Tải bản đầy đủ (.pdf) (170 trang)

Những chuyển biến trong tiểu thuyết Ma Văn Kháng thời kỳ Đổi Mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.19 MB, 170 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
-----------------------


NGUYỄN THỊ THANH MAI




NHỮNG CHUYỂN BIẾNTRONG
TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG
THỜI KÌ ĐỔI MỚI





LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC













Thành phố Hồ Chí Minh – 2008

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
-------------------------


NGUYỄN THỊ THANH MAI


NHỮNG CHUYỂN BIẾN TRONG
TIỂU THUYẾT MA VĂN KHÁNG
THỜI KÌ ĐỔI MỚI

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34




LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN THÀNH THI





Thành phố Hồ Chí Minh – 2008

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới:
Ban giám hiệu, Khoa ngữ văn, Phòng công nghệ sau đại học, Thư viện
Trường đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện về cơ sở vật
chất, tài liệu… cho chúng tôi học tập tốt.
Xin gửi lời cảm ơn tới các quý thầy cô đã tận tình giảng dạy, cung cấp tài
liệu cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thàn
h, sâu sắc tới thầy hướng dẫn
trực tiếp luận văn của tôi: Tiến sĩ Nguyễn Thành Thi. Thầy đã tận tình chỉ bảo,
gợi ý, dẫn dắt, cung cấp tài liệu và sửa chữa cho tôi trong suốt quá trình làm đề
tài.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình đã tạo điều kiện mọi mặt để tôi có
thể hoàn thành luận văn này.
Xin gửi lời cảm ơn tới Ban giám hiệu, đồng nghiệp Trường THPT Nhơn
Trạch – Đồng Nai đã giúp đỡ, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập.



TP. Hồ Chí Minh ngày 28/4/2008

Người viết
MỞ ĐẦU
1. Lý do, mục đích chọn đề tài:
Ma Văn Kháng xuất hiện trong văn học hiện đại Việt Nam như một hiện
tượng đặc sắc. Khối lượng tác phẩm đồ sộ với hàng chục tập truyện ngắn, gần hai
chục cuốn tiểu thuyết có giá trị đáng được nghiên cứu một cách nghiêm túc.

Đặc biệt những năm 80, khi đất nước chuyển từ bao cấp sang cơ chế thị
trường, một số tiểu t
huyết của ông như Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn,
Đám cưới không có giấy giá thú... thu hút sự chú ý của độc giả và các nhà nghiên
cứu, phê bình. Đã có rất nhiều ý kiến đánh giá, nhận xét, tranh luận gay gắt cần
được tiếp tục phân tích, lý giải xác đáng.
Hai giai đoạn sáng tác của Ma Văn Kháng có dấu mốc rõ nét mà khi nghiên
cứu một mặt ta sẽ hiểu đúng hơn những đóng góp của ông, mặt khác ta sẽ thấy
đư
ợc sự chuyển biến của các nhà văn khác trong sự vận động của văn học.
Một số tác phẩm của ông được chuyển thể thành phim, được đưa vào
chương trình giảng dạy ở phổ thông như Mùa lá rụng trong vườn, Người giúp
việc, Xa phủ ... Do đó, luận văn sẽ góp phần tìm hiểu, khẳng định vị trí của nhà
văn trong văn học hiện đại Việt Nam.
Mục đích của luận văn là tìm h
iểu, phân tích một cách có hệ thống hai
chặng đường sáng tác tiểu thuyết của Ma Văn Kháng trong sự vận động phát triển
của tiểu thuyết Việt Nam để thấy được những đóng góp của nhà văn đối với tiểu
thuyết Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn đổi mới.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng mà luận văn nghiên cứu là tiểu thuyết của Ma Văn Kháng. Nhưng
trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi chỉ tập trung vào những tác
phẩm sau đây:
Đồng bạc trắng hoa xòe
Vùng biên ải
Gặp gỡ ở La Pan Tẩn


Mưa mùa hạ
Mùa lá rụng trong vườn

Đám cưới không có giấy giá thú
Ngược dòng nước lũ
3. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp lịch sử: Xem xé
t sự vận động phát triển của văn học Việt
Nam nói chung, sáng tác của Ma Văn Kháng nói riêng trong dòng chảy ấy. Qua đó
thấy được những đóng góp của nhà văn trong việc đổi mới văn xuôi hiện đại.
Phương pháp hệ thống: Xem xét sáng tác của nhà văn trong tí
nh hệ thống
với nhiều cấp độ khác nhau..
Phương pháp loại hình: Xem xét sáng tác của nhà văn từ góc độ loại hình
thể tài, loại hình văn xuôi nghệ thuật...
Phương pháp so sánh đối chiếu: Đối chiếu tiểu thuyết của Ma Văn K
háng
với tiểu thuyết của một số nhà văn khác như Tô Hoài, Nguyễn Minh Châu... để chỉ
ra sự tương đồng, khác biệt về một số chi tiết nghệ thuật tiêu biểu của văn học.
Bên cạnh đó là sự so
sánh về nội dung và nghệ thuật ở hai chặng đường sáng tác
của chính tác giả để nhận thấy sự chuyển biến có ý nghĩa đổi mới.
4. Lịch sử vấn đề:

Ma Văn Kháng là một nhà văn có quá trình sáng tác dài và liên tục đã gần
nửa thế kỉ. Số lượng truyện ngắn, tiểu thuyết khá đồ sộ. Đặc biệt, tiểu thuyết của
ông có sự chuyển biến rõ rệt về cả nội dung cũng như hình thức nghệ thuật, đã có
nhiều những bài nghiên cứu, đánh giá, nhận xét. Lấy mốc chuyển biến trong tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng là cuốn “M
ùa lá rụng trong vườn”, luận văn sẽ đi vào
khảo sát lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết của Ma Văn Kháng theo hai chặng đường
sáng tác: Trước và sau “Mùa lá rụng trong vườn” đặc biệt là những phát hiện

cách tân trong tiểu thuyết của nhà văn thời kì đổi mới.
 Trước “Mùa lá rụng trong vườn”: tiểu thuyết về đề tài miền
núi:


Với những tác phẩm viết về cuộc sống con người miền núi, nhà văn đư
ợc
nhận định là người có công khai phá đề tài miền núi, đã thành công trong việc
phản ánh hiện thực, làm bật lên hình ảnh cao đẹp, sự hi sinh hết mình của các cán
bộ miền xuôi trong công cuộc giải phóng vùng biên ải, những con người miền núi
thuần hậu mang trong mình nỗi cay đắng tủi nhục, chịu áp bức, bóc lột, phong tục
lạc hậu, sự hèn kém
mê muội... và trên hết là một dân tộc bị áp bức luôn khao khát
tự do. Những bài viết giới thiệu, đánh giá, nhận xét của các nhà nghiên cứu, phê
bình về những tác phẩm này khá nhiều, được đăng rải rác trên các báo, tạp chí như
Hoàng Tiến, Trần Đăng Suyền, Nguyễn Văn Lưu, Nguyễn Ngọc Thiện...
Bút pháp miêu tả đặc sắc, hấp dẫn là lời nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu
đối với các tiểu thuyết về miền núi. N
hà văn Hoàng Tiến đã nhận xét rằng
(ĐBTHX) mang một bút pháp đặc sắc, hấp dẫn lôi cuốn người đọc:
Bút pháp trong Đồng bạc trắng hoa xòe thường dùng theo lối vẽ long
trong mây. Con rồng đẹp cứ giấu mình trong mây chỉ lộ ra những khúc lượn vàng
son có hạn, nhưng cho người xem vẫn nhận được đủ cái vóc dáng mạnh mẽ, thanh
thoát của toàn bộ con rồng, lối “uống rượu sớm mai”. Độ rượu đủ để ngây ngất,
quá nửa là say, dưới một chút coi là chưa uống. Biết dừng lại để gây ngây ngất
mới là người biết uống rượu[102].
Điều đó có nghĩa là tác phẩm
hay, xuất sắc ở những nốt nhấn, và những nốt
nhấn ấy được đặt đúng chỗ, đúng thời điểm nên trong tổng thể nó đã tạo nên vẻ
đẹp toàn diện c

