Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN Các biện pháp phòng chống béo phì cho trẻ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 24 trang )

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
ĐỀ TÀI:
"CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG BÉO PHÌ CHO TRẺ”
I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Cùng với sự phát triển chung của xã hội, mỗi người chúng ta ngày nay đều có cuộc
sống đầy đủ sung túc hơn. Chính vì vậy trẻ em ngày nay được hưởng sự chăm sóc đặc
biệt của gia đình và toàn xã hội, nhiều người cho rằng có điều kiện cho con ăn nhiều là
tốt; con mình càng mập mạp, càng bụ bẫm thì càng tốt hơn, nên đến khi cha mẹ phát hiện
con mình thừa cân quá nhiều thì đã muộn. Trong lúc mức độ báo động và cần thiết sự
quan tâm của xã hội đối với trẻ thừa cân béo phì hiện nay được ưu tiên hàng đầu.
Là một cán bộ phụ trách mãng công tác bán trú của một trường mầm non tôi đã suy
nghĩ và có nhận thức như sau: Giáo dục mầm non là một bộ phận quan trọng trong sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, là tiền đề cho sự phát triển toàn diện về đức, trí, thể mỹ của
con người. Sự phát triển của con người bắt đầu từ những ngày thơ ấu; đây là điểm nút
góp phần hình thành nhân cách cho trẻ. Do vậy, bậc học mầm non phải có nhiệm vụ phát
triển toàn diện về mọi mặt; trong đó chăm sóc sức khỏe mầm non là một điều kiện cần
thiết. Bởi vì, trẻ em lớn lên thông qua 2 quá trình tăng trưởng và phát triển, hai quá trình
này tuy khác nhau, nhưng có mối quan hệ phụ thụôc vào nhau, tác động qua lại với nhau.
Nếu một đứa trẻ sức khỏe tốt là cơ sở cho sự phát triển về nhân cách. Do đó, nhiệm vụ
trọng tâm của trường mầm non là phải kết hợp hài hòa giữa giáo dục nâng cao sức khỏe
với phát triển các mặt vận động, tâm lý của trẻ. Chăm sóc sức khỏe cho trẻ, đảm bảo các
điều kiện về chế độ dinh dưỡng, chế độ sinh hoạt hàng ngày như: ăn, ngủ, vệ sinh thân
thể, vệ sinh môi trường thoáng mát, an toàn đối với trẻ, để phòng chống các loại vi khuẩn
và khám bệnh định kỳ cho trẻ; gắn với giáo dục tâm lý, tình cảm, bồi dưỡng năng lực
nhận biết về thế giới xung quanh, về các biện pháp vận động thể lực cho trẻ. Sức khỏe
của trẻ em phụ thụôc vào rất nhiều yếu tố như chế độ dinh dưỡng, phòng bệnh, di truyền,
môi trường … trong đó, chế độ dinh dưỡng là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp tới
sự phát triển của trẻ em; thiếu ăn, ăn không đủ chất, ăn không hợp lý dẫn đến trẻ suy dinh
dưỡng và ngược lại nếu cho trẻ ăn quá mức cần thiết, ăn quá nhiều thức ăn, tỷ lệ mỡ và
thức ăn béo trong khẩu phần ăn quá cao, chế độ ăn ít thay đổi, hoạt động thể lực ít cũng
dẫn đến trẻ thừa cân, béo phì … đều gây tác hại cho sức khỏe của trẻ sau này.


Từ nhận thức “Sức khỏe trẻ em hôm nay là sự phồn vinh của đất nước ngày mai”,
sức khỏe ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực trí tuệ, là yếu tố quyết định đến sự phát triển
của trẻ sau này.
Sức khỏe là một yếu tố không thể thiếu của con người. Để thế hệ trẻ được khỏe
mạnh, thông minh sáng tạo, có thể đáp ứng được yêu cầu đổi mới của đất nước trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì việc nuôi dạy trẻ là yêu cầu rất lớn.
Hiện nay tình trạng thừa cân và béo phì ở trẻ em đang tăng lên với một tốc độ báo
động không những ở các nước phát triển mà ở cả những nước đang phát triển. Béo phì
thường đi kèm theo tỷ lệ bệnh tật do các bệnh tăng huyết áp, tiểu đường, viêm xương
khớp… trẻ em béo phì một yếu tố nguy cơ. Béo phì ảnh hưởng đến sự linh hoạt, sáng tạo,
sự phát triển của trẻ.
Béo phì là trình trạng cơ thể tích tụ quá nhiều mỡ do sự thừa năng lượng trong
khẩu phần ăn hàng ngày so với nhu cầu tiêu hao của cơ thể. Đối với trẻ béo phì đều trở
thành người lớn béo phì, nên đều có nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, bệnh huyết áp,
bệnh viêm khớp, bệnh tiểu đường … Trẻ em béo phì thường xuyên có cảm giác kém cỏi
do chứng hạn chế và bị cách ly với các bạn khác, ảnh hưởng tới sinh hoạt và học tập, trẻ
béo phì thường được người khác nựng nịu, dòm ngó, trẻ tự cho mình là “xấu xí” và có
mặc cảm, có tác hại cho trẻ về nhiều mặt.
Sự gia tăng tình trạng béo phì ở trẻ em đòi hỏi chúng ta phải có một sự quan tâm và
hành động kịp thời. Xác định được tầm quan trọng đó và thực trạng hiện nay, song hành
với trẻ suy dinh dưỡng thì nhà trường hiện đang phải thực hiện chế độ chăm sóc trẻ béo
phì và có nguy cơ béo phì
Với đề tài “Thực hiện một số biện pháp phòng chống và điều trị trẻ béo phì” đã
thực hiện ở năm học 2007-2008 thấy có một số kết quả rất khả quan, và trước thực trạng
hiện nay qua khảo sát đầu năm học 2008- 2009 cũng vậy, ở trường trẻ có nguy cơ béo phì
và có trẻ đã bị béo phì, nên tôi đã chọn đề tài:
“Một số biện pháp phòng chống béo phì ở trẻ mầm non”
II- THỰC TRẠNG Ở TRƯỜNG:
- Trường mầm non Hoa Hồng là một trường bán trú, nên công tác chăm sóc- nuôi
dưỡng- giáo dục là một nhiệm vụ trọng tâm của nhà trường. Xác định được tầm quan

