Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Thực trạng lạm phát và việc sử dụng chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (652.48 KB, 84 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1 3
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 3
1.1. Khái niệm và nguyên nhân cơ bản gây lạm phát 3
1.1.1.Định nghĩa 3
1.1.2. Hậu quả của lạm phát 7
1.1.3. Nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát 8
1.2. Ngân hàng nhà nước và chính sách tiền tệ 11
1.2.1.Ngân hàng nhà nước 11
1.2.2. Chính sách tiền tệ 17
CHƯƠNG 2 28
TÌNH HÌNH LẠM PHÁT VÀ TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SAHCS TIỀN TỆ
NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT TRONG THỜI GIAN 28
2.1.Thực trạng lạm phát của Việt Nam hiện nay 28
2.1.1. Bối cảnh nền kinh tế thế giới 28
2.1.2. Tình hình lạm phát ở Việt Nam hiện nay 32
2.2. Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam 39
2.2.1. Lạm phát do cầu kéo 41
2.2.2.Lạm phát do chi phí đẩy 41
2.2.3. Lạm phát do cơ cấu 41
2.2.4. Lạm phát do cầu thay đổi 42
2.2.5. Lạm phát do xuất khẩu 42
2.2.6. Lạm phát do nhập khẩu 43
2.2.7. Lạm phát tiền tệ 43
2.3. Ảnh hưởng của lạm phát tới nền kinh tế Việt Nam 44
2.4. Chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát và tác động của chính sách này 46
2.4.1. Chính sách điều chỉnh lãi suất 48
2.4.2. Dự trữ bắt buộc 54


2.4.3. Nghiệp vụ thị trường mở 55
2.4.4. Chính sách tỷ giá hối đoái 55
2.4.5. Hạn mức tín dụng 56
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
2.4.5. Đánh giá mức độ hiệu quả hoạt động của việc thực hiện chính sách tài khóa trong thời
gian qua 57
CHƯƠNG 3 62
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ 62
NHẰM KIỀM CHẾ LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN TỪ NAY TỚI NĂM 2015 62
3.1. Dự báo tình hình lạm phát từ nay tới năm 2015 62
3.1.1. Cơ sở đưa ra dự báo 62
3.1.2. Dự báo mức độ lạm phát từ nay tới 2015 62
3.2. Một số kiến nghị 65
3.2.1. Kết hợp chính sách tiền tệ với một số chính sách khác 68
3.2.2. Minh bạch hóa ngân sách nhà nước, tăng cường giám sát và bình ổn thị trường ngoại
hối 71
3.2.3. Thực hiện phát hành tín phiếu ngân hàng bằng ngoại tệ 74
KẾT LUẬN 76
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Biểu đồ 2.1: Tình hình lạm phát ở Việt Nam năm 2010 -2011 33
Biểu đồ 2.2: diễn biến CPI của Việt Nam từ 2002 – 2012 44
Biểu đồ 2.3: Điều hành lãi suất trong năm 2012 49
Dương Thị Hiền

Lớp: TCDNB – LTĐH8
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Nguyên nghĩa
CPI chỉ số giá tiêu dùng
GDP tổng sản phẩm quốc nội
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng trung ương
TCTD Tổ chức tín dụng
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Lạm phát là một vấn đề kinh tế cơ bản và quan trọng đối với bất cứ một quốc
gia nào trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Nếu lạm phát ở mức vừa phải sẽ
kích thích nền kinh tế tăng trưởng, nhưng nếu tỷ lệ lạm phát ở mức hai con số thì sẽ
làm cho nền kinh tế mất cân đối và gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Trong khi
đó ngăn chặn vấn đề lạm phát không phải là vấn đề đơn giản mà cần có các giải
pháp thống nhất, đồng bộ và khôn ngoan.
Việt Nam trải qua hơn 20 năm đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội, đã từng trải
qua giai đoạn khủng hoảng và lạm phát cao lên tới 3 con số như năm 1985 (lên tới
700%). Từ năm 1986, thực hiện cải cách, nền kinh tế bước đầu đã có sự dịch chuyển
tích cực, tỷ lệ lạm phát đã giảm hẳn. Sau đó trong giai đoạn 2004- 2005, lạm phát lại có

nguy cơ bùng phát lên cao khi tỷ lệ lạm phát năm 2004 là 9.5% gần ở mức hai con số,
năm 2007 lên tới 12.5% và năm 2012 hạ xuống còn 6.81%, tuy nhiên, vẫn tiềm ẩn
nhiều nguy cơ ở phía trước. Nếu trước kia tình hình lạm phát chủ yếu do quan liêu bao
cấp, và ở trong nền kinh tế đóng thì nay các biện pháp phải và chính sách phải phù hợp
với các yếu tố của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Cuối năm 2006, Việt
Nam gia nhập WTO và trở thành thành viên thứ 150. Vì vậy, nền kinh tế Việt Nam
chịu nhiều ảnh hưởng của các biến động nền kinh tế toàn cầu, đòi hỏi các nhà hoạt
động chính sách thực hiện kiềm chế lạm phát không chỉ tính đến các nhân tố bên trong
mà còn phải dự tính đến các yếu tố tác động bên ngoài.
So các nước có nền kinh tế mới nổi khác, họ cũng có nhiều điều kiện phát
triển kinh tế giống với nước ta như các mước ASEAN-5( Singapo, Thái Lan,
Philipin, Inđonexia và Malayxia) nhưng tỷ lệ lạm phát năm 2007,2008 của Việt
Nam cao gấp đôi mức trung bình các nước này. Hơn nữa, Việt Nam lại vấp phải
khó khăn trong việc kiềm chế lạm phát so với các nước khác vì thâm hụt cán cân
thanh toán lớn và thâm hụt tài khóa, điều kiện vĩ mô kém ổn định, nợ nước ngoài
nhiều trong khi dự trữ ngoại tệ thì quá ít. Vì vậy cuộc chiến lạm phát ở Việt Nam
trở nên khó khăn và căng thẳng hơn. Trong kh đó chính phủ Việt Nam chưa có
nhiều kinh nghiệm điều hành phát triển kinh tế trong điều kiện mở cửa và hội nhập
nên gặp không ít trở ngại và vấp váp ban đầu . Nhưng sau đó nhờ kinh nghiệm và
bài học thực tế rút ra từ các nền kinh tế khác, các chính sách dần đã đi đúng hướng.
Với tất cả những lý do trên tôi đã lựa chọn đề tài "Thực trạng lạm phát và
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
1
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
việc sử dụng chính sách tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát trong giai đoạn hiện
nay" để lạm rõ tình hình lạm phát tại Việt Nam và tác dụng của các chính sách tiền
tệ của Ngân hàng nhà nước.
2. Mục đích nghiên cứu

