốn lớn và ổn định điều này phụ thuộc vào khả năng huy động vốn của Ngân
hàng.
Thứ tư: vốn huy động quyết định năng lực canh tranh của Ngân hàng .
Để cố thể chiến thắng trong cạnh tranh thì ngoài việc phải có chiếm lược cạnh tranh
hợp lý thì yếu tố về khả năng tài chính luon giữ vai trò quyết định cuối cùng. Nếu Ngân hàng
có vốn khả dụng lớn thì có thể chủ động mở rộng mối quan hệ tín dụng với các thành phần
kinh tế cả về quy mô, khối lượng tín dụng, chủ động về thời gian và thời hạn cho vay thậm
chí trong vệc điều chỉnh lãi suất cho vay để thu hút khách hàng. Ngoài ra Ngân hàng còn có
thể phát triển thêm nhiều loại hình dịch vụ mới, tham gia vào nhiều các hoạt động khác như
lien daonh lien kết, đầu tư trên thị trường vốn, trên thị trường tiền tệ.

Nhân thức được vai trò của nguồn vốn trong hoạt động của NHTM, nên từng Ngân
hàng phải hoạch định chiếm lược huy động vốn cho đơn vị minh nhằm chủ động tạo lập được
nguồn vốn ổn định và tăng trưởng để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là yếu
tố đầu tiên quyết định đến hiệu quả hoạt động của Ngân hàng.
1.2.4 Nguyên tắc và mục tiêu trong việc huy động vốn của NHTM
1.2.4.1 Nguyên tắc huy động vốn
Nguyên tắc thứ nhất: Việc huy động vốn phải trên cơ sở nhu cầu cho vay. Ngân hàng
phải tính toán nhu cầu cho vay để xác đinh số vốn cần huy động. phải đảm bảo cân đối giũa
huy động vốn và sử dụng vốn về quy mô về thời hạn để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
Ngân hàng.
Nguyên tắc thứ hai: Ngân hàng nhân tiền gửi của khách hàng phải có trách nhiệm
hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả vốn lẫn lãi theo thỏa thuận trước giữa Ngân hàng và khách hàng
Nguyên tắc thứ ba : Ngân hàng không được phép phát hành trái phiếu mà việc phát
hành trái phiếu đó tạo cho các chủ sở hữu giành được qyền quản lý trực tiếp và gián tiếp đối
với Ngân hàng.
1.2.4.2 Mục tiêu trong công tác huy động vốn
Mục tiêu trong công tác huy động vốn là cơ sở cho việc đề ra kế hoạch và chiếm lược
về nguồn vốn của Ngân hàng. Như trên chúng ta đã nghiên cứu, nguồn vốn của Ngân hàng
khá đa dạng, bao gồm nhiều thành phần. Một số thành phần không ổn định nhưng có khả
năng giao dich cao và lãi suất thấp. do đó chi phí vốn,cơ cấu vốn, tính chất ổn định,thời hạn
của nguồn vốn là nhân tố quan trọng đánh giá chất lượng nguồn vốn và là mục tiêu các Ngân
hàng hướng tới. Đây là những yếu tố quan trọng trong việc thực hiện muc tiêu vừa an toàn
vừa có lợi nhuận cao của Ngân hàng.
Một là: Tìm kiếm nguồn vôn rẻ.
Chi phí trả lãi được coi là chi phí lớn nhất trong các chi phí của Ngân hàng. Trong đó
lớn nhất là chi phí trả lãi đầu vào cho tiền gửi có kỳ hạn. Việc quản lý chi phí trả lãi là hoạt
động thường xuyên và quan trọng của các Ngân hàng. Mỗi sự thay đổi về lãi suất hay cơ cấu
15
nguồn vốn đều có thể làm thay đổi chi phí trả lãi , từ đó ảnh hưởng đến thu nhập của Ngân
hàng. Việc tính chi phí của từng nguồn vốn cụ thể cho phép các nhà quản lý xác định nguồn

