Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.7 KB, 60 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp 1
Học viện Ngân hàng
LỜI MỞ ĐẦU
Trong xu thế hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa, đặc biệt dưới tác động mạnh
mẽ của nhiều yếu tố trong nền kinh tế dẫn đến nhiều biến động đã và đang tạo ra
những cơ hội cũng như những thách thức, khó khăn cho các doanh nghiệp.
Việt Nam ra nhập WTO đã tạo cho các doanh nghiệp có nhiều cơ hội và
thách thức mới. Thách thức trước hết phải kể tới đó là các doanh nghiệp Việt
Nam phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ các doanh nghiệp nước ngoài
không những trên thị trường quốc tế mà còn ở ngay thị trường nội địa.
Thực tế cho thấy, hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn yếu
kém về khả năng cạnh tranh. Hàng hóa được sản xuất ra có chất lượng chưa
tốt, giá thành cao nên khó cạnh tranh với các hàng hóa cùng loại trên thị
trường thế giới. Chính vì vậy, việc nâng cao sức cạnh tranh của các DN Việt
Nam hiện nay đã trở thành nhu cầu tất yếu. Vấn đề tài chính đóng vai trò quan
trọng tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, việc đánh giá và đưa ra các
giải pháp tài chính đúng đắn sẽ giúp doanh nghiệp thực hiện được các mục
tiêu chiến lược trong kinh doanh của mình. Để nhận thức rõ thực trạng và có
thể kiến nghị về các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, em đã chọn đề tài: “Giải pháp tài chính
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
trong điều kiện hội nhập”.Ngoài phần mở đầu và kết luận, chuyên đề được
kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Lý luận chung về giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng về sử dụng các biện pháp tài chính nhằm nâng
cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong thời gian qua.
Chương 3: Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của
các doanh nghiệp Việt Nam.
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 2


Học viện Ngân hàng
Do thời gian thực hiện, điều kiện nghiên cứu và trình độ kiến thức còn
hạn chế nên chuyên đề của em sẽ không thể tránh khỏi những sai sót. Em
mong được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo để chuyên đề của em
được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Đỗ Ngọc Bích
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 3
Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG CAO
NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
1.1. Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Cạnh tranh là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau. Các Mác đã
đưa ra khái niệm về cạnh tranh Tư bản như sau: "Cạnh tranh là sự ganh đua,
đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm dành giật những điều kiện thuận
lợi trong sản xuất và tiêu dùng hàng hóa để thu được lợi nhuận siêu ngạch ".
Quan điểm S. Pindyck và D.L Rubinfeld trong cuốn kinh tế học vĩ mô cho
rằng: Một thị trường cạnh tranh hoàn hảo, hoàn thiện có rất nhiều người mua
và người bán, để cho không có người mua hoặc người bán duy nhất nào có
ảnh hưởng có ý nghĩa đối với giá cả.
Tuy có nhiều cách hiểu về cạnh tranh nhưng đứng trên góc độ kinh tế, ta
có thể hiểu: Cạnh tranh là sự tranh giành lợi ích giữa những người tham gia,
người tham gia cạnh tranh coi những người tham gia khác là đối thủ cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh là khả năng tồn tại trong kinh doanh và đạt được một
số kết quả mong muốn dưới dạng lợi nhuận, giá cả, lợi tức hoặc chất lượng
các sản phẩm cũng như năng lực của nó để khai thác các cơ hội thị trường

hiện tại và làm nảy sinh thị trường mới. Hiện nay năng lực cạnh tranh được
chia theo các cấp khác nhau, ít nhất bao gồm 4 ấp độ là:
- Năng lực cạnh tranh quốc gia xét trong quan hệ giữa các quốc
gia trên phạm vi toàn cầu.
- Năng lực cạnh tranh quốc gia xét trong quan hệ giữa các quốc
gia trên phạm vi toàn cầu.
- Năng lực cạnh tranh công ty (hay doanh nghiệp) xét trong quan
hệ giữa các tập đoàn công ty, giữa các ngành hàng.
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 4
Học viện Ngân hàng
- Năng lực cạnh tranh sản phẩm xét trong quan hệ với các sản
phẩm cùng loại hoặc có khả năng gây tranh chấp trên thị trường trong và
ngoài nước
1.1.2. Tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp có thể được đánh giá bằng một
số chỉ tiêu sau:
- Sự tăng trưởng về sản xuất
- Khả năng mở rộng thị trường
- Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả kinh doanh
- Tình hình thực hiện nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước
- Mức thu nhập bình quân của người lao động
Sự tăng trưởng về sản xuất và khả năng mở rộng thị trường phụ thuộc rất
lớn vào các yếu tố như chất lượng sản phẩm, giá thành và giá cả của doanh
nghiệp, uy tín của Doanh nghiệp trên thị trường…
|Chất lượng sản phẩm là chỉ tiêu quan trọng nhất biểu hiện khả năng cạnh
tranh hàng hoá của doanh nghiệp.Chất lượng sản phẩm thể hiện tính quyết
định khả năng cạnh tranh hàng hoá của doanh nghiệp
Giá của một sản phẩm trên thị trường được hình thành thông qua quan
hệ cung cầu tức là thông qua sự thoả thuận giữa người mua và người bán để

đi tới mức giá mà cả hai bên đều thấy có lợi và chấp nhận được. Giá cả là
công cụ cạnh tranh hữu hiệu trên thị trường.Để chiếm ưu thế trong cạnh tranh,
doanh nghiệp cần phải có sự lựa chọn các chính sách giá thích hợp cho từng
loại sản phẩm .
Uy tín của doanh nghiệp được hình thành dựa trên chất lượng, giá trị sử
dụng của sản phẩm, quy mô của doanh nghiệp Một doanh nghiệp có uy tín
với khách hàng thì đồng nghĩa với việc có được lợi thế trong cạnh tranh.
Năng lực cạnh tranh của mỗi doanh nghiệp chỉ được thực hiện lâu dài và
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 5
Học viện Ngân hàng
bền vững khi cả 5 chỉ tiêu đều được thực hiện. Các doanh nghiệp phải hoàn
thành cả chỉ tiêu theo chiều rộng và các chỉ tiêu chiều sâu.
1.1.3. Nhân tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố.
Có thể chia các nhân tố thành hai nhóm:
a. Các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh.
Đây chính là những yếu tố chung nhất thuộc chủ trương, luật pháp, cơ
chế, chính sách của Nhà Nước, Những nhân tố này tuy có tác động gián
tiếp, nhưng lại có tác dụng rất quan trọng trong việc tạo môi trường cạnh
tranh thuận lợi để giúp cho các DN nâng cao sức cạnh tranh. Trong đó, các
chính sách tài chính vĩ mô đóng vai trò hết sức quan trọng như: chính sách
thuế, chính sách lãi suất, chính sách tỷ giá, chính sách khuyến khích đầu tư
Một yếu tố mà các doanh nghiệp đặc biệt chú ý đó là các đối thủ cạnh tranh,
nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế hiện nay.
b. Các nhân tố thuộc nội lực doanh nghiệp:
Đây là nhóm nhân tố tác động trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh
doanh và tạo ra khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Đó là các nhân tố:
trình độ học vấn và kỹ năng của con người, nguồn lực về vật chất kỹ thuật,
nguồn lực về tài chính, trình độ tổ chức quản lý của doanh nghiệp …

- Nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng trong phát triển và tồn tại bền
vững của các doanh nghiệp, muốn phát triển nhanh và bền vững, chúng ta
phải tạo dựng nguồn nhân lực chất lượng cao và có chính sách phát huy tối đa
nguồn nhân lực đó.
- Nguồn lực về vật chất kỹ thuật: Thông thường nguồn lực vật chất kỹ
thuật thể hiện ở:
+ Trình độ kỹ thuật công nghệ hiện tại của doanh nghiệp và khả năng
có được các công nghệ tiên tiến.
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 6
Học viện Ngân hàng
+ Quy mô và năng lực sản xuất: Quy mô và năng lực sản xuất lớn giúp
doanh nghiệp tạo ra khối lượng sản phẩm lớn hơn, nhờ đó hạ được giá thành
sản phẩm, từ đó có thể chiếm lĩnh hoặc giữ vững thị trường trên nhiều lĩnh
vực khác nhau, tránh sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh.
- Nguồn lực về tài chính: Khả năng tài chính có ảnh hưởng rất lớn tới sức
cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Nếu một doanh nghiệp có tình
trạng tài chính tốt, khả năng huy động vốn là lớn sẽ cho phép doanh nghiệp có
nhiều vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và máy móc
thiết bị, đồng thời tăng khả năng hợp tác đầu tư về liên doanh liên kết.
- Trình độ tổ chức quản lý: Trình độ tổ chức quản lý được thể hiện
thông qua cơ cấu tổ chức, bộ máy quản trị, hệ thống thông tin quản lý, bầu
không khí và đặc biệt là nề nếp hoạt động của doanh nghiệp.
Một doanh nghiệp biết tập hợp sức mạnh đơn lẻ của các thành viên và
biến thành sức mạnh tổng hợp thông qua tổ chức doanh nghiệp đó sẽ tận dụng
được những lợi thế tiềm ẩn của tổ chức mình. Không thể nói doanh nghiệp có
được một cấu trúc tốt nếu không có một sự nhất quán trong cách nhìn nhận về
cơ cấu doanh nghiệp.
Những nhân tố này có tính quyết định đến năng suất, chất lượng sản
phẩm và do đó ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của Doanh nghiệp.

1.2. Giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm
Giải pháp tài chính là các giải pháp giúp cho doanh nghiệp trong việc tổ
chức, sử dụng vốn tiết kiệm, hiệu quả, tạo điều kiện giúp doanh nghiệp nâng cao
chất lượng sản phẩm, hạ giá thành… nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp. Khi nói tới giải pháp tài chính, ta có thể nhìn nhận trên hai góc độ là các
giải pháp tài chính vĩ mô và các giải pháp tài chính của doanh nghiệp.
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 7
Học viện Ngân hàng
Giải pháp tài chính vĩ mô là các giải pháp về Tài chính- tiền tệ Nhà
nước đưa ra nhằm hỗ trợ nền kinh tế cũng như các doanh nghiệp phát triển
sản xuất kinh doanh.
Giải pháp tài chính doanh nghiệp và các giải pháp về vốn đầu tư của
doanh nghiệp để đổi mới công nghệ sản xuất, thực hiện các chiến lược
Marketing hay đầu tư cho yếu tố nhân sự nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh
của doanh nghiệp .
1.2.2 Vai trò của các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp
1.2.2.1 Các giải pháp tài chính vĩ mô
a. Các giải pháp về Thuế
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc, được thể chế hóa bằng luật, do các
pháp nhân và thể nhân đóng góp cho Nhà nước. Thuế không có tính chất hoàn
trả trực tiếp. Thuế được thiết lập trên nguyên tắc luật định, nguyên tắc này bắt
buộc mọi sự thiết lập các sắc thuế hay sửa đổi thuế suất, thuế biểu đều phải do
Luật quy định.
Một chính sách thuế hợp lý sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc nâng cao
sức cạnh tranh của các DN. Cụ thể:
- Chính sách thuế thống nhất, không phân biệt thành phần kinh tế sẽ tạo

điều kiện cho các DN phát triển sản xuất kinh doanh trên cơ sở cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng về nghĩa vụ nộp thuế, thúc đẩy các DN vươn lên làm ăn
có hiệu quả.
- Chính sách thuế với tỷ lệ động viên hợp lý tạo điều kiện cho các DN
tích tụ vốn để đầu tư phát triển, giúp các DN trong việc đầu tư chiều sâu, đổi
mới kỹ thuật, công nghệ, mở rộng lưu thông hàng hóa, khuyến khích sản xuất
và xuất khẩu.
- Việc bảo hộ hợp lý và có chọn lọc bằng các biện pháp thuế một mặt
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 8
Học viện Ngân hàng
tránh được sự trì trệ, mặt khác lại giúp các DN có điều kiện nâng cao khả
năng cạnh tranh, sẵn sàng tham gia hội nhập khu vực và quốc tế.
- Chính sách thuế đảm bảo tính thống nhất, tương đồng với hệ thống thuế
quốc tế sẽ tạo điều kiện cho các DN trong nước phát triển sản xuất kinh doanh
trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng với các doanh nghiệp nước ngoài.
b. Các giải pháp điều hành giá
Chính sách lãi suất: Lãi suất là giá cả mà người đi vay phải trả cho
người cho vay để dược quyền sử dụng tiền trong một thời gian nhất định. Lãi
suất vừa tạo điều kiện, vừa gây sức ép buộc các DN phải tìm mọi biện pháp
nâng cao hiệu quả kinh doanh để có thể trả được lãi mà vẫn đảm bảo có lợi
nhuận. Như vậy chỉ có những DN làm ăn có hiệu quả mới dám sử dụng vốn
vay để đầu tư đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất, mở rộng quy mô hoạt
động kinh doanh.
Một chính sách lãi suất bình đẳng với tất cả các loại hình DN, các thành
phần kinh tế sẽ tạo tiền đề cho việc nâng cao khả năng cạnh tranh cảu các DN.
Cơ chế lãi suất thị trường còn khuyến khích các tổ chức tín dụng cạnh tranh
với nhau và kết quả là lãi suất cho vay giảm, tạo điều kiện cho các DN có thể
giảm chi phí sử dụng vốn, hạ giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận.
Chính sách tỷ giá: Tỷ giá hối đoái là sự so sánh về mặt giá cả giữa

