Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐẢM BẢO THANH KHOẢN THEO CHUẨN MỰC BASEL III TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.07 KB, 37 trang )

1
ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
KHOA TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ
ĐẢM BẢO THANH KHOẢN THEO CHUẨN MỰC BASEL III
TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
NHÓM 10 – K09404A
Nguyễn Thị Hiếu K094040545
Nguyễn Hoàng Phú K094040588
Nguyễn Thị Minh Thư K094040612
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 5 NĂM 2013
2
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NHNN: Ngân hàng Nhà nước
3
4
MỞ ĐẦU
Kể từ năm 2007 hệ thống ngân hàng Việt Nam đã gặp phải hai vấn đề lớn gồm: rủi
ro về mặt thanh khoản và rủi ro từ các hoạt động liên quan đến chứng khoán và bất động
sản.
Rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng gia tăng do cung tiền được mở rộng
với tốc độ cao, cộng với sự phát triển nhanh của một số ngân hàng, nhất là các ngân hàng
nhỏ mà phần đông là mới thành lập hay được nâng cấp lên từ các ngân hàng nông thôn.
Điều này đã tạo ra sự mất cân đối trong việc huy động vốn và cho vay của các ngân hàng.
Những ngân hàng lớn có lợi thế về mặt huy động vốn do mạng lưới và quan hệ có sẵn,
khi cung tiền được mở rộng họ đã huy động được rất nhiều tiền, nhưng khả năng cho vay
chỉ ở một mức nào đó nên các ngân hàng này đã dư ra một lượng vốn khá lớn. Ngược lại
các ngân hàng mới nâng cấp hay mới thành lập cần phải mở rộng hoạt động nên cần vốn.
Cung cầu gặp nhau và hoạt động vay mượn trên thị trường liên ngân hàng là khá dễ dàng


với lãi suất phải chăng. Kết quả là một số ngân hàng đã đi vay các tổ chức tín dụng khác
để cho vay lại khách hàng, trong khi nguyên tắc vay liên ngân hàng với lãi suất thấp
thường chỉ để bù đắp những thiếu hụt tạm thời về mặt thanh khoản hay yêu cầu dự trữ
của ngân hàng nhà nước và nguồn vốn sử dụng để cấp tín dụng nên là vốn huy động trực
tiếp. Khi lạm phát ở mức báo động, chính sách thắt chặt tiền tệ được đưa ra quá mạnh và
có phần đột ngột đã làm lộ ra những vấn đề về quản lý cũng như rủi ro thanh khoản của
hệ thống ngân hàng Việt Nam. Thêm vào đó, việc các ngân hàng thương mại tham gia
tích cực vào các hoạt động kinh doanh chứng khoán và bất động sản như cho vay để kinh
doanh cổ phiếu hay mua bán bất động sản cũng như một số nghiệp vụ khác của ngân
hàng đều đã tạo ra những tiềm ẩn rủi ro rất lớn cho hệ thống tài chính. Trong bối cảnh
nêu trên, cùng với sự thay đổi nhanh chóng của thế giới đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải
đẩy nhanh cải cách tài chính nhanh hơn. Không chỉ là tiếp cận với các thông lệ quốc tế
5
mà còn phải góp phần khắc phục những điểm yếu nội tại, việc áp dụng những quy định
về bảo đảm an toàn trong hệ thống ngân hàng với yêu cầu cao hơn là điều tất yếu.
Basel là hiệp ước được đặt ra nhằm đảm bảo các ngân hàng có khả năng khắc phục
tổn thất khi rủi ro mà không ảnh hưởng đến quyền lợi người gửi tiền. Hiệp định Basel III
được 27 nước (không bao gồm Việt Nam) ký kết năm 2010 với những quy định mới về
khái niệm và các tiêu chuẩn tối thiểu cao hơn so với văn bản trước đó là Basel II. Lộ trình
để thực hiện Basel III bắt đầu từ tháng 1/2013 và hoàn thành vào cuối năm 2018. Tuy
nhiên, trên thực tế, so với một số nước ở khu vực Đông Á đã tiếp cận Basel III rất tích
cực, thì ở Việt Nam, với Basel I cũng có những tiêu chí chưa được đáp ứng đầy đủ. Với
hoàn cảnh hiện tại, các chuyên gia cho rằng, Việt Nam cần có cách thức tiếp cận riêng
với các chuẩn mực quốc tế. Ví dụ như tiêu chí nào có thể đáp ứng được những tiêu chuẩn
của Basel II và Basel III thì cần thực hiện ngay, chứ không phải thực hiện một cách đầy
đủ, tuần tự từ Basel I rồi mới sang Basel II và III. Dựa vào tình hình kinh tế, xã hội hiện
tại và định hướng phát triển trong tương lai của hệ thống ngân hàng Việt Nam chúng ta đi
vào “Đánh giá khả năng áp dụng các quy định về bảo đảm thanh khoản theo chuẩn mực
Basel III trong hoạt động ngân hàng Việt Nam”.
6

Chương 1: CÁC QUY ĐỊNH VỀ BẢO ĐẢM THANH KHOẢN THEO CHUẨN
MỰC BASEL III
1.1 Mục tiêu
• Mục tiêu thứ nhất là thúc đẩy khả năng phục hồi thanh khoản ngắn hạn trong
danh mục rủi ro thanh khoản của một ngân hàng bằng cách đảm bảo ngân
hàng nắm giữ các tài sản thanh khoản có chất lượng đủ cao để có thể sống sót
qua một cuộc kiểm tra tăng cường kéo dài một tháng. Mục tiêu này được đo
lường bằng tỉ lệ đảm bảo thanh khoản (Liquidity Coverage Ratio-LCR).
• Mục tiêu thứ hai là thúc đẩy khả năng phục hồi trong một thời gian dài hơn
bằng cách tạo ra nguồn lực bổ sung để tài trợ cho các hoạt động của ngân hàng
với nguồn tài chính ổn định hơn và liên tục. Mục tiêu này được định lượng
bằng tỉ lệ tài trợ ổn định thuần (the Net Stable Funding Ratio-NSFR).
1.2 Thỏa thuận chuyển đổi
• Basel đề nghị các ngân hàng tuân thủ các yêu cầu về LCR tối thiểu từ ngày
1/1/2015 và về NSFR từ ngày 1/1/2018.
• Nên được các cơ quan quản lý ngân hàng triển khai thống nhất trên toàn thế
giới.
• Cán bộ thanh tra có thể yêu cầu từng ngân hàng cụ thể áp dụng các chuẩn mực
nghiêm ngặt hơn và cần có sự đồng thuận về việc sẽ áp dụng các chuẩn mực
này trong một quốc gia cho có hệ thống.
1.3 Tỉ lệ đảm bảo thanh khoản (LCR)
Mục tiêu là để đảm bảo một ngân hàng duy trì ở mức độ thích hợp các tài
sản có thanh khoản chất lượng cao và không bị trở ngại có thể chuyển đổi
thành tiền mặt để đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng trong thời gian
30 ngày của đợt kiểm tra tình huống về việc mất thanh khoản nghiêm trọng do
cán bộ thanh tra xây dựng. Tối thiểu, dự trữ tài sản có thanh khoản phải cho
phép một ngân hàng duy trì hoạt động trong 30 ngày, đây là khoảng thời gian
để Ban lãnh đạo ngân hàng, cơ quan quản lý thực hiện các hành động cứu chữa
thích hợp, ngân hàng có thể được xử lý theo quy trình.
1.3.1 Khái niệm về chuẩn mực LCR