ho một tác phẩm tương đối đồ sộ. Tác phẩm có ý nghĩa lớn khi nhà
văn đã tái hiện được một giai đoạn lịch sử mà: “Lần đầu tiên được đưa vào trong
tiểu thuyết”[102], đã đốt lên những đốm lửa cách mạng trên vùng núi non trùng
điệp.
Tiểu thuyết (VBA) nối tiếp cuốn (ĐBTHX) được Trần Đăng Suyền đánh
giá là đã thành công trong việc khắc họa tí
nh cách người Hmông và “Ngòi bút
giàu chất thơ của Ma Văn Kháng khi chấm phá những cảnh vật đã vẩy hồn mình
vào đấy khiến cho cảnh vật hiện lên lung linh màu sắc, lộng lẫy rực rỡ, khi vui khi
buồn đều như nhuốm thêm màu sắc tâm trạng của con người ”[77]. Bên cạnh đó


nhà văn M
a Văn Kháng đã chứng minh rằng: “Đồng bào các dân tộc ít người mặc
dù bị chìm đắm trong đau khổ, tối tăm nhưng đều có mầm mống, khả năng cách
mạng”[75]. Bằng hình tượng nghệ thuật, Ma Văn Kháng đã diễn tả con đường đến
với cách mạng của người nông dân miền núi như Pao, một chàng trai có nhiều
phẩm chất tốt đẹp, như Seng, Tếnh, A Sinh... Công sức của tác giả cũng không
nhỏ khi t
oàn bộ những biến cố được thể hiện qua gần sáu trăm trang sách ngồn
ngộn những sự kiện, những tư liệu lịch sử.
Với tiểu thuyết (GGƠLPT), mặc dù tác phẩm ra đời ở giai đoạn sau nhưng
cùng với (ĐBTHX) và (VBA) nó được coi là “bộ ba” (Từ dùng của Giáo Sư
Nguyễn Ngọc Thiện)
tiểu thuyết xuất sắc về đề tài miền núi. Giáo Sư Nguyễn
Ngọc Thiện cho rằng tác phẩm là một “Bức tranh đời sống hiện thực mang tính
chất sử thi về con đường của các dân tộc miền núi phía Bắc làm cuộc đổi đời, đi
theo cách mạng và phát huy được phẩm cách của mình...”[96], “tạo thành một
chùm tiểu thuyết độc đáo làm sáng lên bức tranh lịch sử xã hội hào hùng, bi tráng
của một vùng núi phía tây Bắc nước ta trọn một thế kỉ” [96]

.
Như vậy, với cuốn tiểu thuyết đóng vai trò tạo nên “bộ ba” hoàn thiện về
đề tài miền núi thì Ma Văn Kháng:
Đã bắt đầu kì vọng về một thứ tiểu thuyết là “nền tảng của một nền văn
học”, là “cỗ đại bác chủ lực” không phải chỉ chuyên chở một dung lượng chất
liệu nghệ thuật lớn, phản ánh một hiện thực lớn... mà hơn nữa, c
hủ yếu còn là vì
nó đặt ra những vấn đề thiết cốt của nhân sinh, nhân quần, nó tái hiện số phận
con người và cuộc sống; và do vậy gây hứng thú lâu dài, làm giàu có nhân tâm...
đạt tới cõi bí ẩn của văn xuôi là tạo được một âm hưởng sâu xa[96].
Những nhận xét, những đánh giá khách quan, những lời động viên chân
thành là động lực lớn cho nhà văn vững bước trên con đường sáng tạo nghệ th
uật.
Nếu như chỉ dừng lại với những sáng tác về đề tài miền núi thì Ma Văn
Kháng cũng đã có công lớn cho nền văn học Việt Nam. Nhưng không chỉ có vậy,
một loạt những tiểu thuyết về thành thị ở giai đoạn sau của ông đã gây ồn ào trong


dư luận. N
hiều ý kiến đánh giá khác nhau càng khẳng định chỗ đứng của nhà văn
trong việc khám phá bản chất cuộc sống con người trong giai đoạn mới.
 Sau “Mùa lá rụng trong vườn”: tiểu thuyết về đề tài thành
thị:
Trước những năm 80, văn học Việt Nam bao trùm khuynh hướng sử thi,
cảm hứng lãng mạn ngợi ca. Nhưng từ sau những năm 80, trước nhu cầu “Đổi mới
tư duy tiểu thuyết” mỗi nhà văn phải tự chuyển mình. Một cuộc bứt phá lớn tạo đà
cho hàng loạt các nhà văn tâm huyết khẳng định mình. Ma Văn Kháng là một nhà
văn dồi dào năng lực sáng tạo, một trong những tác giả đã cố gắng đổi mới tư duy,

tìm một hướng đi mới trong sáng tạo nghệ thuật giai đoạn này.

Với bề dày kinh nghiệm, sự từng trải chiêm nghiệm cuộc đời một cách sâu
sắc và hòa trong không khí đổi mới của văn học nhà văn đã cho ra đời những tác
phẩm có giá trị cao, tác động mạnh vào con người, xã hội giai đoạn đầy biến động.
Tuy có những sự trùng lặp ở nhiều tác phẩm, những lời triết lý, chiêm nghiệm g
ây
cảm giác nặng nề cho người đọc, những cái kết còn bỏ lửng... nhưng những thành
công đã lấn át tất cả những hạn chế ấy.
Khi thâm nhập vào đề tài về cuộc sống con người thành thị, các nhà nghiên
cứu đã nhận thấy một sự chuyển biến đáng nể phục ở con người này. Bên cạnh
những ý kiến đá
nh, giá nhận xét sự thành công của tác phẩm thì nhiều nhà nghiên
cứu phê bình còn khẳng định Ma Văn Kháng đã có những cách tân lớn góp phần
cho sự phát triển của văn học, thể hiện rõ thái độ và trách nhiệm lương tâm của
một người cầm bút trước những cái xấu trong cuộc sống. Tiêu biểu có Trần Bảo
Hưng, Hồ Anh Thái, Bích Thu, Nguyễn Thị Huệ, Vân Thanh...
Tiểu thuyết đầu tiên trong giai đoạn này là (
MMH). Tác phẩm được Vân
Thanh đánh giá cao vì “Đã thể hiện cách nhìn, thái độ của các nhân vật trước
những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Lương tâm, lẽ sống của mỗi người đều bị
thử thách... trước lưới bủa vây của tệ nạn tiêu cực, trong vòng bức bách của vấn
đề cơm áo hàng ngày có khi những quan niệm đạo lý thông thường bị xáo trộn,
gây nên sự hoài nghi, phân vân ở mỗi người”[87]
. Chính vì thế mà từ trong những


trang sách vang lên một tiếng giục giã, đánh thức lương tâm, trách nhiệm của mỗi
người: “Bằng bất cứ giá nào cũng phải ngăn chặn kịp thời những tổ mối tiêu cực
đang sinh sôi nảy nở trong đời sống nếu không c
húng sẽ đục ruỗng xã hội và hủy
hoại những giá trị tinh thần vốn đã thành truyền thống của dân tộc”[87]. Điều đó