vốn nào rẻ hơn, có nên thay đổi lãi suất hay không. Về nguyên tắc, những nguồn vốn có thời
hạn ngắn và tinh ổn định thấp thì chi phí nguồn vốn cũng phải thấp tương ứng. tuy nhiên
nguồn vốn rẻ lại làm giảm tính cạnh tranh của Ngân hàng. Tính chi phí một cách chính xác
cho phép Ngân hàng chủ động lựa chọn những nguồn vốn khác nhau và đảm bảo doanh thu
đủ bù đắp chi phí và đem lại tỷ lệ thu nhập mong đợi.
Hai là: Tạo ra nguồn vốn ổn định và cơ cấu phù hợp.
Cơ cấu vốn cần đa dạng thể hiện ở việc duy trì một tỷ lệ giữa vốn huy động ngắn hạn
và dài hạn, giữa vốn nội tệ và ngoại tệ. Một Ngân hàng có chất lương huy động vốn cao sẽ có
nguồn vốn dồi dào và cơ cấu vốn cân đối, tránh cho Ngân hàng rơi vào tình trạng căng thẳng
về tài chính trong điều kiện môi trường kinh doanh thường xuyên thay đổi.
Hơn nữa Ngân hàng phải dự đoán xu hướng biến đổi cơ cấu nguồn vốn huy động.
Yêu tố này cũng rất quan trọng trong việc xây dựng kế hoạch sử dụng vốn của Ngân hàng.
Mỗi loại nguồn vốn có điểm mạnh điểm yếu riêng biệt trong việc huy động và khai thác. Do
đó sự biến động về cơ cấu nguồn vốn sẽ kéo theo sự biến động trong cơ cấu cho vay, đầu tư,
bảo lãnh.
Ba là: Xây dựng quy mô và sự tăng trưởng nguồn vốn ổn định
Quy mô vốn huy động có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của Ngân hàng.
Ngân hàng muốn mở rộng hoạt động cần có quy mô vốn tương đối lớn, trong đó vốn huy
động là một bộ phận quan trọng. Không thể nói chất lượng huy động vốn tốt nếu việc huy
động không đáp ứng được nhu cầu về khơi lượng vốn kinh doanh. Khối lương vốn phải đạt
tới quy mô nhất định theo kế hoạch huy động của Ngân hàng. Để thực hiện tốt vấn đề này cần
kết hợp hài hòa các yếu tố khác như lãi suất, chính sách marketing khách hàng, các hình thức
huy động vốn, uy tín khách hàng.
Bốn là: điều hành tốt nguồn vốn kinh doanh
Trong hoạt động Ngân hàng thường xuyên xảy ra tình trạng không cân đối về vốn
giũa các chi nhánh trong cùng hệ thống, giữa các Ngân hàng. Nếu công tác quản lý huy động
vốn hợp lý thì Ngân hàng sẽ linh hoạt hơn trong việc giải quyết tình trạng thừa thiếu tam thời
này. Một số biện pháp thường sử dụng như điều chuyển vốn giữa các chi nhánh, vay các
Ngân hàng khác, vay NHTW…Chất lượng huy động vốn ở đây thể hiện ở việc đưa ra quyết
định lựa chọn đúng đắn, có lợi nhất đối với Ngân hàng, đảm bảo sự chủ động trong kinh

doanh
1.2.5. Các hình thức huy động vốn của NHTM
1.2.5.1. Tiền gửi
Tiền gửi thanh toán : Hay còn gọi là tiền gửi có thể phát hành séc (tiền gửi giao
dịch, tiền gửi theo yêu cầu). Mục đích gửi khoản tiền vào Ngân hàng không phải để
16
hưởng lãi mà là nhằm sử dụng các tiện ích do Ngân hàng cung cấp như thanh toán hộ,
chi trả hộ, thu hộ. Ngân hàng thương mại buộc các khách hàng nếu muốn được Ngân
hàng cung cấp các dịch vụ thì cần phải ký quỹ một lượng tiền tối thiểu, đồng thời với
những khoản tiền gửi vào tài khoản thanh toán phải có thời gian nhất định mới được rút
ra để thanh toán điều này giúp ngân hàng có thể sử dụng lượng vốn này. Thời kỳ đầu
Ngân hàng còn thu phí trên số dư tiền gửi này nhưng về sau để khuyến khích khách
hàng gửi tiền vào Ngân hàng không thu phí, hiện nay để cạnh tranh với nhau các Ngân
hàng còn trả tiền lãi cho các số dư tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tại Ngân
hàng, mặc dù vậy mức lãi suất này là rất thấp nên chi phí huy động vốn của loại tiền gửi
này là rất thấp đây chính là ưu điểm của kênh huy động vốn này. Tuy nhiên, tính ổn
định của kênh huy động vốn này là thấp nhất vì mục đích của món tiền gửi này là dựng
để thanh toán nên khách hàng có thể rút ra bất cứ lúc nào mà Ngân hàng không được
phép từ chối. Biến động của tiền gửi thanh toán phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất kinh
doanh, thời vụ, hoặc địa bàn hoạt động của ngân hàng. Để đo độ biến động phức tạp của
kênh huy động vốn này, ta có thể đo tần suất biến động hoặc số vòng quay, hoặc dựa
vào các con số thống kê trong thời gian qua mà Ngân hàng đưa ra kết luận. Khi sử dụng
kênh huy động vốn tiền gửi thanh toán Ngân hàng phải thận trọng nếu không rủi ro chi
trả sẽ xảy ra, điều này có thể làm giảm uy tín của Ngân hàng, hoặc phải tốn chi phí để đi
vay.
Để huy động được nguồn tiền gửi thanh toán Ngân hàng cần phải khuyến khích
các cá nhân và tổ chức kinh tế mở tài khoản thanh toán đồng thời cũng cần phải nâng
cấp các tiện ích và dịch vụ do Ngân hàng cung cấp kèm theo như: dịch vụ thẻ, dịch vụ
thanh toán,…
Tiền gửi có kỳ hạn: Là loại tiền gửi có sự thỏa thuận giữa Ngân hàng và khách

