Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẢM BẢO THANH KHOẢN THEO CHUẨN MỰC BASEL 3 CỦA NGÂN HÀNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.13 KB, 40 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

BÀI TẬP NHÓM
ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH
VỀ ĐẢM BẢO THANH KHOẢN THEO CHUẨN
MỰC BASEL 3 CỦA NGÂN HÀNG VIỆT NAM
GVHD: NGUYỄN THỊ HAI HẰNG
LỚP: K09.404A
NHÓM THỰC HIỆN MSSV
1. PHAN THỊ KIM NGƯNG K094040579
2. NGUYỄN THỊ YẾN NHI K094040582
3. VŨ THỊ THU PHƯỢNG K094040591
TP.HCM, Ngày 26 tháng 04 năm 2013
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
STT HỌ VÀ TÊN MSSV
CÔNG VIỆC
1 PHAN THỊ KIM NGƯNG K094040579
- Đánh giá khả năng áp dụng
các quy định thanh khoản
theo Basel 3
- Tổng hợp và chỉnh sửa bài.
2 NGUYỄN THỊ YẾN NHI K094040582
- Các quy định về thanh
khoản theo chuẩn mực
Basel 3
- Nghiên cứu về Ủy ban
Basel và các hiệp ước Basel
3 VŨ THỊ THU PHƯỢNG K094040591
- Các quy định về thanh
khoản theo chuẩn mực


Basel 3
- Đánh giá khả năng áp dụng
các quy định thanh khoản
theo Basel 3
MỤC LỤC
4
MỞ ĐẦU
Khả năng thanh khoản, hay khả năng đáp ứng nguồn vốn cho sự tăng lên của tài
sản có và thanh toán các khoản nợ khi đến hạn là điểm cực kỳ quan trọng đối với sự tồn
tại của bất kỳ ngân hàng nào. Vì vậy, quản lý khả năng thanh khoản là một trong những
hoạt động quan trọng nhất của các ngân hàng. Quản lý khả năng thanh khoản tốt sẽ giúp
giảm xác suất xảy ra những tổn thất nghiêm trọng. Tầm quan trọng của khả năng thanh
khoản thực sự vượt ra khỏi phạm vi của những ngân hàng đơn lẻ vì sự suy giảm khả năng
thanh khoản tại một ngân hàng có thể có ảnh hưởng tới toàn hệ thống. Vì lý do đó, việc
phân tích khả năng thanh khoản đòi hỏi các bộ quản lý ngân hàng không chỉ đo lường
khả năng thanh khoản của ngân hàng một cách liên tục mà còn nghiên cứu xem các yêu
cầu cấp vốn có khả năng diễn biến như thế nào trong những hoàn cảnh khác nhau bao
gồm cả những điều kiện bất lợi.
Trong các công việc về giám sát khả năng thanh khoản, Ủy ban Basel đã nỗ lực
mở rộng cách hiểu về cách thức một ngân hàng quản lý khả năng thanh khoản của mình ở
phạm vi toàn cầu trên cơ sở bù trừ các giao dịch trong nội bộ. Những tiến bộ gần đây về
phương diện tài chính và công nghệ đã cung cấp cho các ngân hàng những phương pháp
mới để cấp vốn cho các hoạt động của mình và quản lý khả năng thanh khoản thông qua
các hiệp ước Basel. Hiện nay các nước đang cố gắng để đáp ứng các chuẩn mực trong
Basel nhằm phù hợp với các thông lệ quốc tế, trong đó việc áp dụng hiệp ước mới nhất là
Basel 3 đang còn nhiều bất cập.
Bài phân tích của nhóm sẽ xem xét xem khả năng áp dụng các quy định về thanh khoản
theo chuẩn mực Basel 3 của các ngân hàng Việt Nam hiện nay như thế nào.
5
CHƯƠNG 1: HIỆP ƯỚC QUỐC TẾ VỀ AN TOÀN VỐN VÀ GIÁM SÁT

HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG
1. Đôi nét về Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng (BCBS)
Ủy ban Basel về giám sát hoạt động của ngân hàng là một Ủy ban bao gồm các
chuyên gia giám sát hoạt động ngân hàng được thành lập bởi các Thống đốc Ngân hàng
Trung ương của nhóm G10 vào năm 1975. Ủy ban này bao gồm đại diện cao cấp của
các cơ quan giám sát nghiệp vụ ngân hàng và bản thân ngân hàng Trung ương của các
nước Bỉ, Canada, Pháp, Đức, Italia, Nhật Bản, Hà Lan, Thụy Điển, Vương quốc Anh và
Hoa kỳ. Ủy ban tổ chức họp thường niên tại trụ sở Ngân hàng thanh toán quốc tế ở
Washington hoặc tại Thành phố Basel – Thụy Sỹ. Ban thư ký thường trực của Ủy ban
này cũng có trụ sở làm việc tại Thủ đô Washington – Hoa kỳ.
Quan điểm của Ủy ban này là: Sự yếu kém trong hệ thống ngân hàng của một
quốc gia, dù là quốc gia phát triển hay đang phát triển, có thể đe dọa đến sự ổn định về
tài chính trong cả nội bộ quốc gia đó và trên trường quốc tế. Nhu cầu nâng cao sức
mạnh của hệ thống tài chính nhất thiết phải được nhiều quốc gia, tổ chức trên thế giới
đặc biệt quan tâm, hưởng ứng.
Ủy ban Basel về Giám sát nghiệp vụ ngân hàng đã tham gia hoạt động trong
nhiều năm qua cho quan điểm và sứ mạng này. Ủy ban này đã luôn xem xét tìm các biện
pháp tốt nhất tăng cường mọi nổ lực củng cố công tác giám sát chuẩn mực ở tất cả các
quốc gia thông qua việc thiết lập mối quan hệ tốt với các nước nằm ngoài nhóm G10,
ngoài các hoạt động trước đây đã được thiết lập thúc đẩy công tác giám sát tốt hơn tại
các nước trong nhóm.
2. Lịch sử vắn tắt quá trình hình thành các Basel
• Năm 1988, Hiệp ước vốn Basel đầu tiên (Basel I) ra đời và có hiệu lực từ 1992.
6
• Năm 1996, Basel I được bổ sung thêm rủi ro thị trường (được thực thi chậm nhất
vào ngày 1/1/1998).
• Tháng 6/1999, đề xuất một khung Hiệp ước vốn mới với chương trình tư vấn lần
thứ nhất (First Consultative Package - CP1).
• Tháng 1/2001, chương trình tư vấn lần thứ hai (CP2).
• Tháng 4/2003, chương trình tư vấn lần thứ ba (CP3).