Dựa trên số liệu cụ thể và diễn biến lạm phát và tác động của Nhà nước nhằm
thấy rõ được nguyên nhân gây ra lạm phát, các tác động tích cực và tiêu cực của
từng chính sách cụ thể. Từ đó dự đoán tình hình lạm phát sắp tới và đề xuất các giải
pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ để kiềm chế lạm phát hiệu quả hơn.
3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài bao gồm: các chỉ số giá và các mặt hàng, các chỉ
tiêu kinh tế vĩ mô căn bản nhằm đánh giá thực trạng lạm phát và ảnh hưởng của nó tới
nền kinh tế nói chung, các chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước, chính sách tài
khóa và chính sách khác của nhà nước có liên quan đến việc kiềm chế lạm phát hiện nay
4. Phạm vi nghiên cứu
Các số liệu tập trung nghiên cứu trong năm 2011,2012 và 2013 do Tổng cục
thống kê và ngân hàng nhà nước, Bộ tài chính chính thức ban hành. Ngoài ra còn có
các số liệu công trình nghiên cứu và nhận xét về tình hình lạm phát và biến động nền
kinh tế vĩ mô của Việt Nam do các tổ chức quốc tế như IMF, WB và các tạp chí nước
ngoài đưa ra.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là phương pháp tổng hợp, thống kê và
phân tích số liệu. Ngoài ra còn nghiên cứu tham khảo lý luận về các vấn dề căn bản của
nền kinh tế vĩ mô; từ đó kết hợp với thực tiễn để đưa ra nhận xét và lý giải đầy đủ hơn.
6. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận , gồm 3 phần chính như sau:
Chương 1: Tổng quan về lạm phát và chính sách tiền tệ
Chương 2: Tình hình lạm pháp và tác động của các chính sách tiền tệ trong
việc kiểm soát lạm phát trong thời gian qua
Chương 3: Các giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát lạm
phát giai đoạn từ nay tới năm 2015
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
2
Chuyên đề tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
1.1. Khái niệm và nguyên nhân cơ bản gây lạm phát
1.1.1.Định nghĩa
1.1.1.1.Khái niệm
Trong kinh tế học, lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của mức giá chung
của nền kinh tế. Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay
giảm sức mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát là
sự phá giá tiền tệ của một loại tiền tệ so với các loại tiền tệ khác. Thông thường
theo nghĩa đầu tiên thì người ta hiểu là lạm phát của đơn vị tiền tệ trong phạm vi
nền kinh tế của một quốc gia, còn theo nghĩa thứ hai thì người ta hiểu là lạm phát
của một loại tiền tệ trong phạm vi thị trường toàn cầu. Phạm vi ảnh hưởng của hai
thành phần này vẫn là một chủ đề gây tranh cãi giữa các nhà kinh tế học vĩ mô.
Ngược lại với lạm phát làgiảm phát. Một chỉ số lạm phát bằng 0 hay một chỉ số
dương nhỏ thì được người ta gọi là sự "ổn định giá cả"
1.1.1.2.Phân loại
Tùy theo tiêu thức dùng để phân loại lạm phát mà có các loại lạm phát khác
nhau. Thông thường người ta phân loại lạm phát trên cơ sở định lượng và định tính.
Về mặt định lượng: Đó là dựa trên tỷ lệ phần trăm lạm phát được tính trong
năm, phân theo cách này thì lạm phát có các loại sau:
Lạm phát vừa phải – Mild inflation – Là loại lạm phát ở mức một con số -
dưới 10%/năm. Loại lạm phát này được xem là là tích cực và cần thiết vì nó có khả
năng tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế.
Lạm phát phi mã – Galloping inflation – Là loại lạm phát ở mức hai đến ba
con số, từ 10% 100% 900% một năm. Loại lạm phát này tác động tiêu cực đến
nền kinh tế, với những hậu quả cực kỳ khó khăn cho đời sống kinh tế, xã hội, chính
trị trong nước.
Siêu lạm phát – Hyper inflation – Là loại lạm phát 4 con số, từ 1000 % trở lên.
Đây thực sự là một giai đoạn cực kỳ hỗn loạn, bất ổn định kinh tế xã hội và đời

sống nhân dân.
Về mặt định tính: Lạm phát được chia làm thành nhiều loại khác nhau, tùy
theo tính chất của lạm phát mà người ta chia ra các loại cơ bản sau:
Lạm phát thuần túy – Pure Inflation – Đây là trường hợp đặc biệt của lạm
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
3
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
phát, hầu như giá cả của mọi loại hàng hóa đều tăng lên cùng một tỷ lệ trong cùng
một đơn vị thời gian.
Lạm phát cân bằng – Balanced inflation – Là loại lạm phát có mức giá chung
tăng tương ứng với mức tăng thu nhập.
Lạm phát được dự đoán trước – Predicted inflation – Là lạm phát mà mọi
người có thể dự đoán trước nhờ vào sự diễn tiến liên tục theo chuỗi thời gian trong
nhiều năm.
Lạm phát không được dự đoán trước – Non Predicted inflation – Là lạm phát
xảy ra bất ngờ, ngoài sự tiên liệu của mọi người về quy mô, cường độ cũng như
mức độ tác động.
Lạm phát cao và lạm phát thấp – High inflation and Low inflation – Theo
quan điểm của Gary Smith thì lạm phát cao là mức lạm phát mà tỷ lệ tăng thu nhập
tăng thấp hơn tỷ lệ lạm phát. Ngược lại lạm phát thấp là mức tăng thu nhập tăng
tăng cao hơn mức độ tăng của tỷ lệ lạm phát.
1.1.1.3. Thước đo lạm phát
Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một
lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ
liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các
tạp chí kinh doanh cũng làm việc này). Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ
được tổ hợp với nhau để đưa ra một "mức giá cả trung bình", gọi là mức giá trung
bình của một tập hợp các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời

điểm hiện tại đối với mức giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm
gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức
giá trung bình hiện tại so với mức giá trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung
có thể coi mức giá cả như là phép đo kích thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ
tăng kích thước của nó.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của
chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số,
cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép
đo phổ biến của chỉ số lạm phát bao gồm:
Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả
sinh hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
được giả định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
không việc một CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được
xem như là "sự thiên lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự
ngang giá sức mua" để phản ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các
hàng hóa khác trong khu vực (chúng dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới
nói chung).
Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người
tiêu dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp,
những sự thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát
thông thường hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc
chuyển trả lương, do những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh
định) tăng ít nhất là bằng hoặc cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng
lao động có tính đến các điều chỉnh giá cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh
định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn

so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi lạm phát đã xảy ra).
Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không
tính đến giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp
giá, lợi nhuận và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản
xuất là không bằng với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một
sự chậm trễ điển hình giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó
trong CPI. Rất nhiều người tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có
khuynh hướng của lạm phát CPI "ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay",
mặc dù thành phần của các chỉ số là khác nhau; một trong những sự khác biệt quan
trọng phải tính đến là các dịch vụ.
Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông
thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.
Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa
chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi
nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó
là tỷ lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của
năm gốc, từ đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP
thực). (Xem thêm Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được
sử dụng rộng rãi nhất. Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
5
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
GDP như chi phí tiêu dùng cá nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang
sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán
các chính sách kiềm chế lạm phát của mình.
Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền
tệ cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng

2 năm 2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay
đổi thước đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang "chỉ số giá cả dạng chuỗi của
các chi phí tiêu dùng cá nhân".
1.1.1.4. Quan hệ giữa lạm phát, giá cả và lãi suất
Lạm phát cao sẽ ảnh hưởng tới mức giá cả và lãi suất. Bản chất của vấn đề này
là khối lượng của khối lượng tiền tệ được lưu thông tới nền kinh tế. viwf là một
lượng tài sản được sử dụng vào một mục đích trao đổi ; khối lượng tiền là khối
lượng tài sản đó. Mọi người có thể dụng những tài sản khác nhau để giao dịch . tài
sản rõ ràng nhất cần dưa vào khối lượng tiền tệ là tiền mặt tức là tiền giấy hiện có.
Loại tiền gửi thứ hai là tiền gửi không kỳ hạn tức là tài sản mọi người gửi vào tài
khaonr trong ngân hàng và có thể rút ra thanh toán bất cứ lúc nào… Vì có thể lý giải
một cách chính xác loại tài sản nào cần được tính vào thành phần của khối lượng
tiền tệ nên có nhiều chỉ tiêu khác nhau: C, M1, M2 và L. Tuy nhiên, M1 và M2
được sử dụng thông dụng nhất. M1 là tổng của tiền mặt, tiề gửi không kỳ hạn, séc
du lịch và các khoản tiền có thể viết bằng séc. M2 là tổng của M1 và lượng tiền gửi
có kỳ hạn ngắn. M2 được các nước phát triển sử dụng để tính lượng tiền cung ứng
trong đo có Việt Nam.
Người ta cần tiền để mua hàng hóa và dịch vụ. Khi cần tiền hơn để trao đổi thì
họ sẽ giữ nhiều tiền hơn. Do đó, số lượng tiền tệ trong nền kinh tế có quan hệ mật
thiết với số lượng tiền trao đổi trong các giao dịch. Khối lượng tiền tệ được xoay
vòng trong nền kinh tế( tốc độ giao dịch của nền kinh tế) chính bằng giá trị hàng
hóa giao dịch của cả nền kinh tế
Khối lượng tiền tệ * tốc độ lưu thông = Giá cả * sản lượng
M * V = P * Y ( 4)
Trong đó: M là lượng tiền cung ứng
V tốc độ chu chuyển của tiền
P giá cả các mặt hàng nói chung
Y là tổng sản phẩm quốc dân hay GDP thực tế
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8

6
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
Do đó : % thay đổi M + % thay đổi V = % thay đổi P + % thay đổi Y
Sự biến đổi của giá cả là lạm phát theo nhu định nghĩa, sự thay đổi của Y được
coi là tăng trưởng, tốc độ chu chuyển của tiền đều được coi là không đổi. Như vậy,
tốc độ cung ứng tiền mặt bằng tổng của tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát. Khi lượng
tiền cung ứng cao hơn nhiều so với lượng hàng hóa sản xuất ra, tốc độ tăng trưởng
ít trong khi tốc độ tiền cung ứng tăng thì đương nhiê tỷ lệ lạm phát tăng cao hay còn
gọi là mức độ tiền tệ hóa cao cảu một nền kinh tế. Chỉ số để đo mức dộ tiền tệ hóa
này là M2/GDP thực tế và đây cũng là một chỉ số quan trọng phản ánh quy mô
nguồn gốc luâ chuyển tiền tệ của một nền kinh tế.
Về lãi suất thì có hai loại lãi suất là lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa. Lãi
suất ngân hàng được gọi là lãi suất danh nghĩa. Và sự gia tăng sức mua tiền tệ theo
thời gian gọi là lãi suất thực. Lãi suất thực tế là thước đo hiệu quả cho chí phí vốn
của các hoạt động kinh doanh. I.Fisher ( 1887-1947) đã đưa ra phương trình quan
hệ giữa hai loại lãi suất này và lạm phát. Sự biến đổi của lãi suất dnah nghĩa phụ
thuộc vào biến dộng của lãi suất thực tế và lạm phát theo phương trình sau: = i
– r. Thông thường khi nhìn vào lãi suất niêm yết ở ngân hàng khá cao, thường thu
hút đưuọc người dân gửi tiền vì kỳ vọng lượng tiền sẽ tăng lên trong tương lai. Thế
nhưng nếu trong tương lai mức giá hàng hóa tăng cao, thậm chí cáo hơn cả mức lãi
suất đương nhiên lượng tiền này sau đó sẽ mua đươch ít hàng hóa, dịch vụ hơn so
với lúc đầu, như vậy việc hy sinh tiêu dùng hiện tại để kỳ vọng trong tương lai
không có hiệu quả. Khi đó lãi suất thực âm. Quyết định đúng đắn là tích trữ các tài
sản có giá khác thay vì gửi tiết kiệm
1.1.2. Hậu quả của lạm phát
Lạm phát không đơn thuần là sự tăng lên đơn thuần của giá cả các mặt hàng.
Đặc biệt khi tình hình lạm phát biến động ngoài dự tính lên đến hai con số như ở
Việt Nam trong giai đoạn 2007-2008, nó tạo lên sự bất thường về giá trị tiền tệ và
làm sai lệch thước đo trong quan hệ giá trị và làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh tế

xã hội.
1.1.2.1. Lạm phát tạo nên sự bất ổn cho môi trường kinh tế xã hội
Sự biến động bất thường của tỷ lệ lạm phát gây khó khăn trong việc xác định
mức sinh lời chính xác của các khoản đầu tư. Điều này tạo nên quyết định ngần ngại
khi quyết định đầu tư, đặc biệt là đầu tư dài hạn. Hơn nữa, để giữ được giá trị tài
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
sản, nhà đầu cơ thường đầu cơ vào các tài sản có giá trị để giữu được nguyên giá tài
sản ban đầu như nhà đất, vàng bạc…khiến cho thị trường này tăng giá đột ngột khó
kiểm soát nổi
Trong điều kiện lạm phát biến động, các quyết định đầu tư bị bóp méo, các
doanh nghiệp thích vay ngắn hạn hơn là các hợp đồng dài hạn luôn chứa đựng rủi ro
tiềm ẩn
Lạm phát cũng gây ảnh hưởng tiêu cực đến lao động khi các công đoàn đấu
trnh đòi tăng lương danh nghĩa. Điều này làm tăng chi phí của doanh nghiệp và làm
ngừng trệ sự tăng trưởng kinh tế.
1.1.2.2. Lạm phát phân phối lại thu nhập quốc dân và của cải xã hội
Giá cả biến động mạnh làm giảm sức mua của đồng tiền, khiến cho nhiều gia
đình bị đẩy tới mức nghèo và cần nghèo. Mức lương của công nhân chưa được điều
chỉnh trong khi giá cả các mặt hàng thiết yếu nhiều nhất thì sẽ bần cùng hóa một số
người dân. Các nhà đầu cơ thì được lợi khi giá tăng lên, điều này khiến cho phân
hóa xã hội ngày càng sâu sắc hơn.
1.1.2.3. Lạm phát làm lãi suất tăng lên
Lạm phát làm lãi suất danh nghĩa tăng lên. Lãi suất danh nghĩa được ấn định
theo công thức ở trên phụ thuộc vào lãi thực tế và tỷ lệ lạm phát dự tính. Ngân hàng
sẽ điều chỉnh lãi suất này theo biến động lạm phát trên thị trường. Trong trường hợp
lạm phát biến động mạnh, không phù hợp với lạm phát dự tính thì mức lãi suất danh