hai đồng tiền của hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hối đoái là giá
của một đồng tiền này tính bằng giá của một đồng tiền khác. Qua tỷ giá hối
đoái mà có thể so sánh được giá cả ở thị trường trong nước với thị trường thế
giới. Bằng cơ chế điều hành tỷ giá sẽ xuất hiện hiệu ứng có lợi hoặc có hại đối
với cạnh tranh ở những phương diện nhất định.
Khi tỷ giá giảm (giá của đồng nội tệ tăng) thì giá hàng hóa của nước đó tại thị
trường nước ngoài trở nên đắt hơn và hàng nhập nội trở nên rẻ hơn và kết quả là
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 9
Học viện Ngân hàng
kích thích nhập khẩu. Điều đó tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp
trong việc nhập khẩu máy móc thiết bị và công nghệ tiên tiến của thế giới, đồng
thời có thể hạ được giá thành sản phẩm do giảm giá nguyên liệu nhập khẩu
Khi tỷ giá tăng( đồng nội tệ giảm giá) thì hàng hóa của nước đó tại thị
trường nước ngoài trở nên rẻ hơn dẫn đến khuyến khích xuất khẩu. Tức là góp
phần tăng sức cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường quốc tế.
c. Các giải pháp hỗ trợ và tạo điều kiện về vốn đầu tư cho đổi mới thiết bị
và công nghệ sản xuất của doanh nghiệp
Trong thời đại của cách mạng kỹ thuật và công nghệ thì vấn đề tiếp thu và đổi
mới kỹ thuật, công nghệ là hết sức cần thiết đối với tất cả mọi doanh nghiệp trẻ
trên hế giới, đặc biệt ở những nước đang phát triển thì vấn đề này càng trở nên
bức xúc hơn. Nhờ có kỹ thuật và công nghệ tiên tiến đã giúp cho doanh nghiệp
không ngừng tăng năng suất lao động, hạ giá thành và nâng cao chất lượng của
sản phẩm. Song việc đổi mới kỹ thuật và công nghệ lại đòi hỏi nhu cầu về vốn đầu
tư rất lớn. Bởi vậy trong điều kiện các doanh nghiệp eo hẹp về vốn thì sự hỗ trợ và
tạo điều kiện về vốn của Nhà nước có vai trò quan trọng giúp các doanh nghiệp
kịp thời đổi mới kỹ thuật và nắm bắt các cơ hội kinh doanh.
1.2.2.2 Các giải pháp tài chính doanh nghiệp
a. Khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư nhằm đáp ứng
nhu cầu đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất của doanh nghiệp.

Đổi mới công nghệ sẽ giúp DN, nhà sản xuất cải thiện, nâng cao chất lượng sản
phẩm, củng cố, duy trì và mở rộng thị phần của sản phẩm; đa dạng hóa mẫu mã sản
phẩm, giảm tiêu hao nguyên, nhiên liệu; cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao mức
độ an toàn sản xuất cho người và thiết bị, giảm tác động xấu đến môi trường. Đặc
biệt, về mặt lợi ích thương mại, nhờ đổi mới công nghệ, chất lượng sản phẩm được
nâng lên đồng nghĩa với việc DN sẽ tạo được ưu thế vững vàng trên thị trường cạnh
tranh. Kỹ thuật và công nghệ hiện đại sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể sản xuất ra
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 10
Học viện Ngân hàng
những sản phẩm có chất lượng cao và giá thành hạ. Đây chính là những điều kiện
hết sức cơ bản để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
b.Đầu tư cho yếu tố con người
Trong điều kiện xã hội phát triển như ngày nay, nhu cầu của con người
ngày càng đòi hỏi cao hơn theo tiêu chí là giá cả không ngừng giảm xuống,
chất lượng sản phẩm không ngừng được cải tiến. Vì vậy các doanh nghiệp
muốn tồn tại phải chú trọng đến việc đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao
hàm lượng chất xám có trong một sản phẩm, tăng năng suất lao động, hạ giá
thành sản phẩm nhưng vẫn đảm bảo chất lượng. Làm được điều này đòi hỏi
phải có đội ngũ với nhân viên năng động, luôn bám sát nhu cầu thị hiếu của
khách hàng, kịp thời đáp ứng nhanh nhất theo sự thay đổi đó.
Mặt khác ngày nay khoa học kỹ thuật thay đổi rất nhanh chóng, vòng
đời công nghệ cũng như các sản phẩm có xu hướng ngày càng bị rút ngắn.
Bởi vậy doanh nghiệp luôn phải đảm bảo cóđội ngũ nhân viên đáp ứng kịp
thời với sự thay đổi đó. Chính vì vậy, việc đầu tư cho con người đóng một vai
trò rất quan trọng. Cần nâng cao trình độ kỹ thuật cho người lao động.
c. Đầu tư cho hoạt động Marketting của doanh nghiệp.
Ngày nay Marketing là một hoạt động không thể thiếu cho sự tồn tại và
phát triển của mỗi doanh nghiệp. Ở đây nhiệm vụ chính là phân tích các nhu
cầu thị hiếu, nhu cầu thị trường và hoạch định các chiến lược hữu hiệu về sản