LCR được đo lường bằng công thức:
7
• Phải lớn hơn hoặc bằng 100%
• Phải được đáp ứng liên tục
• Thời gian của các luồng tiền vào và luồng tiền ra có thể không khớp nhau và
sẽ có vấn đề về thanh khoản trong thời gian 30 ngày đó, vì vậy ngân hàng và
cán bộ thanh tra được yêu cầu phải phát hiện được bất kỳ sự vị thế thiếu hụt về
thanh khoản trong thời gian này.
1.3.2 Các tác động cho chuẩn mực LCR
• Rút mạnh một phần tiền gửi bán lẻ.
• Tổn thất một phần của các khoản tín dụng bán buôn không được đảm bảo.
• Tổn thất một phần của các hoạt động tín dụng ngắn hạn có đảm bảo bằng tài
sản thế chấp nhất định và bảo lãnh của đối tác.
• Tăng thêm các luồng tiền ra theo hợp đồng vì bị hạ bậc xếp hạng tín dụng dưới
hoặc bằng 3 mức chính, kể cả quy định về bổ sung tài sản thế chấp.
• Việc gia tăng biến động của thị trường làm ảnh hưởng đến chất lượng của tài
sản thế chấp hoặc rủi ro tiềm ẩn của các trạng thái phái sinh và do vậy đòi hỏi
tỉ lệ chiết khấu tài sản thế chấp lớn hơn hoặc bổ sung tài sản thế chấp, hoặc
dẫn đến các nhu cầu thanh khoản khác.
• Thực hiện các cam kết rút tiền ngoài kế hoạch phát sinh từ các khoản tín dụng
đã cam kết nhưng không có tài sản đảm bảo mà ngân hàng đã cung cấp cho
khách hàng.
• Nhu cầu dự kiến của ngân hàng về mua lại các khoản nợ hoặc thực hiện các
nghĩa vụ ngoài hợp đồng nhằm giảm thiểu rủi ro uy tín.
1.3.3 Tỉ lệ LCR có 2 cấu phần
1.3.3.1 Dự trữ tài sản thanh khoản có chất lượng cao
• Khái niệm tài sản có thanh khoản chất lượng cao: Có 2 loại tài sản có thanh
khoản chất lượng cao.
- Cấp độ 1: có thể được đưa vào nguồn dự trữ thanh khoản không có hạn chế.
 Tiền mặt

 Dự trữ tại NHTW ở mức độ mà họ có thể rút tiền ra vào thời gian căng thẳng.
 Các chứng khoán có thể bán được tiêu biểu như các khoản cho vay đến hạn
đối với hoặc được bảo lãnh bởi chính phủ, NHTW, các doanh nghiệp công
không trực thuộc chính phủ trung ương, BIS, IMF, EC hoặc các ngân hàng
phát triển đa biên đáp ứng các điều kiện sau: Được đánh giá là 0% rủi ro theo
cách tiếp cận chuẩn hóa Basel II; được giao dịch tại các thị trường repo hoặc
8
tiền mặt phát triển sâu, rộng và năng động có đặc điểm là mức độ tập trung
thấp; đã được kiểm chứng là nguồn thanh khoản đáng tin cậy trên thị trường
(repo hoặc bán) thậm chí cả trong điều kiện thị trường căng thẳng và không
phải là một nghĩa vụ của một định chế tài chính hoặc bất kỳ tổ chức liên quan
nào của định chế tài chính.
 Giấy tờ có giá không phi rủi ro như chứng khoán nợ của chính phủ hoặc
NHTW phát hành bằng đồng bản tệ nên rủi ro thanh khoản đã được tính đến
hoặc xảy ra tại nước nguyên xứ của ngân hàng.
 Giấy tờ có giá không phải là 0% rủi ro, chứng khoán nợ của chính phủ, địa
phương hoặc NHTW phát hành bằng đồng ngoại tệ được nắm giữ phù hợp với
nhu cầu về đồng tiền đó của ngân hàng tại quốc gia đó.
- Cấp độ 2: chỉ được chiếm tối đa 40% nguồn dự trữ thanh khoản. Có thể chiếm
tối đa 40% tổng dự trữ sau khi đã tính chiết khấu (haircuts). Áp dụng mức
chiết khấu tối thiểu 15% giá thị trường đối với mỗi tài sản có cấp 2 được xếp
trong nguồn dự trữ thanh khoản. Tài sản cấp 2 thuộc các loại sau:
 Các chứng khoán có tính thanh khoản tiêu biểu như các khoản cho vay đối với
hoặc có bảo lãnh của Chính phủ, NHTW, các doanh nghiệp khu vực công
không trực thuộc chính quyền trung ương hoặc các ngân hàng phát triển đa
biên đáp ứng các tiêu chuẩn sau:
• Trọng số rủi ro 20% theo cách tiếp cận tiêu chuẩn của Basel II về rủi
ro tín dụng.
• Được giao dịch tại các thị trường repo hoặc tiền mặt phát triển sâu,
rộng và năng động có đặc trưng là mức độ tập trung thấp.

• Đã được kiểm chứng là nguồn thanh khoản đáng tin cậy trên thị
trường (repo hoặc bán) thậm chí cả trong điều kiện thị trường căng thẳng (ví
dụ tăng giảm giá trị chiết khấu tối đa là 10% trong thời gian 30 ngày thuộc giai
đoạn chính của thời gian căng thẳng)
• Không phải là một nghĩa vụ của một định chế tài chính hoặc đơn vị
liên quan nào của định chế tài chính.
 Trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu được đảm bảo là những trái phiếu do
một ngân hàng phát hành và sở hữu, bị điều chỉnh theo Luật có sự giám sát
9
chặt chẽ của cơ quan quản lý để bảo vệ người nắm giữ trái phiếu nếu các trái
phiếu đó thỏa mãn các tiêu chuẩn sau:
• Không phải do một định chế tài chính hoặc tổ chức liên quan của
định chế tài chính phát hành (trong trường hợp là trái phiếu doanh nghiệp)
• Không phải do bản thân ngân hàng hoặc tổ chức liên quan của ngân
hàng phát hành (trong trường hợp là trái phiếu được đảm bảo)
• Tài sản có phải được tổ chức đánh giá tín dụng độc lập được công
nhận (ECAl) xếp hạng tín dụng ít nhất là AA- hoặc nếu không được ECAl
xếp hạng thì có xếp hạng nội bộ về khả năng rủi ro (PD) tương đương với
mức xếp hạng tín dụng ít nhất là AA
• Được giao dịch tại các thị trường repo hoặc tiền mặt phát triển sâu,
rộng và năng động có đặc trưng là mức độ tập trung thấp
Đã được kiểm chứng là nguồn thanh khoản đáng tin cậy trên thị
trường (repo hoặc bán) thậm chí cả trong điều kiện thị trường căng thẳng (ví
dụ giảm hoặc tăng giá trị chiết khấu tối đa là 10% trong thời gian 30 ngày
trong thời gian chính của đợt căng thẳng thanh khoản).
- Kiểm tra các tiêu chí bổ sung: Uỷ ban Basel đang trong quá trình kiểm tra tiêu
chí định lượng và định tính bổ sung về tiêu chuẩn thoả mãn là tài sản cấp 2.
Tiêu chí bổ sung không có nghĩa là loại bỏ các tài sản có đạt tiêu chuẩn là tài
sản có cấp 2 mà là để xử lýcác tài sản không thanh khoản cũng như đưa ra
biện pháp bổ sung cho xếp hạng tín dụng để đánh giá tư cách tài sản có để