hàng về thời hạn gửi tiền trong khoảng thời gian đó Ngân hàng có quyền chủ động sử
dụng số tiền đó khi khách hàng muốn rút tiền trước thời hạn cần phải báo trước và
phải được sự chấp thuận của ngân hàng. Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền tạm thời
nhàn rỗi phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh do các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội tạo ra từ các quỹ như quỹ khấu hao, quỹ đầu tư, từ các nguồn
thu nhập của doanh nghiệp,… khi họ biết trước được thời điểm sử dụng tiền, họ gửi
những khoản tiền này vào Ngân hàng nhằm mục đích thu lợi và an toàn. Ngân hàng
thường phải trả lãi cao cho số dư tài khoản tiền gửi có kỳ hạn, nên chi phí huy động
thường cao nhưng bù lại tính ổn định của nguồn vốn này lại cao Ngân hàng có thể yên
tâm sử dụng mà không sợ bị rủi ro về khả năng chi trả.
Tiền gửi tiết kiệm: Là khoản tiền do dân cư gửi vào Ngân hàng với mục đích an
toàn và sinh lợi đây thường là khoản tiền gửi có tỷ trọng cao nhất trong tổng số tiền
gửi của Ngân hàng và có tính ổn định cao nhất. Mục đích của người gửi tiền là nhằm
hưởng lãi suất chính vì vậy lãi suât là yếu tố được người gửi quan tâm nhất, lãi suất
huy động tỷ lệ thuận với thời gian gửi tiền sẽ khuyến khích khách hàng gửi tiền với
thời hạn gửi dài hơn.
17
Lãi suất chi trả cho người gửi tiết kiệm bao giờ cũng là cao nhất chính vì vậy
huy động nguồn vốn này sẽ có chi phí huy động lớn nhất. Để huy động được nguồn
vốn này, Ngân hàng cần chú ý tới nhu cầu tiết kiệm từ dân cư, lượng tiền gửi phụ
thuộc vào thu nhập của dân cư, vào xu hướng tiết kiệm, các đặc tính về dân số-xã hội,
tình hình kinh tế xã hội. Muốn huy động nguồn tiền gửi tiết kiệm Ngân hàng cần phải
chú ý đến các yếu tố thuộc về khách hàng này và điều chỉnh lãi suất huy động cho phù
hợp.
Đặc điểm chung của tiền gửi là chúng phải được thanh toán khi khách hàng yêu
cầu ngay cả khi đó là tiền gửi có kỳ hạn chưa đến hạn, sự thay đổi đặc biệt là tiền gửi
ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh khoản của ngân hàng. Qui mô của tiền gửi rất lớn so
với các nguồn khác, thông thường chiếm trên 50% tổng nguồn vốn và là mục tiêu tăng
trưởng hàng năm của các Ngân hàng.
Tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc do vậy chi phí tiền gửi thường cao

hơn lãi trả cho tiền gửi. Tiền gửi đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn thường nhạy cảm với
các biến động về lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kỳ chi tiêu và nhiều nhân tố khác. Lãi
suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và cho vay. Trong
điều kiện có lạm phát, người có tiền tiết kiệm thường quan tâm tới lãi suất thực, điều
đó có nghĩa là lãi suất thực dương mới thực sự hấp dẫn các nguồn tiền tiết kiệm. Các
yếu tố khác như địa điểm Ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại
hình huy động đa dạng, các dịch vụ đa dạng,…đều ảnh hưởng tới quy mô và cấu trúc
của nguồn tiền. Thời vụ chi tiêu ảnh hưởng đến quy mô và tính ổn định của nguồn
tiền. Vào dịp tết, nguồn tiết kiệm cũng như tiền gửi của doanh nghiệp có xu hướng
giảm sút đặc biệt là trong điều kiện tình trạng thanh toán bằng tiền mặt vẫn là hình
thức phổ biến nhất trong các giao dịch kinh tế ở nước ta hiện nay. Tại những thành phố
lớn, nơi tập trung các tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hình thành người gửi tiền lớn,
thu nhập gia tăng là điều kiện để các gia đình tăng quy mô và kỳ hạn của các khoản
tiền gửi. Như vậy Ngân hàng cần phải nghiên cứu đặc điểm thị trường nguồn tiền để
có biện pháp quản lý và sử dụng thích ứng. Tuy nhiên Ngân hàng thường rất khó dự
tính được chính xác việc thay đổi quy mô và kết cấu của tiền gửi
Phát hành giấy tờ có giá: Các NHTM có thể phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và
chứng chỉ tiền gửi với đặc điểm có kỳ hạn và khoản lãi được hưởng thường là hấp dẫn
được in trên GTCG đó để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Hình thức huy động này được thực hiện với mục đích sử dụng vốn cụ thể với số lượng
và thời gian phát hành nhất định khi cần thiết. Đặc điểm của khoản nợ này có tính ổn
định cao, quyền đòi tiền xếp sau các loại tiền gửi khác. Hiện nay, ở Việt Nam có một
số giấy tờ có giá có thể được mua bán trên thị trường, trong khi đó ở các nước có thị
trường tài chính phát triển thì việc mua bán các công cụ nợ diễn ra khá phổ biến và sôi
động. Hiện nay, nhu cầu vốn trung và dài hạn còn rất lớn chính vì vậy việc phát hành
giấy tờ có giá kỳ hạn dài đóng vai trị quan trọng trong việc tạo và gia tăng nguồn vốn
trung và dài hạn cho ngân hàng. Huy động vốn bằng việc phát hành giấy tờ có giá
18
thường có lãi suất hấp dẫn hơn các loại tiền gửi có cùng kỳ hạn vì vậy chi phí vốn cho
việc huy động nguồn vốn bằng cách này rất cao tuy nhiên “tính lỏng” của loại vốn này