thể hiện ý thức trách nhiệm của Ma Văn K
háng đối với cuộc sống hiện nay.
Tiểu thuyết (MLRTV) ra đời được coi là đỉnh cao, là dấu mốc quan trọng
đánh dấu sự chuyển biến của nhà văn vì có nhiều đóng góp cả về nội dung và hình
thức nghệ thuật, đã chứng tỏ sự thâm nhập vững vàng của nhà văn vào xã hội
thành thị đang biến động nơi có những con người đang dần biến chất, tha hóa. Vân
Tha
nh nhận xét rằng:
Có thể xem Mùa lá rụng trong vuờn là một tiếng nói của tác giả trước hiện
thực hôm nay: Một tiếng nói về quan hệ giữa cá nhân, gia đình và xã hội, về trách
nhiệm của mỗi người đối với cuộc sống và cộc sống dành cho mỗi người... tác
phẩm đã khơi được vào dòng chảy của cuộc sống chúng ta hôm nay, đã lẩy ra
được một mảng tươi nguyên của cuộc sống đó, gợi cho ta biết bao suy nghĩ về nó,

lo lắng, băn khoăn về nó, và cũng hi vọng, tin yêu ở nó. Từ đó đặt ra cho mỗi
chúng ta một thái độ sống, một trách nhiệm sống[88].
Ở đó, mỗi con người cần có sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau của các thành
viên, của gia đình và của cả xã hội.
Tác phẩm cũng đưa ra một cách nhìn mới của nhà văn đối với truyền thống
dân tộc bao đời của người Việt. Truyền thống văn hóa gia đình là cội nguồn nuôi

dưỡng tinh thần, bảo vệ con người tránh xa điều xấu nhưng nay xã hội đã đổi mới
chúng ta cần giữ gìn những cái tốt đẹp và cũng cần loại bỏ những gì không phù
hợp. Trần Bảo Hưng đã khẳng định rằng: “Cần giữ gìn truyền thống văn hóa d
ân
tộc và truyền thống nếp sống của gia đình Việt Nam cùng sự đổi mới và thích ứng
của nó trong xã hội mới. Tuy nhiên giữ vững tất cả sẽ không tránh khỏi đổ vỡ, sứt
mẻ, nhưng muốn thoát ly truyền thống, phá vỡ tất cả cũng sẽ dẫn tới bi kịch” [30].
Ở tác phẩm này, với cách nhìn mới về con người nhà văn đã thể hiện thà
nh

công kiểu nhân vật có đời sống nội tâm phong phú, tính cách đa chiều, hấp dẫn


như Lý: “Hình
tượng nhân vật khá độc đáo, hấp dẫn. Lý là nhân vật độc đáo hấp
dẫn nhất. Con người này hễ có mặt ở dâu là có khả năng làm cho nơi ấy có không
khí, sinh động hẳn lên”[30]. Những con người ấy chỉ vì dục vọng lại gặp những
nhân tố kích thích nên mới dần bị tha hóa. Vì thế bao trùm toàn tác phẩm là cái
nhìn nhân hậu vị tha của nhà văn.
Sức hấp dẫn của tiểu thuyết nà
y còn ở chỗ: bên cạnh việc làm nổi bật
những nhân vật tha hóa về nhân phẩm thì nhà văn đã đưa ra được “Những hình
ảnh rất đẹp của truyền thống văn hóa và đạo đức dân tộc. Chị Hoài, cô Phượng,
Vân, bà lang Chí... là những tấm lòng trong sáng ngọt ngào, ấm áp, chan chứa
nghĩa tình”[30]. Đồng ý với nhận định này, Trần Cương cho rằng các nhân vật
như chị Hoài, Phượng, Vân... tuy nhà văn dà
nh ít số trang nhưng: “Là những
trang viết cảm động. Nâng niu trân trọng và đồng cảm sâu xa từ trong mỗi việc
làm, mỗi ý nghĩ, mỗi hành vi nho nhỏ ở những nhân vật này, ngòi bút của tác giả
đã tỏ ra tinh tế, làm gia tăng chất nhân văn vốn đã là nền tảng của tác phẩm
này”[11].
Khi tiểu thuyết (ĐCKCGGT) ra đời -1989 một lần nữa tác phẩm của ông lại
được đưa ra để xem xét. Có nhiều sự khe
n chê, đánh giá khác nhau. Báo văn nghệ
đã phải tổ chức một hội thảo riêng về tác phẩm này.
Phải khẳng định rằng Ma văn Kháng đã dũng cảm khi đặt bút lật xới mặt
trái của xã hội trong một môi trường vẫn được xem là trong sạch nhất. Phải chăng
xuất phát từ sự bức xúc của một nhà giáo từng đứng trên bục giảng nay thấy quá
nhiều những cái xấu, sự bất công nên nhà văn đã mạnh dạn lên tiếng phê phán gay
gắt vào nơi vốn đư

ợc coi là chốn thiêng liêng cao cả, vào hình ảnh của những
người thầy vốn được coi trọng đề cao. Nhưng thực chất cuốn sách không chỉ bó
hẹp ở phạm vi một ngôi trường, ở những người thầy mà nó còn mang ý nghĩa sâu
rộng hơn, ở nhiều tầng lớp người khác nhau, ở phạm vi toàn xã hội. Giáo sư Ph
an
Cự Đệ nhận xét về cuộc đời thầy giáo Tự:
Trong tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú, nhà văn Ma Văn Kháng
đã phản ánh được cái bi kịch của một nhà giáo, một trí thức: anh ta lúc thì đóng


vai một nhà hiền triết, nhân c
ách cao cả và thánh thiện nhưng lại bị ném vào một
môi trường mà các già trị tinh thần đang bị đảo lộ, một môi trường bị ô nhiễm, bị
băng hoại về đạo đức và nhân phẩm...[70].
Bên cạnh những đánh giá nhận xét chung về tác phẩm, nhiều nhà nghiên
cứu đã phát hiện ra một số cách tân trong tiểu thuyết của ông. Nhà nghiên cứu Hà
Minh Đức trong “Hội thảo về tiểu thuyết Đám
cưới không có giấy giá thú” cho
rằng nhiều tác phẩm có giá trị, có chiều sâu nhưng vẫn bộc lộ nhược điểm là chất
chính luận, triết luận tuy sắc sảo nhưng còn bị lạm dụng, nhiều chỗ nên tạo cho
độc giả sự nặng nề. Tuy vậy ông cho rằng “Ma Văn Kháng đã là một trong những
tác giả đổi mới đầu tiên trong văn xuôi, viết về nhà t
rường nhưng thực ra ông
muốn đề cập đến một vấn đề xã hội rộng lớn hơn. Nhiều trang viết về người thầy
giáo thật xúc động. Anh nêu lên thực trạng đáng buồn đáng giận ấy với tinh thần
trách nhiệm và rất tâm huyết để bảo vệ cái tốt đẹp”[70].
Trong bài viết “Một vài nhận xét về nhân vật của văn xuôi Việt Nam sau
1975”, Nguyễn Thị B
ình nhận xét rằng: “Văn xuôi giai đoạn này có sự thay đổi
trong mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật”[4]. Nhân vật được quyền bình đẳng

về kinh nghiệm sống, phá vỡ các quy ước ta - địch trong văn học trước với một
loạt tác phẩm. Trong đó có nhiều tác phẩm của Ma Văn Kháng. Nhân vật được
trao cho quyền phán xét do đó khó có thể nhận ra đâu là phát ngôn tư tưởng thật sự
của tác giả trong tác phẩm
. Bà cho rằng: “Kiểu nhân vật trí thức xuất hiện nhiều
trong giai đoạn này có lẽ do họ như là thước đo của dân trí và văn hóa, là nơi gửi
gắm thích hợp nhất cho sự tự ý thức”[4]. Xét những trong tiểu thuyết của Ma Văn
Kháng thì loại nhân vật này chiếm số đông nhưng bên cạnh những trí thức thật sự
là những trí thức giả danh, trí thức dởm
gây bao tai họa cho người khác, cho xã
hội.
Có lẽ Ma Văn Kháng hợp với loại truyện phanh phui, mổ xẻ, bức xúc trước
thực trạng xuống cấp của xã hội. Sau gần mười năm, năm 1998 nhà văn lại cho ra
đời một tiểu thuyết nổi đình đám: (NDNL). Cuốn tiểu thuyết này đã có sự cách tân
vượt bậc về nghệ thuật thể hiện.