không quá phụ thuộc vào xếp hạng tín dụng từ bên ngoài. Đây là cách thức sẽ
được quy định trong tương lai.
• Giá trị của dự trữ tài sản thanh khoản có chất lượng cao trong điều kiện có
kiểm tra sức chịu đựng:
- Để được xem xét thuộc loại này, các tài sản có phải là không bị cản trở trong
thời gian 30 ngày theo các kịch bản bắt buộc.
- Chúng cũng phải đảm bảo thanh khoản trên thị trường trong thời gian kiểm tra
sức chịu đựng, lý tưởng là đủ điều kiện để có thể mua bán được với ngân hàng
trung ương.
• Các đặc điểm cơ bản:
- Rủi ro tín dụng và thị trường thấp.
- Dễ dàng định giá
10
- Hệ số tương quan với các tài sản rủi ro là thấp.
- Được niêm yết trên thị trường giao dịch phát triển và đã được
công nhận rộng rãi.
• Các đặc điểm liên quan đến thị trường:
- Thị trường có quy mô và năng động.
- Có mặt các nhà tạo lập thị trường có quyết tâm
- Mức độ tập trung thị trường thấp.
- Hướng đến chất lượng.
• Tổng kiểm tra:
- Khả năng tạo thanh khoản của tài sản có nên được giả định vẫn còn nguyên
vẹn thậm chí cả trong giai đoạn cực kỳ khó khăn và chịu áp lực của thị trường.
- Nên là các tài sản có có thể mua bán với ngân hàng trung ương cho các nhu
cầu thanh khoản trong ngày và thanh khoản qua đêm, tuy nhiên đây không
phải là một điều kiện.
• Các yêu cầu tác nghiệp: Tất cả các tài sản có để dự trữ phải được quản lý như
là một phần của nguồn dự trữ đó và phải tuân theo các yêu cầu tác nghiệp
gồm:

- Phải không bị cản trở- có nghĩa là không bị ràng buộc vào các cam kết (kể cả
trực tiếp hoặc không hoàn toàn) để đảm bảo, thế chấp hoặc hỗ trợ cho bất cứ
giao dịch nào.
- Tuy nhiên, tài sản có được trong các thỏa thuận bán lại (repo ngược), các giao
dịch tài trợ chứng khoán được nắm giữ tại ngân hàng và chưa được sử dụng để
thế chấp, thuộc quyền sử dụng của ngân hàng một cách hợp pháp hoặc theo
hợp đồng có thể được coi là một phần của nguồn dự trữ.
- Tài sản có đủ tiêu chuẩn trở thành nguồn dự trữ tài sản thanh khoản chất lượng
cao cũng có thể bao gồm cả tài sản được cam kết nhưng chưa được sử dụng để
giao dịch vay vốn tại NBM hay một tổ chức thuộc khu vực công.
- Dự trữ tài sản có thanh khoản không được trộn lẫn hoặc sử dụng làm công cụ
phòng ngừa rủi ro trong các trạng thái giao dịch, không được chỉ định làm tài
sản thế chấp hoặc hỗ trợ tín dụng trong các giao dịch cơ cấu hoặc được chỉ
định để chi trả các chi phí hoạt động (như là chi phí thuê hoặc trả lương) và
phải được quản lý với mục đích rõ ràng và duy nhất để sử dụng là nguồn cho
các quỹ dự phòng.
11
- Có thể phòng ngừa rủi ro giá cả liên quan đến quyền sở hữu dự trữ tài sản có
và vẫn nằm trong dự trữ thanh khoản.
- Dự trữ tài sản có thanh khoản phải đặt dưới dự kiểm soát của một hoặc nhiều
bộ phận chức năng cụ thể chịu trách nhiệm quản lý rủi ro thanh khoản của
ngân hàng, thường là bộ phận nguồn vốn.
- Nên định kỳ tiền tệ hóa một phần của tài sản có thông qua hợp đồng repo hoặc
mua bán giao ngay để kiểm tra khả năng tiếp cận thị trường của tài sản có đó.
- LCR không đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong ngày bắt đầu và kết thúc trong
cùng một ngày.
- Trong khi người ta muốn là LCR được đáp ứng và định giá bằng một đồng
tiền thì họ cũng mong muốn các ngân hàng đáp ứng các nhu cầu thanh khoản
cho từng loại tiền và duy trì tài sản có thanh khoản có chất lượng phù hợp với
nhu cầu thanh khoản của ngân hàng theo từng đồng tiền. Việc này phải được

báo cáo cho Ban lãnh đạo của ngân hàng và NBM theo từng giai đoạn.
- Ngân hàng phải tính đến các điều kiện trong tình huống kiểm tra sức chịu
đựng thì khả năng hoán đổi các đồng tiền và tiếp cận các thị trường hối đoái
có thể trở nên khó khăn hơn.
Nếu một tài sản biến đổi thành tài sản không đủ tiêu chuẩn mặc dù vẫn
được coi là tài sản thanh khoản chất lượng, thì vẫn nên duy trì nó trong nhóm
này trong vòng 30 ngày để ngân hàng có thời gian thay thế hoặc điều chỉnh dự
trữ tài sản đó.
1.3.3.2 Tổng luồng tiền ra thuần
• Luồng tiền ra:
- Tiền gửi bán lẻ
 Tiền gửi có kỳ hạn >30 ngày với lãi phạt (0%)
 Ổn định (không kỳ hạn và có kỳ hạn) <30 ngày (5%)
 Kém ổn định (không kỳ hạn và có kỳ hạn) <30 ngày (10%)
- Tài trợ bán buôn không có tài sản đảm bảo
 Một phần tiền gửi doanh nghiệp có quan hệ kinh doanh được đảm bảo bởi Bảo
hiểm tiền gửi (0%)
 Khách hàng kinh doanh nhỏ ổn định (5%)
 Khách hàng kinh doanh nhỏ kém ổn định hơn (10%)
 Tiền gửi vì mục đích tác nghiệp của các thực thể pháp lý (25%)
 Các doanh nghiệp phi tài chính, chính phủ, NHTW và PSEs (75%)
 Các khách hàng là các thực thể pháp lý khác (100%)
12
- Tài trợ có đảm bảo
 Các giao dịch được đảm bảo bằng tài sản có cấp 1 với bất kỳ đối tác nào (0%)
 Các giao dịch được đảm bảo bằng tài sản có cấp 2 với một đối tác (15%)
 Các giao dịch được đảm bảo bằng tài sản có không đủ tiêu chuẩn là tài sản có
thanh khoản cao của các chính phủ sở tại, NHTW sở tại hoặc các pháp nhân
thuộc khu vực công tại nước sở tại (25%)
 Tất cả các giao dịch được đảm bảo khác (100%)