lại cao vì có thể đưa ra mua bán trên thị trường vốn và tính ổn định của nó cũng rất
cao.
Theo kinh nghiệm cho thấy việc huy động vốn từ trái phiếu khá phổ biến ở các
nước. Ở Nhật Bản, vốn huy động từ phát hành trái phiếu có kỳ hạn 1 năm, 2 năm và 5
năm là rất phổ biến trong đó trái phiếu kỳ hạn 5 năm chiếm quá nửa trong tổng số trái
phiếu phát hành và chúng được nắm giữ bởi các Công ty bảo hiểm, các Hợp tác xã
nông nghiệp và rất nhiều tổ chức đầu tư khác. Loại kỳ phiếu có kỳ hạn 1 năm cũng có
sức hấp dẫn đặc biệt đối với các cá nhân và chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng
lượng trái phiếu phát hành. Ở Mỹ, các NHTM có khoản mục tiền gửi có kỳ hạn chiếm
gần 50% và chủ yếu thể hiện dưới dạng chứng chỉ tiền gửi, với các CDs thường có
kèm theo quy định về kỳ hạn cố định với một mức lãi suất được xác định trước hoặc
theo thỏa thuận và không có giới hạn về số tiền gửi tối thiểu. Khoản mục này bao gồm
các CDs có thể chuyển nhượng giá trị lớn khoảng 100.000USD hoặc hơn – những
chứng chỉ tiền gửi hưởng lãi mà ngân hàng sử dụng để huy động vốn từ các khách
hàng quen thuộc. Để hạn chế việc rút trước hạn đối với tiền gửi có kỳ hạn, thì các ngân
hàng Mỹ có một quy định hết sức chặt chẽ là việc rút trước hạn đó sẽ bị xử phạt và
mức phạt có thể vượt cả mức tiền lãi được hưởng tính đến ngày rút tiền.
1.2.5.2. Tiền vay
Tiền gửi là nguồn tiền do khách hàng chủ động mang đến cho Ngân hàng, Ngân
hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để kinh doanh. Tuy nhiên không phải lúc nào các
kênh tiền gửi cũng đủ đáp ứng nhu cầu kinh doanh của ngân hàng, chính vì vậy khi
nhu cầu cho vay vượt quá khả năng hiện có của ngân hàng, Ngân hàng có thể đi vay để
đáp ứng.
Ngân hàng thương mại có thể đi vay từ nhiều nguồn khác nhau:
- Vay từ Ngân hàng trung ương:
Ngân hàng thương mại có thể vay từ NHTW qua các hình thức như chiết khấu,
tái chiết khấu, hình thức vay này thông qua thị trường mở. Ngân hàng thương mại
thường nắm giữ một lượng giấy tờ có giá, khi cần tiền mặt, NHTM đưa lượng giấy tờ
này cầm cố tại Ngân hàng trung ương, thông qua lãi suất chiết khấu mà NHTW có thể
điều chỉnh được cung tiền tệ cũng như cơ cấu nguồn vốn của NHTM.