trọng đó và thực trạng hiện nay ở trường trẻ có nguy cơ béo phì và béo phì. Bản thân là
Hiệu phó phụ trách công tác bán trú, tôi không thể nào không quan tâm đến vấn đề này,
và luôn trăn trở cần tìm nhiều biện pháp chăm sóc trẻ tốt hơn và làm sao để trẻ không bị
thừa cân béo phì, phát triển một cách toàn diện cả về trí lực và thể lực.
* Thuận lợi:
- Trong những năm gần đây nhờ sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà nước cũng
như của xã hội đối với ngành Giáo dục nói chung và bậc học mầm non nói riêng đã có
bước chuyển biến đáng kể về điều kiện cơ sở vật chất cũng như trang thiết bị dạy và học.
- Đội ngũ cán bộ- giáo viên- nhân viên nêu cao tinh thần trách nhiệm, nhịêt tình
trong công tác nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục trẻ. 100% giáo viên được chuẩn hoá
theo quy định và tay nghề từng bước được nâng lên.
- Tất cả giáo viên ở trường được tham gia qua các lớp học tập huấn nghiệp vụ về
chăm sóc sức khỏe, vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ do ngành Giáo dục tổ chức.
- Đa số phụ huynh có ý thức, trách nhiệm hơn trong việc giáo dục trẻ tại gia đình.
Biết phối hợp giữa nhà trường và gia đình để chăm sóc trẻ tốt hơn.
* Khó khăn:
- Đội ngũ cấp dưỡng trong trường chưa qua lớp đào tạo nấu ăn, chủ yếu thông qua
kinh nghiệm hoạt động thực tiễn là chính, nên việc tiếp thu, nắm bắt qua phổ biến, tập
huấn về chế độ dinh dưỡng của nhà trường có phần còn hạn chế. Mặt khác, đa số các chị
cấp dưỡng lớn tuổi nên việc tham gia học tập kiến thức nuôi dạy trẻ có nhiều khó khăn
nhất định.
- Một bộ phận phụ huynh ở trường thường hay cưng chiều con quá mức trong việc
ăn uống, cha mẹ dùng những thực phẩm không thích hợp để làm yên những đứa trẻ hiếu
động, quấy khóc, hoặc dùng thức ăn mà trẻ yêu thích như: (kẹo, bánh, Snack, Socola …).
* Khảo sát thực trạng:
- Đầu năm học 2007- 2008, tôi chỉ đạo và phát biểu đồ tăng trưởng cho giáo viên
từng nhóm, lớp lập biểu đồ tăng trưởng cân đo vào ngày 15/9/2007. Sau đó, tôi kiểm tra
biểu đồ tăng trưởng và dựa vào bảng đánh giá chiều cao, cân nặng để đánh giá trẻ có suy
dinh dưỡng và trẻ có béo phì hay không? và nắm số liệu, qua khảo sát kết quả như sau:
+ Có 8 cháu bị thừa cân, béo phì.