- Các hạng mục khác như các cam kết chưa thực hiện, tài sản nợ liên quan đến
các giao dịch phái sinh, các chứng khoản được đảm bảo bằng tài sản có, trái
phiếu có bảo lãnh.
- Sự xuất hiện của bảo hiểm tiền gửi không được xem là đủ để đánh giá một
khoản tiền gửi là “ổn định”.
• Luồng tiền vào:
- Ngân hàng chỉ nên tính đến các luồng tiền vào đã có hợp đồng từ các khoản
tín dụng đang được thực hiện đầy đủ và vì vậy ngân hàng không có lý do gì để
cho rằng sẽ có rủi ro nợ xấu trong 30 ngày tiếp theo.
- Ngân hàng và cơ quan quản lý nên chắc chắn rằng ngân hàng không quá phụ
thuộc vào luồng tiền mặt vào từ một đối tác hoặc một số đối tác bán buôn nhất
định.
- Mức tối đa theo chuẩn mực là 75% tổng luồng tiền ra dự kiến.
- Một ngân hàng nên giả định rằng thoả thuận mua lại ngược hoặc thoả thuận
vay chứng khoán được đảm bảo bằng tài sản có cấp 1 khi đáo hạn sẽ không bị
đảo nợ và ko làm phát sinh bất cứ luồng tiền vào nào.
- Cũng có một vài trường hợp ngoại lệ.
- Không thể rút ra bất cứ số tiền trong khuôn khổ hạn mức tín dụng hoặc các
công cụ tài chính khác mà ngân hàng nắm giữ tại các định chế khác để phục
vụ cho mục đích của ngân hàng được. Các công cụ đó được tính trọng số bằng
0%.
- Đối với tất cả các loại giao dịch khác, kể cả có đảm bảo và không đảm bảo, tỷ
suất luồng tiền vào được quyết định theo đối tác.
- Tóm tắt trọng số luồng tiền vào:
 0%: Tiền gửi tại các định chế đầu mối của mạng lưới các ngân hàng hợp tác;
tiền gửi hoạt động tại các định chế tài chính khác; tín dụng hoặc khoản vay
13
thanh khoản; hợp đồng repo ngược và cho vay chứng khoán có thế chấp bằng
tài sản có cấp 1.
 15%: Hợp đồng repo đảo ngược và cho vay chứng khoán có thế chấp bằng tài

sản có cấp 2.
 50%: Các khoản phải thu từ các đối tác bán lẻ; các khoản phải thu từ các đối
tác bán buôn phi tài chính (các giao dịch không được thống kê riêng).
 100%: Hợp đồng repo đảo ngược và cho vay chứng khoán vay có thế chấp
bằng các tài sản có khác; các khoản phải thu từ các định chế tài chính có các
giao dịch không được thống kê riêng; các khoản phải thu phái sinh ròng.
• Tổng luồng tiền ra thuần:
- Mẫu số khi tính tỉ lệ LCR.
- Tổng luồng tiền ra thuần - được xác định bằng tổng luồng tiền ra dự kiến trừ đi
tổng luồng tiền vào dự kiến trong kịch bản kiểm tra sức chịu đựng cụ thể trong
chu kỳ 30 ngày.
- Tổng luồng tiền ra dự kiến được tính bằng cách nhân số dư các hạng mục hoặc
loại tài sản nợ và cam kết ngoại bảng với tỉ lệ rút tiền hoặc giải ngân dự kiến.
- Tổng luồng tiền vào dự kiến được tính bằng cách nhân số dư của các hạng
mục hoặc các loại tiền phải thu theo hợp đồng với tỉ lệ dự kiến theo kịch bản
trong đó tổng luồng tiền ra dự kiến đạt tối đa 75%
Tổng luồng tiền ra thuần = Tổng luồng tiền ra dự kiến- Tổng luồng tiền
vào dự kiến (dưới 75% tổng luồng tiền ra dự kiến)
1.4 Tỉ lệ tài trợ ổn định thuần (NSFR)
1.4.1 Khái niệm
• NSFR =
- Sẽ không được áp dụng trước 1/1/2018.
- Nói ngắn gọn, nó đảm bảo rằng các tài sản có dài hạn sẽ được tài trợ ít nhất là
với một số tài sản nợ ổn định về kỳ hạn hoặc về danh mục rủi ro thanh khoản.
- Khuyến khích các ngân hàng tăng thêm nguồn hỗ trợ dài hạn hơn.
- Xem xét trong thời hạn một năm.
• Vốn tài trợ ổn định – tỉ lệ các loại và giá trị của vốn và tài sản nợ được kỳ
vọng là nguồn tài trợ đáng tin cậy và ổn định trong thời gian 1 năm trong điều
kiện căng thẳng.
14

• Vốn tài trợ ổn định khả dụng- được xác định là tổng giá trị các tài sản sau của
một ngân hàng
- Vốn.
- Cổ phiếu ưu đãi với thời hạn bằng hoặc lớn hơn một năm.
- Tài sản nợ có thời hạn đáo hạn một năm hoặc lâu hơn.
- Một phần tiền gửi không kỳ hạn và/hoặc tiền gửi có kỳ hạn ít hơn một năm
được dự kiến sẽ giữ lại tại định chế trong một thời gian dài hơn khi có các sự
kiện không thuận lợi xảy ra bất ngờ và một phần tài trợ cho bán buôn có kỳ
hạn ít hơn một năm dự kiến sẽ giữ lại tại định chế trong thời gian các sự kiện
không thuận lợi xảy ra bất ngờ.
- Bao gồm tiền gửi ổn định và kém ổn định hơn của khách hàng bán lẻ và các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.4.2 Giá trị của vốn tài trợ ổn định
• Giá trị của vốn tài trợ ổn định theo yêu cầu của cán bộ thanh tra được đo lường
bằng cách sử dụng các giả định của cơ quan giám sát về các đặc điểm theo
nghĩa rộng của danh mục rủi ro thanh khoản của các tài sản có của ngân hàng,
các giao dịch ngoại bảng và các hoạt động được lựa chọn khác.
• Giá trị theo quy định của vốn tài trợ ổn định được tính là tổng của giá trị tài
sản có định chế nắm giữ và tài trợ nhân với hệ số tài trợ ổn định yêu cầu (RSF)
cụ thể được quy định đối với từng loại tài sản có, cộng với giá trị các giao dịch
ngoại bảng (hoặc rủi ro thanh khoản tiềm ẩn) nhân với hệ số RSF tương ứng.
• Tài sản có không bị cản trở không được xem là sẵn sàng để tài trợ trừ khi thời
hạn không bị cản trở còn dưới 1 năm.
• Các cấu phần của vốn tài trợ ổn định (ASF) và các hệ số ASF tương ứng:
- 100%: Tổng vốn, gồm cả vốn cấp 1 và vốn cấp 2 xác định theo chuẩn mực
vốn do Uỷ ban Basel ban hành phổ biến trên toàn cầu; tổng giá trị giấy tờ có
giá ưu đãi không được tính trong vốn cấp 2 còn kỳ hạn từ 1 năm trở lên và có
thể giảm kỳ hạn xuống dưới 1 năm khi xem xét các giá trị đảm bảo cho các
giấy tờ nêu trên; tổng giá trị khoản vay và tài sản nợ có và không có tài sản
đảm bảo còn kỳ hạn hiệu lực từ 1 năm trở lên.

