Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

khái quát văn học thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.88 KB, 51 trang )

Văn học quá độ: khái quát văn học Việt Nam thời đổi mới
Ngân Xuyên dịch từ tiếng Anh
Dana Healy là giảng viên tiếng Việt tại Trường nghiên cứu phương Đông và
châu Phi, Đại học London.
Bài in trong sách: The Canon in Southeast Asian Literatures. Literatures of
Burma, Cambodia, Indonesia, Laos, Malaysia, the Philippines, Thailand and
Vietnam. Edited by David Smyth. First Published in 2000 by Curzon Press.
Chính trị đã vẫn đang là một trong những yếu tố có ý nghĩa nhất quyết định
sự tạo lập chuẩn mực văn học hiện đại ở Việt Nam. Ngay trước khi tuyên bố độc
lập và thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1945, ban lãnh đạo chính
trị mới đã đề ra đường lối văn hóa chính thức từ đó điều hành sự phát triển văn học
Việt Nam(1). Tuy nhiên, năm 1986 Đảng Cộng Sản Việt Nam đã chấp nhận
chương trình Đổi Mới; điều này tạo ra một sự thay đổi quan trọng trong hoàn cảnh
chính trị đất nước và nó đã có tác động đến các hoạt động văn hóa văn học.
Bài viết này nhằm phân tích sự phát triển của văn xuôi Việt Nam từ năm
1986. Phần một xem xét phạm vi nới lỏng của những chính sách văn hóa chặt chẽ
trước đổi mới và đo lường mức độ tự do ngôn luận mà các nhà văn hiện đại được
hưởng. Nó cũng đưa ra cái nhìn chung về thái độ chính thống đối với văn học thời
đổi mới thông qua việc xem xét lại các tài liệu chủ yếu chỉ đạo các hoạt động văn
học và nhận diện vai trò của văn học và nhà văn ở Việt Nam hiện nay. Phần hai
phân tích một số thay đổi trong văn học Việt Nam như là kết quả của quá trình đổi
mới và được thể hiện ở các chủ đề mới cũng như ở cách tiếp cận mới đối với các
chủ đề cũ.
Dẫn luận
Từ năm 1940 tiến trình văn học Việt Nam diễn ra dưới sự lãnh đạo của ĐCS.
Văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa thường là dự đoán trước được và hiếm khi có
gì bất ngờ, cách tân. Lúc nào cũng vậy, nó chỉ được phép viết về những chủ đề và
đề tài "phải đạo". Trong văn cũng như trong thơ các nhân vật chính diện và phản
diện đều theo khuôn mẫu và hầu hết các tác phẩm chỉ nêu lên những vấn đề và giải
pháp theo đúng yêu cầu. Nhiều nhà văn dần dần phản ứng lại việc cứ lặp đi lặp lại
mãi những đề tài cũ. Nếu trong thời chiến các tác giả dễ chịu sự lãnh đạo vì toàn xã


hội đang phải sống trong hoàn cảnh "đặc biệt" cần những biện pháp đặc biệt, thì
khi xã hội đã trở lại thời bình, họ bắt đầu trăn trở và háo hức muốn được khơi dòng
chảy cho năng lực sáng tạo của mình. Nhưng thật khó đưa ra được những quan
niệm mới mà không bị lên án là sai đường lối và do đó phải hứng chịu sự phê phán
của Đảng và các quan chức lãnh đạo. Đầu những năm 1980 tâm lý bất bình và vỡ
mộng đã tăng lên mạnh mẽ, và dần dần một số nhà văn đã dũng cảm dám lên tiếng
phê phán công khai.
Khi đại hội VI ĐCSVN bật đèn xanh cho đổi mới, các nhà văn không đưa
bút kịp với sự hăm hở đón nhận sự tự do ngôn luận vừa được nới rộng. Một loạt
bài viết và nghiên cứu xuất hiện xét lại văn học trước đây qua sự đi sâu phân tích
phê phán. Những cuộc tranh luận sôi nổi về vai trò của văn học và vị trí của nhà
văn trong xã hội bắt đầu xuất hiện trên cả các báo chí văn học có từ lâu hay mới ra
đời, và cuộc luận chiến cũ giữa hai phái tư tưởng "nghệ thuật vị nghệ thuật" và
"nghệ thuật vị nhân sinh" được hâm nóng lại. Sau nhiều năm bị buộc phải im tiếng,
nay các nhà văn vui mừng tận hưởng cơ hội được bàn luận công khai. Tiếp đó là
các nghiên cứu đi sâu tìm hiểu văn học trong xã hội cộng sản; các tác giả cố gắng
chỉ ra những vấn đề và sự bần cùng của cuộc sống khi những câu khẩu hiệu và
những lời hoa mỹ thế chỗ lòng tin và tình cảm trung thực, chân thành. Một trong
những sự công kích thẳng thắn nhất thuộc loại này là bài "Hãy đọc lời ai điếu cho
một giai đoạn văn nghệ minh họa" (2) của Nguyễn Minh Châu. Bài này đăng trên
báo Văn Nghệ, cơ quan chính thức của Hội Nhà Văn Việt Nam, trong đó tác giả
nêu lên rằng nhiều tác phẩm văn học trước đây chỉ "minh họa" cho đường lối chính
trị đúng đắn. Tháng 10/1987, trong cuộc gặp gỡ Nguyễn Văn Linh, nhiều văn nghệ
sĩ đã bày tỏ thái độ bất bình của họ. Ít lâu sau, ngày 28/11/1987, một văn kiện quan
trọng nêu lên những nguyên tắc cho việc đổi mới trong lĩnh vực văn hóa và đề ra
đường lối chỉ đạo sự phát triển tương lai đã được công bố. Đó là Nghị quyết 05 của
Bộ chính trị BCHTWU ĐCSVN nhan đề "Đổi mới và nâng cao sự lãnh đạo và
quản lý văn hóa văn nghệ lên một bước phát triển cao hơn" (3). Nghị quyết viết:
Tự do sáng tạo là điều kiện sống còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn
hóa văn nghệ và để phát triển tài năng Tác phẩm văn nghệ không vi phạm pháp