+ Có 10 cháu nguy cơ bị thừa cân- béo phì.
- Năm học 2008-2009 cũng vào ngày 15/9/2008 cho giáo viên từng nhóm, lớp lập
biểu đồ tăng trưởng cân đo. Sau đó, tôi kiểm tra biểu đồ tăng trưởng và dựa vào bảng
đánh giá chiều cao, cân nặng để đánh giá trẻ có suy dinh dưỡng và trẻ có béo phì, cập
nhật kết quả và phân loại sức khỏe trẻ. Qua số liệu thực tế:
+ Có 13 cháu bị thừa cân, béo phì.
+ Có 12 cháu nguy cơ bị thừa cân- béo phì.
- Qua số liệu qua khảo sát đầu năm học 2008-2009 cho thấy số trẻ béo phì và có
nguy cơ béo phì tăng hơn so với năm học trước, là do số cháu mới nhập học vào trường,
đồng thời cũng có một số trẻ đã học ở trường năm cũ và đã được trường thực hiện biện
pháp phòng chống trẻ béo phì đã có tốc độ giảm dần, nhưng 3 tháng hè trẻ ở nhà với cha
mẹ khi nhập học vào trường, tháng 9/2009 cân đo thì thấy trẻ tăng cân quá mức độ. Vì
thế tôi phải tìm hiểu nguyên nhân do đâu? Vì sao?
- Trước hết tôi gặp trực tiếp cha mẹ trẻ hỏi về tình hình 3 tháng hè cháu ở nhà về
việc chăm sóc trẻ như thế nào, sinh hoạt ngày của trẻ ra sao … và nhất là chế độ ăn uống
của trẻ, thì biết được là do phụ huynh quá nuông chiều con, thậm chí cho con ăn bánh kẹo
nhiều, uống nước ngọt, ăn không đúng thời gian, ăn cơm quá nhiều, ít tập thể dục, xem ti
vi phim họat hình nhiều…, có nhiều phụ huynh còn cho rằng ở trường trẻ nghe lời cô
giáo nên việc học tập, ăn uống của trẻ có nề nếp, còn về nhà trẻ không lời bố mẹ nên rất
khó dạy con được.
- Xuất phát từ thực trạng trên, tôi suy nghĩ cần tìm nhiều giải pháp tiếp tục thực
hiện biện pháp phòng chống và điều trị trẻ béo phì trong năm học này.
III- BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG VÀ ĐIỀU TRỊ TRẺ BÉO PHÌ VÀ CÓ
NGUY CƠ BÉO PHÌ:
1- Trách nhiệm của Hiệu phó bán trú:
Sau khi nắm tình hình số trẻ béo phì, tôi tổng hợp số liệu báo cáo với Hiệu trưởng
và có kế hoạch đề ra một số biện pháp như sau:
- Họp Hội đồng thông báo lại tình hình quả kết quả cân đo ngày 15/9, ở khối mầm,
chồi, lá cho giáo viên 3 khối nắm lại danh sách trẻ cũ và trẻ mới tuyển vào bị béo phì và
có nguy cơ béo phì. Sau đó tôi phổ biến biện pháp thực hiện đối với những trẻ bị béo phì

và có nguy cơ béo phì hướng dẫn cấp dưỡng nấu ăn riêng và giáo viên tổ chức cho trẻ ăn
theo thực đơn riêng …; đồng thời phải phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để có chế độ ăn
phù hợp cho trẻ tại gia đình, giáo viên chú ý thường xuyên cho trẻ tham gia các hoạt động
thể dục, thể thao.
- Trên cơ sở được sự thống nhất của Ban giám hiệu, hội đồng nhà trường, tôi đã tổ
chức họp phụ huynh thông báo danh sách những trẻ béo phì và có nguy cơ bị béo phì cho
phụ huynh biết; đồng thời tổ chức họp riêng những phụ huynh có con bị nguy cơ béo phì
và béo phì để phối hợp một số biện pháp thực hiện trong năm học.
- Tôi nghĩ muốn biện pháp này có kết quả, cần phải có sự kết hợp với nhiều đối
tượng khác để cùng nhau chăm sóc trẻ thì mới đạt hiệu quả cao, nhất là những người
đang làm công tác nuôi dưỡng trẻ cần phái có cái tâm thật sự tốt, thật sự yêu nghề, và
lòng kiên nhẫn thì mới thực hiện được.
- Tôi phải thường xuyên sưu tầm những tranh ảnh, tài liệu, trên mạng, trang Web
cập nhật thông tin để phổ biến cho giáo viên nắm và tuyên truyền cho phụ huynh biết.
* Có kế hoạch thay đổi dần chế độ ăn uống cho trẻ béo phì và có nguy cơ béo
phì bằng cách:
- Giảm năng lượng đưa vào khẩu phần ăn từng bước một, mỗi tháng giảm khoảng
50 Cala so với khẩu phần ăn trước đó cho đến khi đạt năng lượng tương ứng, đặc biệt là
giảm chất béo, đường ngọt, tăng chất xơ trong các bữa ăn, nhưng vẫn đảm bảo cho trẻ
được ăn no, đủ chất và khỏe mạnh thật sự.
- Đối với những trẻ béo phì rồi thì phải hạn chế dầu mỡ trong bữa ăn chứ không
phải là cấm ăn dầu mỡ. Vì dầu mỡ ngoài cung cấp năng lượng còn là dung môi hòa tan
các loại vitamin tan trong dầu như Vitamin A phòng bệnh khô mắt giúp trẻ phát triển thể
lực, Vitamin D chống bệnh còi xương, Vitamin K,E tham gia vào nhiều chức phận trong
cơ thể. Vì thế, khẩu phần ăn của những trẻ này tôi giảm bớt dầu, mỡ, cơm bằng cách
thêm rau, củ, quả, ít ngọt để đảm bảo các cháu vẫn có cảm giác no mà không thừa năng
lượng. Thường xuyên thay đổi thực phẩm, kết hợp nhiều loại thực phẩm, món ăn hỗn hợp
để trẻ ăn nhiều rau xanh, nhưng rất chú ý đến 10 cặp thực phẩm xung khắc và thường
xuyên thay đổi cách chế biến các món ăn, thực đơn cho trẻ để tránh béo phì.
- Vì thế thực đơn tôi lên riêng cho những trẻ béo phì vẫn cho trẻ ăn đầy đủ chất