phẩm, giá cả, giao tiếp và phân phối phù hợp với thị trường mà doanh nghiệp
đang vươn tới từ đó xây dựng mạng lưới phân phối với số lượng, phạm vi và
mức độ kiểm soát phù hợp đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng nhanh nhất.
Các DN đưa ra nhiều biện pháp Marketing như: Internet Marketing. Nhờ đó,
doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận với hầu hết khách hàng tiềm năng của mình.
Internet Marketing giúp cho Doanh nghiệp và khách hàng đến gần nhau hơn.
Và internet là công cụ giúp cho khách hàng tìm đến sản phẩm và dịch vụ của
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 11
Học viện Ngân hàng
bạn một cách nhanh nhất và chính xác hơn.
Có thể nói để tạo ra sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường hoạt
động Marketing là một yếu tố không thể thiếu.
1.3. Kinh nghiệm sử dụng các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.3.1 Thực tiễn sử dụng các biện pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp ở một số quốc gia
Thực hiện chính sách miễn, giảm thuế và khuyến khích đầu tư
Ở Trung Quốc, mức thuế tiêu chuẩn cho các doanh nghiệp là 33%, nhưng đối
với xí nghiệp nước ngoài đầu tư sản xuất thì mức thuế chỉ vào khoảng từ 15
đến 27% Ngoài ra Trung quốc còn có chính sách miễn giảm thuế giá trị gia
tăng, thuế nhập khẩu cho thiết bị mà nhà đầu tư nước ngoài cần nhập khẩu
trong phạm vi đầu tư sản xuất nhưng chỉ áp dụng cho những xí nghiệp nước
ngoài thuộc ngành nghề được khuyến khích.
Ở Malaysia lại có hệ thống thuế mềm dẻo, áp dụng chế độ 'tư cách tiên
phong' cho doanh nghiệp. Theo đó, doanh nghiệp sẽ được hưởng 5 năm miễn
70% thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc chế độ trợ cấp thuế đầu tư bằng 60%
chi phí vốn hợp lệ. Tăng cường kết nối kinh doanh, xây dựng năng lực và hỗ
trợ vốn nhà nước cho SME cũng là một trong những chiến lược cơ bản của
Malaysia.

Thực hiện tín dụng ưu đãi
Ngoài các biện pháp ưu đãi về thuế, Chính phủ các nước còn hết sức
chú trọng đến các biện pháo ưu đãi về tín dụng cho các doanh nghiệp. Trung
Quốc khuyến khích doanh nghiệp đầu tư xây dựng nhà máy, công xưởng khi
hỗ trợ vay vốn lãi suất chỉ từ 1-2%. Những điều kiện đó nhằm giúp doanh
nghiệp Trung Quốc có thể sản xuất ra những sản phẩm số lượng lớn với chi
phí rẻ nhất. Hỗ trợ tài chính nhằm thúc đẩy đổi mới thiết bị và công nghệ
Chính phủ Hàn Quốc cho phép các DNNN giảm trừ khỏi thu nhập chịu
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 12
Học viện Ngân hàng
thuế các chi phí đầu tư vào phát triển công nghệ và con người, các chi phí đào
tạo nghề nghiệp, chi phí áp dụng công nghệ mới. Các khoản thu nhập từ
chuyển giao công nghệ mới không phải tính vào thu nhập chịu thuế. Chính
phủ cũng thành lập Công ty phát triển công nghiệp nhằm điều phối việc trợ
giúp về tài chính và kỹ thuật cho các DNNN: lập và thực hiện chương trình
hiện đại hóa, chương trình cho thuê trang thiết bị, hỗ trợ thành lập các DN.
- Hỗ trợ tài chính đẩy mạnh xuất khẩu
Ở các nước khác như: Nhật Bản, Ấn Độ, việc thực hiện hỗ trợ tín dụng
cho xuất khẩu được thực hiện qua nhiều tổ chức của Nhà Nước như: Ngân Hàng
Xuất nhập khẩu, quỹ bảo lãnh tín dụng, công ty bảo hiểm xuất khẩu.
Như vậy mỗi quốc gia đều thực hiện một giải pháp tài chính riêng phù
hợp với từng điều kiện kinh tế của mình nhằm hỗ trợ, ưu đãi về tài chính cho
các DN từ đó giúp các DN nâng cao khả năng cạnh tranh của mình trong sản
xuất kinh doanh trên thị trường nội địa cũng như trên thị trường quốc tế.
1.3.2 Những bài học kinh nghiệm về việc sử dụng các biện pháp tài chính
nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
Từ việc nghiên cứu các biện pháp tài chính được sử dụng ở một số nước
trên thế giới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, có thể
rút ra những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam như sau:

- Để các doanh nghiệp, đặc biệt là các DNNN có thể phát triển mạnh mẽ
cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước. Trong đó, hỗ trợ tài chính đóng vai trò
hết sức quan trọng trong việc tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp
nâng cao khả năng cạnh tranh. Hầu hết các nước phát triển cũng như đang
phát triển, Nhà nước đóng vai trò to lớn trong việc hỗ trợ các doanh nghiệp
phát triển, đồng thời có tác dụng gián tiếp tới việc thúc đẩy nâng cao năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Cần đa dạng hóa các biện pháp tài chính trong việc khuyến khích phát
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 13
Học viện Ngân hàng
triển và nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhằm giúp các doanh
nghiệp vượt qua được những khó khăn, có khả năng tự phát triển và tăng
cường khả năng cạnh tranh. Ngoài hai biện pháp chủ yếu là ưu đãi thuế và tín
dụng, cần sử dụng nhiều biện pháp tài chính khác để hỗ trợ. Song điều quan
trọng là phải xem xát mức độ tác động và hiệu quả của từng biện pháp.
- Khi sử dụng các biện pháp tài chính cần có sự phối hợp đồng bộ và
xem xét đến các tác động khác để đạt hiệu quả tổng thể. Bên cạnh các biện
pháp vĩ mô của Nhà nước, các biện pháp vi mô của doanh nghiệp cũng đóng
vai trò hết sức quan trọng. Đây chính là các yếu tố thuộc về nội lực và có tác
động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp. Song phải tùy thuộc vào điều kiện và khả năng cụ thể của mỗi doanh
nghiệp để có thể áp dụng các biện pháp sao cho phù hợp và có hiệu quả.
- Để thực hiện có hiệu quả việc nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp cần thực hiện hỗ trợ tài chính theo những chương trình và mục tiêu cụ
thể thông qua các tổ chức hỗ trợ như: hỗ trợ thành lập doanh nghiệp mới, hỗ
trợ cho việc phát triển công nghệ… nhằm tránh tình trạng phân tán, tùy tiện.
Như vậy, cạnh tranh là quy luật tất yếu của nền kinh tế thị trường, các
doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường đều phải chấp nhận cạnh
tranh và nâng cao năng lực cạnh tranh là điều kiện quyết định sự tồn tại và phát

triển của mỗi doanh nghiệp. Có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp, trong đó tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng.
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 14
Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG VỀ SỬ DỤNG CÁC BIỆN PHÁP TÀI CHÍNH
NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu về các doanh nghiệp Việt Nam
2.1.1. Đặc điểm của các doanh nghiệp Việt Nam
Theo Luật doanh nghiệp 2005 thì: “ Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có
tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo
quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.”
Những đặc điểm cơ bản của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay:
- Hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau của xã hội: sản
xuất, thương mại, dịch vụ…
- Các loại hình doanh nghiệp gồm có:
+ Doanh nghiệp Nhà nước
+ Công ty cổ phần
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn
+ Doanh nghiệp tư nhân
+ Công ty hợp danh
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Mỗi loại hình kinh doanh có những ưu, nhược điểm riêng, phù hợp
với quy mô và trình độ phát triển nhất định. Trong đó, DNNN đóng vai trò
chủ đạo, hỗ trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển và có tầm quan
trọng đặc biệt trong việc thực hiện các mục tiêu Kinh tế- xã hội của đất nước.
Theo kết quả thống kê trên có gần 450.000 doanh nghiệp (tại thời điểm
31/12/2010) trong đó doanh nghiệp ngoài Nhà nước chiếm khoảng 96,5%, các

doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 2,5% còn lại là doanh nghiệp Nhà
nước. Tuy nhiên, đa số các doanh nghiệp ngoài Nhà nước là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ, công nghệ đang sử dụng phần lớn là lạc hậu và không đồng bộ, trình
độ quản lý kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của kinh tế thị trường.
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 15
Học viện Ngân hàng
Trong những năm gần đây, hoạt động cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
đã diễn ra tương đối phổ biến ở các doanh nghiệp, nhưng hầu hết vẫn mang
tính chất manh mún, chồng chéo, thiếu sự hướng dẫn của Nhà nước và thường
tập trung ở các thành phố, khu công nghiệp lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh
và các thành phố lớn khác.
2.1.2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp Việt Nam
Theo đánh giá của bộ tài chính mặc dù Việt Nam gia nhập hiệp định
CEPT/AFTA, gia nhập WTO nhưng các doanh nghiệp trong nước cũng sẽ rất
khó khăn để đối mặt với cơn lốc hàng hoá từ các nước trong khu vực và trên thế
giới như: Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia, Indo… tràn vào thị trường nội địa.
Với mục tiêu mở rộng và nâng cao hơn nữa hiệu quả của kinh tế đối
ngoại, củng cố thị trường đã có và mở rộng thêm thị trường mới. Tạo mọi
điều kiện thuận lợi để tăng nhanh xuất khẩu, thu hút vốn công nghệ từ bên
ngoài. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả thực hiện cam kết song
phương và đa phương.
Các doanh nghiệp đều nhận thấy rõ cơ hội và thách thức do hội nhập kinh tế
mang lại. Việc hàng hoá Việt Nam đững vững trên thị trường trong nước cũng
như mở rộng thị trường xuất khẩu cũng sẽ rất khó khăn, vì vậy nâng cao chất
lượng và hiệu quả phát triển kinh tế, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá, phát
huy các thế mạnh và các lợi thế của các sản phẩm trong nước phục vụ xuất
khẩu, gắn với nhu cầu của thị trường trong nước và ngoài nước trong lĩnh vực
sản xuất các loại sản phẩm hàng hoá.

Dưới sự điều hành và chỉ đạo của Chính Phủ, đội ngũ doanh nghiệp
Việt Nam tham gia thương trường thế giới ngày càng đông. Sản phẩm của
doanh nghiệp nào đó muốn có mặt trên thị trường quốc tế phải có sức mạnh
thị trường, sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá. Tính cạnh tranh của hàng hóa
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 16
Học viện Ngân hàng
thể hiện ở chất lượng, hình thức mẫu mã, bao bì đẹp, giá cả hợp lý phù hợp
với thị hiếu của người tiêu dùng ưa chuộng và chấp nhận.
2.2. Thực trạng sử dụng các giải pháp tài chính nhằm nâng cao năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
2.2.1. Thực trạng về năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay
Trong công cuộc đổi mới nền kinh tế, đã có một số doanh nghiệp nước
ta nhờ có những định hướng phát triển đúng nên đã vươn lên nâng cao được
năng lực cạnh tranh, tạo ra những sản phẩm đẩy lùi hàng nhập ngoại và từng
bước mở rộng xuất khẩu. Bên cạnh đó còn hạn chế nhất định mà các doanh
nghiệp Việt Nam đang đứng trước các thách thức lớn về năng lực cạnh tranh .
- Về công nghệ: Trong những năm qua, có nhiều doanh nghiệp đã đánh
giá đúng vai trò của việc đổi mới kỹ thuật và công nghệ sản xuất nên đã có
những quyết định đúng trong việc đầu tư công nghệ và thiết bị phù hợp, đạt
trình độ công nghệ tiên tiến. Từ đó, tạo ra những sản phẩm có chất lượng tốt,
giá thành hạ, không những đẩy lùi hàng ngoại trên thị trường trong nước mà
còn có khả năng vươn ra thị trường khu vực và trên thế giới.
Ngành cơ khí được coi là lạc hậu trước đây, nhờ quá trình đổi mới công
nghệ năng lực sản xuất đã tăng lên, đáp ứng được 60% nhu cầu máy nông
nghiệp trong nước, 25% máy loại nhẹ phục vụ nông nghiệp, 30% máy xây
dựng và khai thác mỏ, 20% phương tiện vận tải. Trong ngành sản xuất giày
dép phần lớn tiến bộ công nghệ dựa vào việc sử dụng thành quả khoa học
trong chế tạo máy. Máy thay thế bàn tay, sức lực của con người để thực hiện

các thao tác tinh xảo, sản xuất ra được nhanh những đôi giày sát với mẫu thiết
kế thời trang làm cho năng suất lao động tăng lên đột biến.
Thành công nhất trong quá trình đổi mới công nghệ phải kể đến những
ngành, những doanh nghiệp phát triển công nghệ cao như: điện tử tin học,
viễn thông, dầu khí, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học…Tuy nhiên
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 17
Học viện Ngân hàng
việc đầu tư cho đổi mới công nghệ ở Việt Nam chỉ chiếm khoảng 0,5% GDP,
trong khi các nước công nghiệp phát triển khoảng 2%. Khả năng tiếp thu công
nghệ của các doanh nghiệp của Việt Nam còn thấp so với các nước… Việc
ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp Việt Nam chưa hiệu
quả, các website của doanh nghiệp chưa đáp ứng được tham gia vào chuỗi
kinh doanh toàn cầu ,điều đó ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh và
đổi mới chất lượng nguồn nhân lực của doanh nghiệp.
-Về chất lượng sản phẩm: Đã có nhiều doanh nghiệp, nhờ tăng cường
đầu tư cải tiến kỹ thuật, nghiên cứu phát triển sản phẩm, thực hiện hệ thống
quản lý chất lượng quốc tế ISO 9000, 9002… làm cho chất lượng sản phẩm
ngày càng tăng, đạt tiêu chuẩn xuất khẩu và nhiều giải thưởng chất lượng
quốc tế như: Tổng công ty Dệt may Việt Nam( Vinatex), Công ty cao su Sao
Vàng, Bóng đèn Điện Quang…
Tuy nhiên các sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam có hàm lượng tri
thức và công nghệ thấp, chủ yếu dựa vào lợi thế lao động (như gạo, thuỷ sản)
hoặc điều kiện tự nhiên. Thực tế là nhiều doanh nghiệp Việt Nam chưa có
chiến lược kinh doanh, chưa chú ý đến công tác nghiên cứu và phát triển nên
chỉ dành 0,2% đến 0,3% doanh thu cho nghiên cứu phát triển sản phẩm mới.
phần lớn các sản phẩm của các doanh nghiệp Việt Nam chưa có tính độc đáo,
luôn đi sau các nước khác về kiểu dáng, tính năng, giá trị gia tăng sản phẩm
trong tổng giá trị của sản phẩm thấp, năng suất lao động thấp, chất lượng sản
phẩm chưa đủ sức cạnh tranh trên thị trường thế giới