luật, không phản động (chống lại dân tộc, chống lại chủ nghĩa xã hội, phá hoại hòa
bình), và không đồi trụy (truyền bá tội ác, sự sa đọa, phá hoại nhân phẩm) đều có
quyền được lưu hành và đặt dưới sự đánh giá, phán xét của công luận và sự phê
bình.
Các nhà văn được khuyến khích "quan sát và sáng tạo" khi Nghị quyết viết
rằng "tự do sáng tạo phải đi đôi với tựï do phê bình" và nêu lên cam kết "trân trọng
nhân cách, tài năng và sự độc đáo của văn nghệ sĩ, chu đáo, tế nhị, chân tình trong
quan hệ, đối xử, có cách làm việc đối với từng cá tính sáng tạo". Nghị quyết đã
chính thức bảo đảm quyền tự do diễn đạt. Dù còn những hạn chế, văn kiện này là
một bước tiến lớn. Sự tuyên truyền chính trị ầm ĩ cho chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa đã bị bỏ qua và "chủ nghĩa phê phán xây dựng" được cổ vũ phơi bày các
mặt tiêu cực trong đời sống xã hội Việt Nam. Xét cho cùng, Đảng nói, chúng ta
đều là con người và đều có sai lầm; chúng ta phải thẳng thắn thừa nhận là có tham
nhũng, có đĩ điếm, có nghiện hút
Các nhà văn không cần phải nói nước đôi nữa; họ bắt đầu say sưa tận dụng
sự tự do mới này và nhờ đó làm hồi sinh hoạt động văn học ở Việt Nam. Những
năm tiếp đó là thời kỳ tự do và hứng khởi nhất. Báo chí được mở cửa tăng lên về
số lượng làm tăng thêm đầu ra cho các tác giả công bố tác phẩm và mở rộng phạm
vi cho các cuộc tranh luận văn học. Gần như tỉnh nào cũng có tờ tạp chí riêng của
mình về văn hóa văn nghệ
Nhưng khi càng có thêm nhiều nhà văn gia nhập hàng ngũ phê phán xã hội
Việt Nam thì các nhà chính trị bắt đầu quan tâm để sự "tự do" mới này không đi
quá xa. Sửng sốt và sợ hãi trước sự hăm hở tích cực của các nhà văn khai thác hoàn
cảnh mới, Đảng cảm thấy buộc phải nghĩ lại đường lối của mình. Dần từng bước,
nhưng ngày càng trở nên rõ ràng, là mọi thay đổi về tự do ngôn luận và diễn đạt có
những giới hạn không thể vượt qua. Do đó mọi ấn phẩm mới, mọi cuốn sách và bài
viết có tìm tòi này khác phải chờ quyết định chính thức có cho phép được ra hay
không. Không được phê phán chính trị, không được công kích hay dù chỉ là băn
khoăn về hệ thống một đảng. Đấy là những quy tắc chủ đạo vạch ranh giới cho các
hoạt động sáng tạo được khuyến khích. Các nhà văn thẳng thắn nhất thành những

người ly khai; nhiều tổng biên tập báo bị mất chức; nhiều cuốn sách bị cấm. Dương
Thu Hương bị bỏ tù, nhiều nhà văn khác bị hạch sách, đe dọa. Thông điệp đã rõ
ràng: có những giới hạn không thể bị vượt qua. Cuộc bàn luận chính thức là về
việc Đảng lãnh đạo văn học thế nào, chứ không phải là nó có nên lãnh đạo hay
không, có quyền lãnh đạo hay không.
Nhân dịp Đại hội lần thứ V Hội Nhà Báo Việt Nam năm 1989, báo Nhân
Dân đăng bài xã luận viết:
trong sự nghiệp đổi mới, báo chí có trách nhiệm tuyên truyền đường lối
chính sách của Đảng, đi sát hiện thực, nhanh chóng đưa tin và phân tích sâu sắc
những hiện tượng mới để tạo nên dư luận lành mạnh và thúc đẩy quần chúng hăng
hái thực hiện các nhiệm vụ cách mạng khác nhau như Nghị quyết đại hội VI của
Đảng đã đề ra (4).
Bài báo này cũng nhắc lại rằng "báo chí phải là cơ quan của Đảng và diễn
đàn của nhân dân", trong khi Hiến Pháp mới của nước CHXHCNVN thông qua
năm 1992 khẳng định:
Nhà nước quản lý toàn diện các hoạt động văn hóa. Nghiêm cấm việc tuyên
truyền các tư tưởng phản động và đồi trụy, các phong tục lạc hậu và mê tín dị
đoan.
Đại hội VII ĐCSVN diễn ra trong bầu không khí hết sức khác. Nó tái khẳng
định lập trường của Đảng và lại nhấn mạnh thái độ không khoan nhượng đối với tự
do văn học. Thực tế, khi đánh giá lại tình hình từ sau đại hội VI, đại hội VII đã cho
thấy Nghị quyết 05 đã không xác định đầy đủ vai trò mới của đảng trong văn học.
Trong bài phát biểu tại hội nghị bốn BCHTU khóa VII (4 - 14/1/1993), tổng bí thư
Đỗ Mười nói:
Những quan điểm lệch lạc và những hiện tượng tiêu cực đã len vào lĩnh vực
văn học nghệ thuật Văn học nghệ thuật là một bộ phận của công cuộc đổi mới do
đảng thực hiện và giám sát. Chúng ta cần nắm vững quan niệm của chủ tịch Hồ
Chí Minh coi văn học nghệ thuật là một mặt trận và các văn nghệ sĩ Việt Nam là
những chiến sĩ trên mặt trận đó Chúng ta cần phải kiên quyết đấu tranh chống lại
các thứ nọc độc văn hóa và phải đẩy lùi triệt để các hiện tượng tiêu cực và các