• Quý 4/2003, phiên bản mới của Hiệp ước vốn (Basel 2) được hoàn thiện. Tháng
1/2007, Basel 2 có hiệu lực. Năm 2010, chấm dứt quá trình chuyển đổi.
• Ngày 26/6/2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn Basel mới (Basel 2) đã chính thức
được ban hành. Tháng 1/2007, Basel 2 có hiệu lực.
• Ngày 12/9/2010, Hiệp định Basel 3 được ký kết tại Thành phố Basel thuộc Thụy
Sỹ. Các nước G20 nhất trí bắt đầu áp dụng Basel 3 từ ngày 1/1/2013 và triển khai
đầy đủ vào năm 2019.
3. Nội dung cơ bản của các Hiệp ước vốn và những hạn chế
3.1. Hiệp ước Basel I
Nhận thấy sự cần thiết phải có một thỏa thuận đa quốc gia nhằm củng cố sự ổn
định trong hoạt động ngân hàng và tạo ra sự bình đẳng trong cạnh tranh do các yêu cầu
về vốn tối thiểu khác nhau giữa các nước, năm 1987 Ủy ban Basel đã xây dựng bản dự
thảo hiệp định sơ bộ về tiêu chuẩn vốn. Hiệp định áp dụng với các ngân hàng và tổ chức
tín dụng hoạt động quốc tế lớn và gửi đến các nước thành viên G10.
Tháng 7/1988, Hiệp ước quốc tế về vốn ngân hàng – Basel 1 đã chính thức được
thông qua nhằm khuyến khích các ngân hàng củng cố vốn và xem xét rủi ro trong hoạt
động của mình.
Mục tiêu của Basel 1 là chuẩn mực hóa hoạt động ngân hàng trong trào lưu toàn
cầu hóa nhằm củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống ngân hàng quốc tế; Thiết lập một
hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không lành
mạnh giữa các ngân hàng quốc tế.
7
Hiệp ước yêu cầu các ngân hàng hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn
tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một
tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được
hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của ngân hàng đó.
Basel 1 đã đưa ra chỉ tiêu về an toàn vốn tối thiểu (CAR) của ngân hàng là 8%.
Cụ thể:
Tỉ lệ thoả đáng về vốn (CAR) = Vốn bắt buộc / Tài sản tính theo độ rủi ro gia quyền
(RWA)

Theo đó, ngân hàng có mức vốn tốt là ngân hàng có CAR > 10%, có mức vốn thích hợp
khi CAR > 8%, thiếu vốn khi CAR < 8%, thiếu vốn rõ rệt khi CAR < 6% và thiếu vốn
trầm trọng khi CAR < 2%.
Basel I còn đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của
ngân hàng. Theo đó, vốn của ngân hàng được chia làm 2 loại: Vốn cấp 1, Vốn cấp 2.
• Vốn cấp1 (vốn cơ bản) bao gồm vốn cổ phần thường và các khoản dự trữ công
khai.
• Vốn cấp 2 (vốn bổ sung) gồm các khoản dự trữ không công khai, giá trị tăng
thêm của việc đánh giá lại tài sản, dự phòng chung và dự phòng tổn thất tín dụng,
các công cụ nợ cho phép chuyển đổi thành cổ phiếu và các khoản nợ thứ cấp.
Tổng vốn cấp 1 và vốn cấp 2 chính là vốn tự có hay vốn cơ bản của TCTD. Vốn tự có
phải đảm bảo được giới hạn sau:
• Tổng vốn cấp 2 chỉ được tối đa bằng 100% vốn cấp 1.
• Nợ thứ cấp phải nhỏ hơn hoặc bằng 50% vốn cấp 1.
Trong trường hợp các khoản dự phòng chung hay dự phòng tổn thất tín dụng bao
gồm giá trị giảm của việc đánh giá lại nhưng chưa thể hiện trong bảng cân đối kế toán,
8
phần dự phòng cho những khoản này sẽ được giới hạn tối đa là 1.25% hoặc trong một số
trường hợp đặc biệt có thể lên tới 2% của tài sản có rủi ro.
3.2. Những thiếu sót của Hiệp ước Basel I:
Hiệp ước Basel I năm 1988 mang tính chất thỏa thuận quốc tế và các tiêu chuẩn
về vốn đã trở thành chuẩn mực quốc tế về vốn tự có. Nó quy định về tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu và quản lý rủi ro tín dụng đối với ngân hàng, là một trong những căn cứ, tiêu
chuẩn để các ngân hàng của các quốc gia trên thế giới áp dụng quản lý, đảm bảo an toàn
trong hoạt động. Tuy nhiên, Basel 1 mới chỉ đề cập đến những rủi ro về tín dụng chứ
chưa đề cập đến những rủi ro khác như rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất.
Xét riêng về quản trị rủi ro tín dụng, Hiệp ước Basel I vẫn còn những điểm hạn chế sau:
 Không phân biệt theo loại rủi ro
Một khoản nợ đối với tổ chức xếp hạng AA được coi như 1 khoản nợ đối với tổ
chức xếp hạng B. Trọng số rủi ro chỉ phân biệt nhóm tài sản có theo đối tượng cho vay