Ngân hàng thương mại còn có thể vay từ các nguồn ngắn hạn như vay để bù
đắp dự trữ thiếu hụt, nâng cao khả năng thanh toán, nâng cao khả năng thanh khoản.
Các khoản vay này thường là trong thời gian rất ngắn. Trong những trường hợp đặc
biệt NHTM vẫn có thể vay NHNN để cho vay lại nền kinh tế theo kế hoạch của Nhà
nước với một mức lãi suất ưu đãi nhưng khoản vay này thường bị hạn chế về số lượng
đặc biệt là khi chính sách tiền tệ quốc gia đang thắt chặt.
Vay Ngân hàng trung ương để cho vay các dự án mà Chính phủ chỉ định
19
Lãi suất vay từ Ngân hàng trung ương thường là ưu đãi nhưng để vay được nguồn
vốn này lại phụ thuộc vào chính sách tài chính tiền tệ của Chính phủ.
- Vay từ các tổ chức tín dụng khác:
Khi thị trường tiền tệ liên Ngân hàng phát triển, Ngân hàng thương mại có thể
vay từ các tổ chức tín dụng khác. Nghiệp vụ này sẽ tạo ra thị trường liên Ngân hàng
trong nước và quốc tế. Lãi suất đi vay thường cao hơn vay từ Ngân hàng trung ương,
quy mô món vay phụ thuộc vào thị trường, về kỳ hạn có thể co giãn, hoặc là rất ngắn
hoặc có thể tới 3-5 năm.
Nguồn tiền đi vay không phải dự trữ bắt buộc, không cần bảo hiểm tiền gửi
đồng thời ngân hàng cũng chủ động được thời gian hoàn lại nhưng lãi suất lại cao.
Ngân hàng có thể đi vay bằng cách phát hành các giấy tờ có giá như phát hành
các trái phiếu, kỳ phiếu, tín phiếu, CDs, hiện nay hình thức vay từ việc phát hành các
giấy tờ có giá chiếm tỷ trọng ngày càng cao so với tổng lượng tiền đi vay của các
Ngân hàng. Bởi hình thức phát hành giấy tờ có giá là một phần của chiến lược huy
động vốn tiền gửi của Ngân hàng, lãi suất của các giấy tờ có giá do Ngân hàng phát
hành ra sẽ thấp hơn lãi suất đi vay, tuy nhiên Ngân hàng phải mất thêm chi phí in ấn,
phát hành và quảng cáo cho các giấy tờ có giá này.
Vay từ nước ngoài:
Theo Nghị định 134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính phủ về quy chế
quản lý vay và trả nợ nước ngoài thì các Ngân hàng thương mại có thể vay vốn trung
và dài hạn ở Ngân hàng nước ngoài để cho vay lại trong nước, các Ngân hàng thương
mại Việt Nam hiện nay có quan hệ đại lý và quan hệ thanh toán rộng rãi với các Ngân

hàng trong khu vực và trên thế giới nên nghiệp vụ này tiến hành cũng khá thuận lợi.
Lãi suất vay được áp dụng theo lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới. Tuy nhiên, khi
vay thì các NHTM Việt Nam phải chấp hành một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy
định, hạn mức này phải do Chính phủ hoặc NHNN Việt Nam bảo lãnh, theo Nghị định
134/CP thì mức bảo lãnh vay vốn nước ngoài cho một tổ chức tín dụng không quá 6
lần vốn tự có của tổ chức đó, nhưng hạn mức trên phải trừ đi số nợ trước chưa trả đến
thời điểm vay mới. Như vậy, muốn tận dụng được hạn mức tín dụng nước ngoài các
Ngân hàng thương mại Việt Nam phải thực hiện tốt khâu hoàn trả. Các khoản vay
nước ngoài của các Ngân hàng thương mại Việt Nam đều do Ngân hàng Nhà nước
trực tiếp kiểm soát và quản lý. Vì vậy, các hồ sơ vay vốn đều phải qua Ngân hàng Nhà
nước xét duyệt, các Ngân hàng thương mại có quyền chủ động tìm kiếm các nguồn
vay từ nước ngoài, qua đó góp phần quan trọng trong việc tài trợ các hoạt động kinh
doanh Ngân hàng.
Tỷ trọng của nguồn tiền vay trong tổng nguồn thường thấp hơn nguồn tiền gửi,
đồng thời các khoản đi vay thường là có thời hạn và quy mô xác định trước nên tạo
thành nguồn ổn định cho Ngân hàng. Khác với nhận tiền gửi, Ngân hàng không nhất
thiết phải đi vay thường xuyên: Ngân hàng chỉ vay lúc cần thiết; Ngân hàng hoàn toàn
20
chủ động quyết định khối lượng vay phù hợp với nhu cầu sử dụng, nguồn vay có thể
không phải chịu dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn hơn nên
lãi suất trả cho tiền vay thường lớn hơn lãi suất trả cho tiền gửi với cùng kì hạn. Các
khoản vay Ngân hàng Nhà nước và vay Ngân hàng khác tuy lãi suất thấp song thường
có thời hạn ngắn, chỉ nhằm đảm bảo thanh toán tức thời khi nhu cầu thanh toán của
khách hàng tăng cao. Vay Ngân hàng Nhà nước phụ thuộc rất lớn vào chính sách tiền
tệ trong từng thời kỳ. Việc vay mượn các Ngân hàng khác trên cùng địa bàn cũng gặp
khó khăn khi nhiều Ngân hàng đang thiếu phương tiện thanh toán. Muốn mở rộng quy
mô vay mượn trên thị trường liên ngân hàng, một Ngân hàng cần vươn tới thị trường
liên Ngân hàng quốc tế với khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
Vay thông qua phát hành các giấy nợ trung và dài hạn đóng vai trị quan trọng
trong việc tạo và gia tăng các nguồn trung và dài hạn ổn định cao cho Ngân hàng.