khuynh hướng lệch lạc đang diễn ra trong văn học nghệ thuật.
Trong khi năm 1987 các nhà văn được khuyến khích phê phán, thì nay đảng
tỏ ý không bằng lòng với việc họ nặng về phơi bày các hiện tượng tiêu cực trong
cuộc sống của đất nước mà bỏ qua hoặc ít chú ý đến những sự phát triển tích cực.
Nghị quyết hội nghị trung ương bốn (khóa VII) nhan đề "Về một số nhiệm vụ văn
hóa văn nghệ những năm trước mắt" (5) đã nêu lên những công việc để phát triển
văn học nghệ thuật cuối những năm 1990 và tái khẳng định địa vị lãnh đạo của
đảng về các vấn đề văn hóa. Góp phần mới nhất cho cuộc tranh luận đang diễn ra
là của ông Phạm Văn Đồng, cựu thủ tướng Việt Nam. Trong cuốn sách mới của
mình, "Văn hóa và đổi mới" (6), ông nhắc đi nhắc lại và nhấn mạnh những nguyên
tắc đã quá nhàm chán trước đây: mối quan hệ chặt chẽ giữa văn hóa và chủ nghĩa
Marx và niềm tin vào di sản và các giáo lý của Hồ Chí Minh.
Đại hội V Hội Nhà Văn Việt Nam khai mạc ngày 14/3/1995 chỉ ra "một số
quan niệm trong văn học hiện nay, cụ thể là sự xuất hiện xu hướng phủ nhận quá
khứ vinh quang và cách mạng". Về lý luận phê bình, đại hội nhận xét "trong những
năm gần đây đã diễn ra cuộc đấu tranh thực sự giữa đổi mới trên cơ sở thành tựu
văn học cách mạng và khuynh hướng "đổi mới" cực đoan phủ nhận quá khứ, đánh
giá lại nền văn học gắn bó với số phận toàn dân tộc hơn 50 năm qua" (7).
Những thay đổi quan trọng đã diễn ra trong văn học Việt Nam và một giai
đoạn phát triển mới đã bắt đầu. Tuy nhiên, vấn đề quan hệ giữa chính trị và văn
hóa vẫn chưa được giải quyết. Nhà nước tổ chức và quản lý mọi hoạt động văn hóa
và chỉ bảo cho nhà văn phải viết ra sao. Thế là diễn ra cái trò mèo vờn chuột giữa
các nhà văn cố chuyển tải thông điệp của mình thông qua những hình tượng ẩn dụ
tinh vi để tránh bị cấm và đảng tìm cách kiểm soát văn học trong khi vẫn giữ cho
mọi người cảm thấy hài lòng với cái gọi là "tự do sáng tạo". Nhưng có thể nói rằng
văn học đổi mới đã sinh sắc hơn, đa dạng hơn và cách tân hơn và hoạt động văn
học đã có bước tiến. Thậm chí trong giới hạn bị các quan chức giám hộ áp đặt,
nhiều nhà văn vẫn tìm được cách truyền đi thông điệp của mình. Sự thể nghiệm
sáng tạo và nghệ thuật trong văn học đổi mới không bung ra mạnh vì các nhà văn
phải tự giữ mình, sợ những đòn thù chính trị. Phần đông các tác giả Việt Nam

không để ý đến các vấn đề chính trị; họ quan tâm chính đến sự tự do ngôn luận và
diễn đạt, thoát khỏi mọi quy tắc luật lệ bóp nghẹt sáng tạo.
Có một phương diện quan trọng khác ảnh hưởng tới văn học Việt Nam hiện
đại. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường đã đặt ra cho các nhà văn những vấn
đề mới như kinh phí bị cắt giảm hoặc không còn được cấp buộc các nhà xuất bản
phải tính đến lợi nhuận và tự trang trải. Họ buộc phải xuất bản những ấn phẩm
nặng tính thương mại như các truyện tình, truyện kinh dị, truyện giật gân, truyện
đời tư các ngôi sao ca nhạc, để lôi kéo sự chú ý, và tất nhiên cả tiền bạc, của độc
giả.
Trong khi đó nhiều tác phẩm trước đây được đánh giá lại. Nhiều tác giả hồi
trước không được nhắc đến và bị loại ra khỏi sách giáo khoa và các bộ sử văn học
nay được phục hồi và nhìn nhận lại thỏa đáng hơn. Lấy thí dụ trường hợp các nhà
văn Tự Lực Văn Đoàn, một văn phái hồi những năm 1930. Trước 1986, sách của
các nhà văn này không được xuất bản và nói đến, họ chỉ được nhắc vài câu trong
các sách sử văn học. Bây giờ các hiệu sách đầy sách của họ. Đối với nhiều thanh
niên Việt Nam đây là dịp đầu tiên đọc các tác giả này và đánh giá văn chương của
họ. Quả thật, một điều mỉa mai là các sách đó còn được đưa vào tủ sách đặc biệt
dành cho thiếu nhi.

Đặc điểm văn học đổi mới
Ở trên chúng ta đã nói tới bối cảnh chính trị bao quanh nhà văn Việt Nam và
những giới hạn áp đặt lên họ. Bất chấp những trói buộc đó, văn học hiện đại Việt
Nam vẫn khởi sắc, sinh động và chắc chắn là đa dạng hơn thời chưa đổi mới. Các
nhà văn hướng đến những chủ đề khác nhau và chiến đấu trên nhiều mặt trận khác
nhau. Độc giả hàng chục năm qua quen chấp nhận mọi điều đặt ra trước họ không
cần băn khoăn ngờ vực, nay buộc phải suy nghĩ, so sánh, vận dụng đầu óc và tham
gia vào quá trình sáng tạo.
Ngay đầu những năm 1980 đã có một vài tác phẩm xuất hiện báo hiệu xu
hướng thay đổi sẽ được phát triển tự do hơn từ sau 1986. Những tác phẩm như Gặp
gỡ cuối năm (1981) của Nguyễn Khải, Cù lao Tràm (1988) của Nguyễn Mạnh

Tuấn, Mùa lá rụng trong vườn (1986) của Ma Văn Kháng hay một số truyện ngắn
của Nguyễn Minh Châu như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành cho thấy đã có
một luồng gió mới thổi vào văn học Việt Nam và đó là những người báo hiệu của
văn học đổi mới thực sự. Các nhà văn tiêu biểu nhất của văn học đổi mới là Dương
Thu Hương, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Nguyễn Duy. Họ
không chỉ là những tác giả nổi tiếng nhất thời kỳ này, mà còn là những nhà cách
tân và thực nghiệm táo bạo nhất, gây tranh cãi nhất, không khoan nhượng nhất.
Một trong những đặc điểm đáng chú ý nhất của nhiều tác phẩm hiện đại là
mức độ phê phán cao đối với cuộc sống thường ngày. Sau nhiều năm tụng ca hiện
thực, nhiều năm ca ngợi và tự ca ngợi, cũng như hô hào một thứ lạc quan phi lý,
các nhà văn bây giờ đã vứt bỏ bức tranh lý tưởng hóa hiện thực và đưa ra một cái
nhìn điềm đạm hơn về cuộc sống.
Có một sự thay đổi lớn từ những đề tài về cuộc sống tập thể sang cuộc sống
cá nhân. Trong khi văn học trước đây chú trọng vào các phong trào chung, các
chiến dịch, và toàn thể xã hội, thì các tác phẩm hiện nay đi sâu vào khai thác tâm lý
cá nhân và các vấn đề liên quan đến cá nhân. Trong khi trước đây vai trò cá nhân
thường bị rút lại ở bản "lý lịch chính trị" (mượn cách nói của Trần Đạo/Phan Huy
Đường (8)), thì các nhà văn hiện nay cố gắng vẽ ra bức chân dung tâm lý phức tạp
cho các nhân vật của họ. Kinh nghiệm của cá nhân giờ đây cũng được coi là có giá
trị và thích hợp như kinh nghiệm của toàn xã hội.
Một số mặt của xã hội Việt Nam truyền thống cũng biến chuyển mạnh trong
mấy năm qua. Tiền bạc đóng vai trò chi phối trong đời sống khi nền kinh tế chuyển
sang thị trường. Đạo đức truyền thống theo Nho giáo đã bị xuống cấp nghiêm
trọng. Thế hệ trẻ chấp nhận các giá trị khác, do đó thường xung khắc với thế hệ
già. Sự cố kết và thống nhất của gia đình đã bị suy yếu. Vai trò của phụ nữ trong xã
hội thay đổi. Hôn nhân theo xếp đặt bị phản đối, ly hôn được xã hội chấp nhận
rộng rãi hơn. Những thay đổi này đã được nói đến trong nhiều tác phẩm, ví như
Bên kia bờ ảo vọng (1987), Những thiên đường mù (1988), Chuyện tình kể trước
lúc rạng đông (1986) của Dương Thu Hương, Tướng về hưu (1988) của Nguyễn
Huy Thiệp hay Mảnh đất lắm người nhiều ma (1990) của Nguyễn Khắc Trường,