mà không phân biệt đến chất lượng hoạt động thực tế của đối tượng đó. Cụ thể theo
Basel I thì một khoản vay cho đối tượng công ty được xếp hạng loại A ( theo hệ thống
xếp hạng Mood’s, S&P hay Fitch ICBA) cũng được gán trọng số rủi ro là 100% như đối
với khoản vay cho công ty có xếp hạng tín dụng thấp hơn ( B, BB) vì cùng thuộc mảng
cho vay tư nhận. Điều này không bao quát được ý nghĩa của quản trị rủi ro tín dụng
 Không có lợi ích từ việc đa dạng hóa
Một khoản nợ riêng lẻ yêu cầu một lượng vốn giống như một danh mục đầu được
đa dạng hóa, với cùng một giá trị, tức là không có sự khác biệt nào giữa một khoản vay
$100 với một khoản vay $1. Trong thực tế khả năng xảy ra rủi ro với khoản vay $100 tại
1 thời điểm là cao hơn so với 100 khoản vay $1 tại cùng một thời điểm đó.
 Chưa bắt kịp với sự phát triển của các công cụ tài chính mới như chứng khoán hóa các
khoản nợ và các công cụ phái sinh
9
Với sự ra đời của một loạt các công cụ tài chính mới, Basel I không còn phù hợp
do chưa tận dụng được hết những lợi ích của các công cụ này nhằm tăng cường an toàn
cho hoạt động ngân hàng.
3.3. Hiệp ước Basel II – Hiệp ước sửa đổi bổ sung Basel I
Trước đòi hỏi của sự phát triển, về đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng
của các tổ chức tín dụng, đặc biệt là đối với những tập đoàn ngân hàng lớn có phạm vi
hoạt động quốc tế, Hiệp ước Basel II đã ra đời với những bổ sung cần thiết để khắc phục
các hạn chế của Basel I cũng như giúp các ngân hàng nâng cao năng lực quản trị rủi ro.
Basel II sử dụng khái niệm“Ba trụ cột”:
• Trụ cột thứ I: Liên quan tới việc duy trì vốn bắt buộc. Theo đó, tỷ lệ vốn bắt buộc tối
thiểu (CAR) vẫn là 8% của tổng tài sản có rủi ro như Basel I. Tuy nhiên, rủi ro được
tính toán theo ba yếu tố chính mà ngân hàng phải đối mặt: rủi ro tín dụng, rủi ro vận
hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường. So với Basel I, cách tính chi phí vốn đối
với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, đối với rủi ro thị trường có sự thay đổi nhỏ, nhưng
hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro vận hành. Trọng số rủi ro của Basel 2 bao gồm
nhiều mức (từ 0%-150% hoặc hơn) và rất nhạy cảm với xếp hạng.
• Trụ cột thứ 2: liên quan tới việc hoạch định chính sách ngân hàng, Basel 2 cung cấp cho

các nhà hoạch định chính sách những “công cụ” tốt hơn so với Basel I.Trụ cột này cũng
cung cấp một khung giải pháp cho các rủi ro mà ngân hàng đối mặt, như rủi ro hệ thống,
rủi ro chiến lược, rủi ro danh tiếng, rủi ro thanh khoản và rủi ro pháp lý, mà hiệp ước
tổng hợp lại dưới cái tên rủi ro còn lại (residual risk).
Basel 2 nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát giám sát
- Thứ nhất, các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn
nội bộ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức
vốn đó.
10
- Thứ hai, các giám sát viên nên rà soát và đánh giá việc xác định mức độ vốn nội bộ và
chiến lược của ngân hàng, cũng như khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỉ lệ vốn tối
thiểu; giám sát viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài
lòng với kết quả của quy trình này.
- Thứ ba, Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức tối
thiểu theo quy định.
- Thứ tư, giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân hàng
không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu
mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
• Trụ cột thứ 3: Các ngân hàng cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo
nguyên tắc thị trường. Basel 2 đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng
phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến
những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi
ro thị trường, rủi ro vận hành và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với từng loại rủi
ro này.
Như vậy, quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các
ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch
hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm
thiểu được rủi ro.
3.4. Những hạn chế của Basel 2
Mặc dù được coi như một cơ chế quan trọng để đẩy mạnh cải cách và củng cố toàn bộ