nghĩa sẽ ảnh hưởng tới mức lãi suất thực tế. Tác động đến tiết kiệm và đầu tư, cuối
cùng là tăng trưởng kinh tế. Nếu lãi suất dnh nghĩa quá cao, làm tăng chi phí huy
động vốn của doanh nghiệp, dẫn đến giảm số lượng các dự án đầu tư. Ngược lại nếu
lãi suất danh nghĩa không theo kịp
1.1.2.4. Lạm phát tác động đến cán cân thanh toán quốc tế
Nếu tỷ lệ lạm phát trong nước cao hơn nước ngoài, trong điều kiện tỷ giá cố
địnhhàng hóa trong nước sẽ trở lên đắt hơn trong khi hàng hóa nhập khẩu lại rẻ hơn
tương đối, thúc đẩy hoạt động nhập khẩu, ảnh hưởng tới cán cân vãng lai và gây áp
lực nhiều tới tỷ giá. Nếu tỷ giá được điều chỉnh nó có thể thúc đẩy mức lạm phát
cao hơn bởi giá nội địa của hàng nhập khẩu trở lên đắt hơn và đẩy mức giá chung
tăng lên
1.1.3. Nguyên nhân cơ bản gây ra lạm phát
1.1.3.1. Lạm phát do mất cân đối về cơ cấu kinh tế
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
Nguyên nhân của lạm phát là do mất sự mất cân đối về cơ cấu kinh tế, mâu
thuẫn về phân phối gây tăng giá. Điều này xảy ra khi trong nền kinh tế có xuất hiện
mối quan hệ không bình thường trong các cân đối lớn của nền kinh tế như công
nghiệp – nông nghiệp, công nghiệp nặng – công nghiệp nhẹ, sản xuất – dịch vụ,
xuất khẩu – nhập khẩu, tích lũy – tiêu dùng. Tình trạng này sẽ càng gây căng thẳng
thêm các mâu thuẫn theo cơ chế lan truyền và dẫn tới lạm phát tăng thêm. Thường
tình trạng này xảy ra ở các nước đang phát triển, đang thực hiện cải cách kinh tế,
công nghiệp hóa hiện đại hóa nhưng gặp khó khăn về cơ sở hạ tầng, nhân lực và tri
thức dẫn tới năng lực sản xuất chưa được khai thác hết, trạng thái vừa thừa vừa
thiếu xuất hiện. Biểu hiện cụ thể là: Mất cân đối giữa cung và cầu lương thực, thực
phẩm; ngoại tệ có hạn do nhập khẩu nhiều hơn xuất; ngân sách thâm hút và bị hạn
chế do thu được ít nhưng nhu cầu chi cao.

Lạm phát cơ cấu có thể viết dưới phương trình sau:
I = α. d/GDP + β. Log(GDP) + σ. Log(e) +
λ
( 5)
Trong đó: d là mức thâm hụt ngân sách nhà nước
e tỷ giá hối đoái
i là tỷ lệ lạm phát
Có thể giải thích hiện tượng như sau: Do tốc độ đô thị hóa cao, lượng đất nông
nghiệp giảm xuống trong khi nhu cầu tiêu dùng tăng lên với lượng cung hạn chế và
kết quả làm cho cầu nhiều hơn cung đẩy giá lương thực tăng cao sản xuất tăng,
nhập siêu gia tăng, ngân sách nhà nước thâm hụt do nhu cầu chi tiêu cho các dự án
xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế; các yếu tố này tạo áp lực phá giá nội tệ
và phát hành thêm tiền để bảo đảm chi tiêu
Để kiểm soát được lạm phát
Khi nền kinh tế đòi hỏi tăng trưởng cao, nhu cầu nhập khẩu phục vụ đòi hỏi
phải loại bỏ những cân đối nêu trên như phát triển sản xuất nông nghiệp; tăng
cường sản xuất các mặt hàng có thế mạnh để tăng cường xuất khẩu, cải thiện tỷ giá
và hạn chế chi tiêu chính phủ và xã hội
1.1.3.2. Lạm phát do tăng cung tiền tệ
Nguyên nhân này do trường phái trọng tiền đưa ra. Lạm phát xuất hiện khi có
một lượng tiền bơm vào trong lưu thông với khối lượng lớn hơn khối lượng cần
thiết cho lưu thông của thị trường. Khi đó, tiền nội địa sẽ mất giá,người dân không
muốn gửi tiết kiệm ở ngân hàng vì nguyên tắc lãi suất dương thường bị vi phạm,
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
9
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
hơn nữa mất lòng tin vào giá trị đồng tiền mà tích trữ ngoại tệ, vàng hoặc bất động
sản… Theo công thức (4) ta có thể suy ra được mức độ lạm phát phụ thuộc vào mức

cung tiền và mức độ tăng trưởng kinh tế. Có thể lượng hóa theo phương trình sau:
I =
δβα
++
gm
(6)
Trong đó: m là tốc độ tăng trưởng tiền tệ
G là tốc độ tăng trưởng GDP thực
Để kiềm chế lạm phát trong trường hợp này,biện pháp tốt nhất là giảm lượng tiền
cung ứng trên thị trường thông qua các chính sách tiền tệ và tài khóa của chính phủ, đông
thời nâng cao hiệu quả đầu tư vừa giúp tăng trưởng kinh tế vừa giúp giảm lạm phát
1.1.3.3. Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát cầu kéo là do tổng cầu tăng lên mạnh mẽ, vượt quá khả năng cung
ứng của xã hội, dẫn tới áp lực tăng giá cả. Bản chất của hiện tượng này là do chi
tiêu quá nhiều tiền để mua một lượng cung hàng hóa hạn hạn chế. Lý do chính là do
chính phủ, hộ gia đình hoặc các doanh nghiệp tăng nhu cầu tiêu dùng hoặc đầu tư;
cung có thể là lượng tiền lưu thông quá nhiều làm tăng nhu cầu chi tiêu đẩy giá cả
tăng cao. Tuy nhiên nếu trong điều kirnj nền kinh tế vẫn chưa đạt được sản lượng
tiềm năng thì việc tăng tổng cầu sẽ làm giá cả tăng ít trong khi sản lượng tăng nhiều
và do đó nó lại trở thành một chính sách lạm phát có hiệu quả để đẩy mạnh khả
năng sản xuất của xã hội . Đó là lý do vì sao các nước muốn duy trì một tỷ lệ lạm
phát nhỏ tương đối vì nó có vai trò làm tăng trưởng kinh tế và không ảnh hưởng
nhiều tới xã hội. Hoặc là tình trạng suy thoái mạnh, tổng cầu giảm trầm trọng, chính
phủ cần có biện pháp kích thích tổng cầu tăng lên trở lại.
H1: lạm phát do cầu kéo
Mức độ lạm phát do cầu kéo phụ thuộc vào độ co giãn theo giá của cung hàng
hóa và dịch vụ. Khi giá tăng, cung hàng hóa và dịch vụ có thể tăng nhanh và đáp
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
10

Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
ứng được tổng cầu và sẽ giảm áp lực tăng giá. Mặt khác, nếu nền kinh tế có sẵn
ngoại tệ sẽ tăng nhập khẩu các hàng hóa rẻ hơn trong nước sẽ tạo điều kiện giảm áo
lực tăng giá và không gây lạm phát.
1.1.3.4. Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát do chi phí đẩy là loại lạm phát do tăng giá cả xuất phát từ sự tăng
lên của chi phí sản xuất vượt quá mức tăng của năng suất lao động và làm giảm
mức cung ứng hàng hóa của xã hội. Chi phí sản xuất tăng có thể do các nguyên
nhân sau: Mức tăng tiền lương lao động vượt quá mức tăng nang suất lao động do
áp lực khan hiếm lao động trên thị trường, hoặc do yêu cầu tăng lương của công
đoàn hoặc do mức lạm phát dự kiến tăng lên; Giá nội địa hàng hóa nhập khẩu tăng
lên, nếu hàng hóa này được sử dụng cho nhu cầu tiêu dùng thì nó sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến giá cả nội địa, nếu nó được sử dụng như đầu vào của quá trình sản xuất thì
sẽ làm tăng giá thành sản xuất và do đó làm tăng giá tiêu dùng; Sự tăng lên của thuế
và các khoản nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, từ đó ảnh hưởng tới mức sinh lời
của hoạt động đầu tư, giá cả sẽ tăng lên để duy trì mức sinh lời thực tế.(Hình 2)

Tuy nhiên, các lý do này chỉ dẫn đến sự tăng giá trong ngắn hạn. Sau đó mức
giá sẽ trở vê vị trí cũ để duy trì mức sản lượng tiềm năng dưới cơ chế tự điều chỉnh
của thị trường. Nhưng nếu tổng cầu tăng do chính phủ điều chỉnh để ưu tiên tăng
trưởng hoặc giảm thất nghiệp sẽ tạo phản ứng mức tăng giá mới, làm cho giá tiếp
tục tăng và lạm phát kéo dài hơn.
1.2. Ngân hàng nhà nước và chính sách tiền tệ
1.2.1.Ngân hàng nhà nước
1.2.1.1. Khái niệm
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
11
Chuyên đề tốt nghiệp

Học viện Ngân hàng
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là một cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ tại
Việt Nam. Đây là cơ quan đảm trách việc phát hành tiền tệ, quản lý tiền tệ và tham
mưu các chính sách liên quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam như: phát hành
tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính sách về lãi suất, quản lý dự trữ ngoại tệ, soạn thảo
các dự thảo luật về kinh doanh ngân hàng và các tổ chức tín dụng, xem xét việc
thành lập các ngân hàng và tổ chức tín dụng, quản lý các ngân hàng thương mại nhà
nước
1.2.1.2. Chức năng của Ngân hàng nhà nước
• Ngân hàng trung ương là ngân hàng độc quyền phát hành tiền
Với vai trò phát hành độc quyền tiền trên toàn quốc như phương tiện trao đổi,
ngân hàng trung ương trực tiếp quản lý cung ứng tiền mặt. Việc quản lý mức độ
cung ứng tiền mặt là công cụ thứ nhất giúp ngân hàng trung ương điều tiết mức
cung ứng tiền tổng hợp.
Với việc độc quyền phát hành tiền thì chính phủ có thể điều chỉnh được lượng
tiền lưu thông để có thể kiểm soát lạm phát và từ đó có thể tăng giảm lãi suất để
tăng lượng cầu hay giảm lượng cầu ứng với mỗi thời điểm của nền kinh tế.
• Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của hệ thống các ngân hàng trung gian
Ngân hàng trung ương là trung tâm thanh toán, chuyển nhượng, bù trừ của các
ngân hàng trung gian.
Vì các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trong nước đều phải mở tài
khoản và kí quỹ tại ngân hàng trung ương nên hoàn toàn thực hiện được vai trò điều
tiết thanh toán giữa các ngân hàng giống như những thân chủ mua bán lẫn nhau
cùng có một tài khoản ở một ngân hàng. Vai trò này giúp ngân hàng trung ương
kiểm soát, theo dõi, quản lý hoạt động của toàn bộ hệ thống tài chính trong nước.
Mặt khác có thể quản lý được lượng tín dụng ra vào trong hệ thống tài chính vào
những thời điểm nhất định.
Ngân hàng trung ương là ngân hàng quản lý dự trữ bắt buộc của hệ thống ngân
hàng trung gian.
Dự trữ bắt buộc là tiền mặt, và tỉ lệ dự trữ bắt buộc tối thiểu là tỉ lệ % tiền mặt

trên tổng số tiền mặt do nhân dân gửi vào mà các ngân hàng thành viên phải lưu lại
trong kho tiền mặt của ngân hàng hay kí gửi tại ngân hàng trung ương, không được
cho vay hết.
Khi tỉ lệ dự trữ bắt buộc tăng lên, cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
12
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
hàng thương mại và tổ chức tài chính cũng giảm ngay tức khắc và ngược lại. Bằng
cách việc quy định tỉ lệ dự trữ bắt buộc ngân hàng trung ương quản lý một cách chặt
chẽ tốc độ và cung ứng tiền ngân hàng của hệ thống ngân hàng trung gian.
Ngân hàng trung ương là cứu cánh cho vay cuối cùng của hệ thống ngân
hàng trung gian.
Không có ngân hàng trung gian nào hoặc tổ chức tín dụng nào dám khẳng định
rằng trong lịch sử hoạt động của mình chưa hề có lúc kẹt tiền mặt. Những đợt rút
tiền ồ ạt của nhân dân ( vì lãi suất thấp, vì lạm phát cao cho nên lãi suất trở thành
âm, vì có thể những loại đầu tư khác có lợi cao hơn hoặc vì không đủ tin tưởng
vào ngân hàng…) sẽ rất dễ làm cho ngân hàng trung gian vỡ nợ vì không đủ tiền
mặt chi trả cho nhân dân. Trong trường hợp như thế khi ngân hàng trung gian không
còn chỗ vay mượn nào khác, không thu hồi về kịp những khoản vay về kịp thì nó
phải đến ngân hàng trung ương vay tiền như cứu cánh cuối cùng.
Ngân hàng trung ương cho ngân hàng trung gian vay với phương thức gọi là cho
vay chiết khấu. Đó là hình thức cho vay qua cửa sổ chiết khấu. Lãi suất của sự cho
vay này là lãi suất chiết khấu. Ngân hàng trung ương là ngân hàng duy nhất không
thể vỡ nợ hay kẹt tiền mặt, đơn giản vì nó rất mất ít thời gian đẩ in tiền mới. Cho
nên nó có thể cho ngân hàng trung gian vay khi có yêu cầu.
Ngân hàng trung gian có thể cho vay hết dự trữ bắt buộc vì khi cần thiết nó có
thể vay ngân hàng trung ương với lãi suất cũng giống như vay của nhân dân để
thanh toán cho nhân dân. Nhưng giả sử ngân hàng trung ương quy định, tuy lãi suất