tác phẩm mô tả sự kình địch giữa hai dòng họ ở làng quê. Trong Những thiên
đường mù (1988) Dương Thu Hương đã thể hiện thành công xung đột giữa những
mối liên hệ và giá trị trong gia đình và sức ép do những thay đổi ngoài xã hội dội
vào. Quyền gia trưởng theo luân lý nho giáo được phản ánh trong quan hệ giữa
Quế và Chính. Những hành động của Chính, một đảng viên, được tha thứ chỉ thuần
vì ông ta là người mang vác truyền thống gia đình.
Nhiều nhà văn đã quay về lịch sử Việt Nam tìm chủ đề và đề tài. Họ thường
dọi cái nhìn mới vào những vấn đề quan trọng của quá khứ. Thí dụ Dương Thu
Hương nhìn lại hậu quả khủng khiếp của cuộc cải cách ruộng đất hồi những năm
1950. Bà ngờ vực lợi ích của phong trào hợp tác hóa và hướng sự chú ý tới nhiều
bi kịch cá nhân do nó gây ra. Cuộc đời ba nữ nhân vật chính trong Những thiên
đường mù đã bị tan nát, trực tiếp hay gián tiếp, bởi hậu quả của cải cách ruộng đất.
Cuốn tiểu thuyết của bà đã lôi ra tệ tham nhũng và đầu cơ trục lợi của các cán bộ
cộng sản, sự dốt nát và mù quáng của họ trước cái "thiên đường" họ đang sống.
Nguyễn Huy Thiệp cũng thường quay về lịch sử và dùng nó để nêu lên những nhận
định đáng giá về hiện tại. Tác phẩm của ông đã gây phản ứng kịch liệt và dấy lên
cuộc tranh luận sôi nổi giữa phái ủng hộ và phái phỉ báng. Ông xuất hiện trên văn
đàn đổi mới ngay lập tức sau Đại hội Đảng VI với cái nhìn phê phán mạnh mẽ.
Ông chủ yếu viết truyện ngắn, thể loại cho phép ông nêu lên nhiều vấn đề khác
nhau và gắn với nhiều chủ đề. Vốn là một giáo viên dạy sử, ông không chỉ biết các
thực tế lịch sử, mà còn biết cả những cách giải thích lịch sử khác nhau, biết những
huyền thoại và những dối trá được dựng lên quanh một số nhân vật và sự kiện lịch
sử. Ông thường chọn nhân vật của mình từ sử Việt và nêu lên những nghi vấn về
vai trò của các nhân vật lịch sử do các sử quan ngày nay đưa ra. Giới chính thống
Việt Nam không thích các điều bị lật lại như thế. Họ thích có những nhân vật chính
tà đã phân định rõ ràng và ghét những tính cách phức tạp. Nguyễn Huy Thiệp là
nhà văn bắt độc giả phải tham gia tích cực vào quá trình sáng tạo. Ông đưa ra câu
truyện và buộc độc giả phải nghi ngờ sự thực, rồi tự rút ra kết luận của mình. Ham
mê thần tượng là điều ông không thể chấp nhận.
Lịch sử Việt Nam là một lịch sử gần như triền miên chiến tranh và tranh

đấu. Vì vậy không có gì ngạc nhiên khi chiến tranh trở thành một chủ đề thường
xuyên và bao trùm khắp văn học Việt Nam. Phần lớn nhà văn đều là lính hoặc đã
sống cùng lính và biết rõ cuộc sống quân ngũ. Văn học trước đổi mới thiên về tụng
ca chiến tranh và thể hiện nó là cơ hội bộc lộ tình yêu đất nước. Không có cuộc
sống riêng; cuộc sống là chiến tranh, gia đình được thay bằng đơn vị, đồng đội
thay cho anh chị em. Chiến tranh chi phối cuộc sống mọi người ngay cả khi nó đã
kết thúc; cả người lính và người dân đều thấy khó thích nghi được với cuộc sống
thời bình, khó tự thu xếp được cuộc sống riêng và khó tự quyết định hơn là vâng
lệnh. Đã có bước chuyển quan trọng tách khỏi chiến tranh như một đề tài chung
được lặp đi lặp lại trong văn học; điều này không có gì ngạc nhiên khi ký ức chiến
tranh tuy vẫn còn mạnh nhưng đã bắt đầu phai nhạt dần trước những vấn đề mới
bùng ra rộng lớn. Gần mười năm trôi qua kể từ khi cuộc chiến của Mỹ ở Việt Nam
kết thúc là khoảng thời gian đủ cho các nhà văn nhìn lại nó từ một viễn cảnh mới.
Và ở đây cũng lại số phận cá nhân gây được sự quan tâm nhất.
Khi Bảo Ninh xuất bản cuốn tiểu thuyết Thân phận của tình yêu (1990, tên
này sau được đổi thành Nỗi buồn chiến tranh 1991), ông đã đặt ra trước độc giả
một hình ảnh cuộc chiến rất khác với nhiều tác phẩm trước đây. Cuốn tiểu thuyết
của ông là một trong những bản kết toán chiến tranh xúc động nhất được viết bằng
tiếng Việt từ trước đến nay. Đó là bức tranh hiếm hoi về cuộc chiến (và cả giai
đoạn hậu chiến) trong văn học Việt Nam bóc trần sự tụng ca chiến tranh. Không có
người thắng kẻ bại trong cuộc chiến của Bảo Ninh. Kiên, nhân vật chính của tác
phẩm, không hề là một anh hùng. Anh không thể thoát khỏi được cuộc chiến, cứ bị
ám ảnh bởi những "hồn ma" của quá khứ nhắc anh nhớ lại những việc đã xảy ra
trong chiến tranh. Buồn bã, sầu muộn, rối loạn, mất mát, không sống được cuộc
sống bình thường - đấy là những tình cảm của "thế hệ lầm lạc" các chàng trai cô
gái Việt Nam, nó cướp đi tuổi trẻ và sự hồn nhiên của họ, làm cho họ không thể
nào trở lại cuộc sống như trước chiến tranh được nữa. Ngay dù cho sự nghiệp là
chính nghĩa thì cũng chẳng vinh quang gì cái việc giết chóc và đau khổ. Chiến
tranh mang lại nỗi đau, và cả vinh quang chiến trận cùng những tấm huy chương
đều không thể bù đắp được cho những cuộc đời rùng rợn và tan hoang. Những