Bích Thu phát hiện ra sự cách tân trong tác phẩm thể hiện ở cốt truyện lỏng
lẻo, mơ hồ,
co giãn, khó tóm tắt, khó kể lại và do đó “Tiểu thuyết vừa là tiếng nói
của ý thức, vừa là tiếng nói của tiềm thức, của giấc mơ...”[100]. Có thể xem đây
là sáng tạo của nghệ thuật lắp ghép, truyện lồng trong truyện tạo ra sức lôi cuốn
cho bạn đọc. Bên cạnh đó, tác phẩm có
sự thâm nhập của các thể loại khác vào
trong tiểu thuyết như thơ, huyền thoại, cổ tích, điển tích... Nó là nhân tố làm giãn
cốt truyện, tạo ra tiếng nói khác nhau trong tiểu thuyết. Hình thức này xuất hiện
trong nhiều tiểu thuyết khác của Ma Văn Kháng.
Theo Giáo sư Nguyễn Ngọc Thiện, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng giai
đoạn này: “Đã đạt đến trình độ điêu luyện trong ngôn ngữ kể và tả, đối thoại và


độc thoại, giọng điệu linh hoạt, khi gấp gáp, sôi nổi, cuồn cuộn, tung phá, lúc lại
thong thả, mềm mại, đằm thắm, hiền hòa, đã trở thành một thực thể sống động có
sức sống mạnh mẽ”[95]. Ma Văn Kháng đã thành công trong việc khám phá chiều
sâu tâm linh, vô thức, tiềm thức, giấc mơ, coi nó như một thứ ngôn ngữ độc thoại
đặc biệt để giải mã thế giới vô thức của c
on người, xây dựng lên những bi kịch cá
nhân, đưa con người trở về với cuộc sống đời thường, với những khát vọng hạnh
phúc.
Khắc phục những phiến diện trong quan niệm về con người trong văn học
giai đoạn trước, Nguyễn Thị Huệ cũng đã nhận ra nhiều kiểu loại nhân vật trong
sáng tác của Ma Văn Kháng: “Phong phú, đa dạng hơn, phức tạp hơn không chỉ
có công nông binh m
à còn có tầng lớp thị dân, đặc biệt là nhân vật trí thức đã như
một ám ảnh khôn nguôi, một trăn trở day dứt, một ma lực có sức hút lớn đối với
ngòi bút của Ma Văn Kháng”[28]. Không chỉ đánh giá cao những con người phức
tạp, có nội tâm phong phú, Ma Văn Kháng còn thể hiện thành công loại người
“thô sơ đơn giản”, nhìn nhận cái tốt cái xấu theo sơ đồ sẵn có, khuôn mẫu và giản
đơn như Đông (
Mùa lá rụng trong vườn), Ông Chánh (Mưa mùa hạ), một loạt
công chức kì nhông như Quanh, Liệu (Ngược dòng nước lũ)”[85].
Bên cạnh việc phê phán cái xấu, cái ác, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng giai
đoạn này vẫn đậm chất trữ tình. Hồ Anh Thái nhận xét rằng: “Những trang hay


nhất đều là trữ tình: Khiêm đi về trung du giữa m
ùa lũ, hoan lên miền ngược tới
vùng trồng thuốc phiện... Anh cứ tách được nhân vật ra khỏi cái không khí văn
phòng đầy thịnh nộ thì bản thân anh như cũng linh hoạt, phơi phới hẳn lên” [85].
Như vậy, khi tìm hiểu lịch sử nghiên cứu về tiểu thuyết của Ma Văn Kháng
chúng tôi nhận thấy rằng chưa có một công trình nghiên cứu đầy đủ, toàn diện nào

về tiểu t
huyết, về những chuyển biến, cách tân trong tiểu thuyết của ông. Do đó
việc luận văn đi vào tìm hiểu, nghiên cứu đề tài này là hết sức cần thiết và có ý
nghĩa.
5. Đóng góp mới của luận văn:
Luận văn chỉ ra những chuyển biến về nội dung và hình thức nghệ thuật
tương ứng trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng thời kì đổi mới, những dấu hiệu và
nguyên nhân dẫn tới sự chuyển biến ấy.
Chỉ ra những đóng góp của nhà văn trong việc cách tân thể loại tiểu thuyết
trong sự phát triển chung của văn xuôi Việt Nam.
6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được
chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Nhìn chung hai chặng đường sáng tác tiểu thuyết của
Ma Văn Kháng trong sự vận động phát triển của tiểu thuyết Việt Nam
từ sau cách mạng tháng Tám -1945 tới nay.

Trong chương này, luận văn đi vào khái quát sơ lược hai chặng đường vận
động của tiểu thuyết Việt Nam (1945- 1985) và (từ sau 1985 tới nay), sơ lược hai
chặng đường tiểu thuyết của Ma Văn Kháng cùng dấu mốc chuyển biến để có cái
nhìn khái quát về tiểu thuyết nói chung, tiểu thuyết của Ma Văn Kháng nói riêng.
Lý giải nguyên nhân dẫn tới sự chuyển biến trong tiểu thuyết của ông và
khẳng định vai trò, đóng góp của nhà văn trong văn học Việt Nam.
Chương 2: Sự chuyển biến về nội dung cảm hứng trong tiểu
thuyết Ma Văn Kháng thời kì đổi mới.



Chương hai tìm hiểu những chuyển biến trong việc khám phá hiện thực,
quan niệm nghệ thuật về con người trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng ở hai

chặng đường sáng tác.
Chương 3: Sự chuyển biến về hình thức nghệ thuật trong tiểu
thuyết Ma Văn Kháng thời kì đổi mới.

Chương ba sẽ đi sâu vào những chuyển biến, cách tân trong kĩ thuật thể loại
tiểu thuyết của Ma Văn Kháng.

