cho vay của ngân hàng trung gian là 10%, nhưng nếu ngân hàng trung gian cho vay
dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc và phải vay đến ngân hàng trung ương, ngân hàng trung
ương sẽ cho vay với lãi suất 12%. Lúc đó ngân hàng trung gian sẽ cân nhắc, nếu nó
cho vay dưới tỉ lệ dự trữ bắt buộc với lãi suất chỉ 10% , thì khi kẹt thanh toán nó
phải vay lại của ngân hàng trung ương với lãi suất cao hơn. Việc lỗ trông thấy khi
vay tiền của ngân hàng trung ương sẽ buộc các ngân hàng trung gian giảm lượng
cho vay xuống, hay nói cách khác là giảm lượng cung ứng tiền ngân hàng và tăng
dự trữ để giải quyết vấn đề khi dân rút tiền.
Như vậy khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu thì sẽ làm giảm
lượng cung tiền của hệ thống ngân hàng trung gian, tức là giảm lượng cung tiền
trong toàn bộ nền kinh tế và ngược lại.
Trong vai trò cứu cánh cuối cùng với lãi suất cho mình quy định, ngân hàng
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
trung ương dùng lãi suất chiết khấu để điều tiết lượng tiền cung ứng của hệ thống
ngân hàng trung gian và của nền kinh tế. Qua đây ta thấy được đây là một công cụ
giúp chính phủ quản lý nền kinh tế một cách vĩ mô.
•Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng, đại lý và cố vấn cho chính phủ
Ngân hàng trung ương là chủ ngân hàng của chính phủ
Tùy theo đặc điểm tổ chức của từng nước, chính phủ có thể ủy quyền cho bộ
tài chính hay kho bạc đứng tên và làm chủ tài khoản ở ngân hàng trung ương. Hàng
quý, hàng năm, tiền thuế thu được và những khoản thu khác của ngân sách được gửi
vào ngân hàng trung ương để ngân hàng trung ương sử dụng và trả lãi. Khi chính
phủ cần, bộ tài chính hay kho bạc cũng phải làm thủ tục để rút tiền gửi từ ngân hàng
trung ương như một khách hàng bình thường.
Khi chính phủ thâm hụt ngân sách, chính phủ có nhiều cách bù vào như: vay
của dân bằng cách phát hành công trái, vay của nước ngoài, vay ứng trước thuế, …,

và vay của ngân hàng trung ương. Nếu vay của ngân hàng trung ương thì về nguyên
tắc có thể thế chấp bằng các loại tài sản mà chính phủ có như: chứng thư chủ quyền
tài sản, chứng khoán, vàng… Trong trường hợp chính phủ vay mà không thế chấp
thì ngân hàng có quyền từ chối. Nếu ngân hàng trung ương không từ chối được thì
nó đành phát hành tiền mặt ngoài dự kiến cho chính phủ làm cho tổng cung về tiền
tăng lên và nền kinh tế cũng sẽ biến động theo.
Thông qua vai trò là chủ ngân hàng của chính phủ với nghiệp vụ là cho vay,
ngân hàng trung ương làm thay đổi lượng tiền tệ trong nền kinh tế, nghĩa là can
thiệp vào những biến động của kinh tế vĩ mô.
Ngân hàng trung ương là đại lý của chính phủ
Với tư cách là đại lý cho chính phủ, ngân hàng trung ương thay mặt chính phủ
tổ chức thu thuế qua hệ thống ngân hàng của nó. Đồng thời nó thay mặt chính phủ
trong các thỏa thuận tài chính, viện trợ, vay mượn, chuyển nhượng và thanh toán
với nước ngoài. Ngoài ra với tư cách này nó có thể phát hành trái phiếu, cổ phiếu…
cho chính phủ kể cả trong và ngoài nước.
Bằng việc phát hành trái phiếu, cổ phiếu…ngân hàng trung ương đã làm trực
tiếp tăng (giảm) lượng cung ứng tiền cho nền kinh tế. Và thông qua đó đã làm tác
động đến kinh tế vĩ mô.
Ngân hàng trung ương là cố vấn tài chính cho chính phủ
Ngân sách có tác động khá quan trọng đến nền kinh tế vĩ mô vì nếu hoạt động
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
14
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
của ngân sách không hài hòa với chính sách tiền tệ nó sẽ làm cản trở hiệu quả của
chính sách tiền tệ trong điều tiết vĩ mô.
Với lý do trên ngân hàng trung ương phải tham gia cố vấn cho chính phủ trong
chính sách tài chính và kinh tế. Với vai trò này ngân hàng trung ương gián tiếp ảnh
hưởng đến việc cung ứng trái phiếu của chính phủ và các hoạt động chi tiêu khác

cho hợp lý với ngân sách. Đây là một cách để điều tiết kinh tế vĩ mô.
•Ngân hàng trung ương là ngân hàng trực tiếp quản lý dự trữ quốc gia
Dự trữ quốc gia bao gồm những dự trữ chiến lược cho những trường hợp khẩn
cấp như can thiệp vào điều tiết kinh tế, nhập khẩu hàng khẩn cấp để chống khan
hiếm và chống lạm phát, khi có thiên tai, chiến tranh…
Dự trữ bao gồm: vàng, tiền tệ, …. Với tư cách là ngân hàng của chính phủ,
ngân hàng trung ương được giao phó nhiệm vụ quản lý dự trữ quốc gia. Khi nắm
trong tay công cụ này ngân hàng trung ương(NHTU) có thể can thiệt bất kì lúc nào
vào thị trường ngoại tệ để giữ giá đồng tiền trong nước, hay tăng hoặc giảm giá.
NHTU với nghiệp vụ mua bán trên thị trường vàng và ngoại tệ, nó tạo ra hai tác
động quan trọng là thay đổi cung ứng tiền và thay đổi tỉ giá hối đoái của đồng tiền
trong nước. Hai điều này tác động đến tổng cầu, sản xuất, thu nhập và giá cả và
đương nhiên điều này có tác động đến kinh tế vĩ mô.
•Vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương
Mọi họat động của ngân hàng trung ương đều ảnh hưởng mật thiết đến cung
ứng tiền trong nền kinh tế. Cung ứng tiền thay đổi làm biến động giá cả, sản lượng
quốc gia, do đó một cách gián tiếp mọi họat động ngân hàng ảnh hưởng sâu sắc đến
nền kinh tế.
Ảnh hưởng của cung ứng tiền đến nền kinh tế
Sự khác biệt trong chính sách cung ứng tiền là khoảng cách giữa chính sách
cung ứng nới lỏng và chính sách cung ứng thắt chặt.
Giả sử vào thời điểm ta nghiên cứu, đường cung ứng tiền tương ứng của ngân
hàng là LS0 ứng với nhu cầu tiền trong nền kinh tế là LD. Nền kinh tế đạt bình
quân tạm thời trên thị trường tiền tệ tại điểm bình quân E0 cho biết: với mức bình
quân ấy lượng cung ứng tiền là L0 và lãi suất là R0.
Bây giờ, cho rằng ngân hàng trung ương quyết định thắt chặt cung ứng tiền để
hạn chế lạm phát (LS0 tới LS1) trong khi LD vẫn không thay đổi. Chính điều này
đã làm cho lãi suất tăng vọt từ R0 đến R1. E0 di chuyển đến E1. Lúc này tiền sẽ
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8