- 90%: Tiền gửi không kỳ hạn ổn định hoặc tiền gửi có kỳ hạn còn hiệu lực từ 1
năm trở lên (khách hàng bán lẻ và SMEs).
15
- 80%: Tiền gửi không kỳ hạn “kém ổn định hơn” hoặc tiền gửi có kỳ hạn còn
hiệu lực dưới 1 năm (khách hàng bán lẻ và SMEs).
- 50%: Quỹ tài trợ bán buôn không đảm bảo, tiền gửi không kỳ hạn hoặc tiền
gửi có kỳ hạn còn hiệu lực dưới 1 năm không được đảm bảo (doanh nghiệp
phi tài chính, chính phủ, …).
- 0%: Các tài sản nợ khác.
1.4.3 Vốn tài trợ ổn định theo yêu cầu
Các hợp phần của vốn tài trợ ổn định theo yêu cầu (RSF) và các hệ số RSF
tương ứng:
- Tiền mặt và các tài sản có không bị cản trở có kỳ hạn dưới 1 năm: 0%
- Các khoản đến hạn đối với Chính phủ, NHTW có rủi ro theo Basel II: 5%
- Trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu có bảo đảm có xếp hạng AA- hoặc cao
hơn; các khoản đến hạn đối với Chính phủ, NHTW, MDBs có 20% rủi ro theo
chuẩn mực của Basel II: 20%
- Vàng, cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu có đảm bảo (A+ to A-)
có kỳ hạn trên 1 năm; các khoản cho vay đối với doanh nghiệp phi tài chính,
Chính phủ, NHTW, PSEs với kỳ hạn dưới 1 năm: 50%
- Các khoản thế chấp bằng nhà ở: 65%
- Các khỏan cho vay bán lẻ và SME có kỳ hạn dưới 1 năm: 85%
- Tất cả các tài sản có khác: 100%
- Tín dụng hủy ngang có điều kiện và không được hủy ngang, các công cụ thanh
khoản đối với bất kỳ khách hàng nào: 5% của phần hiện chưa giải ngân.
- Tài sản nợ dự phòng khác bao gồm các nghĩa vụ nợ có thể hủy ngang, L/Cs,
các khoản bảo lãnh, các công cụ tài trợ thương mại khác và các nghĩa vụ khác
ngoài hợp đồng: Giám sát quốc gia đối với các hệ số RSF cụ thể dựa trên hoàn
cảnh của quốc gia.
1.4.4 Các công cụ giám sát

• Các ma trận hỗ trợ giúp cán bộ thanh tra giám sát rủi ro thanh khoản ở một
ngân hàng:
- Sự khớp nhau giữa các kỳ hạn hợp đồng
- Mức độ tập trung hỗ trợ
- Các tài sản có khả dụng không bị cản trở
16
- Tỉ lệ LCR theo đồng tiền có ưu thế
- Các công cụ giám sát liên quan đến thị trường
• Xác định chênh lệch giữa các nguồn thanh khoản vào và ra theo hợp đồng theo
các khoảng thời gian.
• Tối thiểu nên thu thập số liệu về tất cả các loại tài sản đã được liệt kê trong tỉ
lệ LCR. Một số số liệu bổ sung như tỉ lệ nợ quá hạn (NPLs) cũng như vốn nên
được báo cáo riêng.
• Các số liệu này chỉ ra một ngân hàng dự kiến cần phải tăng các tài sản này lên
bao nhiêu trong các khoảng thời gian nếu tất cả các luồng tiền ra được thực
hiện vào ngày hiệu lực sớm nhất. Các ngân hàng được yêu cầu phải xác định
biện pháp để xử lý chênh lệch đó.
• Cán bộ thanh tra sẽ xác định mẫu cụ thể.
• Các công cụ không có kỳ hạn nên được báo cáo riêng.
• Các giả định
- Không có kỳ vọng về việc đảo nợ các tài sản nợ
- Và các giả định khác.
1.5 Khung thời gian
• QIS phải được tiến hành với việc sử dụng số liệu từ cuối năm 2010 đến giữa
năm 2011 sử dụng các cấu phần để tính tỉ lệ LCR và NSFR.
• Uỷ ban Basel đang chuẩn bị sửa đổi nếu cần thiết - đối với LCR là giữa năm
2013 và giữa năm 2016 đối với NSFR. Tiêu chuẩn LCR sẽ được công bố vào
ngày 1/1/2015 và NSFR sẽ được công bố vào ngày 1/1/2018.
17
Chương 2: ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH BẢO ĐẢM

THANH KHOẢN THEO CHUẨN MỰC BASEL III TRONG HOẠT ĐỘNG
NGÂN HÀNG VIỆT NAM
2.1 Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam
Trong những năm qua, nền kinh tế thế giới nói chung và kinh tế Việt Nam nói
riêng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn thử thách. Đó là do ảnh hưởng tiêu cực
của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008; khủng hoảng nợ lan rộng ở
khu vực châu Âu, cùng với những bất ổn của tình hình chính trị ở Ả Rập, thảm họa
ở Nhật và lòng tin của các nhà đầu tư bị tổn thương khi các nền kinh tế mới nổi
tăng trưởng không như mong đợi. Tình hình kinh tế trong nước biến động không
tích cực như: Lạm phát tăng cao, sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp bị
đình trệ, thị trường tài chính – tiền tệ bất ổn…
Về phía ngành ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước đã áp dụng chính sách tiền tệ
thắt chặt trong năm 2011 và 2012 để ổn định giá trị đồng tiền thông qua điều chỉnh
tỷ lệ lạm phát. Đây là sự đổi mới, hoàn thiện đúng hướng của chính sách tiền tệ ở
Việt Nam, theo hướng chính sách tiền tệ đơn mục tiêu, phù hợp với các chuẩn mực
quốc tế.
Cụ thể, kinh tế thế giới năm 2010 mặc dù đang phục hồi sau khủng hoảng tài
chính toàn cầu và có những chuyển biến tích cực, song nhìn chung chưa thực sự ổn
định và còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất lợi tác động đến kinh tế nước ta. Cơ cấu kinh
tế Việt Nam chuyển dịch chậm, hiệu quả đầu tư thấp, nhập siêu có xu hướng tăng,
dự trữ ngoại tệ thấp, lạm phát tăng cao. Một yếu tố không thuận lợi nữa trong năm
2010 là các tổ chức nước ngoài liên tiếp hạ bậc tín nhiệm tín dụng của Việt Nam do
những quan ngại liên quan đến cán cân thanh toán và lạm phát gia tăng.
Năm 2010 cũng là năm các ngân hàng trong hệ thống phải đối diện với nhiều
khó khăn như: sự biến động mạnh của tỷ giá, lãi suất; chịu áp lực đáp ứng yêu cầu
về các tỉ lệ an toàn theo Thông tư 13/2010/TT-NHNN, 19/2010/TT-NHNN;… Kết
18
quả kinh doanh năm 2010 đã phản ánh mức độ phân hóa trong ngành ngân hàng,
một số ngân hàng vừa và lớn đạt hiệu quả kinh doanh tốt, song các ngân hàng nhỏ
chịu chi phí đầu vào và rủi ro cao, nên kết quả kinh doanh thấp. Tính đến