Chương 1
HAI CHẶNG ĐƯỜNG SÁNG TÁC TIỂU THUYẾT
CỦA MA VĂN KHÁNG TRONG SỰ VẬN ĐỘNG PHÁT TRIỂN
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM
TỪ SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 TỚI NAY
1.1. Hai chặng đường của tiểu thuyết Việt Nam từ 1945 tới 1985:
1.1.1. Chặng đường 1945 - 1985:
Cách mạng tháng tám năm 1945 thành công đã giải phóng dân tộc ta khỏi
ách nô lệ. Nhưng khi vừa giành được chủ quyền thì cũng là lúc toàn dân tộc lại
phải đương đầu với quân xâm lược mới: Đế quốc Mĩ. Đối với văn học, nó đã mở
ra một giai đoạn mới, một hướng nhìn, một lối đi đúng đắn cho một thế hệ các nhà
văn. Văn học giai đoạn này là văn học chiến tranh cách mạng. C
hủ tịch Hồ Chí
Minh đã căn dặn anh chị em văn nghệ sĩ: “Văn hóa, văn nghệ là một mặt trận, anh
chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Nhiệm vụ của các nhà văn lúc này là ca ngợi,
động viên tinh thần chiến đấu của toàn dân tộc. Một nền văn học mới: “Văn học
hiện thực xã hội chủ nghĩa, văn học cách mạng”[
13] ra đời. Một thế hệ các nhà
văn trưởng thành đến độ chín cả về tuổi đời cũng như tuổi nghề, hàng loạt những
cây bút mới đã thể hiện được năng lực của mình. Họ là những nhà văn đi đầu cho
“Một nền văn nghệ đậm chất cách mạng, tươi mới, sống động, đậm chất hiện
thực”[13].
Các tiểu thuyết trong thời kỳ này tập trung chủ yếu ở chủ đề: sức mạnh và

tinh thần yêu nước của nhân dân. Đề tài được đề cập tới hết sức đa dạng và phong
phú. Coi trọng và bám sát hiện thực là điều mà các nhà văn chú ý hướng tới vì
hiện thực là nguồn cảm hứng, là chất liệu để xây dựng lên tác phẩm. Đây là nét
độc đáo của nền “ng
hệ thuật anh hùng, là dáng đứng Việt Nam, tầm nhìn của thời
đại”[13].

Về nghệ thuật, tiểu thuyết giai đoạn này m
ang đậm cảm hứng sử thi lãng
mạn ngợi ca. Lã Nguyên nhận xét: “... các tác phẩm văn xuôi đầy ắp chất thơ và


câu văn xuôi của hầu hết các nhà văn luôn luôn ngân vang âm hưởng trữ tình”
[67]
. Các nhà văn xây dựng thành công những chân dung điển hình, những tấm
gương anh hùng tiêu biểu của dân tộc. Điều này không những có giá trị nhận thức,
thẩm mỹ lớn mà còn có tác dụng giáo dục nhiều thế hệ.
Quy m
ô tác phẩm hoành tráng phản ánh được cả một quá trình chiến đấu,
diễn biến tâm lý, tình cảm của nhân dân dành cho cách mạng. Có sự hòa quyện
giữa tiểu t
huyết và kí trong nhiều sáng tác. Tuy nhiên lồng vào những ghi chép
vẫn là những nhân vật điển hình xuyên suốt trong tác phẩm với những trăn trở, suy
tư, những hành động, những suy tính, những diến biến trong nội tâm khiến cho tác
phẩm vừa mang tính thời sự nóng hổi, vừa có diễn biến tâm lý, hành động của các
nhân vật.
Một loạt những tác phẩm được đánh giá c
ao về nội dung cũng như nghệ
thuật ra đời đáp
ứng được yêu cầu: Đất nước đứng lên (Nguyên Ngọc), Sống mãi
với thủ đô (Nguyễn Huy Tưởng), Trước giờ súng nổ (Lê Khâm), Người mẹ cầm
súng (Nguyễn Thi), Hòn đất (Anh Đức), Vùng mỏ (Võ Huy Tâm), Cao điểm cuối
cùng (Hữu Mai)...
Nhận xét về sự đa dạng về phong cách thể hiện của tiểu thuyết giai đoạn
này, Giáo Sư Phan Cự Đệ viết:
Nguyễn Đì
nh Thi chúng ta có được vẻ đẹp nhẹ nhõm, thanh thoát, trong

sáng, ở Nguyên Hồng là cái xù xì gân guốc, phong phú đến mức rập rạp. Trong
nhà văn Tô Hoài có cái hóm hỉnh, thông minh, tinh tế và thơ mộng. Văn của
Nguyễn Khải có cái tỉnh táo, sắc sảo đầy tính chất phát hiện. Nguyễn Huy Tưởng
có cái đôn hậu, ấm áp điểm vẻ huy hoàng, tráng lệ, cái dân gian mà hiện đại của
Nguyễn Thi, hiện đại mà cổ kính của N
guyễn Tuân, hùng tráng thi vị của Nguyễn
Trung thành, trữ tình thiết tha đến độ say đắm của Anh Đức, cái trí tuệ hài hòa
cân đối đến mức cổ điển của Phan Tứ[15, tr.40].
Tất cả đã tạo nê
n bức tranh phong phú, đa dạng cho văn học giai đoạn này.
Văn học 30 năm ch
iến tranh có thể coi là một biên niên sử mà ở đó ta
không chỉ quan sát được số phận dân tộc mà còn thấu hiểu số phận của mỗi cá


nhâ
n. Nhà nghiên cứu Trần Đình Sử đánh giá rằng “Văn học cách mạng 1945 -
1975 là một giai đoạn lịch sự không lặp lại của văn học dân tộc. Nó là một hiện
tượng nghệ thuật sáng ngời, là chiếc cầu nối liền văn minh dân tộc từ quá khứ,
hướng tới tương lai”[81].
Sau 1975, chiến tranh kết thúc thắng lợi văn học bước sang thời kì hậu
chiến. Tuy văn học vẫn “trượt theo quán tính của gi
ai đoạn trước”[65] nhưng đã
diễn ra sự vận động ở chiều sâu với những suy tư, trăn trở, tìm tòi âm thầm mà
quyết liệt ở những nhà văn có trách nhiệm với ngòi bút của mình. Nhiều tác giả
tiếp tục hướng vào đề tài chiến tranh cách mạng nhưng với những lý giải mới về
cuộc chiến tranh dân tộc. Cuộc chiến được nhì
n nhận một cách toàn diện ở nhiều
góc độ, sâu sắc và nhân bản hơn. Các nhà văn đào sâu vào những góc khuất của
chiến tranh, đặc biệt nhấn mạnh tính chất ác liệt, thảm khốc của cuộc chiến đấu, sự

hy sinh mất mát to lớn của con người đặc biệt những người bước ra từ cuộc chiến.
Nhâ
n vật người lính được khắc họa ở ch
iều sâu nội tâm, được đặt trong
nhiều mối quan hệ đặc biệt là quan hệ với chính mình, được soi rọi từ nhiều góc
độ ý thức, vô thức, bản năng, tốt xấu... Thân phận của con người sau chiến tranh
đặc biệt là người phụ nữ khi tuổi xuân đã mất, tình yêu tan vỡ... hay những món
nợ trong chiến tranh, những thất bại trên chiến trường, những kẻ đào ngũ, những
cái chết thảm bất ngờ... được khai thác nhiều trong các tác phẩm. Nguyễn Minh
Châ
u được coi là nhà văn dẫn đầu, mở đường cho một giai đoạn văn học mới. Đề
tài mà nhà văn thường đề cập là số phận người lính sau chiến tranh. Ông nhận xét:
“Thời kỳ này diễn ra một cuộc đối chứng giữa nhân cách và phi nhân cách, giữa
hoàn thiện và chưa hoàn thiện, giữa ánh sáng và những khoảng bóng tối còn rơi
rớt bên trong t
âm hồn của mỗi con người”[52, tr.63].
Hàng l
oạt tác phẩm tiêu biểu về đề tài này như: Những người đi từ trong
rừng ra, Cỏ lau, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành... (Nguyễn Minh Châu),
Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh), Góc tăm tối cuối cùng, Không phải trò đùa
(Khuất Quang Thụy), Vòng tròn bội bạc, Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai), Bước qua
lời nguyền (Tạ Duy Anh)...


Đầu những năm
80, sự khủng hoảng khó khăn về kinh tế dẫn tới sự phức
tạp trong xã hội, sự phân cực xấu tốt, trắng đen, thiện ác trong con người. Nhiều
nhà văn đã mạnh dạn đưa nhân vật đi vào chính cuộc sống hôm nay, đặt nhân vật
trong nhiều tình huống, hoàn cảnh khác nhau để nhân vật tự xoay sở, tự dằn vặt
nội tâm.