người sống sót qua chiến tranh, "người chiến thắng", trong bản kết toán của Bảo
Ninh, trở thành "những nạn nhân" bị ám ảnh bởi quá khứ. Cuốn tiểu thuyết của ông
là sự mô tảcuộc chiến tranh đầy xúc động, đậm tính nhân văn, tương phản gay gắt
với hình ảnh thắng lợi khải hoàn thường thấy nhan nhản trong văn học Việt Nam.
Các tác phẩm viết theo lối hiện thực xã hội chủ nghĩa thường nhấn mạnh đến tài
thao lược của các nhà lãnh đạo và khí thế nhân dân tham gia cuộc chiến đấu giải
phóng Tổ Quốc. Bảo Ninh vượt qua các chiến thuật và chiến dịch; ông quan tâm
đến con người. Cuốn tiểu thuyết trở thành sách bán chạy. Năm 1991 nó được giải
thưởng Hội Nhà Văn và nổi tiếng ở nước ngoài. Thế nhưng vẫn có nhiều người
khó chịu với bản kết toán chiến tranh ảm đạm ấy. Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành
lập quân đội nhân dân Việt Nam (1994), đã có một vài bài viết điểm lại chủ đề
chiến tranh trong văn học Việt Nam. Trong bài "Mấy suy nghĩ về văn học thể hiện
chiến tranh cách mạng", Mai Ngữ rõ ràng đã ám chỉ tác phẩm của Bảo Ninh khi
viết:
Đáng tiếc là có những người đã mô tả cuộc chiến tranh yêu nước suốt 30
năm của dân tộc không đưa lại gì ngoài sự chết chóc đổ máu và coi những người
lính chúng ta như nạn nhân Theo họ cái chết là điều vô nghĩa và ghê tởm, và
ngược với điều cả dân tộc suy nghĩ, kết quả chiến tranh không có gì ngoài nỗi buồn
(9).
Và ông ta viết thêm: "Những tác phẩm như thế lại được dịch và xuất bản ở
nước ngoài (nơi không biết gì về cuộc chiến tranh của chúng ta!) và thậm chí
chúng còn được giải thưởng!". Đây không phải là trường hợp duy nhất. Bức tranh
cuộc chiến bị lột bỏ vinh quang vẫn là điều khó chấp nhận với nhiều người. Bảo
Ninh từ chối tụng ca thắng lợi Việt Nam đã giành được: đối với ông, ai cũng là
người thua cuộc. Những người lính trẻ trong Tiểu thuyết vô đề (1990) của Dương
Thu Hương cũng bị đối mặt với một nhận thức không khải hoàn và không tụng ca
như thế.
Những người sống qua chiến tranh còn phải đối mặt với một vấn đề khác -
làm thế nào thích nghi với hòa bình. Nhiều người già nửa đời trận mạc ở rừng. Họ
học được cách chiến đấu, vâng lệnh và học cách quên đi cuộc sống riêng. Làm sao

họ trở lại được cuộc sống bình thường bây giờ. Trong truyện "Tướng về hưu" một
cựu chiến binh rời chiến trường về sống cuộc đời tẻ nhạt, nhàm chán, rốt cuộc ông
đã túm lấy cơ hội để trở lại mặt trận. Tiểu thuyết Bến không chồng (1990) của
Dương Hướng phản ánh cuộc đời bi kịch của những người phụ nữ trẻ bị chiến
tranh hủy hoại.
Xét về mặt hình thức, văn học đổi mới có nhiều cách tân. Một số nhà văn
theo chủ nghĩa hiện thực phê phán, số khác theo chủ nghĩa hiện đại hoặc hậu hiện
đại. Các thủ pháp dịch chuyển liên tục thời gian và không gian, dùng hình thức
nhật ký, tạo nhiều cái kết khác nhau, xen các đoạn trích dẫn, sử dụng ngôn ngữ
thẳng thắn, thực tế, khác với lối khoe khoang của những khuôn sáo chính trị, đều
được vận dụng làm cho văn học hiện nay hấp dẫn và mới mẻ.

Kết luận
Văn học Việt Nam hiện nay là một nền văn học quá độ. Nó đã rời bỏ bến
cảng được canh gác chặt chẽ nhưng dễ nương náu của chủ nghĩa hiện thực xã hội
chủ nghĩa và ra khơi thám hiểm. Nó đã khám phá thấy cái mới và chưa biết, nhưng
đồng thời nó cũng đang phải đương đầu với thời tiết khắc nghiệt bất thường của
biển cả. Vấn đề là để xem chuyến đi có được tiếp tục không hay nó buộc phải rời
bỏ hải trình.
Ngân Xuyên dịch từ tiếng Anh.

Chú thích:
1. Đề cương văn hóa Việt Nam, 1943.
2. Văn Nghệ, số 49 - 50, 1987.
3. Nhân Dân, 5/12/1987, tr. 1.
4. Nhân Dân, 16/10/1989, tr.1.
5. Văn Nghệ.
6. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1994.
7. VNA News Agency, 12/3/1995.
8. Trần Đạo, A Work of Art, Đoàn Kết, 1988.