Ngân hàng có thể sử dụng nguồn này để cho vay các dự án, tài trợ cho trang thiết bị và
bất động sản của doanh nghiệp và người tiêu dùng. Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng
nhất là thu nhập của dân cư và ổn định vĩ mô, sau đến là các kỹ thuật nghiệp vụ của
Ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy nợ và thuận tiện đối với người cho
vay. Mặc dù lãi suất thường cao hơn các nguồn khác, song Ngân hàng vẫn phải sử
dụng phát hành giấy nợ trung và dài hạn khi tiền gửi không đáp ứng được yêu cầu như
ổn định, quy mô đủ lớn trong khoảng thời gian xác định.
1.2.5.3. Nguồn vốn ủy thác và tín thác
Nguồn ủy thác: gồm cả ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác giải ngân, ủy
thác cấp phát,…: Đây là nguồn được hình thành do các tổ chức, cá nhân, ủy thác tiền,
tài sản vào ngân hàng nhờ ngân hàng cho vay, đầu tư, giải ngân vốn. Cùng với sự phát
triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều tổ chức kinh tế xã hội có cùng mục tiêu
phát triển như của Ngân hàng, có nguồn tài chính đã sử dụng mạng lưới Ngân hàng
như các kênh dẫn vốn tới các mục tiêu kết quả là hình thành nguồn ủy thác, làm gia
tăng nguồn vốn cho ngân hàng. Nguồn này khá ổn định, các Ngân hàng thực hiện hộ
khách hàng và hưởng hoa hồng, không phải trả lãi tuy nhiên chi phí để có và duy trì
chúng là rất đáng kể như phải tìm kiếm các chủ đầu tư, tìm hiểu yêu cầu của họ,
nghiên cứu dự án mà họ tài trợ,…
Nguồn tín thác: Không phải tất cả các Ngân hàng đều có năng lực cung cấp
dịch vụ tín thác bởi năng lực này phải được các nhà lập pháp thông qua song phần lớn
các Ngân hàng lớn và trung bình đều có bộ phận tín thác. Bộ phận tín thác thường
cung cấp một lượng rất lớn tiền gửi cho ngân hàng bởi họ quản lí tài sản của khách
hàng trong đó có cả khách hàng là cá nhân, tổ chức. Các hoạt động của phòng tín thác
có thể chịu sự chỉ đạo của khách hàng cũng có thể thay mặt cho khách hàng đưa ra các
quyết định cụ thể ví dụ như lựa chọn tài khoản tiền gửi có lợi nhất cho khách hàng.
Tiền gửi tại phòng tín thác đòi hỏi phải tuyệt đối an toàn và được bảo hiểm giống như
bảo hiểm tiền gửi. Tín thác được coi là một trong những loại hình dịch vụ cần thiết
đem lại lợi nhuận cho khách hàng của ngân hàng song nó thường không đem lại lợi
21
nhuận lớn cho Ngân hàng bởi để có thể cung cấp được dịch vụ tín thác Ngân hàng phải

đầu tư một lượng lớn các cán bộ có trình độ cao, chuyên nghiệp tuy nhiên cùng với sự
phát triển của các dịch vụ Ngân hàng xu hướng tăng cường đánh phí đối với các dịch
vụ, hoạt động kinh doanh tín thác Ngân hàng đã trở thành một nguồn thu phí dịch vụ
ngày càng phổ biến.
Tín thác bao gồm tín thác hiện hữu hay tín thác trợ cấp có thể hủy ngang cho
phép cán bộ tín thác đại diện cho khách hàng hiện đang sống mà không cần luật pháp
phải cho phép, việc này thường giúp khách hàng tránh khỏi những chi phí không nhỏ
trong quá trình thực hiện chúc thư khi họ qua đời hoặc không đủ năng lực pháp lý.
Ngoài ra còn có hình thức tín thác chúc thư để thực hiện di chúc, tín thác không hủy
ngang cho phép tài sản là quà tặng hoặc có thể sử dụng để phân bổ các quỹ nhận được
theo phán quyết của tòa án hoặc theo hợp đồng, tín thác từ thiện ủng hộ các mục tiêu
nhân đạo, tín thác hợp đồng là trường hợp Ngân hàng giữ và quản lý tài sản được sử
dụng để làm vật đảm bảo cho việc phát hành chứng khoán của công ty và sau đó thay
mặt công ty phát hành mua lại toàn bộ chứng khoán khi mãn hạn.
Như vậy, phòng tín thác thực hiện những vai trò và chức năng rất quan trọng
chủ yếu là việc tạo lập mối quan hệ ủy thác với khách hàng, bảo vệ tài sản của khách
hàng, ra các quyết định quản lý tài sản và phân bổ lại tài sản, lập kế hoạch cho các bất
động sản và đảm bảo rằng bất động sản sẽ được chuyển nhượng cho người có quyền
thụ hưởng hợp pháp. Đồng thời, bộ phận tín thác đóng vai trị quan trọng trong việc thu
hút một lượng đáng kể tiền gửi, hơn nữa, nhiều Ngân hàng còn sử dụng phòng tín thác
để tạo ra các quỹ đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho khách hàng tín thác
cũng như cho phép ngân hàng tăng quy mô vốn đầu tư nhanh hơn.
1.2.5.4. Các kênh huy động khác
Các kênh này được hình thành từ nghiệp vụ mua, bán, quản lý tài sản hộ. Khi
Ngân hàng thương mại càng phát triển nghiệp vụ trung gian càng nhiều thì nguồn này
chiếm tỷ trọng càng lớn.
Các kênh khác này thường không lớn, việc gia tăng các kênh này nằm trong chính
sách tăng nguồn thu cho ngân hàng và bị ảnh hưởng rất lớn bởi khả năng thực hiện và mở
rộng các loại hình dịch vụ khác. Vai trò cuả Ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế .
1.2.6. Hiệu quả huy động vốn của NHTM