1.1.2. Chặng đường từ 1985 tới nay:
Năm1986 được coi là dấu mốc đổi mới của văn học Việt Nam với hàng loạt
sự kiện: Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện
mọi mặt của đất nước, tạo đà cho văn học nghệ thuật đổi mới, phát triển toàn diện
trên nền những gì đã đạt được; nghị quyết 05 của bộ chí
nh trị đã chỉ rõ: “Văn học
nghệ thuật là một bộ phận trọng yếu của cách mạng tư tưởng và văn hóa”[8],
cuộc gặp gỡ giữa tổng bí thư Nguyễn Văn Linh với anh em văn nghệ sĩ... thực sự
đã thổi một luồng gió mới cho văn học, tác động tới cách nghĩ, cách nhìn của giới
văn nghệ sĩ.
Qua
n điểm của Đảng ta về văn học: “Văn học là cuộc sống, là sự đấu tranh
của các nhà văn cho một cuộc sống tươi đẹp, đấu tranh bằng tác phẩm văn
học”[8] do đó các nhà văn cần “Phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học nghệ
thuật phát triển lên một bước”[8]. Văn xuôi trước sự nghiệp xây dựng xã hội chủ
nghĩa mở r
a trên nhiều lĩnh vực, đang tìm cách tiếp cận với mọi vấn đề của cuộc
sống. Trên tinh thần “đổi mới tư duy, nhìn thẳng vào sự thật, nhận thức lại hiện
thực”, “Tư tưởng tôn trọng sự thật, nhìn thẳng vào sự thật. Bởi vì sự thật luôn
luôn là linh hồn của nghệ thuật chân chính” [72], Đảng đã tạo điều kiện cho các
nhà văn tự “cởi trói” cho c
hính mình, thoát khỏi một giai đoạn văn học ngập tràn
cảm hứng ngợi ca.
Thời buổi kinh tế thị trường, văn chương càng mang nặng trọng trách. Văn
chương cần khai phá, đào sâ
u, phát hiện chính xác hơn những mẫu người mới,
những suy nghĩ cảm nhận mới, lên tiếng cảnh báo về sự xuất hiện của những cái
xấu, cái ác đang tồn tại và sự cần thiết phải bênh vực, bảo vệ phẩm g
iá của con
người... Làm được điều này là nhờ vào tính dân chủ trong văn học. Năm 1986 đã



đặt dấu mốc cho sự phát triển của văn học, đưa văn học tiếp tục bước những bước
đi vững chắc, mạnh mẽ hơn. K
huynh hướng “nhận thức lại hiện thực” với cảm
hứng phê phán mạnh mẽ trên tinh thần nhân bản đã lan rộng. Thời xa vắng của Lê
Lựu được coi là tác phẩm khơi dòng cho khuynh hướng này. Bên cạnh đó là Nỗi
buồn c
hiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dương Huớng, Tướng về
hưu của Nguyễn Huy Thiệp...
Văn học đi
sâu vào cuộc sống đời thường với vô số những vấn đề phức tạp
ngày càng trở nên thời sự. Cả một phức hợp với những tạp âm đời thường như đạo
đức, nhân cách, đạo lý gia đình, nhu cầu hạnh phúc
riêng tư đang diễn ra hàng
ngày, hàng giờ trong mỗi gia đình, ngoài xã hội cần được quan tâm. Nguyễn Khải
đã nói rằng: “Tôi thích cái hôm nay, cái hôm nay ngổn ngang bề bộn bóng tối và
ánh sáng, màu đỏ và màu đen, đầy rẫy những biến động, những bất ngờ, mới thật
là những mảnh đất phì nhiêu cho các cây bút thỏa sức khai vỡ”[50].
Văn học giai đoạn này nổi bật là cảm hứng phê phán. Giáo Sư Trần Hữu Tá
nhận xét: “Cảm hứng phê phán trong những tác phẩm này dào dạt, mạnh mẽ hơn
giai đoạn trước, tạo được những tác động mạnh đến tâm trạng xã hội”[82]. Nhiều
nhà văn đã xây dựng thành công hình tượng con người vi phạm các chuẩn mực
đạo đức, vì đồng tiền mà mất nhân cách, nhân tính. Chưa bao giờ cái xấu, cái ác,
sự bất công lại được đào bới kỹ lưỡng như thế. Người đọc cảm thấy đau
đớn, xót
xa cho nhiều số phận, nhiều cá nhân đang phải căng mình ra đón nhận, chống trả
những cái ác, cái xấu khi đọc Đồng đô la vĩ đại của Lê Minh Khuê, những sáng
tác của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, một loạt những truyện ngắn và tiểu
thuyết của Ma Văn Kháng... Con người từ một chiều đơn giản cao cả hay thấp

hèn, hoặc thiện hoặc ác sang đa chiều về nội tâm, số phận, đa dạng, phức tạp hơn
với đủ sắc thái lúc tốt, lúc xấu, lúc
cao cả, lúc lại tầm thường như Lý trong Mùa lá
rụng trong vườn, Hoan trong Ngược dòng nước lũ, Ba Sương trong Ăn mày dĩ
vãng, Linh trong Bên kia bờ ảo vọng...
Đặc biệt, văn học ngày càng “đi
sâu tìm nhận những khao khát trong nhu
cầu vươn tới hạnh phúc của con người”[115, tr.124], chú ý tới nội tâm của con


người, tình cảm
riêng tư, những cung bậc tình cảm: yêu thương và ghét bỏ, hạnh
phúc và bất hạnh, dục vọng, bản năng, tận cùng của những đam mê đau khổ... điều
mà giai đoạn trước không ai dám quan tâm, bày tỏ. Một loạt những tác phẩm của
Nguyễn Thị Thu Huệ, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Ngọc Tú, Dương Thu Hương,
Dương Hướng... đã làm được điều đó.
Văn xuôi có sự tìm tòi đổi mới linh hoạt, biến đổi trong nghệ thuật trần
thuật, ngôn ngữ đến giọng điệu,
có sự tham gia trực tiếp của nhân vật kể chuyện,
sự thay đổi liên tục, sự phối hợp nhiều giọng điệu, nhiều điểm nhìn. Mối quan hệ
giữa tác phẩm - người đọc - nhà văn bình đẳng, đối thoại và dân chủ. Trong nhiều
sáng tác, nhà văn giữ vai trò làm chủ rồi trao quyền cho nhâ
n vật tự đối đáp, kể, tả.
Phương thức trần thuật này giúp cho nhà văn có điều kiện xâm nhập vào thế giới
bên trong, phần sâu kín nhất của con người để làm rõ, nổi bật tâm trạng, khắc họa
nội tâm của họ như: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ (Y
Ban), Đám cưới khôn
g có giấy giá thú, Ngược dòng nước lũ (Ma Văn Kháng)...
Mối quan hệ giữa tác giả và nhân vật đư
ợc thay đổi từ điểm trùng khít giữa

tác giả và nhân vật sang độc lập tức nhân vật có một điểm nhìn độc lập khác với
điểm nhìn của tác giả. Đây là mối quan hệ bình đẳng đối thoại tạo nên tính chất đa
thanh điệu của tác phẩm. Bên cạnh đó có sự xuất hiện của dòng ý thức độc thoại
nội tâm, phân thân, hóa thân, giấc mơ, huyền thoại, con người cô đơn, tự thú, sám
hối, hồi tưởng...
Mô hình kết thúc có hậu tr
uyền thống không còn. Nhà văn thường đưa ra
những cái kết khác nhau như kết thúc không có hậu, những kiến giải, sự suy ngẫm
của người đọc... hay để cho người đọc tự phán quyết, tự đưa ra cách kết thúc cho
riêng mình.
Những năm gần đây
văn học nói chung, tiểu thuyết nói riêng chưa có bước
đột phá như giai đoạn trước nhưng cũng đã có những thử nghiệm, sáng tạo mới về
nghệ thuật tạo được sự chú ý cho độc giả, báo hiệu bước chuyển mới cho văn học
với các cây bút như: Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Ngọc Thuần, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Việt Hà...