công tác điều hành trong lĩnh vực tài chính, nhưng cuộc khủng hoảng tài chính hiện tại
đã cho thấy những thiếu sót, bất cập của Basel 2. Đó là:
- Việc áp dụng các phương pháp quản trị rủi ro tiên tiến chưa có các tiêu chuẩn có
thể được chấp nhận rộng rãi.
11
- Các phương pháp giám sát, đánh giá rủi ro chưa tính đến các hoạt động của chu
lỳ kinh doanh.
- Các cơ quan quản lý chưa theo kịp tốc độ phát triển mạnh mẽ những sản phẩm
dịch vụ có khoa học công nghệ cũng như mức độ rủi ro cao.
- Thiếu yêu cầu về phí vốn, các vấn đề về thanh khoản và đặc biệt là quá tin cậy
vào các cơ quan xếp hạn tín dụng.
12
CHƯƠNG 2: BASEL III VÀ CÁC QUY ĐỊNH VỀ THANH KHOẢN TRONG
BASEL III
1. Hiệp ước Basel III
CHƯƠNG 3: Dù có những tiến bộ đáng kể về nội dung so với Basel I, song việc
áp dụng Basel II trên phạm vi toàn cầu gặp rất nhiều khó khăn nhất là sau cuộc khủng
hoảng tài chính năm 2008. Nhằm khắc phục những hạn chế của Basel II, ngày
12/9/2010, Hiệp định Basel III được thống đốc các ngân hàng trung ương và các cơ
quan quản lý ngân hàng 27 thành viên (gồm Argentina, Úc, Bỉ, Brazil, Canada, Trung
Quốc, Pháp, Đức, Hồng Kông, Ấn Độ, Indonesia, Ý, Nhật, Hàn Quốc, Luxembourg,
Mexico, Hà Lan, Nga, Ả Rập Xê Út, Singapore, Nam Phi, Tây Ban Nha, Thụy Điển,
Thụy Sỹ, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh và Mỹ) ký kết tại Thành phố Basel thuộc Thụy Sỹ. Các
nước G20 nhất trí bắt đầu áp dụng Basel III từ ngày 1/1/2013 và triển khai đầy đủ vào
năm 2019.
CHƯƠNG 4: Về cơ bản, Basel 3 hầu như vẫn giữ lại những quy định của Basel 2
và thêm vào những khái niệm và yêu cầu mới mang tính cập nhật phù hợp với tình
hình mới của thế giới.
 Nâng cao chất lượng vốn: Nếu Basel 2 chỉ tập trung đến yêu cầu về mức độ vốn tối thiểu
của ngân hàng thì Basel 3 đã tiến đến một mức xa hơn nữa khi đưa ra định nghĩa phù hợp

về vốn trước khi xây dựng mức độ phù hợp của vốn. Chất lượng vốn tốt hơn đồng nghĩa
với việc khả năng bù đắp các khoản lỗ tốt hơn, điều này giúp cho ngân hàng “khỏe” hơn,
do đó có khả năng chống đỡ tốt hơn trong thời kì khó khăn. Theo đó vốn cổ phần thường
của ngân hàng sẽ là trọng tâm được Basel 3 hướng đến để xây dựng một nền tảng vốn có
chất lượng tốt.
 Tỷ lệ an toàn vốn: Hệ số CAR, một thước đo độ an toàn vốn của ngân hàng được tính
bằng tỷ lệ giữa vốn tự có (vốn cấp 1 và vốn cấp 2) và tổng tài sản có điều chỉnh rủi ro
được giữ nguyên 8% theo Basel 2. Tuy nhiên tỷ lệ của loại vốn có chất lượng cao được
13
nâng lên, cụ thể: tỷ lệ Vốn cấp 1 tăng từ 4% trong Basel 2 lên 6% trong Basel 3, đồng
thời tỷ lệ Vốn của cổ đông thường (common equity) cũng được tăng từ 2% lên 4,5%.
CHƯƠNG 5: Các ngân hàng cũng được yêu cầu trích thêm dự phòng bằng 2.5%
tổng tài sản rủi ro với khoản mục vốn cổ phần thường để có thể gánh chịu những khó
khăn có thể xảy ra trong tương lai. Bên cạnh đó Basel 3 còn yêu cầu các ngân hàng
buộc các ngân hàng có hoạt động quốc tế phải tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên 7%, dự
kiến hoàn tất vào năm 2019.
 Giới thiệu phương pháp giám sát an toàn vĩ mô hệ thống để các ngân hàng áp dụng. Yếu
tố quan trọng thứ 3 của quy định mới về vốn là phương pháp giám sát an toàn vĩ mô đề
cập tới rủi ro hệ thống. Theo đó Basel 3 đưa ra các biện pháp nhằm giảm bớt tác động
của chu kỳ kinh tế đối với hệ thống ngân hàng và bảo vệ mối liên kết giữa các tổ chucwx
tài chính.
 Đưa ra các quy định về tiêu chuẩn thanh khoản đối với các ngân hàng.
CHƯƠNG 6: Điểm yếu cơ bản của Basel II là thiếu khung giám sát về các tổn hại
từ thanh khoản đồng thời quá tin tưởng vào các đánh giá của tổ chức xếp hạn tín
nhiệm. Do đó việc Basel 3 đề cập đến vấn đề thanh khoản là điều đặc biệt quan trọng
và chưa có tiêu chuẩn quốc tế nào quy định về vấn đề này. Các quy định về tỷ lệ
thanh khoản sẽ được ban hành và áp dụng vào 1/1/2015, giúp ngân hàng có khả năng
chống đỡ ngắn hạn tốt hơn với những căng thẳng thanh khoản. Quy định này yêu cầu
ngân hàng nắm giữ các tài sản có tính thanh khoản cao và có chất lượng cao để đáp
ứng nhu cầu chi trả trong những trường hợp khó khăn. Thực tế, việc quản lý rủi ro