15
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
khan hiếm hơn (do lượng cung giảm). Tiền khan hiếm thì giá trị của đồng tiền sẽ
tăng theo do đó lạm phát sẽ giảm.
Ngược lại, giả sử sau một khỏang thời gian chống lạm phát với cái giá là sự
suy thoái (tiền khan hiếm, lãi suất cao bên cạnh đó sự thắt chặt tiền tệ của ngân
hàng khiến doanh nghiệp khó tiếp cận nguồn vốn vay), ngân hàng trung ương bắt
đầu chuyển sang cung ứng tiền nới lỏng. Tổng cung tiền tệ tăng từ LS1 lên LS2, cắt
LD tại E2, lúc này lượng tiền tệ tăng lên L2 và lãi suất giảm xuống còn R2. Lúc này
thì nền kinh tế phải đối mặt với thách thức mới là lạm phát có thể gia tăng (do có
quá nhiều tiền trong lưu thông). Vì thế cho nên mỗi lần áp dụng mức lãi suất hay
lượng cung ứng tiền ngân hàng trung ương phải đắn đo suy nghĩ những tác hại thiệt
hơn cho mỗi chính sách tiền tệ.
Chính sách cung ứng tiền nới lỏng làm cho tiền tệ trở nên dồi dào hơn. Điều
này kích thích tiêu dùng cho cuộc sống và cho đầu tư nhiều hơn. Sự gia tăng tiêu
dùng và đầu tư làm sản xuất liên tục được mở rộng, tuyển mộ thêm công nhân, giảm
thất nghiệp và gia tăng thu nhập quốc dân. Nền kinh tế tăng trưởng với giá cả tăng
cao hơn trước.
Chính sách cung ứng tiền thắt chặt làm cho chi phí để có tiền cao hơn và tiền
trở nên khan hiếm. Sản xuất thiếu vốn, người mua thiếu tiền buộc phải cắt giảm chi
tiêu và đầu tư, điều này dẫn đến tổng cầu giảm và giá cả hạ. Cái giá phải trả là sản
xuất bị thu hẹp, thất nghiệp tăng, thu nhập quốc dân giảm và nền kinh tế rơi vào
tình trạngsuy thoái.
Do đó cung ứng tiền là sức mạnh đầy quyền lực của ngân hành trung ương.
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
16
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng

Khi ngân hàng trung ương điều tiết cung ứng tiền tức là nó bắt đầu tiến hành điều
Mục tiêu và phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng cung ứng tiền của ngân
hàng trung ương.
Mục tiêu:
- Chính sách tiền tệ phải phục vụ cho mục đích đảm bảo cho nền kinh tế có
tăng trưởng, tức là giảm thất nghiệp, gia tăng thu nhập quốc dân và mở rộng tiềm
năng sản xuất, chống suy thoái…
- Chính sách tiền tệ phải hướng về ổn định giá cả: Giá cả có lạm phát thấp là
mục tiêu của mọi nền kinh tế vì mức tăng thu nhập thực tế của nhân dân sẽ dương,
do đó đời sống của người lao động sẽ tốt hơn và người dân sẽ tin chính phủ hơn.
Sản xuất sẽ có vốn với chi phí hạ và nền kinh tế sẽ có sức bật về đầu tư lâu dài, giá
trị đồng tiền nội địa sẽ ổn định.
- Phải tạo cho nền kinh tế có một nền tảng tài chính ổn định: Nền tảng tài
chính ổn định được hiểu là bằng chính sách tiền tệ, ngân hàng trung ương phải ổn
định họat động tài chính của hệ thồng tài chính trong nước một cách gián tiếp…
hướng quản lý các họat động của nó phù hợp với các mục tiêu kinh tế. Làm hài hòa
các lợi ích của các tổ chức tài chính để nó phục vụ tốt nhất cho lợi ích chung của cả
nền kinh tế.
- Góp phần mở rộng sản lượng tiềm năng của nền kinh tế: Các tiềm năng
như đất đai, tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người… mục tiêu cuối cùng của
chính sách là khai thác và phát triển các ngưồn lực một cách có hiệu quả nhất.
Các phương thức điều tiết kinh tế vĩ mô bằng điều tiết cung ứng tiền của ngân
hàng trung ương.
Mục tiêu trung gian trong điều tiết kinh tế thông qua điều tiết cung ứng tiền
Khi xem xét mục tiêu trung gian (lãi suất,dự trữ,tỷ giá) trong họat động điều
tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương, thì những mục tiêu này thực chất chỉ là
phương tiện giúp cho ngân hàng trung ương đạt được mục tiêu là điều tiết nền kinh
tế. Xét về ngắn hạn lãi suất, dự trữ, tỷ giá thay đổi ảnh hưởng một cách nhanh
chóng đến tiêu dùng và đầu tư và đến nền kinh tế. Từ đó về mặt ngắn hạn các nhà
kinh tế học xem ba tác nhân trên là những mục tiêu trung gian.

1.2.2. Chính sách tiền tệ
1.2.2.1. Khái niệm
Chính sách lưu thông tiền tệ hay chính sách tiền tệ (monetary policy) là quá
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
trình quản lý cung tiền (money supply) của cơ quan quản lý tiền tệ (có thể là ngân
hàng trung ương), thường là hướng tới một lãi suất mong muốn (targeting interest
rate) để đạt được những mục đích ổn định và tăng trưởng kinh tế - như kiềm
chế lạm phát, duy trì ổn định tỷ giá hối đoái, đạt được toàn dụng lao động hay tăng
trưởng kinh tế. Chính sách lưu thông tiền tệ bao gồm việc thay đổi các loại lãi
suất nhất định, có thể trực tiếp hay gián tiếp thông qua các nghiệp vụ thị trường mở;
qui định mức dự trữ bắt buộc; hoặc trao đổi trên thị trường ngoại hối.
Chính sách tiền tệ có thể chia làm: chính sách mở rộng và chính sách thu hẹp.
Chính sách mở rộng là tăng cung tiền lên hơn mức bình thường.
1.2.2.2. Các công cụ chính sách tiền tệ
a. Các công cụ gián tiếp
• Dự trữ bắt buộc
*. Khái niệm:
Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các TCTD buộc phải gửi tại NHTW theo luật
định. Số tiền này có thể được gửi toàn bộ vào tài khoản tiền gửi của TCTD tại
NHTW hoặc được để một phần tại quỹ tiền mặt của TCTD tuỳ theo quy định của
NHTW từng nước.
*. Cơ chế tác động
Trong hoạt động tín dụng và thanh toán, các ngân hàng thương mại có khả
năng biến những khoản tiền gửi ban đầu thành những khoản tiền gửi mới cho cả hệ
thống, khả năng sinh ra bội số tín dụng, tức là khả năng tạo tiền. Để khống chế khả
năng này, ngân hàng trung ương buộc các ngân hàng thương mại phải trích một