1.2.6.1. Phân tích chi phí huy động vốn
* Đối với kênh tiền gửi
Giả định rằng các yếu tố khác không đổi, ngân hàng sẽ huy động vốn bằng cách
cung cấp các loại hình gửi tiền có chi phí thấp nhất, hay thu nhập ròng tạo ra từ việc sử
dụng các nguồn vốn tiền gửi này là lớn nhất sau khi đã trừ đi mọi chi phí. Nếu ngân
hàng có thể huy động được nguồn tiền gửi có chi phí thấp nhất và đầu tư vào các tài
sản có mức lãi suất cao nhất, ngân hàng sẽ tối đa được mức chênh lệch lãi suất và tối
22
đa hóa thu nhập. Tuy nhiên, mỗi một nguồn tiền gửi đều có những ưu, nhược điểm
riêng cần phải phân tích.
Đối với tiền gửi giao dịch (Bao gồm cả tiền gửi giao dịch không hưởng lãi và
tiền gửi giao dịch có hưởng lãi) là loại tiền gửi có chi phí thấp nhất mà ngân hàng cung
cấp. Đối với tiền gửi giao dịch ngân hàng thường phải chịu hai loại chi phí chính đó là
chi phí xử lý séc và quản lý tài khoản. Tuy nhiên, việc ngân hàng không phải trả lãi
hay chỉ phải trả một mức lãi suất không đáng kể trên những tài khoản này đã giúp cho
tài khoản giao dịch có mức chi phí thấp hơn đáng kể so với tài khoản tiết kiệm, tài
khoản kỳ hạn và những nguồn vốn khác. Hơn nữa, sau này khi công nghệ ngân hàng
phát triển chi phí xử lý séc đã giảm đi rất nhiều bởi séc điện tử được đưa vào sử dụng
cho phép lưu trữ được nhiều hơn, xử lý séc nhanh hơn với chi phí thấp hơn. Mức chi
phí cho một đồng vốn huy động tiền gửi giao dịch có thể tương đương với chi phí huy
động cho một đồng tiền gửi phi giao dịch nhưng mức thu phí dịch vụ cao hơn đã giúp
tiền gửi giao dịch có mức chi phí ròng thấp hơn tiền gửi kỳ hạn. Khi chúng ta sử dụng
tiền gửi để cho vay hay đầu tư độ chênh lệch giữa lợi nhuận tiền gửi giao dịch và tiền
gửi phi giao dịch là khoảng 40% đối với một ngân hàng trung bình. Phí về dịch vụ tài
khoản giao dịch nói chung là bù đắp khoảng 1/3 chi phí mà ngân hàng phải chịu.
Ngược lại, phí về dịch vụ đối với tiền gửi kỳ hạn chỉ góp một phần không đáng kể vào
việc bù đắp chi phí. Hơn nữa, chi phí trả lãi bình quân cho một đồng tiền gửi tiết kiệm
cao hơn ba lần so với chi phí trả lãi liên quan đến một đồng tiền gửi giao dịch.
Xét về mặt chi phí huy động đối với ngân hàng thì tiền gửi phi giao giao dịch
gồm tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi có kỳ hạn, các loại chứng chỉ tiền gửi xếp sau tiền gửi