31/12/2010, tổng dư nợ tín dụng của ngành ngân hàng tăng 29,8% so với cuối năm
2009; huy động vốn từ nền kinh tế tăng 27,3%; tổng phương tiện thanh toán tăng
25,4% so với cuối năm 2009.
Năm 2011, nền kinh tế toàn cầu tiếp tục suy giảm, lạm phát tăng cao, giá cả
biến động khó lường, khủng hoảng nợ công lan rộng ở khu vực châu Âu. Chịu tác
động bất lợi của nền kinh tế thế giới, năm 2011, kinh tế Việt Nam tiếp tục đối mặt
với một loạt khó khăn và thách thức như: lạm phát tiếp tục tăng cao, sản xuất kinh
doanh của nhiều doanh nghiệp bị đình trệ, thị trường tài chính – tiền tệ bất ổn…
Đồng thời, ngành ngân hàng cũng đối mặt vói nhiều khó khăn, thử thách lớn như
nợ xấu tăng cao, thanh khoản căng thẳng ở một số ngân hàng, lãi suất, tỷ giá và giá
vàng biến động phức tạp. Và đây cũng là năm tiền đề để cải cách hệ thống ngân
hàng.
Kinh tế Việt Nam đã trải qua một năm
2012 đầy biến động và sóng gió.
Nhiều bất cập và hạn chế đã được bộc lộ và điểm mặt chỉ tên; nhiều biện pháp tháo
gỡ cũng đã và đang được triển khai. Bên cạnh đó cũng xuất hiện một số điểm sáng
trong bức tranh màu xám là tỷ lệ lạm phát đã được khống chế sau 2 năm liên tiếp ở
mức 2 con số, cán cân thanh toán và cán cân thương mại thặng dư giúp tăng cường
dự trữ ngoại hối, góp phần ổn định tỷ giá Chất lượng kinh tế vĩ mô của Việt
Nam trong năm 2012 đã được cải thiện nhiều so với năm 2011. Lạm phát giảm
đáng kể, giúp chính phủ có cơ sở hạ lãi suất 6 lần trong năm. Tình trạng thâm hụt
ngân sách và tụt giá tiền đồng cũng gần như được chế ngự. Dự trữ ngoại hối trong
năm 2012 đã tăng lên đáng kể so với 2011. Về tỷ lệ nợ xấu, các ngân hàng quá
mạnh tay cho vay trong vòng hơn một thập kỷ, đẩy tăng trưởng tín dụng từ 20%
những năm 90 lên 136% trong năm 2010, kết hợp với lãi suất cao nhất khu vực
năm 2011 được cho là lý do khiến nợ xấu tăng cao, nhất là trong khu vực bất động
19
sản và doanh nghiệp nhà nước. Ngoài ra, khủng hoảng kinh tế toàn cầu cũng ảnh
hưởng mạnh tới khu vực sản xuất của Việt Nam và khả năng chi trả nợ của khu vực
này. Đồng thời, năm 2012 là một năm u ám với thị trường bất động sản. Cổng

thông tin chính phủ ngày 17/12 công bố kết quả khảo sát thị trường, trong đó cho
thấy từ năm 2008 đến năm 2012, tỷ lệ đầu tư bất động sản đã giảm từ 80% xuống
còn 10% trong khi cùng thời gian trên, tỷ lệ khách hàng có nhu cầu thực lại tăng
mạnh từ 20% lên 90% thị trường. Tuy nhiên, nền kinh tế cũng đã có những sự tiến
bộ nhất định như xuất siêu, lạm phát giảm, lãi suất giảm. Bước sang năm 2013 với
hy vọng số lượng các doanh nghiệp phá sản sẽ giảm bớt, Việt Nam sẽ đón nhận
được thêm đầu tư nước ngoài và quá trình tái cơ cấu ngân hàng, các doanh nghiệp
Nhà nước sẽ được tiến hành tốt hơn.
Giai đoạn 2013 - 2015 là khoảng thời gian Việt Nam cùng một lúc phải giải
quyết hai yêu cầu vừa cấp bách, vừa cơ bản: Một mặt, tập trung khắc phục những
hệ lụy đang đe dọa nền kinh tế đất nước, từng bước đưa kinh tế trở lại quỹ đạo phát
triển lành mạnh; đồng thời tích cực hoàn tất những nền tảng thiết yếu, bảo đảm đến
năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Hai
yêu cầu này được tiến hành đồng thời, hỗ trợ, tương tác lẫn nhau, có ưu tiên trọng
tâm, trọng điểm theo từng thời gian thích hợp với mục tiêu tiếp tục ổn định, phát
triển nhanh, bền vững nền kinh tế đất nước.
Dự báo kinh tế trong nước và kinh tế thế giới những năm tới sẽ còn tiếp tục
khó khăn; nguy cơ tái lạm phát còn cao, Việt Nam vẫn đặt kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô làm nhiệm vụ hàng đầu.
Ba năm tới, Việt Nam sẽ đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế một cách toàn diện,
cả cơ cấu thành phần, cơ cấu ngành - nội ngành, cơ cấu vùng kinh tế, trong đó
trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư, thị trường tài chính, doanh nghiệp nhà nước, trọng
điểm là đầu tư công, hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính, tập
đoàn kinh tế và các tổng công ty nhà nước.
Đổi mới tư duy chiến lược về đầu tư phát triển; đổi mới phương thức, phương
20
pháp, quy trình đầu tư các nguồn lực từ ngân sách nhà nước, bảo đảm tính khoa
học, công khai, minh bạch, hiệu quả, khắc phục tình trạng chồng chéo, lãng phí,
thất thoát.
Cơ cấu lại các tổ chức tài chính, ngân hàng, tín dụng theo hướng giảm số

lượng, nâng cao chất lượng hoạt động; sắp xếp, xử lý các tổ chức tài chính, tín
dụng yếu kém; xây dựng các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính có quy mô
và uy tín; khắc phục tình trạng "sở hữu chéo", bảo đảm các ngân hàng hoạt động
lành mạnh, có tính thanh khoản và an toàn hệ thống.
2.2 Tình hình thanh khoản của ngành ngân hàng Việt Nam trong những năm gần
đây
Theo NHNN, quá trình thực hiện Nghị quyết số 11 của Chính phủ ngày
24/02/2011 dẫn đến việc thực thi chính sách tiền tệ chặt chẽ, phấn đấu kiểm soát tín
dụng tăng dưới 20%, tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 15-16%. Đến nay,
thị trường tiền tệ đã có chuyển biến tích cực và dần ổn định hơn. Mặt bằng lãi suất
giảm, lãi suất huy động vốn bằng tiền đồng không quá 14% mỗi năm và lãi suất
cho vay bằng tiền Việt Nam dưới 19% một năm đối với khu vực sản xuất. Quan hệ
huy động vốn, vay mượn giữa các tổ chức tín dụng trở nên minh bạch hơn. Để đạt
được mục tiêu giảm lãi suất, kiểm soát tăng trưởng tiền tệ và ổn định tỷ giá ở mức
hợp lý, NHNN đã và đang điều hành linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ bảo
đảm thanh khoản của toàn hệ thống ngân hàng trong trạng thái ổn định hợp lý. Nhờ
vậy, thanh khoản của toàn hệ thống ngân hàng bình thường. Tuy nhiên, có một số
ngân hàng đã tăng trưởng tín dụng nhanh trong thời gian qua dẫn đến mất cân đối
giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Do vậy, khi NHNN thực hiện quyết liệt Nghị
quyết số 11 và siết chặt trật tự, kỷ cương trên thị trường tiền tệ, một số ít nhà băng
bộc lộ khó khăn thanh khoản tạm thời. Bằng việc điều hành linh hoạt các công cụ
chính sách tiền tệ, NHNN có các biện pháp hỗ trợ kịp thời các ngân hàng để xử lý
thiếu hụt thanh khoản tạm thời, đảm bảo an toàn thanh khoản của toàn bộ hệ thống.
Thời gian tới, NHNN tiếp tục tăng cường giám sát thị trường tiền tệ và hoạt động
của từng tổ chức tín dụng cũng như toàn bộ hệ thống để phát hiện kịp thời và có
21
biện pháp hỗ trợ thích hợp các tổ chức tín dụng có khả năng thiếu hụt thanh khoản.
NHNN cũng cho biết sẽ tăng cường quản lý và sẵn sàng hỗ trợ thanh khoản khi các
tổ chức tín dụng gặp khó khăn nhằm bảo đảm thị trường tiền tệ hoạt động thông
suốt, đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, an toàn của từng tổ chức tín dụng cũng