đạm, Vitamin và muối khoáng. Ăn cân đối giữa đạm động vật và đạm thực vật. Cho ăn
các loại thịt nạc, tăng cường sử dụng các thức ăn ít béo có sẵn ở địa phương, rẻ tiền và
chất lượng như: cá, tôm, tép, cua, đậu phụ, lạc vừng, … nhưng mới đầu chỉ thay đổi từ từ
để trẻ quen dần và phân công cấp dưỡng nấu ăn riêng cho trẻ béo phì và hướng dẫn cấp
dưỡng cách chế món ăn, dù trẻ ăn theo chế độ riêng nhưng vẫn cảm thấy thích thú trong
bữa ăn.
- Đồng thời chỉ đạo giáo viên lưu ý cho trẻ hạn chế ăn các loại bánh kẹo, đường,
mật, kem, sữa đặc có đường, sữa béo (vì cung cấp nhiều năng lượng). Nhưng thay vào đó
tôi cho trẻ uống sữa bột tách bơ, sữa đậu nành, sữa chua.
Tôi kiểm tra thường xuyên giờ ăn của trẻ xem khi thay đổi chế độ ăn thì trẻ ăn có
ngon miệng không, giáo viên, cấp dưỡng thực hiện như thế nào để phát hiện kịp thời và
uốn nắn những sai lệch xảy ra.
* Phổ biến chỉ đạo cho giáo viên nên tăng cường cho trẻ hoạt động thể dục, thể
thao bằng cách:
- Đối với trẻ béo phì, điều quan trọng là vận động để tiêu hao năng lượng chứ
không phải là nhịn ăn để giảm béo bằng cách khuyến khích trẻ tham gia các môn thể dục
thể thao như: giáo viên tổ chức trong các giờ chơi cho những trẻ này có thể chơi những
trò chơi như: chạy, nhảy dây, đá bóng, đi bộ, trò chơi dân gian (cướp cờ, mèo đuổi chuột,
trốn tìm …). Do vậy, tôi chỉ đạo giáo viên tổ chức các họat động vui chơi ngoài trời. Hạn
chế xem tivi, video. Nhưng phải chú ý sinh hoạt, vui chơi phải điều độ, thể dục thể thao,
lao động có giới hạn, không quá sức của trẻ. Khuyến khích trẻ tham gia lao động tự phục
vụ: tự rữa mặt, rữa tay … cô không nên bắt trẻ ngồi học quá nhiều, đồng thời phải thương
yêu, khuyến khích trẻ, giải thích cho những trẻ khác trong lớp hiểu đề cùng giúp đỡ, động
viên trẻ béo phì, tránh chọc ghẹo, chê bai bạn.
- Qua khảo sát có 25 cháu bị béo phì và nguy cơ béo phì nhưng ở các khối mầm và
chồi, lá tôi đã phân công cho giáo viên kết hợp dẫn trẻ đi bộ với (hình thức giống như đi
tham quan) hàng ngày như, ví dụ: tôi phân công tuần 1 giáo viên phụ khối mầm dẫn trẻ đi
bộ, tuần 2 giáo viên phụ lớp chồi, tuần 3 giáo viên phụ lớp lá dẫn trẻ đi bộ 15’ vào giờ
đón trẻ buổi sáng cứ như thế phân công xoay vòng.
* Đối với những trẻ có nguy cơ bị béo phì thì tôi có biện pháp như sau:

- Trẻ em cần được nuôi dưỡng một cách khoa học để phát triển đúng quy luật. Vì
vậy, phải giữ chế độ ăn hợp khoa học, không ăn quá nhiều chất béo, chỉ ăn đủ lượng
protein, đủ Vitamin và chất khoáng, tăng tỷ lệ chất xơ, khoai củ, đậu đỗ, hạn chế ăn
đường, thay đổi các món ăn thường xuyên trong tuần.
- Do vậy, tôi chỉ đạo giáo viên phải thường xuyên tổ chức cho trẻ luyện tập thể dục
thể thao, vui chơi, hoạt động, nhưng phải phù hợp với thể lực. Chú ý giáo viên theo dõi
cân nặng hàng tháng, phát hiện sớm nguy cơ thừa cân của trẻ để có biện pháp phòng ngừa
và điều trị trẻ béo phì kịp thời.
* Làm tốt công tác phối hợp giữa nhà trường và gia đình:
Đây là việc làm nhà trường xác định có tầm quan trọng rất lớn để đem đến hiệu quả
trong việc chăm sóc và phòng ngừa trẻ béo phì.
- Do vậy, tôi chỉ đạo hàng ngày giáo viên thường xuyên trao đổi tình hình trẻ ở tại
trường trong giờ đón trả trẻ, kết hợp tuyên truyền giáo dục dinh dưỡng cho trẻ béo phì ở
cả gia đình và nhà trường.
- Cho phụ huynh biết béo phì là gì? Tác hại và nguy cơ béo phì? Nguyên nhân béo
phì là do đâu? Cách điều trị và phòng ngừa.
- Cho phụ huynh biết cho trẻ ăn hạn chế các loại bánh kẹo, đường, mật, kem, sữa
đặc có đường, sữa béo (vì cung cấp nhiều năng lượng), thay vào đó cho trẻ uống sữa bột
tách bơ, sữa đậu nành, sữa chua.
- Bản thân tôi cũng như giáo viên thường xuyên gặp phụ huynh trao đổi với phụ
huynh về tình hình của trẻ sau mỗi lần cân đo, kiểm tra sức khỏe trẻ.
* Điều trị cho trẻ bị béo phì:
Trước hết, tôi tuyên truyền phổ biến cho giáo viên biết điều trị béo phì rất khó khăn
phải kiên trì, thời gian điều trị không chỉ kéo dài hàng tháng, có khi là hàng năm thì mới
đạt được kết quả.
Cơ thể trẻ em luôn phát triển và tăng trưởng, vì vậy trong điều trị béo phì ở trẻ em
không được đặt ra vấn đề giảm cân mà mục tiêu điều trị là giảm tốc độ tăng cân hay tránh
tăng cân để đảm bảo sự phát triển chiều cao và cân nặng cân đối.
2- Đối với giáo viên:
Từ đó giáo viên phải thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của nhà trường cũng như biện

pháp của Hiệu phó bán trú đã triển khai.
Năm đầu tiên qua nắm bắt thông tin từ phía phụ huynh giáo viên thấy đối với
những trẻ béo phì thì có những mặc cảm như sau:
Ví dụ: Lớp có bạn Minh bị béo phì, trẻ thường chọc ghẹo bạn gọi là bạn Minh ù
hoặc Minh béo …. đối với những trẻ lớp mầm không có suy nghĩ gì, các cháu chưa biết
gì đối với tên gọi của mình. Nhưng đối với trẻ lớp chồi, lá đã biết xấu hổ khi bị bạn trêu
chọc với những tên gọi gán ghép là sẽ phản ứng ngay như là thưa cô giáo, hay đánh nhau
… nhưng có trẻ về thưa với cha mẹ là ở trường bạn bạn chọc con, gọi cái tên như thế.
Rồi có những biểu hiện không muốn ăn, hoặc nhịn đói không ăn, hoặc nói là con không
ăn vì sợ mập bạn chọc, không chơi cùng con … Chính vì giáo viên làm tốt công tác phối
hợp cho nên có những phụ huynh thường hay trao đổi những thông tin này với cô giáo.
Cho nên năm đầu tiên cô rất khổ tâm trong vấn đề này, từ đó giáo viên có sự trao đổi
thông tin bàn bạc cùng tôi để có biện pháp thích hợp thực hiện. Sau đó cô phải giải thích
cho các bạn cùng biết và khuyên các bạn không nên chọc ghẹo bạn, và dần dần trẻ không
còn chọc ghẹo các bạn béo phì với những cái tên gán ghép như thế, và các bạn béo phì
cũng không cám thấy mình là mập, hay xấu.
Tôi chỉ đạo giáo viên không được bắt trẻ nhịn ăn, hoặc ăn quá ít, vì như thế sẽ làm
cho trẻ mệt mỏi, luôn luôn buồn ngủ, học hành kém, sức đề kháng của cơ thể giảm sút, sẽ
dẫn đến bệnh tật. Như vậy nên cho trẻ ăn uống cho vừa đủ. Cho nên nguyên tắc chính
điều trị béo phì ở trẻ em là điều chỉnh chế độ ăn hợp lý kết hợp với các hoạt động thể lực.
Việc điều trị béo phì cho trẻ khác người lớn, không can thiệp phẩu thuật, không
dùng các loại thuốc giảm béo cho
trẻ.
* Tạo thói quen cho trẻ ăn
uống đúng chế độ:
- Cho giáo viên biết để điều trị và
dự phòng trẻ thừa cân béo phì một
cách có hiệu quả trước hết cần hiểu rõ do đâu mà bị mập. Hiện tượng thừa cân béo phì
xảy ra khi năng lượng tiêu hao. Một chế độ ăn nhiều năng lượng (thường là nhiều chất
béo), ít vận động dễ dẫn đến thừa cân béo phì. Các yếu tố nội tiết, chuyển hóa và gia đình