giao dịch, nhìn chung tiền gửi tiết kiệm có chi phí tương đối cao vì nó rất nhạy cảm
với lãi suất song trong nhiều trường hợp ngân hàng lại không phải in ấn các bản báo
cáo hàng tháng cho khách hàng nên lại tiết kiệm được chi phí. Tuy nhiên, đối với tài
khoản tiết kiệm theo sổ, khách hàng cũng cố gắng sử dụng nó như tài khoản giao dịch
bằng cách tiến hành nhiều hoạt động rút, gửi tiền và các ngân hàng cố gắng hạn chế
tốc độ quay vòng đó bằng cách quy định giới hạn số lần rút tiền và thông qua việc thu
phí. Chắc chắn rằng chi phí hoạt động cho tiền gửi giao dịch sẽ cao hơn do yêu cầu về
nhân công và thiết bị cao phục vụ cho việc xử lý giao dịch trong khi đó chi phí này là
rất nhỏ đối với tiền gửi tiết kiệm. Sự khác biệt quan trọng trên phương diện lợi nhuận
23
cho ngân hàng chính là lệ phí đối với dịch vụ mà tài khoản giao dịch mang lại. Điều
này giải thích tại sao trong những năm gần đây khi phải đối mặt với vấn đề chi phí
hoạt động ngày càng tăng, ngân hàng đã tăng giá đối với tài khoản giao dịch, buộc
người gửi tiền phải trả một tỷ lệ cao hơn cho các chi phí mà họ gây ra khi ký phát séc.
Về quy mô, tiền gửi phi giao dịch ít biến động hơn so với tài khoản tiền gửi
giao dịch tuy vậy chi phí trả lãi cao hơn nhiều so với tiền gửi giao dịch trong khi chi
phí duy trì và quản lý đối với tài khoản này nói chung là thấp. Trong những năm gần
đây, cùng với yêu cầu của công chúng về các loại tài khoản tiền gửi mang lãi suất cao,
sự gia tăng của mức độ phi quản lý hóa đã làm cho tỷ trọng khoản tiền gửi phi giao
dịch trên tổng nguồn huy động của các ngân hàng ngày càng tăng.
* Đối với kênh tiền vay
Đối với ngân hàng nguồn tiền vay thường chiếm tỷ trọng nhỏ nhưng ngân hàng
có thể chủ động quyết định quy mô, thời hạn tuỳ theo nhu cầu của mình. Nguồn tiền
vay không cần phải dự trữ bắt buộc, không cần bảo hiểm tiền gửi, không cần chi phí
để duy trì, quản lý nhưng lãi suất lại cao nên chi phí huy động nguồn này rất cao, cao
hơn huy động từ nguồn tiền gửi bù lại thì tính ổn định của nguồn tiền này cũng rất cao.
Trong trường hợp NHTM đi vay từ Ngân hàng Trung ương thì có thể lãi suất
ưu đãi hơn nhưng thời hạn, quy mô của món vay đó lại tuỳ thuộc vào chính sách tiền
tệ mà Ngân hàng trung ương đang theo đuổi. Nếu đi vay từ TCTD khác thì ngân hàng
hoàn toàn có thể chủ động với món vay này song lãi suất lại cao và thường là thời hạn

ngắn.
Khi thị trường tiền tệ liên ngân hàng phát triển ngân hàng có thể đi vay bằng
cách phát hành các giấy nợ trung và dài hạn để tạo lập nguồn vốn trung và dài hạn cho
mình. Tuy nhiên, muốn mở rộng quy mô vay trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng
ngân hàng cần phải nâng cao khả năng phân tích rủi ro lãi suất và rủi ro hối đoái.
* Đối với các kênh huy động khác
Để huy động được các nguồn này ngân hàng không phải trả lãi như với các
khoản vay hay khoản tiền gửi nhưng để thu hút và duy trì được thì ngân hàng cần phải
đầu tư về nhân sự, cơ sở vật chất,…nâng cao tiện ích phục vụ của mình cũng như chi
phí tìm kiếm, phân tích, quản lý,…
24
1.2.6.2. Đảm bảo đủ vốn để NH thực hiện nhiệm vụ kinh doanh theo từng giai
đoạn
- Vốn huy động phải có sự tăng trưởng ổn định: Vốn huy động tăng trưởng ổn
định theo thời gian sẽ đáp ứng nhu cầu tín dụng, cũng như hoạt động kinh doanh khác
ngày càng tăng của ngân hàng. Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn
nhưng không ổn định thường xuyên, có khả năng khi một lượng tiền lớn bị rút ra thì sẽ
ảnh hưởng đến lượng vốn dành cho vay và đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn sẽ không cao,
ngân hàng thường xuyên phải gặp khó khăn trong vấn đề thanh khoản.
- Cơ cấu nguồn vốn huy động phù hợp với cơ cấu sử dụng vốn về kỳ hạn, loại
tiền: Xuất phát từ kế hoạch sử dụng vốn để có chiến lược huy động vốn phù hợp. Huy
động vốn đảm bảo phù hợp với sử dụng vốn cả về loại tiền, kỳ hạn, lãi suất sẽ góp
phần đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.
- Chi phí huy động vốn bình quân hợp lý: Việc tính toán chi phí huy động vốn
rất quan trọng đối với ngân hàng bởi:
Thứ nhất, ngân hàng bao giờ cũng cố gắng tìm kiếm cho mình một tổ hợp các
kênh huy động vốn khác nhau trên thị trường với mức chi phí thấp nhất. Việc giả thiết
coi tất cả các yếu tố khác là như nhau thì ngân hàng nào có mức chi phí huy động vốn
thấp nhất mà không phải chấp nhận mức rủi ro cao hơn thì ngân hàng đó sẽ có mức lợi
nhuận cao hơn.

Thứ hai, việc tính toán chính xác một cách tương đối chi phí huy động vốn là
yếu tố cơ bản để xác định mức lợi nhuận mà ngân hàng cần thu được từ các tài sản
sinh lời của mình, căn cứ vào chi phí, ngân hàng định giá cho mỗi sản phẩm dịch vụ
mà mình cung ứng cho khách hàng.
Thứ ba, việc xác định chi phí huy động vốn sẽ giúp cho ngân hàng chủ động
trong kinh doanh, giảm được các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động ngân hàng: rủi ro
thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro vốn,…
Có hai cách tính lãi suất đầu vào bình quân:
Lãi suất đầu vào bình quân Tổng số dư nguồn thứ i * Lãi suất huy động của nguồn
thứ i Tổng số dư các nguồn vốn
Hoặc:
25
=

×