9. Nhân Dân, 24/12/1994.


________________________________________

Nguyễn Vy Khanh
Thơ Hôm Nay

Trong bài này chúng tôi thử phác họa chân dung thơ Việt Nam hôm nay và
những chặng đường vừa vượt qua hoặc đang được thử nghiệm. Thi ca có những
sáng tạo văn chương, những cái mới, có thể gây bối rối và ồn ào lúc đầu nhưng có
khả năng sống còn với thời gian, được đón nhận, nhưng cũng có những cái mới lạ
gây nghi vấn, chống đối và cũng có những cái bất cập, trở lùi quá độ! Một bài thơ
có thể là một văn kiện lịch sử văn hóa thì việc nhìn lại thi-ca một thời cũng có thể
là một thái độ tích cực về một giai đoạn đã qua!
Thi-ca, trò chơi ngôn ngữ
Trước hết, thử ghi nhận những "cách tân" trong làng thi ca Việt trong cũng
như ngoài nước từ hơn hai thập niên qua, bắt đầu với thơ lục bát, gia tài riêng của
thi ca Việt, được tiếp tục làm mới, cái Ta được biến thể và cập nhật.
Nhà thơ Du Tử Lê tiếp tục thử nghiệm thể loại lục bát mà ông đã bắt đầu
trước 1975. Ông cắt nát, chấm câu, xuống hàng, bỏ quên bằng trắc, nhịp thơ 6, 8
đổi theo, v.v mà câu tiêu biểu thường được nhắc nhở là "tôi Lê. Lê. Lê. Lê nào?",
câu 6 chấm dứt cuối bài Tôi Nào? thuộc tập Sông Núi Người Thơm Nỗi Nhớ Nhà
(1995, tr. 112). Với thơ lục bát, Du Tử Lê đã "khủng bố ngôn ngữ", nói như Bùi
Bảo Trúc (1). Ngoài ra, Du Tử Lê đưa ra quan niệm hoán vị (conversion concept)
với gạch chéo slash / làm phương tiện. Theo đó, nhịp đi của câu thơ được/bị ngắt
lại; tính và chiều đi tới của câu thơ bị/được cởi bỏ để thơ có tự do chuyển động hai
chiều và hoán vị, với ý sau này, ông tạo cơ hội cho người đọc thực sự trở thành tác
giả thứ hai (2) :
"Và, ngày cù sương: bay lên / nắng thâu phế liệu; em truyền nhiễm, thơ / ( )

và chiều cù ta: chìm, rơi / ai /vai / bồ tát / tim / ngồi ghế sau" (Sông Núi Người
Thơm Nỗi Nhớ Nhà, tr. 60)
" tôi ngồi, lưng mỏi thân xiêu / nhủ tôi cơm áo còn nhiều đắng cay / tôi
ngồi, tôi gọi : Lê ơi / bỗng nghe tiếng vọng từ đồi nghĩa trang / tôi ngồi, tôi ngắm
tôi tan," (Khi Trở Lại Làm Việc Ở Collins Radio, Thơ Tình). Bài thơ chấm dứt ở
câu sáu và với dấu phẩy.
Sử MặcHoàng Xuân Sơn theo con đường lục bát mới cộng với xử dụng dấu
chấm câu hoặc không viết hoa - trở thành thông thường vào cuối thế kỷ :
"Em qua / em qua / em qua / đò giang trắc trở / em qua được rồi / em qua tới
bợt em ngồi / tới bờ em đứng khóc / mùi mẫn / em" (Đầu Lệ, Huế Buồn Chi, 1993,
tr. 51).
Lục bát Ngu Yên có bài đến gần thơ văn xuôi và như mở đường cho Tân
Hình Thức, khi viết liên tục cả khổ không xuống hàng:
"Hiểm hoạ là mặt trăng hư, đêm nào cũng nóng rực như mặt trời, ngày đêm
thiêu đốt cõi đời, tìm đâu thi vị của thời trăng mơ, uổng chàng thi sĩ làm thơ, mắt
trăng đổi lớp bây giờ chuyên viên " (Thời Hấp Hối, Hoá Ra Nét Chữ Lên Đàng
Quẩn Quanh, 1986, tr. 88). Hoặc viết hai câu liên tục như "quên" xuống hàng (Cha
Đặt Tên Con Là Thơ, tr. 11). Cũng Ngu Yên, câu lục và câu bát xuống hàng mỗi
chữ như rơi rơi (bài Tại Sao Ta Lại Làm Thơ, tr. 10).
Huy Tưởng viết những bài thơ 14 chữ tức gồm hai câu lục bát nhưng mang
hình thức thơ tự do như muốn nội dung hài-cú với 14 âm-tiết - Hai-ku của truyền
thống Nhật 17 âm-tiết, qua tập Hỏi Đường Cùng Mây Trắng xuất bản ở trong nước
và xuất hiện trên tạp chí Hợp Lưu; trong khi Nguyễn Tôn Nhan, sau 1975 ngoài
những thử nghiệm thơ luật tam và tứ tuyệt, làm những bài lục bát ngắt đoạn khổ ba
câu : "Nhụy cành em ngậm đã nhiều / Nhả ra anh thử cắn liều thấu răng / Lập loè
hồn vía siêu thăng " (3).
Lục-bát có khi trở thành lục-cửu hoặc các biến thể khác của 6 và 8. Có khi vì
dùng chữ nước ngoài nên phải giữ số âm mà thiếu số chữ, giữ số chữ mà dư số âm,
nhưng thường là âm thanh hay chữ cho hợp với lục bát đọc! Nguyễn Nam An là
một trong những người làm thơ phá luật này:

"Vì em. Em đó. Là em!
Chạy theo thiên hạ co thêm vui buồn
đêm nằm một mảnh trăng thuông
Che ngực anh thổi cô đơn ra ngoài
Đóng cửa giùm một sớm mai
Giữ chân Từ Thức (như) giữ hoài vết son"(Đêm-Từ-Thức, TiGi, 2000, tr.
122).
Như vậy, thơ lục bát bị xâu xé giữa truyền thống và mỹ học hôm nay. Lục
bát cách tân dưới nhiều hình thức, biến thể tự do về chấm câu và xuống hàng trong
cái khuôn tiên-thiên 6-8. Nhịp điệu đa dạng ra, câu sáu thì 1-5, 2-2-2, 2-3-1, 2-4, 3-
3, câu tám thì 1-7, 2-2-2-2, 2-4-2, 3-5, 5-3, 4-4, v.v. Âm điệu vẫn giữ hoặc không
giữ, lục bát ba câu, chấm dứt ở câu sáu, v.v. Hình thức có đem lại cái mới cho con
mắt, cách đọc đa dạng. Nói chung nồng cốt vẫn là lục bát! Nguyễn Tài Cẩn trong
nước đã chứng minh cặp lục bát có thể biến thành 256 cách phô diễn khác nhau tùy
cách chuyển vận vần, thanh và nhịp (4). Trên Internet, có người như Ian Bùi thử
nghiệm làm thơ lục bát tiếng Anh nhưng chưa gây tiếng vang và hưởng ứng. Như
vậy, thể loại lục bát truyền thống còn có chỗ đứng vì còn có khả năng chuyển tải
thi ca, còn có thể xử dụng cho hôm nay. Vấn đề là ở người làm thơ có thành công,
có tay, có thả được hồn vào thơ không; có thành thơ lục bát và thơ lục bát đó có
ngôn ngữ riêng hay chỉ mang hình thức 6-8!
Thơ Tự-do là thể loại ngày càng được người làm thơ yêu chuộng, phát triển
đa dạng với một số nỗ lực canh tân làm mới thơ trên các tạp chí chủ yếu là tạp chí
Thơ (5). Tạp chí Chủ Đề ở Mỹ chủ trương không đăng thơ có vần hoặc không mới!
Có thể vì muốn đáp ứng nhu cầu tâm lý và cả chính trị muốn thoát khỏi mọi cương
tỏa văn hóa của thơ luật gò bó hoặc không muốn nối tiếp truyền thống thơ Mới
nhàm chán. Nguyễn Hoàng Nam than phiền người thơ trẻ cứ bám quá khứ của
người đi trước mà ông gọi là "quá khứ giả, một quá khứ tự nhận" vì nếu không
chấp nhận hiện tại, lấy đề tài và sáng tác về hiện tại, người trẻ "không khác gì một
kẻ không thể tự nhận diện lấy mình. Thật đáng khinh bỉ, và cũng đáng tội nghiệp"
(6). Diễm Châu, Khế Iêm, Ngu Yên, Thường Quán, Chân Phương, v.v. tự do từ ý