thanh khoản rất khác nhau tại từng quốc gia. Ủy ban Basel sẽ sử dụng nhiều quy trình
báo cáo để theo dõi các tỷ lệ trong quá trình chuyển đổi để đảm bảo các tiêu chuẩn
được tính toán như dự kiến.
 Lộ trình áp dụng Basel 3
14
CHƯƠNG 7: Basel 3 với những quy định mới về khái niệm và các tiêu chuẩn tối
thiểu cao hơn cùng với phương pháp giám sát an toàn vĩ mô là sự thay đổi lịch sử
trong quy định về hoạt động ngân hàng. Ủy ban Basel cùng các nhà lãnh đạo của các
nước G20 đã thống nhất rằng cuộc cải tổ này sẽ được triển khai sao cho không ảnh
hưởng tới tốc độ phục hồi kinh tế của các nước. Ngoài ra, sẽ cần có thời gian để đưa
những tiêu chuẩn quốc tế mới vào những quy định riêng của các quốc gia. Theo tinh
thần như vậy, BIS đã đưa ra một lộ trình để thực hiện bất đầu từ tháng 1/2013 và hoàn
thành vào cuối năm 2018.
CHƯƠNG 8:
CHƯƠNG 9:
CHƯƠNG 10: (Nguồn:
CHƯƠNG 11:
1. Các quy định về thanh khoản trong Basel III
15
1.1. Tỷ lệ đảm bảo thanh khoản ( Liquidity Coverage Ratio – LCR )
>=100%
CHƯƠNG 12: Tỷ lệ này yêu cầu các ngân hàng phải đảm bảo tài sản Có thanh
khoản cao phải lớn hơn hoặc bằng tài sản Nợ phải thanh toán trong vòng 30 ngày.
Tỷ số LCR có 2 phần:
 Giá trị dự trữ tài sản Có thanh khoản cao:
CHƯƠNG 13: Để được xét trong trường hợp này, các tài sản Có thanh khoản cao
phải là không bị cản trở trong thời gian 30 ngày theo các kịch bản bắt buộc. Chúng
cũng phải đảm bảo thanh khoản trên thị trường trong thời gian kiểm tra sức chịu
đựng, lý tưởng là đủ điều kiện để có thể mua bán được với ngân hàng trung ương.
CHƯƠNG 14: Theo tiêu chuẩn này, các ngân hàng phải nắm giữ các tài sản có mà

không bị cản trở để có thể đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng trong khoảng
thời gian 30 ngày.
 Tài sản thanh khoản cao được chia làm 2 cấp độ:
• Cấp độ 1: Loại tài sản này có tính thanh khoản cao nhất, có thể chiếm tỷ trọng lớn hơn
hoặc bằng 60% tổng thanh khoản. Tài sản này bao gồm:
• Tiền mặt
• Dự trữ tại NHTW ở mức độ mà họ có thể rút tiền ra vào thời gian căng thẳng.
• Các chứng khoán có thể bán được tiêu biểu như các khoản cho vay đến hạn đối
với hoặc được bảo lãnh bởi chính phủ, NHTW, các doanh nghiệp công không trực
thuộc chính phủ trung ương, BIS, IMF, EC hoặc các ngân hàng phát triển đa biên
đáp ứng các điều kiện sau:
 Được đánh giá là 0% rủi ro theo cách tiếp cận chuẩn hóa Basel II
16
 Được giao dịch tại các thị trường repo hoặc tiền mặt phát triển sâu, rộng và
năng động có đặc điểm là mức độ tập trung thấp.
 Đã được kiểm chứng là nguồn thanh khoản đáng tin cậy trên thị trường (repo
hoặc bán) thậm chí cả trong điều kiện thị trường căng thẳng và
 Không phải là một nghĩa vụ của một định chế tài chính hoặc bất kỳ tổ chức
liên quan nào của định chế tài chính.
• Giấy tờ có giá không phi rủi ro như chứng khoán nợ của chính phủ hoặc NHTW phát
hành bằng đồng bản tệ nên rủi ro thanh khoản đã được tính đến hoặc xảy ra tại nước
nguyên xứ của ngân hàng.
• Giấy tờ có giá không phải là 0% rủi ro, chứng khoán nợ của chính phủ, địa phương hoặc
NHTW phát hành bằng đồng ngoại tệ được nắm giữ phù hợp với nhu cầu về đồng tiền đó
của ngân hàng tại quốc gia đó.
• Cấp độ 2: Là loại tài sản này kém thanh khoản hơn, chỉ được chiếm tối đa 40% nguồn dự
trữ thanh khoản khi đã tính chiết khấu (haircuts). Áp dụng mức chiết khấu tối thiểu 15%
giá thị trường đối với mỗi tài sản có cấp 2 được xếp trong nguồn dự trữ thanh khoản.
Tài sản cấp 2 thuộc các loại sau:
• Các chứng khoán có tính thanh khoản tiêu biểu như các khoản cho vay đối với