cũng liên quan đến tình trạng béo phì của trẻ. Để điều chỉnh chế độ ăn uống, bắt các cháu
ăn theo chế độ riêng không phải là chuyện dễ dàng, đòi hỏi cô giáo phải kiên trì, nhẹ
nhàng giảng giải cho trẻ mỗi khi đến giờ ăn.
- Qua kiểm tra giờ ăn nắm tình hình từ phía giáo viên tôi được biết một số cháu
năm học 2007- 2008 còn quen với nề nếp, sinh hoạt và thực đơn đã ăn nên việc cho trẻ
tiếp tục ăn theo chế độ ăn riêng không có gì khó khăn, nhưng đối với những trẻ mới tuyển
vào năm học này thì gặp rất nhiều khó khăn trong giờ ăn, vì thế tôi chỉ đạo giáo viên phải
hết sức quan tâm động viên, khuyến khích trẻ ăn theo chế độ mới.
- Chỉ đạo giáo viên trong các bữa ăn giáo viên khuyến khích trẻ ăn nhiều rau
xanh, hoa quả ít ngọt vì nhóm thức ăn này ngoài cung cấp vitamin, muối khoáng còn có
tác dụng điều hòa sự bài tiết của cơ thể, chống táo bón, phòng ngừa xơ mỡ động mạch (vì
có nhiều chất xơ là xenlulozơ). Chú ý bữa ăn của trẻ xếp riêng các cháu thừa cân và béo
phì để dễ dàng thực hiện chế độ ăn hợp lý cho các cháu, cho trẻ ăn đúng thời gian quy
định Tạo thói quen cho trẻ ăn uống điều độ, theo đúng chế độ của trẻ, không quá no,
không được bỏ bữa, không để trẻ đói. Đối với biện pháp này năm đầu rất khó khăn cho
giáo viên, vì thực tế những trẻ thích ăn cơm nhiều hơn, nhưng với sự nhiệt tình của cô
động viên khuyến khích dần dần trẻ cũng quen với thực đơn theo chế độ dành cho mình.
- Chỉ đạo giáo viên nghiêm túc thực hiện chế độ sinh hoạt một ngày của trẻ, và đối
với trẻ béo phì và có nguy cơ béo phì thực hiện đúng thời gian cho các hoạt động theo
quy định có sự giám sát chặt chẽ của Ban giám hiệu nhà trường có như vậy tôi đã tạo cho
trẻ được một thói quen tốt giờ nào việc ấy.
- Hàng tháng vào ngày 15 giáo viên tổ chức cân đo những trẻ béo phì để theo dõi
mức độ phát triển của trẻ. Sau đó, tôi kiểm tra lại xem có đúng thực chất hay không? và
có một kế hoạch riêng đối với những trẻ béo phì về cách theo dõi cân đo hàng tháng.
3- Đối với cấp dưỡng:
Phải thực hiện nghiêm túc sự chỉ đạo của nhà trường cũng như biện pháp Hiệu phó
bán trú triển khai.
- Phổ biến cho cấp dưỡng nấu ăn đảm bảo đúng giờ, biết cách khi chọn thực phẩm
phải tươi ngon, không có chất kích thích, chất xúc tác, rau ngon đảm bảo vệ sinh an toàn
thực phẩm. Đúng như vậy hoa quà là một thức ăn vô cùng quan trọng nó góp phần tăng

sức đề kháng cho cơ thể, cung cấp một số vitamin cần thiết giúp cơ thể hấp thu được
nhiều loại thức ăn khác nhau. Tuy nhiên, để rau quả thực sự có tác dụng cho cơ thể ta cần
phải chú ý đến cách chế biến và thời gian ăn các loại quả:
Ví dụ: Khi ta chế biến các loại rau củ cần phải đảm bảo còn đủ lượng vitamin cần
thiết cho đến lúc trẻ ăn
Ví dụ: Ta không xào giá đậu với gan lợn vì sẽ mất hết chất tươi của gía và các chất
bổ trong gan lợn cũng bị phân hủy nhiều
Ví dụ: Hoa quả nên ăn trước bữa ăn thì hoa quả sẽ có tác dụng trực tiếp trong quá
trinh tiêu hóa thức ăn sau này của cơ thể.
Bổ sung gia vị cho trẻ như muối mì chính 6g/ngày nếu trẻ tăng huyết áp chỉ dùng
4g/ngày:
- Gia vị là nguồn thực phẩm không thể thiếu được trong mỗi bữa ăn hàng ngày của
chúng ta. Một bữa ăn ngon là ta biết kết hợp các loại gia vị vào thức ăn cho phù hợp từ đó
sẽ kích thích được các giác quan khứu giác, vị giác, thị giác … và bữa ăn của ta hấp dẫn
hơn. Nhưng đối với trẻ thừa cân, béo phì thì việc sử dụng gia vị là cả vấn đề quan trọng.
Đa số trẻ thừa cân thường ăn mặn hơn so với những trẻ khác nên khi chế biến thức ăn chỉ
nên dừng lại ở mức độ 6g muối, mì chính/ngày là đủ.
- Chỉ đạo tổ nuôi nấu riêng thức
ăn cho những trẻ thừa cân va
béo phì, trước khi cho trẻ ăn
phải nếm thử thức ăn xem có đủ
đậm, ngọt chưa như thế mới có
thể điều chỉnh kịp thời lượng gia
vị từ các bữa ăn sau. Đồng thời
những nội dung này tôi cũng
tuyên tuyền cho phụ huynh biết
để có cách chế biến, nấu ăn cho trẻ phù hợp nhằm đẩy mạnh công tác phối hợp giữa nhà
trường và gia đình ngày càng đạt kết quả tốt vì mục tiêu chính là cùng nhau chăm sóc sức
khỏe cho trẻ phát triển toàn diện.
Sau đây là một số thực đơn mà tôi đã áp dụng thực hiện trong thời gian qua:

- Thực đơn: - Canh rau ngót nấu cua
- Thịt sốt cà chua
- Cháo thập cẩm
- Thực đơn: - Thịt bò hầm hạt sen
- Rau, củ nấu xương
- Cháo thịt của quả
- Thực đơn: - Canh chua nấu chả cá
- Xào thập cẩm
- Phở gà …
4- Tuyên truyền phụ huynh:
- Buổi tối cho các con ăn thức ăn dễ tiêu hơn vì buổi tối các con ít làm và vận động
hơn. Cần nhất là cha mẹ phải coi lại chế độ ăn uống của con em mình, hạn chế nhưng
chất dầu mỡ, chiên sào và cho các cháu tập thể dục
- Kết hợp với gia đình để phụ huynh hiểu sâu hơn về vấn đề này tôi thường tư vấn
cho cha mẹ trẻ cách nấu ăn như thế nào cho trẻ béo phì và có nguy cơ béo phì với những
bữa ăn ở nhà để trẻ ăn ngon miệng mà vẫn đảm bảo được mục đích giảm khả năng tăng
cân cho trẻ.
- Hàng ngày tôi thường truy cập trên mạng, trang Web Giáo dục Mầm Non tìm
những thông tin để cập nhật và tuyên truyền cho phụ huynh như:
(Mỗi hình ảnh này đều có một nội dung tuyên truyền kèm theo cho phụ huynh
xem)

Thức ăn nhanh - một trong những thủ phạm gây béo phì
Với
những trẻ thừa cân, hãy cho trẻ ăn nhiều chất Trẻ béo phì dễ mắc chứng bệnh
gan nhiễm mỡ
xơ hơn là những chất bột, béo hay đường
Báo động tình trạng trẻ béo phì ở các trường học

Cho trẻ ăn uống đầy đủ các chất hợp lý sức khỏe của trẻ phát triển tốt hơn

- Giáo viên hàng ngày trao đổi thông tin của trẻ tại trường, hoặc giờ đón trẻ có
những biểu hiện bất thường cũng nên quan tâm hỏi cha mẹ trẻ và chý ý đến trẻ nhiều hơn
trong ngày.
III- KẾT QUẢ ĐẠT ĐỰƠC:
- Với những biện pháp như trên, kết quả qua theo dõi cân đo hàng tháng và đến
cuối năm những cháu có nguy cơ béo phì và bị béo phì cũng giảm tốc độ tăng cân đáng
kể, nhất là những cháu có nguy cơ bị béo phì thì không bị béo phì.
Nhờ sự chỉ đạo sâu sát của tổ mầm non Phòng Giáo dục, sự quan tâm đúng mức
của Ban giám hiệu, giáo viên, nên đã giáo dục trẻ hiểu được và không chọc ghẹo những
trẻ béo phì, và trẻ cũng quen với chế độ ăn hàng ngày, nhưng vẫn đảm bảo sức khỏe cho
trẻ.
Qua đó giáo viên nắm vững thêm những kiến thức phòng ngừa và chăm sóc trẻ béo
phì. Giáo viên, cấp dưỡng rất nhiệt tình trong việc chăm sóc trẻ.
Phụ huynh rất đồng tình khi trường đã triển khai biện pháp thực hiện phòng chống
béo phì cho trẻ, và nhất là những phụ huynh có con đang bị nguy cơ hoặc béo phì đều
thấy được hiệu quả thiết thực đã mang lại sức khỏe cho trẻ.
- Đặc biệt qua 2 năm thực hiện một số biện pháp như trên, tỷ lệ trẻ thừa cân béo phì
giảm rõ rệt, cụ thể:
KẾT QUẢ TRẺ BÉO PHÌ 2 NĂM HỌC
(2007-2008 và 2008-2009)