thơ, thi hứng lẫn hình thức, ghi dấu chấm và viết hoa bất cứ ở đâu và chỗ thường
chấm câu và viết hoa thì lại không.
"đã thở / (giọng tiếng bát vỡ) / tang lờ / im. Thật im. Rực rỡ / tóc bật chiều
run cắn / vết thương xa " (Khế Iêm, Khoảng Khắc, Dấu Queâ, 1996, tr 76)
Thật tự do trong Phiêu Lãng, toàn bài:
"đứng im
đừng quay lại nhé

vặn ngược thời khắc để
xóa sạch
thời phiêu lãng

nong nóng

cô liêu" (Dấu Quê, tr. 50)
Thơ tự do canh tân từng được Khế Iêm xem như một giả dụ (7) có thể thất
bại, nhưng đã làm phận người làm thơ là phải lên tiếng thử nghiệm (có thể giả dụ
không đi đến đâu, ông chuyển qua Tân Hình thức sau 2000!).

Để được tự do, người làm thơ còn dùng kỹ thuật thụt chữ khi xuống hàng,
con chữ rời rạc, nhiều cách quãng (ngoài khoảng cách không gian trên trang giấy,
khoảng cách này còn tương đương như những dấu slash /, //, /// đánh dấu nghĩ khi
đọc mà có người cắt nghĩa là để cô đọng thơ, làm khác ngôn ngữ đời thường. Kỹ
thuật cách quãng, để trống này được nhiều người làm thơ áp dụng trong hai thập
niên qua nhất là ở hải ngoại : Phạm Việt Cường, Ý Liên, Lê Văn Tài, Uyên
Nguyên, Thường Quán, Khế Iêm, Lê Thị Thấm Vân, Trân Sa, Quỳnh Thi, Thận
Nhiên, v.v. Riêng dấu / còn để cho người đọc chọn chữ, như với Du Tử Lê. Nhà
thơ lưu vong Edmond Jabès (1912-1991) từng dùng nội lực con chữ bên cạnh
những khoảng trống có thể để diễn tả sự câm lặng không thể hiểu của những kẻ
đáng sống nhưng đã chết nhưng cũng có thể để trình bày một nhân sinh quan bi

phẩn, một cách nhìn cuộc đời, như trong bài Des Deux Mains hướng về lò thiêu
người Auschwitz (8)! Trước 1975 thi-ca miền Nam cũng đã từng có những thử
nghiệm thụt chữ khi xuống hàng, không viết hoa, với Hoài Khanh, , thơ tự do
gạch ngắt câu, với Phan Huy Mộng (Người Chết ở Pleime, Văn SG, 51, 1966), v.v.
Hai thập niên qua, thơ tự do thêm lý thuyết hoặc ý thức đằng sau con chữ.

Thơ tự do của Nguyễn Xuân Thiệp vận dụng dấu chấm và thụt lùi khi xuống
hàng, vẻ trang trọng hãy còn:"như một lời chia tay
tôi gửi lại
một góc phố rực lá vàng
quán cà phê mở cửa dưới giàn hoa giấy
tiếng chim lúc mình hôn nhau
tôi gửi lại
căn nhà gió động cây đàn gỗ chùng giâỵ
cửa sổ nhìn ra song. hoàng hôn tím
màu hoa đồng thảo
hồn tôi suốt bao đêm cùng đốm lửa
vườn xưa " (Như Một Lời Chia Tay, Tôi Cùng Gió Mùa, 1998, tr. 147).

Ngu Yên tự do gọn lỏn hơn: "Sáng nay / Rạo rực / Tâm tư đầy hương hoa /
Đánh thức em / Kể chuyện / Giấc mơ và đàn bà / ( ) Rủ nhau tắm / Cách nhau bọt
xà phòng / Xoa nhau vừa dơm bông / Xoa / Trơn mềm / Xoa / Nhám êm / Bọt vỡ
kêu hổn hển / Cảm giác dần lên ( ) / Mười ngón tay nghệ sĩ / Đàn tình ngân trên
da" (Hợp Lưu, 13, 10&11-1993, tr. 100)

"Trường phái" dùng dấu của chữ viết máy điện toán, những dấu /, @, và
xử dụng nhiều dấu chấm phết, hai chấm, chấm than trong thơ và ngay cả tựa thơ
(9), có Du Tử Lê, Viên Linh và những người viết trên tạp chí Thơ, Việt. Họ Lê đề
nghị thơ "biến dịch" (interactive poetry / self-serve, cách nói khác của hoán vị!)
ngắt, đổi vị trí các chữ trong câu để có thể có nhiều cách đọc ngược xuôi:


"người na ký ức về qua phố
cất tiếng cười khua / rộn / núi / sông
trĩu hai tâm thất: mưa năm biển
(riêng biển sau cùng: bạn tứ phương) ( )" (Bài Ca Người Vác Thập Giá /
Khai Sinh Ghi / Phạm Nhuận (Hợp Lưu, 18, 8&9-1994, tr. 44)) - Dấu / và thứ tự
tựa bài thơ này là một thử thách cho người đọc - tức không phải là tác giả!