hoặc có bảo lãnh của Chính phủ, NHTW, các doanh nghiệp khu vực công không
trực thuộc chính quyền trung ương hoặc các ngân hàng phát triển đa biên đáp ứng
các tiêu chuẩn sau:
 Trọng số rủi ro 20% theo cách tiếp cận tiêu chuẩn của Basel II về rủi ro tín
dụng.
 Được giao dịch tại các thị trường repo hoặc tiền mặt phát triển sâu, rộng và
năng động có đặc trưng là mức độ tập trung thấp.
17
 Đã được kiểm chứng là nguồn thanh khoản đáng tin cậy trên thị trường (repo
hoặc bán) thậm chí cả trong điều kiện thị trường căng thẳng (ví dụ tăng giảm
giá trị chiết khấu tối đa là 10% trong thời gian 30 ngày thuộc giai đoạn chính
của thời gian căng thẳng)
 Không phải là một nghĩa vụ của một định chế tài chính hoặc đơn vị liên quan
nào của định chế tài chính.
• Trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu được đảm bảo là những trái phiếu do một
ngân hàng phát hành và sở hữu, bị điều chỉnh theo Luật có sự giám sát chặt chẽ
của cơ quan quản lý để bảo vệ người nắm giữ trái phiếu nếu các trái phiếu đó thỏa
mãn các tiêu chuẩn sau:
 Không phải do một định chế tài chính hoặc tổ chức liên quan của định chế tài
chính phát hành (trong trường hợp là trái phiếu doanh nghiệp)
 Không phải do bản thân ngân hàng hoặc tổ chức liên quan của ngân hàng phát
hành (trong trường hợp là trái phiếu được đảm bảo)
 Tài sản có phải được tổ chức đánh giá tín dụng độc lập được công nhận (ECAl)
xếp hạng tín dụng ít nhất là AA- hoặc nếu không được ECAl xếp hạng thì có
xếp hạng nội bộ về khả năng rủi ro (PD) tương đương với mức xếp hạng tín
dụng ít nhất là AA-
 Được giao dịch tại các thị trường repo hoặc tiền mặt phát triển sâu, rộng và
năng động có đặc trưng là mức độ tập trung thấp
 Đã được kiểm chứng là nguồn thanh khoản đáng tin cậy trên thị trường (repo
hoặc bán) thậm chí cả trong điều kiện thị trường căng thẳng (ví dụ giảm hoặc

tăng giá trị chiết khấu tối đa là 10% trong thời gian 30 ngày trong thời gian
chính của đợt căng thẳng thanh khoản)
 Tổng luồng tiền mặt ra thuần:
18
CHƯƠNG 15: Đây là mẫu số khi xác định tỷ số LCR - được xác định bằng tổng
luồng tiền ra dự kiến trừ đi tổng luồng tiền vào dự kiến trong kịch bản kiểm tra sức
chịu đựng cụ thể trong chu kỳ 30 ngày.
Trong đó:
- Tổng luồng tiền ra dự kiến được tính bằng cách nhân số dư các hạng mục hoặc
loại tài sản nợ và cam kết ngoại bảng với tỉ lệ rút tiền hoặc giải ngân dự kiến.
- Tổng luồng tiền vào dự kiến được tính bằng cách nhân số dư của các hạng mục
hoặc các loại tiền phải thu theo hợp đồng với tỉ lệ dự kiến theo kịch bản trong đó
tổng luồng tiền ra dự kiến đạt tối đa 75%.
 Luồng tiền ra bao gồm:
- Tiền gửi bán lẻ
• Tiền gửi có kỳ hạn >30 ngày với lãi phạt (0%)
• Ổn định (không kỳ hạn và có kỳ hạn) <30 ngày (5%)
• Kém ổn định (không kỳ hạn và có kỳ hạn) <30 ngày (10%)
- Tài trợ bán buôn không có tài sản đảm bảo
• Một phần tiền gửi doanh nghiệp có quan hệ kinh doanh được đảm bảo bởi
Bảo hiểm tiền gửi (0%)
• Khách hàng kinh doanh nhỏ ổn định (5%)
• Khách hàng kinh doanh nhỏ kém ổn định hơn (10%)
• Tiền gửi vì mục đích tác nghiệp của các thực thể pháp lý (25%)
• Các doanh nghiệp phi tài chính, chính phủ, NHTW và PSEs (75%)
• Các khách hàng là các thực thể pháp lý khác (100%)
19
- Tài trợ có đảm bảo
• Các giao dịch được đảm bảo bằng tài sản có cấp 1 với bất kỳ đối tác nào
(0%)