1.2. Ma Văn Kháng và hai chặng đường tiểu thuyết của ông
(trước và sau thời kì đổi mới):
1.2.1.
Ma Văn Kháng - đường đời, đường văn:
Nhà văn Ma Văn Kháng tên thật là Đinh Trọng Đoàn sinh ngày 1/12/1936
tại phường Kim Liên, quận Đống Đa (nay là quận Ba Đình) - Hà Nội.
Ông sinh r
a và lớn từ cái làng ven thành Đồng Lầm vùng đất chân lấm tay
bùn, nghèo khổ và lam lũ thích hợp với việc thả rau muống bè. Nơi đây ruộng đất
ít ỏi nên dân trong làng chỉ còn cách kiếm sống bằng mấy nghề vặt như nhuộm
vải, cắt tóc dạo, vài người buôn bán lặt vặt.
Sau khi tốt nghiệp Đại học sư phạm Hà Nội, ông xung phong lên Tây Bắc

“đi theo tiếng gọi của Đan cô, Pa ven Corsaghin... xung phong đi đến những vùng
khó khăn của đất nước. Đi như viên đạn thẳng đầu”[59]. Hơn hai mươi năm sống
và làm việc ở vùng miền núi ấy, ông đã cố gắng hòa nhập với môi trường mới, gắn
bó và làm việc hết mình gắn bó và coi đây là quê hương thứ hai của m
ình.
Cái tên Ma Văn Khá
ng vừa là tên gọi hàng ngày, dùng trong các giấy tờ,
vừa là bút danh đã nói lên sự gắn bó và tình yêu của tác giả đối với miền đất này.
Nhiều người đã nghĩ ông là người dân tộc nhưng ông cho biết thực chất Kháng là
bí danh. “Một lần bị ốm nặng, được ông Nho chủ tịch huyện đã tận tình chăm sóc
như một người anh, một người cha, đích thân ông Nho cõng đi tìm thầy thuốc cứu
chữa. Thoát trận ốm đó ông quyết định kết nghĩa anh em
”[73]. Cái tên Đinh
Trọng Đoàn được lấy họ Ma và ghép lại thành Ma Văn Kháng để tỏ lòng biết ơn
người đã cứu mình.
Hơn hai mươi hai năm
công tác ở miền núi (Từ 1954 đến 1976) là quãng
đời trẻ trung, sôi nổi nhất của ông. Như một người cán bộ thực thụ, ông trực tiếp
tham gia, trải qua những đợt tiễu phỉ, đi là
m thuê, xây dựng hợp tác xã, dạy học,
làm thư kí, làm báo, nhà văn... Ông đã góp công sức không nhỏ cho đồng bào
miền núi trong giai đoạn gian khổ nhất.
Như thế thời trai trẻ của nhà văn là sự dấn thân say m
ê háo hức với tâm
trạng phơi phới của tuổi trẻ ở vùng sơn cước khi là chiến sĩ quân đội, lúc là ông


giáo, a
nh cán bộ, nhà báo, “đi như một viên đạn thẳng đầu vào đời bất chấp mọi
gian khổ hiểm nguy”[62]. Và cũng chính sự sôi nổi nhiệt tình, say mê làm việc ấy

mà nhà văn đã tích lũy được nhiều tư liệu quý giá. Cuộc kháng chiến chống Pháp,
cuộc vận động tiễu phỉ lớn lao, xúc động ở vùng đất này ít nhiều đã in dấu trong
lòng mỗi con người.
Lịch sử đau đớn, khổ ải cùng khát vọng mãnh liệt và sức mạnh tiềm ẩn
muốn vươn lên giải phóng mọi áp bức và những biến động lớn của xã hội”[
102]
ấy đ ã là tiền đề cho sáng tác của nhà văn. Ông lao động văn chương “như một
người Mèo trồng bắp trên núi, lặng lẽ, cần cù, kiên nghị, không ồn ào, to tiếng với
ai, góp nhặt như chú kiến tha mồi về tổ”[102].
Chăm chỉ lặng lẽ tìm tòi, góp nhặt những tư liệu sống mà mìn
h tận mắt
chứng kiến, tìm hiểu cuộc sống con người miền núi như lịch sử, phong tục tập
quán, con người nơi đây... nhà văn đã tích lũy được một kho tư liệu quý giá, là
chất liệu sáng tác cho ông sau này. Ma Văn Kháng đã cho ra đời hàng loạt những
truyện ngắn và tiểu thuyết có giá trị về cuộc đấu tranh, về cuộc sống và c
on người
vùng biên ải.
Thành công đến với ông không sớm n
hư nhiều nhà văn khác. Tác phẩm đầu
tay mang tên (Phố cụt) chưa để lại dấu ấn gì trong lòng người đọc. Chỉ khi (Xa
Phủ) ra đời mới được coi là bước khởi đầu cho sự nghiệp văn chương của ông.
Ông lần lượt cho ra đời hàng loạt tập truyện ngắn về miền núi ca ngợi những con
người nhân hậu, c
on đường đấu tranh xây dựng quê hương như (Mùa mận hậu),
(Người con trai họ Hạng), (Vệ sĩ của quan Châu), (Góc rừng xinh xắn), (Lá
xanh)...
Về tiểu thuyết, (Gió rừng) là tác phẩm đầu tiên nhưng chỉ khi tiểu thuyết
(ĐBT
HX) (Tập 1) ra đời ông mới cho rằng mình thực sự đứng được trong làng
văn, đã phần nào trả được món nợ cho nơi đã che chở cho mình suốt một thời gian

dài. Một cuộc vật lộn để cho ra hơn sáu trăm
trang giấy lung linh màu sắc của
thiên nhiên núi rừng và con người miền núi trong công cuộc đấu tranh xây dựng
bảo vệ quê hương. (VBA) (Tập 2) ra đời là sự tiếp nối cuộc đấu tranh của các dân


tộc miền núi nhưng chuyển sang một giai đoạn mới khó khăn, phức tạp hơn nhiều.
(GGƠLPT) viết về bản lĩnh kiên cường của thầy giá
o Khiêm đã bỏ bao công sức,
tâm huyết với quyết tâm cải tạo và xây dựng “lâu đài văn hóa” ở nơi xa xôi hẻo
lánh. (Trăng non) viết về sự nghèo nàn, lạc hậu của con người tuy chiến tranh đã
lùi xa...
Trong số những tiểu thuyết ấy thì ba cuốn (ĐBTHX), (VBA) và (GGƠLPT)
là thành c
ông, có giá trị nhất, tạo thành một bức tranh hoàn chỉnh trong sáng tác
của nhà văn về đề tài miền núi.
Sau khi đất nước được
hoàn toàn giải phóng, được chuyển công tác về Hà
Nội ông hòa nhập rất nhanh với cuộc sống đô thị. Ông tiếp tục sự nghiệp văn
chương của mình và đã có nhiều thành công, đóng góp không nhỏ cho văn c
hương
nước nhà. Hàng loạt những sáng tác mang hơi thở của cuộc sống thành thị thời kì
đổi mới ra đời. Ông được tín nhiệm giữ các chức vụ cao như: Phó giám đốc kiêm
tổng biên tập nhà xuất bản Lao động, ủy viên ban chấp hành, ủy viên Đảng đoàn
hội các nhà văn khóaV, tổng biên tập tạp chí Văn học nước ngoài và nhiều chức
vụ quan trọng khác.
Nhiều người đã nhận xét Ma Văn Khá
ng là một con người hết sức giản dị,
lặng lẽ sống và làm việc, cần cù cần mẫn trong lao động sáng tạo nghệ thuật, sống
hòa đồng và được lòng mọi người. Trong suốt một cuộc đời, bao thay đổi xã hội,