phần tiền huy động được theo một tỷ lệ quy định gửi vào ngân hàng trung ương
không được hưởng lãi. Do đó cơ chế hoạt động của công cụ dự trữ bắt buộc nhằm
khống chế khả năng tạo tiền, hạn chế mức tăng bội số tín dụng của các ngân hàng
thương mại.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là tỷ lệ giữa số lượng phưong tiện thanh toán cần khống
chế (bị "vô hiệu hoá" về mặt thanh toán) trên tổng số tiền gửi nhằm điều chỉnh khả
năng thanh toán và khả năng tín dụng của các ngân hàng thương mại.
Khi lạm phát cao, ngân hàng trung ương nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, khả năng
cho vay và khả năng thanh toán của các ngân hàng bị thu hẹp (do số nhân tiền tệ
giảm), khối lượng tín dụng trong nền kinh tế giảm (cung tiền giảm) dẫn tới lãi suất
tăng, đầu tư giảm do đó tổng cầu giảm và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm).
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
18
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
Ngược lại nếu ngân hàng trung ương hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc tức là tăng khả
năng tạo tiền, thì cung về tín dụng của các ngân hàng thương mại cũng tăng lên,
khối lượng tín dụng và khối lượng thanh toán có xu hướng tăng, đồng thời tăng xu
hướng mở rộng khối lượng tiền. Lý luận tương tự như trên thì việc tăng cung tiền sẽ
dẫn tới tăng giá (tỷ lệ lạm phát tăng). Như vậy công cụ DTBB mang tính hành chính
áp đặt trực tiếp , đầy quyền lực và cực kỳ quan trọng để cắt cơn sốt lạm phát, khôi
phục hoạt động kinh tế trong trường hợp nền kinh tế phát triển chưa ổn định và khi
các công cụ thị trường mở tái chiết khấu chưa đủ mạnh để có thể đảm trách điều
hoà mức cung tiền tệ cho nền kinh tế. Nhưng công cụ dự trữ bắt buộc quá nhạy
cảm, vì chỉ thay đổi nhỏ trong tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã làm cho khối lượng tiền tăng
lên rất lớn khó kiểm soát. Mặt khác một điều bất lợi nữa là khi sử dụng công cụ dự
trữ bắt buộc để kiểm soát cung ứng tiền tệ như việc tăng dự trữ bắt buộc có thể gây
nên vấn đề khả năng thanh khoản ngay đối với một ngân hàng có dự trữ vượt mức
quá thấp, thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc không ngừng cũng gây nên tình trạng không

ổn định cho các ngân hàng.Chính vì vậy sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc để kiểm
soát cung tiền tệ qua đó kiểm soát lạm phát ít đưọc sử dụng trên thế giới (đặc biệt là
những nước phát triển , có nền kinh tế ổn định).
• Tái chiết khấu
*. Khái niệm
Tái chiết khấu là phương thức để ngân hàng trung ương đưa tiền vào lưu
thông, thực hiện vai trò người cho vay cuối cùng. Thông qua việc tái chiết khấu,
ngân hàng trung ương đã tạo cơ sở đầu tiên thúc đẩy hệ thống ngân hàng thương
mại thực hiện việc tạo tiền, đồng thời khai thông thanh toán. Tái chiết khấu là đầu
mối tăng tiền trung ương, tăng khối lượng tiền tệ vào lưu thông. Do đó ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình điều khiển khối lượng tiền và điều hành chính sách tiền tệ.
Tuỳ theo tình hình từng giai đoạn, tuỳ thuộc yêu cầu của việc thực hiện chính sách
tiền tệ trong giai đoạn ấy, cần thực hiện chính sách "nới lỏng" hay "thắt chặt" tín
dụng mà ngân hàng trung ương quy định lãi suất thấp hay cao. Lãi suất tái chiết
khấu đặt ra từng thời kỳ phải có tác dụng hướng dẫn, chỉ đạo lãi suất tín dụng trong
nền kinh tế của giai đoạn đó.
*. Cơ chế tác động
Khi ngân hàng trung ương nâng lãi suất tái chiết khấu buộc các ngân hàng
thương mại cũng phải nâng lãi suất tín dụng của mình lên để không bị lỗ vốn. Do lãi
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
19
Chuyên đề tốt nghiệp
Học viện Ngân hàng
suất tín dụng tăng lên, giảm "cầu" về tín dụng và kéo theo giảm cầu về tiền tệ (nhu
cầu về giữ tiền của nhân dân giảm đi). Do đó đầu tư giảm đi dẫn tới tổng cầu giảm
và làm cho giá giảm (tỷ lệ lạm phát giảm). Trường hợp ngược lại tức là ngân hàng
trung ương kích thích tăng cung cầu tiền tệ và làm cho giá tăng (tỷ lệ lạm phát
tăng). ở các nước công cụ nghiệp vụ trực tiếp để thực hiện tái chiết khấu là thương
phiếu, hoặc các loại tín phiếu là những công cụ rất thông dụng trên thị trường tiền tệ

và thị trường vốn nhưng ở nước ta chưa có công cụ truyền thống để thực hiện việc
chiết khấu và tái chiết khấu. Mặt khác công cụ tái chiết khấu vừa có khả năng giải
quyết khả năng thanh toán vừa có khả năng mở rộng khối lượng tín dụng cho nền
kinh tế. Cho nên có thể ví công cụ tái chiết khấu là cáí bơm hai chiều vừa hút vừa
đẩy. Khi bơm đảy ra là cung thêm tiền cho nền kinh tế, khi có hiện tượng thiểu phát.
Và bơm hút vào thu hồi lượng tiền khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát.
Tuy nhiên khi NHTW ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức nào đó sẽ xảy ra
những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất chiết
khấu vì khi đó lãi suất cho vay thay đổi. Những biến động này dẫn đến những thay
đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay chiết khấu và do đó thay đổi trong cung
ứng tiền tệ làm cho việc kiểm soát cung ứng tiền tệ vất vả hơn. Đây chính là hạn
chế của công cụ tái chiết khấu trong việc kiểm soát lạm phát.
• Hoạt động thị trường mở
*. Khái niệm
Theo nghĩa gốc thì cụm từ “Nghiệp vụ thị trường mở” chỉ các hoạt động giao
dịch chứng khoá của các NHTW trên thị trường mở. Thông qua hành vi mua , bán
chứng khoán này, NHTW có thể tác động trực tiếp đến dự trữ của hệ thống Ngân
hàng và gián tiếp đến lãi suất thị trường, từ đó mà có thể ảnh hưởng đến lượng tiền
cung ứng thông qua tác động cả về mặt lượng và về mặt giá. Về lý thuyết, các
chứng khoán là đối tượng giao dịch của NHTW, có thể là chứng khoán chính phủ,
các chứng khoán được phát hành bởi các doanh nghiệp hoặc Ngân hàng gồm cả
chứng khoán ngắn hạn và dài hạn. Các chủ thể trong giao dịch Nghiệp vụ thị trường
mở có thể là Ngân hàng, các doanh nghiệp hoặc các tổ chức phi tài chính khác.
Về mặt thực tế, Nghiệp vụ thị trường mở là hành vi giao dịch của NHTW trên
thị trường mở. Xét về hình thức thì thị trường mở là thị trường giao dịch các chứng
khoán nợ ngắn và dài hạn. Tuy nhiên, khác với các khái niệm có phạm vi và công
cụ giao dịch rõ ràng như thị trường chứng khoán hay thị trường tiền tệ, thị trường
Dương Thị Hiền
Lớp: TCDNB – LTĐH8
20

×