• Các giao dịch được đảm bảo bằng tài sản có cấp 2 với một đối tác (15%)
• Các giao dịch được đảm bảo bằng tài sản có không đủ tiêu chuẩn là tài sản
có thanh khoản cao của các chính phủ sở tại, NHTW sở tại hoặc các pháp
nhân thuộc khu vực công tại nước sở tại. (25%)
• Tất cả các giao dịch được đảm bảo khác (100%).
Các hạng mục khác như các cam kết chưa thực hiện, tài sản nợ liên quan đến các giao
dịch phái sinh, các chứng khoản được đảm bảo bằng tài sản có, trái phiếu có bảo lãnh.
Sự xuất hiện của bảo hiểm tiền gửi không được xem là đủ để đánh giá một khoản tiền gửi
là “ổn định”.
 Luồng tiền vào
CHƯƠNG 16: Ngân hàng chỉ nên tính đến các luồng tiền vào đã có hợp đồng từ các
khoản tín dụng đang được thực hiện đầy đủ và vì vậy ngân hàng không có lý do gì để
cho rằng sẽ có rủi ro nợ xấu trong 30 ngày tiếp theo. Ngân hàng và cơ quan quản lý
nên chắc chắn rằng ngân hàng không quá phụ thuộc vào luồng tiền mặt vào từ một đối
tác hoặc một số đối tác bán buôn nhất định. Mức tối đa theo chuẩn mực là 75% tổng
luồng tiền ra dự kiến.
CHƯƠNG 17: Một ngân hàng nên giả định rằng thoả thuận mua lại ngược hoặc
thoả thuận vay chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản có cấp 1 khi đáo hạn sẽ không bị
đảo nợ và không làm phát sinh bất cứ luồng tiền vào nào. Cũng có một vài trường hợp
ngoại lệ.
20
CHƯƠNG 18: Không thể rút ra bất cứ số tiền trong khuôn khổ hạn mức tín dụng
hoặc các công cụ tài chính khác mà ngân hàng nắm giữ tại các định chế khác để phục vụ
cho mục đích của ngân hàng được. Các công cụ đó được tính trọng số bằng 0%.
CHƯƠNG 19: Đối với tất cả các loại giao dịch khác, kể cả có đảm bảo và không
đảm bảo, tỷ suất luồng tiền vào được quyết định theo đối tác.
 Tóm tắt trọng số luồng tiền vào:
CHƯƠNG 20:
0%
- Tiền gửi tại các định chế đầu mối của mạng lưới các ngân hàng hợp tác.

- Tiền gửi hoạt động tại các định chế tài chính khác.
- Tín dụng hoặc khoản vay thanh khoản.
- Hợp đồng repo ngược và cho vay chứng khoán có thế châp bằng tài sản có
cấp 1.
CHƯƠNG 21:
15%
- Hợp đồng repo đảo ngược và cho vay chứng khoán có thế chấp bằng tài sản
có cấp 2.
CHƯƠNG 22:
50%
– Các khoản phải thu từ các đối tác bán lẻ.
– Các khoản phải thu từ các đối tác bán buôn phi tài chính (các giao
dịch không được thống kê riêng).
CHƯƠNG 23:
CHƯƠNG 24:
100
%
– Hợp đồng repo đảo ngược và cho vay chứng khoán vay có thế chấp
bằng các tài sản có khác.
– Các khoản phải thu từ các định chế tài chính có các giao dịch không
được thống kê riêng.
– Các khoản phải thu phái sinh ròng.
CHƯƠNG 25:
CHƯƠNG 26:
CHƯƠNG 27: Tỷ số LCR được đưa ra với mục tiêu là để đảm bảo một ngân hàng
duy trì ở mức độ thích hợp các tài sản có thanh khoản chất lượng cao và không bị trở
ngại khi chuyển đổi thành tiền mặt để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng
trong thời gian 30 ngày của đợt kiểm tra tình huống về việc mất thanh khoản nghiêm
trọng do cán bộ thanh tra xây dựng. Chuẩn mực này sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2015,
các ngân hàng phải đáp ứng 60% vốn dự phòng theo quy định, vốn dự phòng này sẽ

tăng thêm 10% mỗi năm cho đến 2019 phải hoàn tất 100%. Tỷ lệ LCR buộc các ngân
hàng phải có đủ số tài sản có tính thanh khoản cao để có thể sống sót trong trường
21
hợp khan hiếm tín dụng. Đây là nhân tố quan trọng trong bộ các chỉ số về vốn và
thanh khoản theo chuẩn Basel III. Các qui định này được đặt ra nhằm ngăn chặn kịch
bản khủng hoảng tài chính 2008 lặp lại.
1.1. Tỷ lệ tài trợ ổn định thuần - NSFR
>=100%
CHƯƠNG 28: Đây còn được xem là tỷ lệ nguồn vốn ổn định trung dài hạn (internal
or external sources) sử dụng tối thiểu. Tức là nguồn vốn có thời gian đáo hạn từ 1
năm trở lên phải lớn hơn hoặc bằng 100% tài sản kém thanh khoản (như các khoản
cho vay trung dài hạn). Chỉ tiêu này khuyến khích các ngân hàng tăng thêm nguồn hỗ
trợ dài hạn hơn, được xem xét trong thời gian 1 năm.
CHƯƠNG 29: Vốn tài trợ ổn định khả dụng được xác định là tổng giá trị các tài sản
sau của một ngân hàng:
- Vốn;
- Cổ phiếu ưu đãi với thời hạn bằng hoặc lớn hơn một năm;
- Tài sản nợ có thời hạn đáo hạn một năm hoặc lâu hơn;
- Một phần tiền gửi không kỳ hạn và/hoặc tiền gửi có kỳ hạn ít hơn một năm được
dự kiến sẽ giữ lại tại định chế trong một thời gian dài hơn khi có các sự kiện
không thuận lợi xảy ra bất ngờ, và
- Một phần tài trợ cho bán buôn có kỳ hạn ít hơn một năm dự kiến sẽ giữ lại tại định
chế trong thời gian các sự kiện không thuận lợi xảy ra bất ngờ. Bao gồm tiền gửi
ổn định và kém ổn định hơn của khách hàng bán lẻ và các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
22
 Các cấu phần của vốn tài trợ ổn định (ASF) và các hệ số ASF tương ứng
 Hệ số ASF  Các hợp phần của danh mục ASF
 100%
• Tổng vốn, gồm cả vốn cấp 1 và vốn cấp 2 xác định theo chuẩn