như của cả hệ thống.
Năm 2012, thanh khoản của hệ thống ngân hàng dù đang dần được cải thiện,
nhưng chỉ mang tính tạm thời và chưa thật sự ổn định, bền vững. Thông tin từ
NHNN cho biết: Năm 2011, tỷ lệ sử dụng vốn trong hệ thống ngân hàng lên tới
hơn 100%, dẫn đến thiếu thanh khoản, đến nay tình hình này đã được cải thiện, tỷ
lệ sử dụng vốn dao động từ 93 đến 96%. Tuy nhiên, Thống đốc NHNN Nguyễn
Văn Bình cho biết, trên thế giới, tỷ lệ sử dụng vốn chỉ khoảng 60 đến 70%, còn 30
đến 40% còn lại sẽ dùng để đầu tư vào công cụ có thanh khoản cao, trong khi các
ngân hàng Việt Nam hoàn toàn đầu tư vào tín dụng cho nên tính thanh khoản còn
chưa chắc chắn. Tỷ lệ cho vay trên huy động hơn 90% như vậy là nằm trong
ngưỡng tiềm ẩn mất an toàn thanh khoản. Ngoài ra, một vấn đề cũng được cho là
tiềm ẩn rủi ro thanh khoản của các ngân hàng hiện nay đó là xu hướng gửi tiền của
người dân tập trung vào các kỳ hạn ngắn. Việc nhiều ngân hàng huy động ngắn hạn
cho vay trung, dài hạn vượt quá quy định cũng là nguyên nhân có thể gây rủi ro
thanh khoản. Bên cạnh đó, một trong những nguyên nhân có thể khiến rủi ro thanh
khoản tăng vào dịp cuối năm là vấn đề nợ xấu. Thời gian vừa qua, các doanh
nghiệp khó khăn, nợ xấu đang trở thành vấn đề nghiêm trọng hơn những năm
trước. Nợ xấu tăng nhanh ở một số ngân hàng yếu kém khiến nhu cầu về thanh
khoản của họ tăng theo. Điều này có thể ảnh hưởng tới cả hệ thống nếu NHNN
không có sự kiểm soát chặt chẽ và can thiệp kịp thời.
Mặc dù xét chung, thanh khoản toàn hệ thống đến thời điểm này đã được cải
thiện đáng kể, nhưng nếu tách riêng từng tổ chức tín dụng thì có sự không đồng
đều. Theo đại diện Vụ Chính sách Tiền tệ (NHNN), bên cạnh các ngân hàng dư
thừa thanh khoản, vẫn có một số ngân hàng gặp khó khăn trong từng thời điểm. Do
vậy, các ngân hàng không thể chủ quan câu chuyện thanh khoản cuối năm. Việc
22
chủ động "phòng thủ" trong thời điểm này rất cần thiết, nhất là khi nhu cầu về vốn
của doanh nghiệp, người dân tăng lên. Các ngân hàng tiếp tục phải đẩy mạnh huy
động vốn để chủ động giảm rủi ro cơ cấu nguồn vốn cũng như bù đắp nguồn vốn bị
"ngâm" do nợ xấu tăng cao. Và mới đây nhất, NHNN đã ban hành Chỉ thị số

06/CT-NHNN yêu cầu tất cả các tổ chức tín dụng phải thực hiện đồng bộ và có
hiệu quả các giải pháp huy động vốn, chủ động cân đối vốn và sử dụng vốn để bảo
đảm thanh khoản, đáp ứng kịp thời nhu cầu tín dụng của nền kinh tế và nhu cầu
thanh toán.
Hiện nay, khi các ngân hàng trên thế giới đã đề cập tới việc áp dụng chuẩn
mực Basel III thì các ngân hàng ở Việt Nam vẫn chưa chính thức đề cập tới việc áp
dụng một chuẩn mực nào của Basel. Mặc dù các quy định trong những năm gần
đây của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) như Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN và
Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN, Thông tư số 13, 15, 19, năm 2010 cũng đã đề
cập tới một số vấn đề liên quan tới các điều khoản trong hiệp định Basel. Thông tư
13 và 19 (sửa đổi thông tư 13) đề cập đến các quy định về các tỷ lệ đảm bảo an
toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Thông tư 15 ban hành các quy định
về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro cho vay trong hoạt
động của tổ chức tín dụng. Nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế. Việc các
ngân hàng thương mại tại Việt Nam chưa áp dụng các chuẩn mực của Basel một
cách chính thức nhằm nâng cao chất lượng quản lý rủi ro trong khi các ngân hàng
trên thế giới đã có những bước phát triển cao hơn sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh
của các ngân hàng thương mại Việt Nam.
Việc tiếp cận với các chuẩn mực của Basel, đặc biệt là Basel II đòi hỏi kỹ
thuật phức tạp và chi phí khá cao. Đối với một nước có hệ thống ngân hàng mới
đang ở giai đoạn phát triển ban đầu như Việt Nam, việc áp dụng Basel II gặp nhiều
khó khăn, thách thức và mất nhiều thời gian. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập và
mở cửa thị trường dịch vụ tài chính – ngân hàng với nhiều loại hình dịch vụ ngân
hàng mới, việc từng bước áp dụng các chuẩn mực Basel tại Việt Nam là yêu cầu
cấp thiết nhằm tăng cường năng lực hoạt động, giảm thiểu rủi ro đối với các ngân
23
hàng thương mại và nâng cao năng lực cạnh tranh trong thị trường tài chính quốc
tế, tạo điều kiện cho các ngân hàng Việt Nam có thể mở rộng thị trường trong thời
gian tới.
2.3 Tình hình áp dụng các quy định về bảo đảm thanh khoản theo chuẩn mực Basel