của văn học nhưng dường như người ta không thấy ông lên tiếng phê phán, chỉ
trích ai trong khi đó những tác phẩm của ông thì lại luôn tạo ra sự tranh cãi gay gắt
trong dư luận. Ô
ng đã sống và làm việc hết mình ở những nơi mà ông từng đặt
chân tới. Yêu đời, yêu cuộc sống và yêu con người, lo lắng cho sự phát triển của
xã hội, nhân cách của con người trong xã hội hiện đại là điều mà ông luôn băn
khoăn trăn trở, day dứt.
Tiểu t
huyết (MMH) khi xuất hiện trên văn đàn đã gây sự ngỡ ngàng, xôn
xao dư luận về cả đề tài lẫn vấn đề đư
ợc đề cập trong tác phẩm. Thứ nhất: một nhà
văn chuyên đi vào đề tài đấu tranh, cuộc sống con người ở miền núi nay bỗng
nhiên lại chuyển sang mảng thị thành rất tự nhiên. Thứ hai là những con người tốt,


lương thiện lại có kết cục buồn, bi
thảm. Bên cạnh đó nhà văn đã lên án, phê phán
mạnh tay, thẳng thắn những con người cơ hội, thói quan liêu vụ lợi, lối sống ti tiện
vô đạo đức làm xấu đi bộ mặt đất nước đang diễn ra ngay xung quanh mình mà
trước đây chưa có ai lên tiếng mạnh mẽ như thế.
Những tiểu thuyết kế tiếp như (M
LRTV), (ĐCKCGGT), (NDNL)... vẫn tiếp
nối đề tài về thành thị với những số phận bi đát, những con người tha hóa ở mức
độ cao hơn với bút pháp tinh tế, sáng tạo càng khẳng định ngòi bút
thẳng thắn
vạch trần vấn đề đạo đức tha hóa trong xã hội của nhà văn.
Trong sự nghiệp sáng tác của mìn
h, Ma Văn Kháng đã nhận được rất nhiều
giải thưởng và điều đó đã khẳng định ngòi bút của m
ình. (ĐBTHX) được giải

thưởng nhà nước đợt 1 năm 2001, năm 2002 hội văn học nghệ thuật Lao Cai trao
giải đặc biệt. (GGƠLPT) được Hội văn học - nghệ thuật các dân tộc thiểu số trao
giải thưởng chính thức. Tiểu thuyết (MLRTV) được giải thưởng loại B hội nhà
văn Việt Nam 1986, được tặng thưởng của hội đồng văn xuôi hội nhà văn Việt
Nam
1995. Tập truyện ngắn (Trăng soi sân nhỏ) được nhận giải thưởng văn học
Đông Nam Á 1998... Nhiều tiểu thuyết tạo sự chú ý, gây nên tranh luận trong giới
bạn đọc và những nhà nghiên cứu, được chuyển thể thành phim, một số truyện
ngắn được đưa vào chương trình giảng dạy ở bậc phổ thông...
Gần đâ
y, ông vẫn tiếp tục cho ra đời những truyện ngắn đương đại có giá trị
cao, mang ý nghĩa lớn đối với người đọc, với cuộc sống hôm nay như (Tội nghiệp
con vẹt già), (Cuộc đấu của gà chọi), (Thầy Thế đi chợ bán trứng)...
Gooc-ki đã từng nói: “Nghề viết văn là một loại nghề cực nhọc nhất trên
thế gian này”[102]
và khuyên những ai từng nghĩ viết văn là nhà
n nhã, là nắng
không đến đầu, mưa không tới mặt nhưng dấn thân vào thì là một sai lầm to lớn.
Với Ma Văn Kháng, ông quan niệm văn chương là một công việc khó, thu hút hết
tâm lực của người nghệ sĩ nhưng không phải ai cũng chạm tới được. Chẳng hạn để
có được (ĐBTHX) thì ngoài vốn sống, tự đi thu thập tư liệu, tìm hiểu kĩ lưỡng còn
là sự lao động c
hăm chỉ, miệt mài. Ông đã phải “Viết đi viết lại ba bốn lần với một
đống bản thảo dày gần hai gang tay, bằng đủ các loại giấy thếp, giấy học sinh,


giấy đánh máy chi chít những chỗ dập xóa, chú thích bên lề...”[102]. Thế mới đủ
thấy c
ông sức của nhà văn quả là không nhỏ trong công việc sáng tạo nghệ thuật.
Ông cho rằng:

Công việc văn chương không đơn giản chỉ là tài năng mà còn là sự vật lộn
trăn trở, nghiền ngẫm, từng trải, luôn canh cánh trong l
òng như mắc nợ với đời.
Văn chương phải tự nhiên như đời sống, phải tác động tới đời sống t
âm tư tình
cảm của mỗi cá nhân con người, cái viết ra phải làm cho con người hoặc sung
sướng đến phát điên lên hoặc đau đớn quặn thắt đến từng khúc ruột, hoặc ngẩn
ngơ như một kẻ mắc bệnh trầm cảm[39].
Văn c
òn phải tác động tới cuộc sống hiện tại, phải làm cho con người trở
nên người hơn, phải gắn với hiện thực cuộc sống. Nhà văn viết văn không vì mục
đích kiếm kế sinh nha
i mà viết bằng lòng yêu nghề, bằng chính con tim và cả trách
nhiệm trước cuộc sống, trước con người, phải luyện làm sao cho tự nhiên, giản dị
như cuộc đời thật, vốn có của nó. Phát biểu trên tuần báo văn nghệ năm 1971, nhà
văn đã khẳng định rằng để có
những trang viết sâu sắc, chân thành đòi hỏi sự cần
mẫn, gắn bó của mình với nghề văn và “sự chăm chỉ trong công việc, sự quan sát,
suy nghĩ và học tập thật sự. Phải có hiểu biết, hiểu biết có tính chất học thuật sâu
sắc, phải có một trái tim chân thành thương yêu, một sự đồng cảm thiết tha”[41].
Văn c
hương như một nguồn sống của ông, là niềm ấp ủ gắn bó bao năm. Ở
nhiều nhà văn, chỉ một tác phẩm cũng đủ làm
nên tên tuổi, để lại cho đời còn Ma
Văn Kháng có cả một khối lượng tác phẩm đồ sộ mà tác phẩm nào cũng để lại ấn
tượng, đụng chạm vào những vấn đề nóng hổi của cuộc sống vậy mà ông vẫn bảo
rằng: “Cứ hễ bắt đầu viết một cái gì lại thấy bồi hồi,
run rẩy như trẻ nhỏ tập
đi”[62].
Hiện na

y, ông và gia đình vẫn sống bình dị trong một căn hộ nhỏ do nhà
nước cấp trong một ngõ nhỏ sát đại lộ Nguyễn Chí Thanh gần con phố mang tên
nhà văn bậc thầy Nguyễn Công Hoan. “Đêm đêm trong phòng làm việc của ông
vẫn tỏa sáng- một ánh sáng vừa đủ soi tỏ trang viết ”[95]. Trong đời sống bình dị,
êm đềm
quanh con cháu và bè bạn, ông vẫn tiếp tục khẳng định ngòi bút của mình


×