mực vốn do Uỷ ban Basel ban hành phổ biến trên toàn cầu.
• Tổng giá trị giấy tờ có giá ưu đãi không được tính trong vốn cấp 2
còn kỳ hạn từ 1 năm trở lên và có thể giảm kỳ hạn xuống dưới 1
năm khi xem xét các giá trị đảm bảo cho các giấy tờ nêu trên.
• Tổng giá trị khoản vay và tài sản nợ có và không có tài sản đảm
bảo còn kỳ hạn hiệu lực từ 1 năm trở lên.
 90%
• Tiền gửi không kỳ hạn ổn định và/hoặc tiền gửi có kỳ hạn còn
hiệu lực từ 1 năm trở lên (khách hàng bán lẻ và SMEs)
 80%  Tiền gửi không kỳ hạn “kém ổn định hơn” và/hoặc tiền gửi có kỳ
hạn còn hiệu lực dưới 1 năm (khách hàng bán lẻ và SMEs)
 50%  Qũy tài trợ bán buôn không đảm bảo, tiền gửi không kỳ hạn
và/hoặc tiền gửi có kỳ hạn còn hiệu lực dưới 1 năm không được
đảm bảo (doanh nghiệp phi tài chính, chính phủ, NHTW, MDBs
và PSEs).
 0%  Các tài sản nợ khác

23
 Vốn tài trợ ổn định theo yêu cầu:
 Các hợp phần của RSF  Hệ số RSF
 Tiền mặt và các tài sản có không bị cản trở có kỳ hạn
dưới 1 năm
 0%
 các khoản đến hạn đối với Chính phủ, NHTW, MDBs có
rủi ro theo Basel II
 5%
 Trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu có bảo đảm có
xếp hạng AA- hoặc cao hơn; các khoản đến hạn đối với
Chính phủ, NHTW, MDBs có 20% rủi ro theo chuẩn
mực của Basel II

 20%
 Vàng, cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu có
đảm bảo (A+ to A-) có kỳ hạn trên 1 năm; các khoản
cho vay đối với doanh nghiệp phi tài chính, Chính phủ,
NHTW, PSEs với kỳ hạn dưới 1 năm
 50%
 Các khoản thế chấp bằng nhà ở  65%
 Các khỏan cho vay bán lẻ và SME có kỳ hạn dưới 1 năm  85%
 Tất cả các tài sản có khác  100%
 Tín dụng hủy ngang có điều kiện và không được hủy
ngang, các công cụ thanh khoản đối với bất kỳ khách
hàng nào.
 5% của phần
hiện chưa giải
ngân.
 Tài sản nợ dự phòng khác bao gồm các nghĩa vụ nợ có
thể hủy ngang, L/Cs, các khoản bảo lãnh, các công cụ tài
trợ thương mại khác và các nghĩa vụ khác ngoài hợp
đồng.
 Giám sát quốc
gia đối với các
hệ số RSF cụ
thể dựa trên
hoàn cảnh của
quốc gia

 Dự kiến tỷ lệ này sẽ được đưa ra áp dụng kể từ ngày 1/1/2018.
24

 Các công cụ giám sát

 – Các ma trận hỗ trợ giúp cán bộ thanh tra giám sát rủi ro thanh khoản ở một
ngân hàng:
• Sự khớp nhau giữa các kỳ hạn hợp đồng
• Mức độ tập trung hỗ trợ
• Các tài sản có khả dụng không bị cản trở
• Tỉ lệ LCR theo đồng tiền có ưu thế
• Các công cụ giám sát liên quan đến thị trường
 – Xác định chênh lệch giữa các nguồn thanh khoản vào và ra theo hợp đồng
theo các khoảng thời gian.
 – Tối thiểu nên thu thập số liệu về tất cả các loại tài sản đã được liệt kê trong
tỉ lệ LCR. Một số số liệu bổ sung như tỉ lệ nợ quá hạn (NPLs) cũng như vốn nên
được báo cáo riêng.
 – Các số liệu này chỉ ra một ngân hàng dự kiến cần phải tăng các tài sản này
lên bao nhiêu trong các khoảng thời gian nếu tất cả các luồng tiền ra được thực
hiện vào ngày hiệu lực sớm nhất. Các ngân hàng được yêu cầu phải xác định biện
pháp để xử lý chênh lệch đó.
 – Cán bộ thanh tra sẽ xác định mẫu cụ thể.
 – Các công cụ không có kỳ hạn nên được báo cáo riêng.
 – Các giả định
• Không có kỳ vọng về việc đảo nợ các tài sản nợ
25
• Và các giả định khác.
 Khung thời gian
 • QIS phải được tiến hành với việc sử dụng số liệu từ cuối năm 2010 đến
giữa năm 2011 sử dụng các cấu phần để tính tỉ lệ LCR và NSFR.
 • Báo cáo cho NBM qua các giai đoạn quan sát, dự kiến bắt đầu từ 1/1/2012
với 2 chuẩn mực, bao gồm toàn bộ các tỉ lệ và thông tin của các cấu phần.
 • Uỷ ban Basel đang chuẩn bị sửa đổi nếu cần thiết- đối với LCR là giữa năm
2013 và giữa năm 2016 đối với NSFR.
 • Tiêu chuẩn LCR sẽ được công bố vào ngày 1/1/2015 và NSFR sẽ được

công bố vào ngày 1/1/2018.

×