- Về vốn của doanh nghiệp: Đa phần các doanh nghiệp đang hoạt động
trong tình trạng không đủ vốn cần thiết, điều này đã ảnh hưởng không nhỏ
đến hiệu quả kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh trên thị trường trong
nước và quốc tế. Theo điều tra doanh nghiệp của Tổng cục Thống kê năm
2012 cho thấy, vốn bình quân của một doanh nghiệp ở nước ta khoảng 26,69
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 18
Học viện Ngân hàng
tỷ đồng/doanh nghiệp, các doanh nghiệp nhà nước có vốn bình quân cao nhất
với 550,1 tỷ đồng/doanh nghiệp, trong khi doanh nghiệp ngoài nhà nước (bao
gồm cả doanh nghiệp vừa và nhỏ) có mức vốn 9,8 tỷ đồng/doanh nghiệp,
công ty cổ phần (không có vốn nhà nước) là 24,4 tỷ đồng/doanh nghiệp
Mức vốn thấp của doanh nghiệp cản trở đến khả năng đổi mới công nghệ và
nâng cao trình độ quản trị các yếu tố sản xuất, hạn chế mở rộng nghiên cứu
phát triển sản phẩm mới và phát triển nguồn nhân lực chuyên môn kỹ thuật
cao của doanh nghiệp. Mặt khác, trong môi trường toàn cầu hoá kinh tế, việc
không ngừng nâng cao tỷ trọng hàng xuất khẩu cũng như mức độ chế tác của
hàng xuất khẩu cũng phản ánh khả năng cạnh tranh kinh doanh và cạnh tranh
nhân lực của doanh nghiệp. Theo số liệu của VCCI ( Phòng thương mại và
công nghiệp Việt Nam) về năng lực xuất khẩu của các doanh nghiệp, hiện nay
mới chỉ có khoảng 23,8% doanh nghiệp có hàng xuất khẩu, 13,7% doanh
nghiệp có triển vọng xuất khẩu và 62,5% doanh nghiệp hoàn toàn chưa có khả
năng tham gia xuất khẩu. Xét về cơ cấu xuất khẩu có tới 60% hàng xuất khẩu
là nông sản, thuỷ sản và chỉ có 40% là hàng công nghiệp, chủ yếu vẫn là xuất
khẩu nguyên liệu thô, hoặc mới qua sơ chế, sử dụng công nghệ có giá trị thấp.
Điều đó cho thấy, các doanh nghiệp đã quan tâm đến đa dạng hoá mẫu mã
kiểu dáng sản phẩm, chú trọng xây dựng thương hiệu hàng hoá, dịch vụ, nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhưng chất lượng hàng hoá, dịch vụ của Việt
Nam vẫn thấp, chưa thâm nhập hàng loạt được vào các thị trường có yêu cầu
chất lượng cao. Đồng thời, do hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu có hàm lượng

khoa học, tri thức thấp nên chưa có tác động lớn đến mở rộng nhân lực
chuyên môn kỹ thuật cao trong các doanh nghiệp, đặc biệt là nhân lực của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Về nhân lực trong các doanh nghiệp: Lao động là một lợi thế cạnh
tranh của Việt Nam bởi chi phí lao động rẻ, tuy nhiên, năng suất lao động chỉ
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 19
Học viện Ngân hàng
ở mức thấp, chủ yếu là lao động thủ công, tác phong lao động công nghiệp
còn kém. Do đó chưa đáp ứng được yêu cầu nâng cao khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp. Trong đó, đặc biệt là ở doanh nghiệp các ngành công
nghiệp chế biến, thương nghiệp, khách sạn, nhà hàng, du lịch, nông nghiệp
có tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo rất cao, có thể thấy một số tình hình trên
qua biểu dưới đây (điều tra thực trạng doanh nghiệp năm 2012, TCTK):
Bảng 2.1 : Cơ cấu lao động của doanh nghiệp theo trình độ chuyên môn
kỹ thuật trong từng ngành (%)
Ngành
Tiến sỹ Thạc sỹ Cử
nhân, kỹ

Cao
đẳng
Trung
học
chuyên
nghiệp
Công
nhân
kỹ
thuật

Chưa
qua đào
tạo
Công nghiệp và
khai thác mỏ
0,02 0,04 4,00 0,96 3,72 27,47 63,79
Công nghiệp chế
biến
0,01 0,04 3,38 0,73 3,00 16,30 76,15
Điện, khí đốt và
nước
0,02 0,12 15,48 2,13 12,70 56,70 12,85
Xây dựng 0,07 0,09 10,73 1,15 7,10 33,50 47,36
Thương nghiệp
và sửa chữa xe
0,03 0,07 5,37 1,07 5,50 6,20 81,76
Khách sạn và
nhà hàng
0,00 0,02 2,40 0,60 3,10 4,37 89,59
Vận tải kho bãi,
thông tin
0,02 0,01 7,77 1,50 6,27 32,50 51,80
Tài chính, tín
dụng
0,09 0,95 40,00 7,70 24,26 12,64 14,36
Khoa học và
công nghệ
7,8 6,34 47,70 1,96 12,78 18,90 4,52
Kinh doanh tài
sản và tư vấn