III của các nước trên thế giới
Hiệp định Basel III được 27 nước (không bao gồm Việt Nam) ký kết năm
2010, các nước G20 đã nhất trí bắt đầu áp dụng từ ngày ngày 1/1/2013 và triển
khai đầy đủ vào năm 2019. Đến lúc này, thời gian đã thực hiện các quy định theo
chuẩn Basel 3 chưa dài nên không thể có một cái nhìn tổng quát về tình hình mà
các nước đã áp dụng, tuy nhiên dựa vào những gì mà các nước áp dụng và những
định hướng triển khai trong tương lai thì chúng ta sẽ đánh giá được tình hình áp
dụng các quy định về bảo đảm an toàn thanh khoản theo chuẩn mực Basel 3 trong
hoạt động ngân hàng của các nước trên thế giới.
Một số nước như Nhật, Hàn Quốc, Singapore, Thái Lan… đang tiếp cận
một cách tích cực chuẩn Basel III. Họ đáp ứng được đa số tiêu chí về vốn và thanh
khoản. Trong khi đó, Việt Nam và một số nước khác như Lào, Campuchia… vẫn ở
vị trí khởi đầu.
Còn tại Trung Quốc, việc thực hiện Basel 3 đã giúp nền kinh tế nước này
lành mạnh hơn, giảm thiểu tình trạng bong bóng bất động sản, rủi ro tín dụng; các
ngân hàng bị quản lý chặt nhưng sẽ được hưởng lợi về lâu dài khi sử dụng vốn hiệu
quả, quản lý thanh khoản tốt hơn trong tương lai.
Về quá trình xử lý nợ xấu của Nhật Bản, nước này đã mất tới 15 năm, từ năm
1990 đến năm 2005 để có thể xử lý nợ xấu bởi ngay từ đầu đã chưa lường hết được
sự nguy hại của vấn đề này. Sau đó, Nhật Bản đã phải sử dụng tổng hợp các giải
pháp giám sát an toàn vĩ mô; kiểm tra toàn diện hệ thống tài chính, gồm cả khu vực
ngân hàng ngầm; xác định kích thước của lỗ hổng hệ thống; tập trung giám sát đối
với mô hình kinh doanh của ngân hàng; có chế tài xử lý đặc biệt đối với các tổ
chức tài chính dễ gây tổn hại
24
Tại Thái Lan, sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997 – 1998, nó đã cải cách
mạnh khu vực tài chính và hiện đang triển khai tích cực Basel 3 theo hướng đó.
2.4 Khả năng áp dụng các quy định bảo đảm thanh khoản theo chuẩn mực Basel III
trong hoạt động ngân hàng Việt Nam
Hiệp ước Basel lần thứ 3 được Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng thông qua

vào năm 2010 với lộ trình thực hiện là 3 năm từ năm 2013 đến 2015, nhưng phải
gia hạn đến năm 2019 do suy thoái toàn cầu kéo dài. Hơn nữa, Basel 3 là tiêu chí
điều chỉnh tự nguyện, các ngân hàng trung ương sẽ điều chỉnh các quy định về
ngân hàng tùy theo tình hình thực tế của mỗi nước. Các quy định về bảo đảm thanh
khoản theo chuẩn Basel 3 là để đảm bảo một ngân hàng duy trì ở mức độ thích hợp
các tài sản có thanh khoản chất lượng cao và không bị trở ngại có thể chuyển đổi
thành tiền mặt để đáp ứng nhu cầu thanh khoản tại ngân hàng. Theo thỏa thuận tại
hội nghị các thống đốc Ngân hàng Trung ương diễn ra tại Basel ngày 6/1/2013 thì
các ngân hàng sẽ được phép sử dụng nhiều loại tài sản (trong đó bao gồm một số
loại chứng khoán và các khoản nợ thế chấp đã được chứng khoán hóa có mức xếp
hạng tín dụng cao) để đáp ứng tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh khoản. Bên cạnh đó,
các ngân hàng có thể sử dụng nhiều loại trái phiếu doanh nghiệp hơn (bao gồm cả
một số loại chứng khoán có mức xếp hạng tín dụng thấp hơn). Đến năm 2015, các
ngân hàng sẽ chỉ phải đáp ứng 60% các quy định về tỷ lệ đảm bảo khả năng thanh
khoản.
Tỷ lệ LCR buộc các ngân hàng phải có đủ số tài sản có tính thanh khoản cao
để có thể sống sót trong trường hợp khan hiếm tín dụng. Đây là nhân tố quan trọng
trong bộ các chỉ số về vốn và thanh khoản theo chuẩn Basel III. Các qui định này
được đặt ra nhằm ngăn chặn kịch bản khủng hoảng tài chính 2008 lặp lại.
Trên lộ trình cải cách tài chính theo chuẩn quốc tế, Việt Nam trong khoảng
chục năm trở lại đây đã có nhiều đổi mới, theo hướng tiếp cận thông lệ chung. Tuy
nhiên, nghiêm túc mà nói, các ngân hàng Việt Nam vẫn còn cách xa so với chuẩn
mực quốc tế. Đặc biệt trong những năm 2008 - 2009, , khủng hoảng tài chính nổ ra
trên thế giới khiến công cuộc cải cách tài chính trở thành cuộc cách mạng mạnh
25
mẽ, đòi hỏi Việt Nam phải đẩy nhanh cải cách hơn nữa, khắc phục những điểm yếu
nội tại, tiến gần hơn những chuẩn mực quốc tế.
Sự thay đổi nhanh chóng của thế giới đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải đẩy
nhanh cải cách tài chính nhanh hơn. Không chỉ là tiếp cận với các thông lệ quốc tế
mà còn phải góp phần khắc phục những điểm yếu nội tại. Tuy nhiên về khách quan

mà nói, có những tiêu chí của Basel III mà ngân hàng Việt Nam chưa thể đáp ứng.
Trên thực tế, so với một số nước ở khu vực Đông Á đã tiếp cận Basel 3 rất
tích cực, thì ở Việt Nam, với Basel 1 cũng có những tiêu chí chưa được đáp ứng
đầy đủ. Với hoàn cảnh hiện tại, Việt Nam cần có cách thức tiếp cận riêng với các
chuẩn mực quốc tế: ví dụ như tiêu chí nào có thể đáp ứng được những tiêu chuẩn
của Basel 2 và Basel 3 thì cần thực hiện ngay, chứ không phải thực hiện một cách
đầy đủ, tuần tự từ Basel 1 rồi mới sang Basel 2 và 3.
Khó khăn đối với ngành ngân hàng và nền kinh tế vốn đã tích tụ từ lâu nên để
giải quyết thì cần phải thời gian. Trước hết, Việt Nam cận nhận dạng được rủi ro,
thứ hai là cần phải bổ sung hoàn thiện quy chế để ngăn rủi ro tương tự… Khắc
phục hậu quả là một quá trình cần thời gian, cần nghiên cứu kỹ, nguồn lực và giải
pháp hữu hiệu. Quan trọng hơn, nó phải phù hợp với Việt Nam chứ không thể áp
dụng cứng nhắc kinh nghiệm của các các nước.
Để đạt được Basel III đòi hỏi phải đặt ra nhiều cơ chế mới như đầu tư về công
nghệ, cơ sở hạ tầng có chất lượng, cơ sở dữ liệu thực sự phát triển trước khi bắt đầu
suy nghĩ về mô hình tiên tiến để tối ưu hoá vốn của ngân hàng. Việt Nam dự định
thực thi Basel III vào năm 2015 là hơi gấp, nếu căn cứ vào kinh nghiệm của các
nước khác trong việc quản lý rủi ro tín dụng. Basel III là giải pháp tối ưu, nhưng
nếu hệ thống ngân hàng Việt Nam không có yếu tố căn bản về cơ sở hạ tầng thì
không thể tiếp cận.
Trong những năm gần đây, thanh khoản của hệ thống các tổ chức tín dụng
(TCTD) được cải thiện, số dư tiền gửi của TCTD tại NHNN luôn cao hơn so với
yêu cầu dự trữ bắt buộc, tỷ lệ tín dụng/huy động vốn bằng VND giảm xuống mức

×