Có những "bài thơ" trong thực tế chỉ là những "hình dạng" nào đó hoặc là
những "tiếng động" vô nghĩa (nếu đọc lên) đã được viết thành con chữ. Viên Linh
đẩy thử nghiệm xa hơn, trích lại xếp theo ý tác giả :

"-
+
x
:
Kết quả là:
Số 0
+1
Vẫn là ta
+ em
Ta có hai lần một
Trời rách
Em về thôi Nữ Oa"
(Trời Rách (10)

Một hình thức thơ khác, của Nguyễn Hoàng Tranh :

"trôi từ dòng sông bên ngoài giấc mơ sóng soãi thuộc về cửa lớn
phía trước giăng giăng vực âm tử nạn tuột vào tim hang động thủy tinh

tháo tung những ổ khóa đặc sệt mặt người dòng sông chảy đám đông khỏa
thân lúc nhúc
qua những con đường >
<
> >
>
< < <
tiếng kèn đồng khua vỡ tính phẳng lạnh trục chéo gia tốc thời gian

đêm dị giáo
tước đoạt tặng vật trá hình nguyên thủy
choàng dậy
choàng dậy
cơn đồng thiếp đá đen
mạch kinh bossa nova báo tử điệu kèn bùa ngải
đường chân trời ẩm ướt
đóng sập cánh cửa lớn
mật âm nguyệt quế rỉ nước sau giờ phút hư đốn hân hoan
hóa trang từ đất thân đen
đôi bồ câu bay qua múi giờ 90°+
bầy khỉ bên kia sông đổ sầm xuống đêm ngờ vực
bossa nova:
cành hông "
(Đêm Dị Giáo: Từ Bossa Nova Đến HN-T, Việt, 7, 2001)

Tự do qua ngôn ngữ email, Internet, viết theo VietNet, tiếng Việt dùng trên
các diễn đàn Internet, như Đỗ Kh. với những bài Em Ve^` Chuo^`ng Ngu+o+`i
hoặc Ngu+o+`i Ye^u DDi La^’y Cho^`ng (Thơ, 12, Xuân 1998, tr. 37-38).

Có bài mang hơi hướm siêu thực, nhưng thường chỉ là hiện thân của một

thời đại kỹ thuật tin học, vô tâm, lãnh đạm, vui ngắn hạn. Thơ tự do hôm nay có
thể bỏ hết những ràng buộc vần, điệu, luật, nhưng những bài có thể thuyết phục
người đọc thường vẫn có một cú pháp! Thơ nay quả quá xa với thơ chủ trì tự do
của Thanh Tâm Tuyền vốn đã bị phê bình khó hiểu và xa thật xa những bài thơ tự
do gợi cảm của Hữu Loan (Màu Tím Hoa Sim, Đèo Cả, ), của Hồ Hán Sơn (Tình
Nghèo 1953) thời kháng chiến trước đó hay xa hơn chút, 1913, thơ Nguyễn Văn
Vĩnh dịch La Fontaine theo lối gieo vận của Pháp: "Con ve sầu kêu ve ve / Suốt
mùa hè / Đến kỳ gió bấc thổi / Nguồn cơn thật bối rối "(11). Trong nước, sau
1975, nhiều người làm thơ bắt đầu nhảy vào thể loại thơ tự do không vần (Thanh
Thảo, Hoàng Hưng, ) tức rời thơ tự do không vần rồi trở lại có vần của thời
kháng chiến. Nhìn chung, có thể nói văn học Việt Nam chỉ có những bài thơ tự do
thật tự do mà chưa thật sự có thể loại "thơ tự do", một thể loại đang hình thành và
luôn biến cải. Cũng tự do, "thơ văn xuôi" không còn thi-tính như những bài thơ
văn xuôi của Mai Trung Tĩnh trước 1975, ở đây trích đoạn đầu và cuối bài Ám
Ảnh trong tập Những Bài Thơ Xuôi (1969):

"Từ bỏ một thế giới thuộc quen, tôi dẫn tôi đi trong bóng chiều trở giấc
mong đón bắt những dòng hứng lạ trong tôi. Chiều đương chết đi từng mảnh, mỗi
vết thương tăng dần lở loét đỏ úa cả không gian.
Bóng tối đã đọng trên môi tôi, bậc thềm hoang đổ nát của vương điện
ngày xưa. Giờ chẳng còn ai lai vãng viếng thăm, tôi, chiếc cột kèo sắp mục, đứng
trơ khô như nhánh cây ngang tầm mắt nhìn" (12).

Thi ca như luôn có một khủng hoảng nội tại, ở vần! Thơ hôm nay mất vần,
biến thể thành tản văn, đoản văn, thành suy niệm triết lý, siêu hình, từ Zone của
Apollinaire hồi đầu thế kỷ, lời viết như địa chấn và chống đối nhau. Có chăng một
biên giới giữa thơ và văn xuôi? Thơ văn xuôi khởi từ đó và lan rộng như bệnh
dịch, bệnh vì thi ca từ nay bị tấn công ngay trong hình thức dễ nhận ra trước nay!
Thơ thành thơ văn xuôi (poème / proême), truyện kể (với Yves Bonnefoy), tản mạn
mơ mộng (như Chơi Giữa Mùa Trăng của Hàn Mặc Tử hay Phạm Văn Hạnh thời

Xuân Thu Nhã Tập, Philippe Jaccottet), dài lòng thòng như bảng liệt kê hay kiểu
sớ táo quân, bài kinh thánh (Emmanuel Hocquard) hoặc thành trầm tư, ngụ ngôn,
nói ít hiểu nhiều. Những khuynh hướng cuối này như một xác định thời đại nghi
ngờ lớn, không còn giá trị gì chắc chắn. Thi ca như phải vẫy vùng để khỏi bị chết
đuối, bị nghẹt thở, . Thi ca còn theo chân hội họa, nảy ra những cách cắt dán, thơ
thành truyền đơn, phiếu ăn, thơ âm thanh (Julien Blaine, Bernard Heidsieck) như
nhóm Polyphonix, rồi cả thi ca thi đua thành tích như hội họa biểu diễn ở chổ khai
mạc triển lãm.


Thi-ca sự vật
Thơ cụ-thể (Concrete Poetry) cũng đã xuất hiện ở trường văn hải ngoại, với
những bài thơ tạo hình. Ngày xưa trong thơ có họa, nay họa thơ cụ thể thành hình
thể, quang cảnh nhà thơ muốn người đọc nhìn thấy. Vừa là cánh tay nối dài của
dadaisme vừa do ảnh hưởng của phim ảnh, với những hình thể vật lý, thơ gợi hình
đến với người đọc bằng thị giác (visual poetry / poésie visuelle) thay vì bằng tâm
thức. Bài Đêm Dị Giáo: Từ Bossa Nova Đến HN-T của Nguyễn Hoàng Tranh vừa
trích ở trên cũng có thể xếp vào loại này!

Thơ cụ-thể đến với người thưởng ngoạn bằng âm thanh (sound poetry) qua
hai loại. Một loại khi âm thanh quan trọng hơn ý được gọi là sonisme, loại kia khi
âm thanh do những chữ vô nghĩa (lettrisme). Nhóm Hồn Quê
( ) đã thử nghiệm thơ Linh-họa, thơ với phương tiện âm
thanh, tranh ảnh, hoạt họa, và đã trình bày một vài bài sáng tác (Thi Sĩ, Chào Em
Buổi Sáng Mùa Xuân, Mầu Nhiệm, của Hoàng Vi Kha, The Echoes That Still
Drop của Trường Đinh, v.v.); thể thơ này còn có thể áp dụng để "viết lại" sáng tác

×