0,35 0,84 28,68 2,90 10,36 14,06 42,81
Giáo dục và đào
tạo
0,50 1,31 20,00 24,09 40,09 3,69 10,32
Nguồn: Viện Khoa học Lao động và Xã hội, 2010-2012
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 20
Học viện Ngân hàng
Nhìn chung, trong các doanh nghiệp, tỷ lệ lao động qua đào tạo chuyên
môn kỹ thuật còn thấp, thiếu nhân lực chuyên môn kỹ thuật trình độ cao.
- Về năng lực quản lý và điều hành của doanh nghiệp: Đối với các doanh
nghiệp Nhà nước, việc tổ chức quản lý còn quá cồng kềnh so với doanh
nghiệp ngoài Nhà nước, nhiều ban, bệ, nhiều thủ tục hành chính rườm rà chưa
được sửa đổi đã làm cho doanh nghiệp không thể năng động, linh hoạt, đáp
ứng kịp thời yêu cầu của thị trường. Trình độ cán bộ quản lý thấp, hạn chế
trong tiếp cận với những kiến thức, phong cách quản lý hiện đại, đặc biệt kinh
nghiệm giao dịch xuất nhập khẩu, nghiên cứu tiếp cận với thị trường thế giới
của cán bộ còn thấp. Thiếu đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao.
Hiện nay các mảng lớn của quản trị doanh nghiệp là quản trị marketing,
quản trị hoạt động (operation), quản trị tài chính (finance) và quản trị nhân
lực (human resource) còn có nhiều bất cập. Trong đó, đặc biệt là hạn chế của
các doanh nghiệp về khả năng phân tích, đánh giá thực trạng tài chính, nguồn
nhân lực, thị trường, hạch toán đầu vào, đầu ra và xây dựng các quyết định
kinh doanh ngắn hạn, dài hạn. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì trình
độ, năng lực tiếp cận tiêu chuẩn quốc tế trong quản trị doanh nghiệp có hạn
chế rất lớn, nhiều doanh nghiệp chưa có chiến lược nâng cao quản trị doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, hiện nay trình độ của giám đốc điều hành doanh nghiệp
trong nền kinh tế còn có nhiều bất cập, có thể thấy ở bảng sau đây:
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 21

Học viện Ngân hàng
Bảng 2.2: Trình độ giám đốc theo loại hình doanh nghiệp, đơn vị %
so tổng số của từng loại hình doanh nghiệp
Tiến sỹ Thạc sỹ Cử
nhân, kỹ

Cao
đẳng
Trung
học
chuyên
nghiệp
Công
nhân kỹ
thuật
Chưa
qua đào
tạo
Chung 0,53 1,153 36,16 2,96 15,82 12,06 31,4
DN nhà nước 2,14 2,8 85,4 1,23 5,22 0,42 2,79
DN ngoài nhà
nước
0,48 0,85 30,5 3,12 11,9 9,77 43,38
DN FDI 2,87 8,2 71,6 2,68 1,83 1,27 11,55
Nguồn: Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Đáng lưu ý là trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước, tỷ lệ giám đốc có
trình độ đại học trở lên còn thấp (31,8%), tỷ lệ giám đốc chưa qua đào tạo
chuyên môn kỹ thuật rất cao (43,4%). Ngoài ra, trong các doanh nghiệp vừa
và nhỏ một bộ phận lớn giám đốc điều hành doanh nghiệp có hạn chế lớn về
các mặt: kiến thức quản trị doanh nghiệp hiện đại, phát triển kinh doanh theo

mạng (network marketing), trình độ tin học và ngoại ngữ, khả năng làm việc
với áp lực lớn về không gian và thời gian… ảnh hưởng lớn đến tính năng
động, hiệu quả kinh doanh và cải cách, cơ cấu lại doanh nghiệp.
2.2.2 .Thực trạng sử dụng các biện pháp tài chính nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm qua
2.2.2.1. Các biện pháp tài chính vĩ mô của Nhà nước
a. Giải pháp về thuế đối với doanh nghiệp
Nước ta đã hoàn thành việc cải cách thuế bước 1 năm 1990. Hệ thống
thuế cải cách với cơ chế linh hoạt được ban hành kịp thời, phù hợp đặc điểm
tình hình kinh tế- xã hội của Việt Nam trong thời kỳ đầu chuyển sang nền
kinh tế thị trường. Tuy nhiên, sau 9 năm thực hiện các luật thuế, hệ thống thuế
cải cách bước 1 còn bộc lộ những hạn chế nhất định. Để khắc phục những tồn
tại của hệ thống thuế và từng bước phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế trong
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 22
Học viện Ngân hàng
giai đoạn mới, Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam đã quyết định cải cách
thuế bước 2. Cải cách thuế bước 2 đã được thực hiện bằng việc thay thế Luật
Thuế doanh thu bằng Thuế GTGT, Thuế Lợi tức bằng Thuế TNDoanh
nghiệp. Các luật thuế này được chính thức áp dụng từ ngày 1/1/1999 và có ý
nghĩa rất lớn trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh nghiệp nâng
cao năng lực cạnh tranh.
-Thuế đã góp phần khuyến khích đầu tư, thúc đẩy phát triển sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp: Việc áp dụng thuế giá trị gia tăng đã góp
phần ổn định giá cả, mở rộng lưu thông hàng hoá, góp phần thúc đẩy sản xuất
phát triển và đẩy mạnh xuất khẩu.Luật Thuế GTGT đã tạo điều kiện cho giá
thành các công trình đầu tư xây dựng cơ bản giảm khoảng 10% so với trước
đây do toàn bộ Thuế GTGT của công trình xây dựng cơ bản được hạch toán
riêng chứ không tính vào giá thành công trình như Thuế doanh thu trước đây,
từ đó đã làm giảm chi phí khấu hao tài sản cố định và hạ giá thành sản phẩm.

-Thuế góp phần khuyến khích xuất khẩu và bảo hộ sản xuất trong
nước: theo quy định của Luật thuế GTGT hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, vận
tải quốc tế được hưởng thuế suất 0%, tức là được hoàn toàn bộ số Thuế
GTGT đã nộp ở đầu vào, thực chất đây là việc trợ giá của Nhà nước cho hàng
hóa xuất khẩu, bởi vậy đã khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa
xuất khẩu. Do các đối tác đều áp dụng Thuế GTGT nên việc thay Luật thuế
doanh thu bằng Luật thuế GTGT đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt
Nam có cùng mặt bằng cạnh tranh với các đối tác nước ngoài. Do vậy Thuế
GTGT chính là một yếu tố quan trọng tạo điều kiện nâng cao khả năng cạnh
tranh và khuyến khích hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp.
Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu cũng tạo điều kiện rất lớn cho các
doanh nghiệp Việt Nam: Các doanh nghiệp sẽ được miễn thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, miễn thuế lần đầu đối với hàng hóa là trang thiết bị nhập khẩu theo
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 23
Học viện Ngân hàng
danh mục quy định của Chính phủ . Những chính sách này đã tạo điều kiện giúp
các doanh nghiệp giảm chi phí, hạ giá thành và tăng năng lực cạnh tranh của
hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Việc thường xuyên điều chỉnh thuế suất Thuế nhập khẩu theo hướng
những sản phẩm trong nước sản xuất được thì có mức thuế suất cao còn đối với
những vật tư, nguyên liệu, máy móc thiết bị mà trong nước chưa sản xuất được
thì có mức thuế suất thấp hơn đã có tác dụng bảo hộ sản xuất trong nước, khuyến
khích sản xuất thay thế hàng nhập khẩu, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp
trong nước chiếm lĩnh thị trường nội địa.
- Thuế đã tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp và từng bước phù hợp
với thông lệ quốc tế.
Với việc điều chỉnh sắp xếp lại từ 11 mức thuế suất Thuế doanh thu
xuống còn 3 mức Thuế GTGT và từ 3 mức thuế suất Thuế lợi tức xuống còn 1
mức thuế suất Thuế TNDN. Từ đó, đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu sắp