Năm học Đầu năm Cuối năm
Số trẻ Tỷ lệ
%
Số trẻ Tỷ lệ
%
2007- 2008 8/237 3,37% 5/237 2,1%
2008- 2009 13/239 5,43% 3/239 1,25%
* So sánh tỷ lệ giảm trẻ béo phì năm thứ 1 và năm thứ II là: 0,85%
SƠ ĐỒ MINH HỌA TRẺ BÉO PHÌ 2 NĂM LIỀN KỀ

(Năm học: 2007 -2008 và 2008 -2009)
KẾT QUẢ TRẺ CÓ NGUY CƠ BÉO PHÌ 2 NĂM LIỀN KỀ
(Năm học: 2007-2008 và 2008-2009)

Năm học Đầu năm Cuối năm
Số trẻ Tỷ lệ
%
Số trẻ Tỷ lệ
%
2007- 2008 10/237 4,21% 7/237 2,95%
2008- 2009 12/239 5,02% 4/239 1,67%

* So sánh tỷ lệ giảm trẻ có nguy cơ béo phì năm thứ I và năm thứ II là: 1,28%
SƠ ĐỒ MINH HỌA TRẺ NGUY CƠ BÉO PHÌ 2 NĂM LIỀN KỀ
(Năm học: 2007- 2008 và 2008- 2009)
- Đây là kết quả đáng mừng cho tôi, Hội đồng nhà trường và cũng là niềm vui của
phụ huynh học sinh có con em béo phì và có nguy cơ béo phì. Từ đó những cái tên gọi
gáng ghép đã đi vào quên lãng không ai nhớ tới, và các cháu trước kia béo phì đến nay
khỏe mạnh bình thường như các bạn khác.
IV- BÀI HỌC KINH NGHIỆM:
- Việc điều trị béo phì ở trẻ em đòi hỏi có thời gian, kết hợp sự điều chỉnh hợp lý
chế độ ăn của trẻ và các hoạt động. Với trẻ dưới 6 tuổi biện pháp chủ yếu là giảm tốc độ
tăng cân (không phải là làm cho trẻ giảm cân hoặc không tăng cân), bằng cách lực chọn
áp dụng những thực đơn đã được tính toán phù hợp với trẻ. Ngoài ra cần khuyến khích trẻ
hoạt động như chạy, nhảy hoạt động, đi bộ hoặc thông qua các trò chơi vận động phù hợp
hạn chế các trò chơi ít vận động như xem ti vi.
- Đối với các bậc cha mẹ trước tiên cần phải giáo dục làm thay đổi quan niệm “béo
là khỏe, phát tướng” giúp họ hiểu được nguyên nhân trẻ béo phì và đặc biệt là cách phòng
bệnh béo phì ở trẻ em. Hướng dẫn cho mẹ biết cách theo dõi sự tăng trưởng của con
mình, vá cách cho con ăn uống, hoạt động hợp lý nhằm phòng chống cả suy dinh dưỡng

và béo phì cho trẻ em.
- Với lương tâm của một nhà giáo tôi luôn tự nhủ mình dù trong bất cứ hoàn cảnh
nào cũng phải đặc nhiệm vụ chăm sóc cháu lên hàng đầu, xem các cháu như con ruột của
mình, vui khi con khỏe buồn như con đau.
- Tạo niềm tin ở phụ huynh, bên cạnh đó qua trao đổi với với cô giáo phụ huynh
biết cách tổ chức bữa ăn cho phù hợp với sức khỏe của con mình và nhân rộng ra hơn với
các gia đình khác.
- Ban giám hiệu, cũng như giáo viên phải quan tâm đến khâu chăm sóc- nuôi
dưỡng trẻ và đặc biệt phải chú ý đối với những trẻ suy dinh dưỡng cũng như trẻ béo phì
thì mới đem lại sức khỏe tốt cho trẻ.
- Kiểm tra thường xuyên bộ phận cấp dưỡng về cách chế biến nấu ăn, đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm, đồng thời kiểm tra thường xuyên giờ ăn các nhóm, lớp để chấn
chỉnh kịp thời thiếu sót, đặc biệt hàng tháng phải có kế hoạch chăm sóc- nuôi dưỡng trẻ
béo phì, chế độ ăn, thực đơn riêng …
- Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh trong cách dùng thực phẩm chế biến thức ăn cho
trẻ tại gia đình.
- Phối hợp các hình thức, biện pháp phong phú, sưu tầm tranh ảnh phù hợp để
tuyên truyền, phổ biến kiến thức phòng ngừa và điều trị trẻ béo phì và vệ sinh an toàn
thực phẩm đến tất cả giáo viên, cấp dưỡng và phụ huynh để thực hiện.
Qua trên, ta thấy rằng chế độ ăn hợp lý để điều trị và phòng tránh béo phì ở trẻ em
là vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, để thực hiện như vậy phải có một thời gian dài và đòi
hỏi sự kiên nhẫn của gia đình, của bản thân trẻ cùng sự tham gia đóng góp của xã hội.
Nếu được sự quan tâm đúng mức của mọi người chắc chắn sẽ mang lại kết quả, hạn chế
sự gia tăng của bệnh béo phì ở trẻ.

×