xếp lại sản xuất, đổi mới trang thiết bị, nâng cao trình độ quản lý để thực hiện
được mức thuế suất đã quy định. Đặc biệt đã tạo ra được sự bình đẳng, thúc đẩy
sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau. Đồng thời việc áp dụng Luật thuế
GTGT và Thuế TNDN đã góp phần làm cho chính sách thuế của Việt Nam từng
bước tương đồng và phù hợp với thông lệ quốc tế, giúp cho việc mở rộng quan
hệ hợp tác với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Bên cạnh những kết quả đạt được, việc áp dụng hệ thống thuế hiện hành
vẫn còn những tồn tại cần phải tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện để tạo điều kiện
thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp:
- Trong từng sắc thuế còn chứa đựng tính thiếu ổn định, không công
bằng và chưa thật sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế.
+ Luật thuế GTGT được ban hành năm 2007 và có hiệu lực thi hành từ
ngày 1/1/2009. Tuy có 2 năm chuẩn bị nhưng khi thực hiện vẫn còn nhiều
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 24
Học viện Ngân hàng
vướng mắc phải sửa đổi, bổ sung nhiều lần, làm cho các doanh nghiệp khó
nắm bắt kịp thời. Đặc biệt, hiện nay vẫn còn tồn tại hai phương pháp tính thuế
khác nhau( phương pháp khấu trừ và phương pháp trực tiếp), dẫn đến sự
không công bằng giữa các Doanh nghiệp khi tính thuế phải nộp theo các
phương pháp khác nhau.
+ Sự thường xuyên thay đổi thuế suất của biểu Thuế nhập khẩu phản
ánh chính sách Thuế nhập khẩu của Việt Nam mang tính đối phó ngắn hạn,
gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc xác định chủ trương và chiến
lược kinh doanh lâu dài.
-Sử dụng công cụ thuế phục vụ quá nhiều các chính sách xã hội làm
mất tính tập trung của thuế do một số chính sách xã hội được đưa vào chính
sách miễn giảm thuế như: doanh nghiệp sản xuất, xây dựng, vận tải sử dụng
nhiều lao động nữ được giảm thuế thu nhập doanh nghiệp bằng số chi thêm
cho lao động nữ. Một số hàng hóa phục vụ an ninh, quốc phòng, giáo dục đào

tạo được miễn thuế nhập khẩu… Những quy định miễn giảm như vậy dễ dẫn
đến hiện tượng lợi dụng để trốn thuế, lậu thuế, ảnh hưởng đến trật tự công
bằng xã hội.
-Hệ thống chính sách còn nhiều điểm chưa phù hợp với thông lệ quốc
tế do biểu Thuế nhập khẩu của nước ta so với các nước là tương đối phức tạp
và không phù hợp với quy định của WTO.
-Việc quy định đối tượng, phạm vi áp dụng và các mức thuế suất Thuế
GTGT còn nhiều bất cập. Luật thuế GTGT hiện hành quy định 28 nhóm hàng
hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT, sẽ không còn phù hợp trong quá trình
phát triển kinh tế xã hội do không đảm bảo tính liên hoàn trong việc khấu trừ
thuế đầu vào, đầu ra của doanh nghiệp
Về thuế suất thuế GTGT thì năm 1997, khi ban hành Luật thuế GTGT,
ngoài thuế suất 0%, còn có 3 mức thuế suất: 5%, 10 % và 20%. Từ ngày 1
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8
Chuyên đề tốt nghiệp 25
Học viện Ngân hàng
tháng 4 năm 2004; áp dụng Luật sửa đổi bổ sung : bỏ thuế suất 20%, chỉ còn
2 thuế 5% và 10%. Trong đó 5 % là mức thuế suất ưu đãi, được áp dụng đối
với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc phục vụ nhu
cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, trước
những khó khăn của nền kinh tế, diện áp dụng mức thuế suất 5% cũng được
mở rộng và chưa theo đúng nguyên tắc nêu trên. Từ đó dẫn đến doanh nghiệp
sản xuất, kinh doanh một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất này không
những không phải nộp thuế mà còn được hoàn thuế từ ngân sách Nhà nước,
do đó, cần thiết rà soát lại diện áp dụng mức thuế suất 5% để phù hợp với
thực tiễn. Mặt khác, tiêu chí phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất 5%
và 10% chưa rõ ràng dẫn đến việc áp dụng mức thuế suất không thống nhất,
nảy sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Luật thuế GTGT hiện hành quy định căn cứ khấu trừ, hoàn thuế GTGT
đầu vào là hoá đơn GTGT mua hàng hoá, dịch vụ. Thực tiễn quản lý thuế thời

gian qua cho thấy quy định nêu trên chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị lợi
dụng khấu trừ khống hoặc hoàn thuế khống thông qua việc sử dụng hoá đơn
ghi chép không trung thực.
b.Các giải pháp về điều hành giá.
Thứ nhất: Chính sách lãi suất
Cơ chế lãi suất của Việt Nam dần dịch chuyển từ kế hoạch hóa tập
trung, tách biệt với mặt bằng lãi suất của kinh tế thế giới sang điều chỉnh linh
hoạt, từng bước tự do hóa, hội nhập với hệ thống tài chính toàn cầu. Thời gian
qua, cơ chế điều hành lãi suất đã có những thay đổi căn bản, nhất là từ khi hệ
thống ngân hàng hai cấp được thiết lập.
Trước sự vận động bất lợi của thị trường chứng khoán và lạm phát tăng
cao ngay từ đầu năm 2008, NHNN thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ, sử
dụng đồng thời các công cụ lãi suất và hoạt động thị trường mở làm cho chi
Đỗ Ngọc Bích Lớp: TCDNA - LTDH 8

×